Tải bản đầy đủ (.pdf) (114 trang)

Áp dụng pháp luật trong điều tra các vụ án gây rối trật tự công cộng của cơ quan cảnh sát điều tra, từ thực tiễn công an tỉnh hà tĩnh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.28 MB, 114 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC VINH

NGUYỄN MINH TRIỂN

ÁP DỤNG PHÁP LUẬT TRONG ĐIỀU TRA CÁC
VỤ ÁN GÂY RỐI TRẬT TỰ CÔNG CỘNG CỦA CƠ QUAN CẢNH
SÁT ĐIỀU TRA, TỪ THỰC TIỄN CÔNG AN TỈNH HÀ TĨNH

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

NGHỆ AN – 2018


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC VINH

NGUYỄN MINH TRIỂN

ÁP DỤNG PHÁP LUẬT TRONG ĐIỀU TRA CÁC
VỤ ÁN GÂY RỐI TRẬT TỰ CÔNG CỘNG CỦA CƠ QUAN
CẢNH SÁT ĐIỀU TRA, TỪ THỰC TIỄN CÔNG AN TỈNH HÀ TĨNH

Chuyên ngành: Lý luận và lịch sử nhà nƣớc và pháp luật
Mã số: 6.38.01.06

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: TS Đinh Ngọc Thắng

NGHỆ AN, 8-2018




LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu của riêng tơi.
Các số liệu, trích dẫn trong luận văn đảm bảo độ tin cậy, chính
xác, trung thực và được trích dẫn đầy đủ theo quy định.

Tác giả

Nguyễn Minh Triển


MỤC LỤC

Trang
MỞ ĐẦU

1

Chƣơng 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN ÁP DỤNG PHÁP LUẬT
TRONG ĐIỀU TRA CÁC VỤ ÁN GÂY RỐI TRẬT TỰ
CÔNG CỘNG CỦA CƠ QUAN CẢNH SÁT ĐIỀU TRA

7

1.1. Khái niệm, đặc điểm, vai trò, ý nghĩa việc áp dụng pháp luật trong
điều tra các vụ án gây rối trật tự công cộng

7


1.2. Nội dung và các giai đoạn áp dụng pháp luật trong hoạt động điều
tra các vụ án về gây rối trật tự công cộng của Cơ quan Cảnh sát
điều tra

21

1.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến việc áp dụng pháp luật trong hoạt động
điều tra các vụ án về gây rối trật tự công cộng của Cơ quan Cảnh
sát điều tra

29

Chƣơng 2: THỰC TRẠNG ÁP DỤNG PHÁP LUẬT TRONG
ĐlỂU TRA CÁC VỤ ÁN VỂ GÂY RỐI TRẬT TỰ
CÔNG CỘNG CỦA CƠ QUAN CẢNH SÁT ĐIỂU
TRA CƠNG AN TỈNH HÀ TĨNH
2.1. Tình hình, diễn biến và đặc điểm hình sự của tội gây rối trật tự công cộng

34
34

2.2. Thực tiễn áp dụng pháp luật trong điều tra các tội phạm về gây rối trật tự
công cộng của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Hà Tĩnh

54

2.3. Đánh giá thực trạng áp dụng pháp luật trong điều tra các vụ án gây
rối trật tự công cộng của Cơ quan Cảnh sát điều tra các cấp, Công
an tỉnh Hà Tĩnh


63


Chƣơng 3: QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM ÁP DỤNG
PHÁP LUẬT TRONG ĐIỀU TRA CÁC VỤ ÁN GÂY
RỐI TRẬT TỰ CÔNG CỘNG CỦA CƠ QUAN
CẢNH SÁT ĐIỀU TRA
3.1. Dự báo tình hình tội phạm gây rối trật tự cơng cộng

70
70

3.2. Quan điểm đảm bảo áp dụng pháp luật trong điều tra các vụ án gây
rối trật tự công cộng của Cơ quan Cảnh sát điều tra

73

3.3. Một số giải pháp đảm bảo áp dụng pháp luật trong điều tra các vụ
án về gây rối trật tự công cộng của Cơ quan Cảnh sát điều tra,
Công an tỉnh Hà Tĩnh
KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC

76
89


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT


ADPL

:

Áp dụng pháp luật

ANTQ

:

An ninh Tổ quốc

ANTT

:

An ninh trật tự

BLHS

:

Bộ luật Hình sự

BLTTHS

:

Bộ luật Tố tụng hình sự


CQĐT

:

Cơ quan điều tra

CSĐT

:

Cảnh sát điều tra

ĐTV

:

Điều tra viên

GRTTCC

:

Gây rối trật tự công cộng

QPPL

:

Quy phạm pháp luật


TTXH

:

Trật tự xã hội

VKS

:

Viện Kiểm sát

VKSND

:

Viện Kiểm sát nhân dân

XHCN

:

Xã hội chủ nghĩa


DANH MỤC CÁC BẢNG

Bảng

Tên Bảng


Trang

Số vụ án và số bị cáo xét xử sơ thẩm về tội gây rối trật tự
Bảng

công cộng với tổng số vụ án và bị cáo đã xét xử sơ thẩm

2.1

của Tòa án nhân dân cấp huyện và Tòa án nhân dân tỉnh

21

Hà Tĩnh trong 6 năm (2012 - 2017)
Số vụ án và bị cáo xét xử sơ thẩm về tội gây rối trật tự
Bảng công cộng so với nhóm tội xâm phạm an tồn, trật tự cơng
2.2

cộng của Tịa án nhân dân hai cấp của tỉnh Hà Tĩnh trong

23

6 năm (2012 - 2017)
Bảng

Thống kê Cơ quan Cảnh sát điều tra thuộc Công an tỉnh

2.3


Hà Tĩnh

Bảng
2.4

Phụ lục thống kê trình độ học vấn và bậc điều tra viên
của các Điều tra viên thuộc Cảnh sát điều tra tội phạm

Thống kê công tác tiếp nhận, xử lý tin báo tố giác các tội

2.5

xâm phạm an tồn cơng cộng, trật tự công cộng

2.6

50

về trật tự xã hội của tỉnh Hà Tĩnh

Bảng

Bảng

49

51

Thống kê số liệu khởi tố vụ án, khởi tố bị can và xử lý vi
phạm hành chính đối với các đối tượng phạm tội về gây

rối trật tự công cộng trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh

55


1

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Cùng với sự phát triển kinh tế - xã hội trong những năm vừa qua, tại một
số địa phương tình hình an ninh, trật tự có nhiều diễn biến phức tạp, xuất hiện
các bất ổn xã hội, điển hình là các vụ gây rối, tụ tập đông người gây rối loạn
trật tự công cộng, ảnh hưởng tới đời sống người dân cũng như trật tự quản lý
nhà nước.
Qua khảo sát từ năm 2012 - 2017, tình hình an ninh, trật tự trên địa bàn
Hà Tĩnh có nhiều diễn biến hết sức phức tạp, trật tự an tồn xã hội đang có nhiều
vấn đề bất ổn, điển hình là các vụ gây rối, tụ tập đông người gây rối trật tự công
cộng. Các vụ GRTTCC ở địa bàn, Hà Tĩnh xảy ra ở nhiều điểm, nhiều địa bàn
khác nhau, riêng từ ngày 2/4 đến 26/4 năm 2016 đã có 26 vụ tụ tập, tuần hành
đơng người, ít nhất khoảng 25 người/vụ và nhiều nhất là 6000 người/vụ với các
hình thức như: Tụ tập, tuần hành đông người tại nơi huyết mạch giao thông
đường quốc lộ 1A, trụ sở các cấp chính quyền, trường học, bệnh viện, các mục
tiêu quan trọng về kinh tế, chính trị, văn hóa – xã hội trên địa bàn tỉnh… Bên
cạnh đó, cịn có một số đối tượng manh động đã dùng gạch, đá ném vào nhà cán
bộ xã, cán bộ thôn làm hư hỏng một số tài sản, gây mất ổn định tình hình an ninh
trật tự tại địa phương; hay một số khác đã dùng dao, cưa, ống tuýp sắt, gậy gộc
đuổi đánh cán bộ, công nhân đi liền với các tội như cố ý gây thương tích, hủy
hoại tại sản, chống người thi hành công vụ gây cản trở, gián đoạn đến công việc
của một số cơ quan, đơn vị, gây ảnh hưởng xấu đến an ninh trật tự. Do tính phức
tạp của các vụ


RTTCC, các thế lực thù địch, các loại đối tượng phản động

trong và ngồi nước ln tìm mọi cách lợi dụng để tun truyền, kích động
chống phá Nhà nước ta, làm cho các vụ việc đó có xu hướng lan rộng và ngày
càng gây thêm nhiều khó khăn, phức tạp hơn trong việc giải quyết.
Trước tình hình đó, các cơ quan chức năng tỉnh Hà Tĩnh, đặc biệt là Cơ
quan Cảnh sát điều tra đã tập trung lực lượng tiến hành xử lý nghiêm theo quy


2

định của pháp luật đối với loại tội phạm gây rối trật tự công cộng và đã đạt
nhiều kết quả đáng kể. Hầu hết các vụ việc, vụ án gây rối trật tự công cộng đều
được phát hiện sớm, việc xử lý các đối tượng phạm tội đảm bảo tính răn đe của
pháp luật, nhận được sự đồng tình, ủng hộ của đông đảo quần chúng nhân dân.
Để đạt được những thành cơng đó, phải kể đến việc áp dụng pháp luật linh
hoạt, sáng tạo trong điều tra án của Cơ quan Cảnh sát điều tra thuộc lực lượng
Công an Hà Tĩnh.
Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan từ mặt nhận
thức đến cách thức tổ chức thực hiện, việc áp dụng pháp luật liên quan đến điều
tra các vụ án gây rối trật tự công cộng cịn có nhiều hạn chế, vướng mắc, dẫn
tới hệ quả là sự lúng túng, chưa có phương án xử lý của Cơ quan điều tra và
một số cơ quan khác có liên quan trong điều tra, xét xử. Có lúc, có nơi, việc áp
dụng pháp luật trong điều tra án GRTTCC cịn thiếu tính linh hoạt, hiệu quả
chưa cao. Một số vụ gây bức xúc trong xã hội, làm ảnh hưởng tới việc thực
hiện các chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước trên địa bàn
tỉnh Hà Tĩnh như vụ Phúc lạc viên đài hóa thân hồn vũ xã Bắc Sơn, huyện
Thạch Hà; vụ gây rối tại trụ sở UBND huyện Lộc Hà, vụ chặn đường quốc lộ
1A tại thị xã Kỳ Anh….

Vì vậy, việc nghiên cứu, làm rõ áp dụng pháp luật trong điều tra các vụ
án

RTTCC là điều rất cấp thiết, nhằm góp phần áp dụng pháp luật một cách

đúng đắn khi xử lý người phạm tội, từng bước ngăn chặn, đẩy lùi tội phạm nói
chung và tội GRTTCC nói riêng trong xã hội hiện nay.
Xuất phát từ thực tế nêu trên và từ nhận thức việc áp dụng pháp luật
trong lĩnh vực này là một trong những vấn đề quan trọng, cần có sự quan tâm
hơn nữa cả về phương diện lý luận lẫn thực tiễn, việc học viên chọn đề tài “áp
dụng pháp luật trong điều tra các vụ án về gây rối trật tự công cộng của Cơ
quan Cảnh sát điều tra, từ thực tiễn Cơng an tỉnh Hà Tĩnh” có ý nghĩa về mặt lý
luận cũng như thực tiễn, phù hợp với nội dung nghiên cứu, chuyên ngành và
mã số đào tạo.


3

2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Cho đến nay đã có khá nhiều cơng trình nghiên cứu về ADPL nói chung
và về ADPL trong các lĩnh vực nói riêng, trong đó có lĩnh vực điều tra tội phạm.
Các cơng trình nghiên cứu này đã tập trung làm rõ được nhiều vấn đề lý luận và
pháp lý liên quan, tiêu biểu là các cơng trình sau đây:
- “Áp dụng biện pháp bắt người – Một số vấn đề lý luận và thực tiễn”, của
Minh Nhất [02].
- "Cơ quan điều tra, Thủ trưởng Cơ quan điều tra và điều tra viên trong
Công an nhân dân" của Đỗ Ngọc Quang [32].
- “Nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra các
vụ án về trật tự xã hội theo yêu cầu cải cách tư pháp hiện nay”, của Vũ Việt
Hùng [28].

- "Một số vấn đề lý luận về biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự"
của Trần Quang Tiệp [39].
- "Áp dụng pháp luật trong điều tra, truy tố các vụ án ma túy theo yêu cầu
cải cách tư pháp ở Việt Nam hiện nay" của Bùi Mạnh Cường [13].
- "Áp dụng pháp luật trong xét xử sơ thẩm đối với người chưa thành niên
phạm tội của Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Ninh" của Nguyễn Minh Đồng [21].
- "Áp dụng pháp luật trong xét xử hình sự đối với các loại tội phạm về
chức vụ ở Việt Nam hiện nay" của Tạ Văn Hồ [24].
- "Áp dụng pháp luật trong hoạt động điều tra tội phạm về trật tự xã hội
của Cơ quan Cảnh sát điều tra Cơng an thành phố Biên Hịa" của Nho Văn
Khánh [26].
- "Áp dụng pháp luật các biện pháp ngăn chặn đối với tội xâm phạm trật
tự trị an xã hội của Cơ quan Cảnh sát điều tra thành phố Hà Nội" của Khúc Thị
Thúy Nga [30].
- "Cơ sở lý luận và thực tiễn đấu tranh phòng ng a tội gi t người ở tỉnh
Cao B ng" của Mã Thanh Sơn [37].
- Bình luận khoa học Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung


4

2017) [44].
- Bình luận khoa học Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung
2017) [45].
-“Nhiệm vụ quyền hạn của các cơ quan khác được giao nhiệm vụ ti n
hành một số hoạt động điều tra”, của Trần Văn Thuận [38].
Tuy nhiên, chưa có một cơng trình nào nghiên cứu, khảo sát về hoạt
động ADPL trong điều tra tội phạm về

RTTCC trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh.


Các cơng trình nghiên cứu nói trên là nguồn tư liệu phong phú cho tác giả
tham khảo thực hiện luận văn tốt nghiệp cao học của mình.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu cơ sở lý luận và đánh giá thực trạng ADPL trong điều tra về
tội phạm

RTTCC trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh, từ đó đề xuất các quan điểm và

giải pháp đảm bảo ADPL đúng đắn, có hiệu quả đối với tội phạm về RTTCC ở
tỉnh Hà Tĩnh trong thời gian tới.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để thực hiện mục đích trên, luận văn có những nhiệm vụ sau:
- Hệ thống hóa, làm sáng tỏ cơ sở lý luận về ADPL trong điều tra tội
phạm về RTTCC.
- Phân tích, đánh giá thực trạng ADPL trong hoạt động điều tra tội
phạm về

RTTCC trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh, bao gồm thực trạng về cơ sở

pháp lý, thực trạng về chủ thể ADPL và thực trạng ADPL trong các giai đoạn
điều tra.
- Đề xuất các quan điểm, giải pháp nhằm đảm bảo ADPL đúng đắn và có
hiệu quả trong điều tra tội phạm về

RTTCC trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh trong

giai đoạn hiện nay.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu

Luận văn tập trung nghiên cứu, khảo sát hoạt động ADPL trong hoạt động
điều tra tội phạm về

RTTCC của Cơ quan CSĐT Công an tỉnh Hà Tĩnh (theo


5

Pháp lệnh Tổ chức điều tra hình sự năm 2004, đã được sửa đổi bổ sung năm
2006 và 2009 và nay là Luật tổ chức cơ quan điều tra hình sự được Quốc Hội
khố XIII kỳ họp thứ 10 thơng qua ngày 26/11/2015, có hiệu lực thi hành từ
ngày 01/01/2018).
Thời gian nghiên cứu, khảo sát: Từ năm 2012 đến năm 2017.
Địa bàn khảo sát: Tỉnh Hà Tĩnh.
5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam và Khoa học Lý luận và Lịch
sử về nhà nước pháp luật nói chung, lý luận về ADPL nói riêng.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận chủ nghĩa duy vật
lịch sử và duy vật biện chứng của triết học Mác - Lênin với các phương pháp
nghiên cứu cụ thể: phân tích, tổng hợp, so sánh luật học, kết hợp các phương
pháp điều tra, tổng kết thực tiễn để giải quyết các vấn đề về lý luận và thực tiễn
đặt ra của luận văn.
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn
Đây là cơng trình nghiên cứu tương đối có hệ thống và tồn diện ở cấp độ
luận văn Thạc sĩ Luật học về ADPL trong điều tra tội phạm về RTTCC trên địa
bàn tỉnh Hà Tĩnh, vì thế luận văn có những đóng góp mới, cụ thể như sau:
Về phương diện lý luận: Hệ thống hóa, làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận

về ADPL trong hoạt động điều tra tội phạm về RTTCC trên một địa bàn cụ thể.
Về phương diện thực tiễn: Luận văn đánh giá khách quan, khoa học về
thực trạng, chỉ rõ những nguyên nhân của thành tựu và hạn chế; đồng thời, đưa
ra và luận giải những giải pháp nhằm thực hiện có hiệu quả hơn việc ADPL
trong điều tra tội phạm về

RTTCC trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh. Luận văn có thể

được sử dụng làm tài liệu tham khảo trong nghiên cứu và giảng dạy tại các cơ sở
đào tạo, nghiên cứu pháp luật.


6

7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
của luận văn gồm 3 chương, 9 tiết.
Chương 1: Cơ sở lý luận áp dụng pháp luật trong điều tra các vụ án về gây
rối trật tự công cộng của Cơ quan Cảnh sát điều tra
Chương 2: Thực trạng áp dụng pháp luật trong điều tra các vụ án về gây
rối trật tự công cộng của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Hà Tĩnh
Chương 3: Quan điểm và giải pháp bảo đảm áp dụng pháp luật trong điều
tra các vụ án về gây rối trật tự công cộng của Cơ quan Cảnh sát điều tra


7

Chƣơng 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN ÁP DỤNG PHÁP LUẬT TRONG
ĐIỀU TRA TỘI PHẠM VỀ GÂY RỐI TRẬT TỰ CÔNG CỘNG CỦA CƠ

QUAN CẢNH SÁT ĐIỀU TRA
1.1. Khái niệm, đặc điểm, vai trò, ý nghĩa việc áp dụng pháp luật
trong điều tra các vụ án gây rối trật tự cơng cộng
1.1.1. Khái niệm vụ án hình sự và điều tra trong tố tụng hình sự
Vụ án hình sự là vụ việc phạm pháp có dấu hiệu là tội phạm đã được quy
định trong Bộ luật hình sự đã được Cơ quan điều tra ra lệnh khởi tố về hình sự
để tiến hành điều tra, truy tố, xét xử theo các trình tự, thủ tục đã được quy định ở
Bộ luật tố tụng hình sự. Người vi phạm pháp luật đã bị khởi tố về hình sự để tiến
hành điều tra, truy tố, xét xử theo các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự, tức
sẽ bị áp dụng một số biện pháp do luật quy định như phải khai cung, phải có mặt
tại nơi ở và vào thời gian do các cơ quan tiến hành tố tụng - Cơ quan điều tra,
Viện kiểm sát, Tòa án quy định, có trường hợp bị áp dụng các biện pháp cưỡng
chế như tạm giam, khám nhà... Có thể bị phạt tù, bị cấm hành nghề nếu qua xét
xử tòa án đã đủ chứng cứ chứng minh là phạm tội và đã ra quyết định bằng
một bản án hình sự.
Điều tra là hoạt động khám phá, phát hiện tội phạm trong lĩnh vực phịng
chống tội phạm. Điều tra vụ án hình sự là hoạt động điều tra của Cơ quan điều
tra và cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra theo luật
định, được tiến hành theo trình tự tố tụng hình sự, nhằm chứng minh sự thật của
vụ án theo yêu cầu của pháp luật. Như vậy, điều tra vụ án hình sự là giai đoạn tố
tụng hình sự (TTHS) thứ hai, là một giai đoạn độc lập của tố tụng hình sự mà
trong đó Cơ quan điều tra căn cứ vào các quy định của pháp luật TTHS và dưới
sự kiểm sát của Viện kiểm sát tiến hành các biện pháp cần thiết nhằm thu thập và
củng cố các chứng cứ, nghiên cứu các tình tiết của vụ án hình sự, phát hiện
nhanh chóng và đầy đủ tội phạm, cũng như người có lỗi trong việc thực hiện tội
phạm để truy cứu trách nhiệm hình sự, đồng thời bảo đảm cho việc bồi thường


8


thiệt hại về vật chất do tội phạm gây nên và trên cơ sở đó quyết định: Đình chỉ
điều tra vụ án hình sự hoặc là chuyển tồn bộ các tài liệu của vụ án đó cho Viện
kiểm sát kèm theo kết luận điều tra và đề nghị truy tố bị can.
Theo GS.TSKH Lê Cảm, trong Tạp chí in số 02/2004: “Bản chất pháp lý
của giai đoạn điều tra vụ án hình sự là cơ quan có thẩm quyền áp dụng các biện
pháp cần thiết do luật định để chứng minh việc thực hiện tội phạm và người
phạm tội, đồng thời kiến nghị lên các cơ quan, tổ chức hữu quan áp dụng đầy đủ
các biện pháp khắc phục và phịng ngừa tội phạm”.
Điều tra các vụ án hình sự là một giai đoạn của quá trình tố tụng hình sự
do các cơ quan có thẩm quyền tiến hành nhằm thu thập đầy đủ các thông tin,
chứng cứ để chứng minh tội phạm.

iai đoạn điều tra là giai đoạn tiếp sau của

giai đoạn khởi tố, được tiến hành trên cơ sở quyết định khởi tố của cơ quan nhà
nước có thẩm quyền. Như vậy, với tư cách là một giai đoạn của tố tụng hình sự,
điều tra hình sự là một hoạt động tố tụng của Cơ quan điều tra, tiến hành các
hoạt động điều tra nhằm làm rõ tội phạm, người thực hiện hành vi, lập hồ sơ đề
nghị truy tố, tìm ra những nguyên nhân và điều kiện phạm tội, yêu cầu các cơ
quan hữu quan áp dụng các biện pháp khắc phục. Thời điểm của giai đoạn này
bắt đầu khi cơ quan tố tụng có thẩm quyền ra quyết định khởi tố vụ án hình sự và
kết thúc bằng bản kết luận điều tra và quyết định của cơ quan điều tra về việc đề
nghị Viện kiểm sát truy tố bị can trước tịa án hoặc đình chỉ vụ án hình sự tương
ứng. iai đoạn này có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc thực hiện nguyên tắc
không bỏ lọt tội phạm cũng như không làm oan người vơ tội, góp phần tích cực
vào cơng cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm.
Như vậy, điều tra vụ án hình sự là một dạng hoạt động nhận thức đặc biệt,
bởi vì hoạt động điều tra có tính chất pháp lý. Đặc điểm pháp lý của hoạt động
điều tra thể hiện ở chỗ đối tượng nhận thức của hoạt động điều tra là tội phạm đã
xảy ra, những phương pháp, hình thức áp dụng trong hoạt động điều tra phải phù

hợp với pháp luật, không trái với pháp luật và giá trị pháp lý của kết quả điều tra
vụ án.


9

1.1.2. Đặc điểm việc áp dụng pháp luật trong điều tra các vụ án gây rối
trật tự công cộng
- Đặc điểm thứ nhất: Áp dụng pháp luật là biện pháp sử dụng pháp luật
như một cơng cụ, vũ khí sắc bén để điều tra các vụ án gây rối trật tự công cộng.
Trong điều tra các vụ án gây rối trật tự công cộng, áp dụng pháp luật được
Cơ quan điều tra sử dụng như là phương tiện, là công cụ đấu tranh phịng, chống
gây rối trật tự cơng cộng có hiệu lực và hiệu quả nhất, có tính cưỡng chế nhà
nước, thể hiện ý chí của tồn thể nhân dân.
- Đặc điểm thứ hai: Áp dụng pháp luật chủ yếu được sử dụng một cách
cơng khai, theo trình tự, thủ tục chặt chẽ do pháp luật quy định.
Nếu như áp dụng nghiệp vụ trinh sát được tiến hành một cách bí mật thì
áp dụng pháp luật chủ yếu được sử dụng một cách công khai, dưới sự giám sát
của các cơ quan chức năng và toàn thể xã hội. Mặt khác, việc áp dụng pháp luật
trong công tác điều tra ln phải tn thủ theo một trình tự, thủ tục chặt chẽ do
pháp luật quy định. Có những hoạt động sử dụng áp dụng pháp luật phải tuân
theo thủ tục tố tụng hình sự (chẳng hạn, hoạt động áp dụng quy phạm pháp luật
tố tụng hình sự để khởi tố điều tra tội phạm); có những hoạt động áp dụng pháp
luật phải tuân theo thủ tục hành chính. Những hoạt động này phải tiến hành theo
những thủ tục chặt chẽ thì mới hạn chế được sự tuỳ tiện vơ nguyên tắc, hạn chế
được việc xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức và công dân.
- Đặc điểm thứ ba: Áp dụng pháp luật có đối tượng tác động rất rộng và
đa dạng.
Theo quy định của pháp luật, áp dụng pháp luật điều tra các vụ án gây rối
trật tự công cộng không chỉ được sử dụng để phòng ngừa, phát hiện, ngăn chặn,

xử lý tội phạm và các vi phạm pháp luật mà còn để bảo vệ tính mạng, sức khoẻ,
quyền tự do dân chủ, tài sản của nhân dân; bảo vệ cán bộ lãnh đạo cấp cao của
Đảng, Nhà nước và khách quốc tế; cơ quan đại diện nước ngoài, đại diện các tổ
chức quốc tế tại Việt Nam, cá nhân nắm giữ hoặc liên quan mật thiết đến bí mật
nhà nước. Vì vậy, đối tượng tác động của áp dụng pháp luật cũng hết sức đa


10

dạng, không chỉ bao gồm đối tượng đấu tranh mà cịn cả đối tượng bảo vệ,
khơng chỉ có cơ quan, tổ chức, cá nhân Việt Nam mà còn cả cơ quan, tổ chức cá
nhân nước ngoài.
- Đặc điểm thứ tư: Áp dụng pháp luật quan hệ chặt chẽ và được sử dụng
đồng bộ với các biện pháp khác trong công tác điều tra.
Áp dụng pháp luật có cùng mục đích với các biện pháp khác, đó là đấu
tranh phịng, chống âm mưu, hoạt động của các thế lực thù địch, các tội phạm
gây rối trật tự công cộng để bảo vệ an ninh quốc gia và giữ gìn trật tự, an toàn
xã hội.
Mặt khác, ở một chừng mực nhất định, áp dụng pháp luật có tác dụng tạo
lập cơ sở và hành lang pháp lý an toàn cho việc sử dụng các biện pháp khác. Bởi
vì, nhờ áp dụng pháp luật mà một số văn bản vi phạm pháp luật được Nhà nước
ban hành, trong đó quy định lực lượng làm điều tra được phép sử dụng các biện
pháp khác nhau để điều tra các vụ gây rối trật tự công cộng.
- Đặc điểm thứ năm: Chủ thể áp dụng pháp luật hết sức đa dạng với các
chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn khác nhau.
Áp dụng pháp luật trong công tác điều tra được sử dụng để điều tra các vụ
án gây rối trật tự công cộng. Do vậy, chủ thể áp dụng pháp luật không chỉ gồm
các cơ quan, đơn vị mà cịn cả Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng cơ quan điều tra và
điều tra viên các cấp; các cơ quan, đơn vị được giao tiến hành một số hoạt động
điều tra lại thuộc nhiều lực lượng khác nhau (lực lượng An ninh nhân dân, lực

lượng Cảnh sát nhân dân …) với các chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn khác nhau.
Có cơ quan áp dụng pháp luật với vai trò là cơ quan tiến hành tố tụng (Cơ quan
điều tra trong Cơng an nhân dân); có cơ quan, đơn vị áp dụng pháp luật với vai
trò là cơ quan quản lý hành chính nhà nước về an ninh, trật tự; có cơ quan, đơn
vị thực hiện chức năng tham mưu cho lãnh đạo Bộ Công an và lãnh đạo Công an
các đơn vị, địa phương trong việc xây dựng, hồn thiện hệ thống pháp luật; có cơ
quan, đơn vị trực tiếp tổ chức thực hiện và áp dụng pháp luật để đấu tranh
phòng, chống tội phạm. Tuỳ theo chức năng, nhiệm vụ của mỗi cơ quan, đơn vị


11

mà áp dụng pháp luật phù hợp.
Đặc điểm thứ sáu: Hiệu quả của áp dụng pháp luật phụ thuộc vào ý thức
pháp luật của điều tra viên.
Thực tiễn cho thấy, áp dụng pháp luật có được sử dụng phù hợp không
và hiệu quả đến đâu, phần nào phụ thuộc vào ý thức pháp luật của điều tra
viên. Nếu điều tra viên khơng có ý thức tn thủ nghiêm chỉnh pháp luật thì họ
khơng thể hồn thành nhiệm vụ được giao và dễ có hành vi vi phạm pháp luật.
Ngược lại, nếu điều tra viên có trình độ văn hố pháp lý, có ý thức chấp hành
nghiêm chỉnh pháp luật thì họ khơng những hồn thành tốt nhiệm vụ được
giao mà mọi xử sự của họ còn đảm bảo đúng pháp luật. Mặt khác, hiệu quả của
áp dụng pháp luật còn phụ thuộc vào ý thức chấp hành pháp luật của các cơ
quan, đơn vị và mọi công dân. Ý thức pháp luật của các cơ quan, tổ chức và
của người dân càng cao thì việc vi phạm pháp luật của họ càng giảm và ngược
lại. Điều này cho thấy, áp dụng pháp luật trong điều tra án gây rối trật tự công
cộng cũng phụ thuộc rất nhiều vào ý thức pháp luật của các cơ quan, tổ chức
và công dân.
1.1.3. Vai trị của biện pháp pháp luật trong cơng tác Cơng an
Áp dụng pháp luật có vai trị hết sức quan trọng trong điều tra án gây rối

trật tự công cộng. Tầm quan trọng của áp dụng pháp luật thể hiện trước hết ở
chính vai trị của pháp luật với tính chất là kết quả của hoạt động xây dựng pháp
luật, là phương tiện pháp lý mà lực lượng điều tra sử dụng để thực hiện chức
năng, nhiệm vụ của mình.
Ngồi khía cạnh này, vai trị của áp dụng pháp luật còn được thể hiện ở
những mặt sau đây:
Một là, áp dụng pháp luật có tác dụng hồn thiện hệ thống pháp luật trong
điều tra án gây rối trật tự cơng cộng, góp phần đưa hệ thống pháp luật vào thực
tiễn quản lý nhà nước về an ninh, trật tự, phòng chống tội phạm, các vi phạm
pháp luật khác; qua đó, góp phần bảo vệ an ninh quốc gia và giữ gìn trật tự, an
tồn xã hội, củng cố, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa.


12

Như trên đã phân tích, một trong những nội dung của áp dụng pháp luật là
tham mưu đề xuất Nhà nước xây dựng, ban hành pháp luật. Nếu lực lượng điều
tra thực hiện tốt nhiệm vụ này sẽ góp phần khơng nhỏ vào việc hồn thiện hệ
thống pháp luật trong điều tra án GRTTCC. Có thể thấy rằng, áp dụng pháp luật
trong cơng tác điều tra án GRTTCC có tác dụng làm cho hệ thống pháp luật về
an ninh, trật tự ngày càng hoàn thiện và được tổ chức thực hiện một cách nghiêm
chỉnh, triệt để trên thực tế, từ đó góp phần củng cố và tăng cường pháp chế xã
hội chủ nghĩa trong lĩnh vực quản lý nhà nước về an ninh, trật tự và đấu tranh
phòng chống tội phạm.
Hai là, áp dụng pháp luật có tác dụng nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước
về an ninh, trật tự và đấu tranh phòng chống tội phạm gây rối trât tự công cộng.
Với bản chất là áp dụng pháp luật như là một cơng cụ sắc bén đấu tranh
phịng chống âm mưu và hoạt động của các thế lực thù địch, các loại tội phạm và
vi phạm pháp luật, là phương tiện quản lý nhà nước về an ninh, trật tự; áp dụng
pháp luật khơng những góp phần nâng cao hiệu quả của cuộc đấu tranh phòng

chống tội phạm mà còn nâng cao hiệu lực và hiệu quả quản lý nhà nước về an
ninh, trật tự, góp phần khắc phục được những hạn chế, những yếu kém, bất cập
của cơ chế quản lý, qua đó tạo ra những tiền đề để giữ vững an ninh quốc gia và
trật tự, an toàn xã hội.
Ba là, áp dụng pháp luật là biện pháp cơ bản để lực lượng điều tra sử dụng
để bảo vệ quyền con người, quyền công dân, phát huy quyền làm chủ của nhân
dân trong sự nghiệp bảo vệ an ninh quốc gia và giữ gìn trật tự, an toàn xã hội.
Để áp dụng pháp luật phát huy vai trò này, lực lượng điều tra một mặt
phải chủ động tham mưu, đề xuất Nhà nước ban hành quy phạm pháp luật quy
định các quyền cơ bản của công dân, mặt khác, phải áp dụng pháp luật để bảo vệ
các quyền đó.
Bốn là, áp dụng pháp luật có tác dụng củng cố, kiện toàn tổ chức bộ máy
và hoạt động của lực lượng Cơ quan điều tra.
Thực tiễn áp dụng pháp luật đã giúp cơ quan điều tra có sự điều chỉnh về


13

tổ chức, cơ cấu, nhất là tổ chức các cơ quan thường xuyên sử dụng công cụ pháp
luật, như: cơ quan điều tra, cơ quan được tiến hành một số biện pháp điều tra…
Như vậy, bằng việc tham mưu cho Nhà nước ban hành hệ thống pháp luật nêu
trên đã góp phần khơng nhỏ vào việc củng cố tổ chức bộ máy và hoạt động của
lực lượng điều tra các cấp.
Năm là, áp dụng pháp luật có tác dụng giáo dục cán bộ làm điều tra nâng
cao ý thức pháp luật, tôn trọng các quy tắc của pháp luật.
Một trong những nội dung của áp dụng pháp luật trong điều tra các vụ án
GRTTCC là hoạt động tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật. Thông qua
hoạt động này, áp dụng pháp luật góp phần nâng cao ý thức pháp luật của cán bộ
làm công tác điều tra cũng như đối tượng có hành vi vi phạm pháp luật.
Tóm lại, áp dụng pháp luật có vai trị hết sức quan trọng đối với sự nghiệp

bảo vệ an ninh quốc gia và giữ gìn trật tự, an tồn xã hội, nhất là trong điều tra
các vụ án gây rối trật tự cơng cộng. Vì vậy, cơ quan điều tra và điều tra viên phải
tiếp tục nghiên cứu để sử dụng một cách hài hồ, linh hoạt, mưu trí, sáng tạo
việc áp dụng pháp luật nhằm nâng cao hiệu quả trong trong điều tra các vụ án
GRTTCC.
1.1.4. Áp dụng pháp luật và áp dụng pháp luật trong điều tra các vụ án
hình sự
Khoa học pháp lý XHCN chỉ ra rằng, pháp luật XHCN là một hệ thống
bao gồm tổng thể các quy tắc xử sự chung, thể chế hóa đường lối chủ trương
của Đảng, thể hiện ý chí của giai cấp cơng nhân và nhân dân lao động, do cơ
quan nhà nước có thẩm quyền ban hành theo một trình tự, hình thức, thủ tục luật
định, nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội theo định hướng XHCN. Pháp luật là
công cụ hạn chế quyền lực của Nhà nước theo nghĩa là phịng chống sự can
thiệp độc đốn, lạm quyền của nhà nước vào hoạt động sống cá nhân, kinh
doanh. Pháp luật ràng buộc Nhà nước, tránh cho Nhà nước khỏi các hoạt động
tùy tiện, vi phạm quyền tự do của công dân. Đây là phương tiện để thể chế hóa
đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, đảm bảo sự lãnh đạo của Đảng


14

trong cuộc sống.
Trong đời sống và trong xã hội, pháp luật XHCN chiếm giữ vai trị vị trí
đặc biệt quan trọng. Xét trong bình diện chung nhất, pháp luật là phương tiện
để thể chế hóa đường lối, chủ trương của Đảng, bảo đảm cho sự lãnh đạo của
Đảng được triển khai thực hiện có hiệu quả trên quy mơ tồn xã hội; là phương
tiện để Nhà nước quản lý mọi mặt đời sống xã hội; là phương tiện để nhân dân
phát huy, thực hiện quyền dân chủ, các quyền và lợi ích hợp pháp, nghĩa vụ
của cơng dân. Pháp luật với tư cách là yếu tố điều chỉnh các quan hệ xã hội,
luôn tác động và ảnh hưởng tới các quan hệ xã hội, cũng như các yếu tố của

thượng tầng kiến trúc pháp lý; duy trì trật tự xã hội có lợi cho giai cấp thống
trị. Trong quan hệ với Nhà nước, vai trị của pháp luật ln gắn liền với việc
thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước, phát huy được vai trò của
Nhà nước trong việc thực hiện chức năng, quản lý, đưa xã hội phát triển. Đối
với chính Nhà nước, pháp luật vừa là cơ sở tổ chức, hoạt động vừa là sức
mạnh của quyền lực chính trị, đồng thời nó cũng ràng buộc Nhà nước, tránh
cho Nhà nước khỏi tình trạng hoạt động tùy tiện, vi phạm quyền và tự do của
công dân. Lịch sử hình thành và phát triển của pháp luật nói chung và pháp
luật XHCN nói riêng, pháp luật ln có vai trị, giá trị xã hội và tính pháp
quyền mà không một công cụ, phương tiện điều chỉnh nào có thể thay thế
được. Tuy nhiên, vai trị của pháp luật chỉ có thể thực sự phát huy được hiệu
quả khi các quy định của pháp luật do Nhà nước đặt ra được chính các cơ quan
nhà nước, tổ chức xã hội, các cơng dân thực hiện một cách chính xác, nghiêm
minh và tự giác. Do đó, vấn đề đặt ra là khơng phải chỉ có đủ các văn bản pháp
luật đáp ứng nhu cầu đời sống xã hội và đời sống Nhà nước, mà điều quan
trọng hơn ở chỗ pháp luật đó có được thực hiện khơng, những u cầu của
pháp luật có trở thành hiện thực khơng. Về mặt lý luận, thực hiện pháp luật là
một quá trình hoạt động của con người có tổ chức có chủ ý bao hàm những
hành vi hợp pháp phù hợp với những quy định, những yêu cầu của pháp luật.
Thực hiện pháp luật có thể là hành vi của chính cá nhân con người nhưng cũng


15

có thể là hành động của các cơ quan nhà nước, các tổ chức xã hội, là một hiện
tượng xã hội có tính pháp lý thực hiện pháp luật: "là một q trình hoạt động
có mục đích làm cho các quy định của pháp luật đi vào cuộc sống trở thành
hành vi thực tế hợp pháp của các chủ thể pháp luật". Các quy định pháp luật
rất phong phú cho nên hình thức thực hiện pháp luật cũng rất phong phú và
khác nhau. Căn cứ vào tính chất của hoạt động thực hiện pháp luật, khoa học

pháp lý đã xác định và khái qt hóa thành những hình thức thực hiện pháp
luật như sau:
- Tuân thủ pháp luật (tuân theo pháp luật) là một hình thức thực hiện pháp
luật (xử sự thụ động). Trong đó, các chủ thể pháp luật kiềm chế không tiến hành
những hành động mà pháp luật ngăn cấm. Như vậy, ở hình thức này địi hỏi chủ
thể thực hiện nghĩa vụ một cách thụ động, thực hiện các quy phạm pháp luật
dưới dạng không hành động.
Điều cấm của pháp luật là những điều nếu thực hiện sẽ gây ra các hậu
quả xấu, xâm phạm đến quyền và lợi ích của con người, xã hội. Ở đây, các chủ
thể pháp luật kiềm chế không thực hiện các hành vi bị cấm về mặt pháp luật
bằng việc tuân thủ pháp luật của các chủ thể pháp luật, các quy phạm pháp luật
ngăn cấm được tôn trọng trên thực tế thực hiện. Khơng chỉ có các cá nhân, mà
tất cả các chủ thể, cơ quan, nhà nước, mọi công dân trong xã hội đều tuân thủ
pháp luật.
- Thi hành pháp luật (chấp hành pháp luật) là hình thức thực hiện pháp
luật, trong đó các chủ thể pháp luật thực hiện nhiệm vụ pháp lý của mình bằng
hành động tích cực. Những quy phạm pháp luật bắt buộc được thực hiện ở hình
thức này. Chẳng hạn các đối tượng thực hiện nghĩa vụ nộp thuế cho Nhà nước
đầy đủ, đúng hạn quy định. Như vậy, khác với tuân thủ pháp luật, ở hình thức thi
hành pháp luật địi hỏi chủ thể phải tiến hành hành động một cách tích cực. Chủ
thể thực hiện pháp luật này là tất cả cơ quan Nhà nước, nhân viên nhà nước, các
cá nhân, tổ chức mọi công dân trong xã hội.
- Sử dụng pháp luật là một hình thức thực hiện pháp luật, trong đó các


16

chủ thể pháp luật thực hiện quyền năng pháp lý của mình để bảo vệ quyền, lợi
ích hợp pháp của mình, của Nhà nước và của các chủ thể khác. Những quy phạm
pháp luật quy định các quyền về tự do dân chủ của cơng dân được thực hiện ở

hình thức này. Chẳng hạn như ký kết hợp đồng, thực hiện các quyền khởi kiện,
khiếu nại trong khuôn khổ mà pháp luật quy định.
Hình thức này khác với các hình thức trên ở chỗ chủ thể pháp luật có thể
thực hiện hoặc không thực hiện quyền được pháp luật cho phép theo ý chí của
mình, chứ khơng bị ép buộc phải thực hiện pháp luật. Đó là quyền khiếu nại, tố
cáo, đình cơng, kháng cáo… Đây là hình thức thực hiện pháp luật chủ động và
tích cực bằng các hình thức cụ thể của các chủ thể pháp luật.
- Áp dụng pháp luật là một hình thức thực hiện pháp luật; trong đó, Nhà
nước thơng qua các cơ quan có thẩm quyền hoặc nhà chức trách tổ chức cho
các chủ thể pháp luật thực hiện các quy định của pháp luật; hoặc tự mình căn
cứ vào các quy định của pháp luật để tạo ra những quy định làm phát sinh, thay
đổi, đình chỉ hoặc chấm dứt những quan hệ pháp luật. Trong trường hợp này,
các chủ thể pháp luật thực hiện các quy định của pháp luật có sự can thiệp của
Nhà nước. Trong một số trường hợp đặc biệt được Nhà nước ủy quyền theo
quy định của pháp luật, cơ quan của một số tổ chức chính trị xã hội cũng có thể
thực hiện hoạt động này. Áp dụng pháp luật là một hình thức thực hiện pháp
luật quan trọng. Thơng qua hình thức này ý chí của Nhà nước được trở thành
hiện thực, Nhà nước thực hiện được chức năng tổ chức, quản lý các lĩnh vực
của đời sống xã hội, kết hợp với trật tự xã hội, đảm bảo cho việc tổ chức và hoạt
động của bộ máy nhà nước, các công chức nhà nước trong khn khổ pháp luật.
Điều này có lý do bởi trong nhiều trường hợp, các quy định của pháp luật không
thể thực hiện nếu chỉ bằng các hình thức tuân theo pháp luật, thi hành pháp luật
hoặc sử dụng pháp luật. Lý do có thể các chủ thể khơng muốn thực hiện hoặc
không đủ khả năng thực hiện nếu thiếu sự thơng qua của các cơ quan nhà nước
có thẩm quyền.
Theo đó, áp dụng pháp luật là hình thức thực hiện pháp luật có tính đặc


17


biệt về chủ thể tiến hành, về quy trình thủ tục, về cơ chế đảm bảo so với ba hình
thức nêu trên. Đồng thời, đây cũng là hoạt động của cơ quan nhà nước, nó thể
hiện ở chỗ: Nếu như tuân thủ pháp luật, thi hành pháp luật và sử dụng pháp luật
là hình thức phổ biến mà mọi chủ thể pháp luật đều có thể thực hiện thì áp dụng
pháp luật là hình thức đặc biệt bởi có sự tham gia của cơ quan Nhà nước, thông
qua các cơ quan hoặc người có thẩm quyền. Phải thấy rằng vai trò của việc áp
dụng pháp luật là rất quan trọng, thơng qua hoạt động này mà cơ quan nhà nước
có thể thực hiện được chức năng của mình một cách trọn vẹn.
Như vậy, áp dụng pháp luật trong điều tra các vụ án hình sự là hình thức
thực hiện pháp luật đặc thù, do cơ quan nhà nước được trao quyền tiến hành theo
một thủ tục do pháp luật quy định; nhằm thực hiện các biện pháp cưỡng chế khi
có hành vi vi phạm pháp luật và tội phạm; khi phải giải quyết các mâu thuẫn
phát sinh hoặc hành vi phạm tội trong một quan hệ pháp luật nhất định; hoặc khi
Nhà nước thấy cần phải can thiệp, cần phải tham gia để bảo đảm việc thực thi
trên thực tế của các chủ thể trên các lĩnh vực của đời sống xã hội theo quy định
của pháp luật. Bên cạnh đó, áp dụng pháp luật trong điều tra các vụ án hình sự
khơng chỉ có mục đích phát hiện vi phạm pháp luật mà cịn có mục đích quan
trọng hơn là qua đó xác định nguyên nhân, điều kiện để dẫn đến các hành vi vi
phạm pháp luật trong hoạt động điều tra các vụ án hình sự.
1.1.5. Áp dụng pháp luật trong điều tra các vụ án gây rối trật tự công
cộng của Cơ quan Cảnh sát điều tra
Pháp luật hình sự là một trong những cơng cụ sắc bén, hữu hiệu để đấu
tranh phòng ngừa, chống tội phạm, góp phần đắc lực vào việc bảo vệ độc lập,
chủ quyền, thống nhất toàn vẹn lãnh thổ của tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa,
bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cơng dân, tổ chức
duy trì trật tự an tồn xã hội, trật tự quản lý kinh tế, đảm bảo cho mọi người
được sống trong một mơi trường xã hội an tồn, lành mạnh, mang tính nhân văn
cao. Đồng thời, loại bỏ những yếu tố cản trở tiến trình đổi mới sự nghiệp Cơng
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ,



18

công bằng, văn minh.
* Theo quy định tại Điều 318 - Bộ luật hình sự năm 2015 về Tội gây rối
trật tự công cộng như sau:
1. Người nào gây rối trật tự công cộng gây ảnh hưởng xấu đến an ninh,
trật tự, an toàn xã hội hoặc đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này
hoặc đã bị kết án về tội này, chưa được xóa án tích mà cịn vi phạm, thì bị phạt
tiền từ 5.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 02
năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 02 năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 02
năm đến 07 năm:
a) Có tổ chức;
b) Dùng vũ khí, hung khí hoặc có hành vi phá phách;
c) Gây cản trở giao thông nghiêm trọng hoặc gây đình trệ hoạt động cơng
cộng;
d) Xúi giục người khác gây rối;
đ) Hành hung người can thiệp bảo vệ trật tự công cộng;
e) Tái phạm nguy hiểm.”
* Dấu hiệu pháp lý của tội gây rối trật tự công cộng
- Khách thể của tội gây rối trật tự công cộng:
Tội gây rối trật tự công cộng xâm phạm trực tiếp đến những quy tắc, luật
lệ, điều lệ, nội quy... về trật tự công cộng, vi phạm nếp sống văn minh, quy tắc
cuộc sống, gây ảnh hưởng đến cuộc sống bình thường của mọi người ở nơi
cơng cộng.
Ngồi ra, tội gây rối trật tự cơng cộng cịn gây khó khăn, trở ngại cho hoạt
động của những người trong cơ quan nhà nước và xã hội làm nhiệm vụ bảo vệ
trật tự công cộng.
- Mặt khách quan của tội gây rối trật tự công cộng:

Tội gây rối trật tự công cộng thể hiện bằng hành vi gây rối trật tự công
cộng được mô tả trong điều luật là hành vi của một người có lời nói, cử chỉ tiếp


×