Tải bản đầy đủ (.pdf) (126 trang)

Áp dụng pháp luật trong giải quyết các vụ án về hôn nhân và gia đình trên địa bàn hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.52 MB, 126 trang )

MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các từ viết tắt

MỞ ĐẦU 1
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ ÁP DỤNG PHÁP LUẬT TRONG
GIẢI QUYẾT ÁN HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH CỦA TOÀ
ÁN NHÂN DÂN 7
1.1. Khái niệm đặc điểm áp dụng pháp luật trong giải quyết án
hôn nhân và gia đình 7
1.1.1. Khái niệm áp dụng pháp luật 7
1.1.2. Khái niệm áp dụng pháp luật trong giải quyết án hôn nhân và
gia đình 11
1.2. Các giai đoạn và nội dung áp dụng pháp luật trong giải
quyết án hôn nhân và gia đình 16
1.2.1. Các giai đoạn trong áp dụng pháp luật giải quyết án hôn nhân
và gia đình 16
1.2.2. Nội dung hoạt động áp dụng pháp luật trong giải quyết án hôn
nhân và gia đình 20
Kết luận chương 1 42

Chương 2: THỰC TRẠNG ÁP DỤNG PHÁP LUẬT TRONG GIẢI
QUYẾT ÁN HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH CỦA TOÀ ÁN
NHÂN DÂN Ở THÀNH PHỐ HÀ NỘI 42
2.1. Đặc điểm tự nhiên, kinh tế - xã hội Hà Nội và cơ cấu tổ
chức của toà án nhân dân ở thành phố Hà Nội 42
2.1.1. Đặc điểm tự nhiên, kinh tế - xã hội Hà Nội 42
2.1.2 Cơ cấu tổ chức của Toà án nhân dân ở thành phố Hà Nội 43


2.2. Những ưu điểm và hạn chế trong hoạt động áp dụng pháp
luật giải quyết án hôn nhân và gia đình của toà án nhân dân
ở thành phố Hà Nội 47
2.2.1. Những ưu điểm đạt được trong giải quyết án hôn nhân và gia
đình của toà án nhân dân ở thành phố Hà Nội 47
2.2.2 Những hạn chế trong giải quyết án hôn nhân và gia đình của
tòa án nhân dân ở thành phố Hà Nội và nguyên nhân 55
Kết luận chương 2 71

Chương 3: GIẢI PHÁP, KIẾN NGHỊ NÂNG CAO HIỆU QUẢ ÁP
DỤNG PHÁP LUẬT TRONG GIẢI QUYẾT ÁN HÔN
NHÂN VÀ GIA ĐÌNH CỦA TOÀ ÁN NHÂN DÂN Ở
THÀNH PHỐ HÀ NỘI 71
3.1. Yêu cầu đối với việc nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật
trong giải quyết án hôn nhân và gia đình của toà án nhân
dân ở thành phố Hà Nội 71
3.1.1. Việc nâng cao hiệu quả trong giải quyết án Hôn nhân và gia
đình phải đáp ứng các yêu cầu về cải cách tư pháp 71
3.1.2 Các yêu cầu đối với trong giải quyết án Hôn nhân và gia đình
của Toà án 72
3.2. Một số giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật trong
giải quyết án hôn nhân và gia đình của toà án nhân dân ở
thành phố Hà Nội 76
3.2.1. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động Toà án
nhân dân ở thành phố Hà Nội nói chung và việc trong giải
quyết án Hôn nhân và gia đình nói riêng 76
3.2.2. Hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật 78
3.3.1. Tăng cường công tác giải thích và hướng dẫn áp dụng thống
nhất pháp luật 103


3.3.2. Kiện toàn cơ cấu tổ chức, nâng cao năng lực, trình độ của
Thẩm phán và cán bộ trong giải quyết án Hôn nhân và gia đình
của Toà án nhân dân ở thành phố Hà Nội 105
3.3.3. Nâng cao năng lực trình độ chuyên môn của Hội thẩm nhân dân 107
3.3.4. Tăng cường phương tiện và điều kiện cơ sở vật chất cho các
TAND ở thành phố Hà Nội và hoàn thiện chế độ chính sách đối
với Thẩm phán, cán bộ Toà án 108
3.3.5. Tăng cường hoạt động kiểm tra giám đốc án đối với TAND cấp
quận, huyện, đảm bảo việc ADPL thống nhất 110
3.3.6. Tăng cường công tác tổng kết kinh nghiệm xét xử của ngành
Toà án làm cơ sở cho hoạt động giải quyết án Hôn nhân và gia
đình được thực hiện thống nhất 112
3.3.7. Toà án nhân dân Tối cao sớm ban hành các mẫu bản án, quyết
định thống nhất áp dụng cho toàn ngành Toà án 114
Kết luận chương 3 115
KẾT LUẬN 116
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 118

DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT


ADPL: Áp dụng pháp luật
BLTTDS: Bộ luật tố tụng dân sự
HĐXX: Hội đồng xét xử
HLPL: Hiệu lực pháp luật
Nxb: Nhà xuất bản
QHPL: Quan hệ pháp luật
QPPL: Quy phạm pháp luật
TAND: Tòa án nhân dân
TANDTC: Tòa án nhân dân tối cao

TTDS: Tố tụng dân sự
UBND: Ủy ban nhân dân
VKSNDTC: Viện Kiểm sát nhân dân tối cao
XHCN: Xã hội chủ nghĩa

1
MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong công cuộc đổi mới của đất nước ta hiện nay, một trong những
nhiệm vụ trọng tâm là xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của
dân, do dân và vì dân. Muốn xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội ở nước ta
cần phải có con người xã hội chủ nghĩa, đó là đòi hỏi tất yếu khách quan.
Nhưng muốn có con người xã hội chủ nghĩa thì phải có một gia đình mẫu
mực, bởi gia đình quyết định một phần rất lớn tới bản chất con người. Gia
đình hiện nay còn được xem là tế bào của xã hội, do vậy muốn có xã hội phát
triển và lành mạnh thì cần phải có các gia đình tốt – gia đình văn hoá mới. Gia
đình là cái nôi sản sinh ra con người, nuôi dưỡng và giáo dục con người cho
xã hội, vì vậy Đảng và Nhà nước ta trong những năm qua luôn luôn quan tâm
tới vần đề gia đình. Luật hôn nhân và gia đình có vai trò góp phần xây dựng,
hoàn thiện và bảo vệ chế độ Hôn nhân và gia đình tiến bộ, nhằm xây dựng gia
đình ấm no, bình đẳng, tiến bộ và hạnh phúc. Quan điểm của Đảng và Nhà
nước ta về gia đình được ghi nhận tại Hiến pháp năm 1992:
Gia đình là tế bào của xã hội. Nhà nước bảo hộ Hôn nhân và
gia đình theo nguyên tắc tự nguyện, tiến bộ một vợ một chồng,
vợ chồng bình đẳng. Cha mẹ có trách nhiệm nuôi dạy con thành
những người công dân tốt, con cháu có bổn phận chăm sóc ông
bà, cha mẹ. Nhà nước và xã hội không thừa nhận sự phân biệt đối
xử giữa các con [27, Điều 64].
Với đường lối chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước đã đề

cập như vậy, song thực tế hiện nay các vụ án về Hôn nhân và gia đình vẫn
phát sinh và có chiều hướng gia tăng, đòi hỏi Toà án phải (ADPL) để giải
quyết các loại án này. Nghiên cứu về (ADPL) trong giải quyết án Hôn nhân

2
và gia đình nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các thành viên trong
gia đình, thực hiện nguyên tắc vợ chồng bình đẳng, tránh tình trạng phân biệt
đối xử, tình trạng bạo lực gia đình [43].
Trong hoạt động tư pháp thì hoạt động của Toà án là trung tâm có vai
trò quan trọng trong hệ thống cơ quan tư pháp và Toà án là cơ quan duy nhất
nhân danh Nhà nước tiến hành hoạt động xét xử các loại án nói chung và Hôn
nhân và gia đình nói riêng. Trong những năm qua, việc trong giải quyết án
Hôn nhân và gia đình đã giải quyết được những mâu thuẫn bất hoà trong gia
đình, đã bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các thành viên trong gia đình,
bên cạnh những mặt đã đạt được trong quá trình giải quyết án Hôn nhân và
gia đình vẫn còn những thiếu sót, như có vụ án trong quá trình giải quyết còn
để tồn đọng, dây dưa kéo dài, có vụ án còn bị sửa, huỷ gây ảnh hưởng đến
quyền lợi của các bên đương sự.
Ở thành phố Hà Nội những năm qua, số lượng án về Hôn nhân và gia
đình ngày càng gia tăng. Đối với loại án này mỗi vụ án có nội dung đa dạng
và tính phức tạp khác nhau, nên việc ADPL để giải quyết loại án này gặp
không ít những khó khăn, trong nhận thức vận dụng pháp luật cũng như khó
khăn từ khách quan mang lại. Tuy vậy, quá trình giải quyết án Hôn nhân và
gia đình của ngành Toà án nhân dân thành phố Hà Nội trong những năm qua
đạt những kết quả nhất định góp phần giải quyết các mâu thuẫn bất hoà trong
hôn nhân, bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự. Thông qua
việc ADPL trong việc giải quyết án Hôn nhân và gia đình góp phần làm ổn
định quan hệ trong hôn nhân, giữ gìn kỷ cương pháp luật, giữ ổn định chính
trị, trật tự trị an toàn xã hội, góp phần tăng cường nền pháp chế Xã hội chủ
nghĩa trên toàn thành phố. Đồng thời, hoạt động ADPL trong giải quyết án

Hôn nhân và gia đình, ngoài việc đấu tranh với các hành vi trái pháp luật nảy
sinh trong lĩnh vực về hôn nhân, còn phổ biến tuyên truyền giáo dục ý thức

3
pháp luật cho nhân dân, từ sự hiểu biết pháp luật, nhân dân sẽ tham gia thực
hiện pháp luật, bảo vệ pháp luật, tố giác những hành vi vi phạm pháp luật
trong quan hệ hôn nhân, đồng thời qua thực tiễn ADPL trong giải quyết án
Hôn nhân và gia đình sẽ phát hiện ra những thiếu sót trong pháp luật để có
những đề xuất sửa đổi các điều khoản của pháp luật cho phù hợp với đòi hỏi
của thực tiễn trong từng giai đoạn cụ thể.
Bên cạnh những mặt đã đạt được, qua quá trình kiểm tra giám đốc án và
xét xử phúc thẩm của TAND thành phố Hà Nội đã phát hiện có những thiếu sót
của việc ADPL trong quá trình giải quyết, nên dẫn đến một số vụ án bị sửa,
huỷ; một số ít vụ án còn bị dây dưa kéo dài, làm ảnh hưởng đến quyền lợi của
các đương sự. Trong hoạt động xét xử, ngành Toà án thành phố Hà Nội cũng
đã bộc lộ một số tồn tại, như án tồn đọng còn nhiều, vi phạm thời hạn tố tụng.
Đặc biệt, một số vụ án do ADPL không chuẩn xác, nên còn bị sửa, huỷ nhiều
lần, kéo dài nhiều năm gây ảnh hưởng đến đời sống, quyền và lợi ích hợp pháp
của công dân. Đây là một trong những nguyên nhân dẫn đến việc nhân dân
khiếu kiện vượt cấp đến các cơ quan Trung ương. Tồn tại trên là những lực cản
trở trong quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền tại Việt Nam.
Xuất phát từ lý do trên tôi chọn đề tài “Áp dụng pháp luật trong giải
quyết các vụ án về Hôn nhân và gia đình trên địa bàn Hà Nội” làm luận văn
thạc sỹ chuyên ngành Lý luận lịch sử nhà nước và pháp luật.
2. Tình hình nghiên cứu
Trong việc giải quyết các vụ án nói chung và ADPL trong giải quyết án
Hôn nhân và gia đình nói riêng đã được giới khoa học pháp lý và nhất là
những người trực tiếp làm công tác xét xử của ngành Toà án quan tâm nghiên
cứu. Đã có nhiều công trình nghiên cứu, nhiều bài viết đề cập đến một số khía
cạnh về những vấn đề liên quan đến đề tài như:

- Trương Kim Oanh ( 1996), Hòa giải trong tố tụng dân sự, Luận văn
thạc sy Luật học;

4
- Đặng Quang Phương (1999), Thực trạng của các bản án hiện nay và
một số kiến nghị nhằm hoàn thiện các bản án, Tạp chí TAND số 7, 8;
- Nguyễn Văn Cừ, (2000), Quyền sở hữu của vợ chồng theo luật hôn
nhân và gia đình năm 2000, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 11;
- Nguyễn Văn Cừ - Ngô Thị Hường, (2002), Một số vấn đề lý luận và
thực tiễn về Luạn Hôn nhân và gia đình năm 2000, Nxb Chính trị Quốc Gia,
Hà Nội;
- Bùi Văn Thuấn (2002), Phụ nữ và pháp luật, quyền và nghĩa vụ của
vợ chồng đối với tài sản riêng và chung, Nxb Phụ nữ, Hà Nội;
- Nguyễn Hồng Hải (2003), Bàn về chia tài sản chung của vợ chồng trong
thời kỳ hôn nhân theo pháp luật Việt Nam hiện nay, Tạp chí luật học số 2;
- Trần Thị Quốc Khánh (2004), Từ hòa giải trong truyền thống dân tộc
đến hòa giải cơ sở ngày nay, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 11;
Qua nghiên cứu những công trình nêu trên cho thấy, các tác giả chỉ đề
cập mặt này hay mặt khác của việc ADPL trong quá trình giải quyết án Hôn
nhân và gia đình, mà chưa có công trình nào nghiên cứu một cách hệ thống,
đầy đủ việc ADPL trong giải quyết án Hôn nhân và gia đình nói chung, cũng
như trên địa bàn thành phố Hà Nội nói riêng.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
* Mục đích của luận văn
+ Nghiên cứu những vấn đề lý luận về ADPL trong giải quyết án Hôn
nhân và gia đình;
+ Đánh giá thực tiễn của việc ADPL trong giải quyết án Hôn nhân và
gia đình tại thành phố Hà Nội;
+ Đề ra những giải pháp đảm bảo việc ADPL trong giải quyết án Hôn
nhân và gia đình của TAND ở thành phố Hà Nội hiện nay.

* Nhiệm vụ của luận văn
+ Xây dựng khái niệm ADPL trong giải quyết án Hôn nhân và gia đình

5
và phân tích các đặc điểm, nội dung, cũng như nêu lên các giai đoạn của việc
ADPL trong hoạt động giai quyết án hôn nhân và gia đình;
+ Đánh giá kết quả đạt được, những ưu điểm, hạn chế của hoạt động
ADPL trong giải quyết án Hôn nhân và gia đình của TAND ở thành phố Hà Nội
và rút ra các nguyên nhân khách qua và nguyên nhân chủ quan của hạn chế;
+ Nêu lên các quan điểm, yêu cầu và đề xuất các giải pháp cụ thể như:
Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động của Toà án; hoàn thiện
các quy phạm pháp luật nhằm đảm bảo ADPL trong gải quyết án Hôn nhân và
gia đình; Kiện toàn tổ chức, nâng cao năng lực của đội ngũ Thẩm phán, cán
bộ Toà án và Hội thẩm nhân dân… nhằm đảm bảo việc ADPL trong giải
quyết án Hôn nhân và gia đình của TAND ở thành phố Hà Nội.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu: Là việc ADPL trong hoạt động giải quyết án
Hôn nhân và gia đình của Toà án nhân dân Thành phố Hà Nội.
* Phạm vi nghiên cứu: Luận văn xem xét nghiên cứu tình hình ADPL
để giải quyết án Hôn nhân và gia đình của các Toà án nhân dân ở thành phố
Hà Nội trong khoảng thời gian từ năm 2009 đến năm 2012.
5. Cơ sở phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
* Cơ sở lý luận: Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở lý luận của chủ
nghĩa Mác – Lê Nin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng cộng sản
Việt Nam về Nhà nước và pháp luật, trong đó có vấn đề ADPL giải quyết án
Hôn nhân và gia đình.
* Phương pháp nghiên cứu: Luận văn sử dụng phương pháp nghiên
cứu của Triết học Mác – Lênin về duy vật biện chứng, duy vật lịch sử,
phương pháp lịch sử và logic, phương pháp kết hợp lý luận và thực tiễn;
phương pháp phân tích tổng hợp thống kê, so sánh.

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn

6
Luận văn làm sáng tỏ cơ sở lý luận và thực tiễn của hoạt động ADPL
trong giải quyết án Hôn nhân và gia đình, làm sáng tỏ đặc thù của loại án này
ở thành phố Hà Nội.
Trên cơ sở đánh giá thực trạng, chỉ ra những bất cập trong hoạt động
ADPL giải quyết án Hôn nhân và gia đình ở thành phố Hà Nội và đề ra các giải
pháp có tính khả thi nhằm đảm bảo ADPL trong hoạt động giải quyết án Hôn
nhân và gia đình có hiệu quả, đáp ứng yêu cầu của công cuộc cải cách tư pháp.
Kết quả nghiên cứu của Luận văn góp phần cung cấp cơ sở lý luận và cơ
sở thực tiễn cho những người trực tiếp làm công tác ADPL trong giải quyết án
Hôn nhân và gia đình, nhằm thực hiện và chấp hành nghiêm chỉnh Luật Hôn
nhân và gia đình. Luận văn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo cho công tác
nghiên cứu giảng dạy, học tập trong các trường Đại học chuyên luật, hệ thống
các trường chính trị của Đảng, cho những người trực tiếp đang làm công tác xét
xử tại TAND nói chung và Toà án nhân dân ở Hà Nội nói riêng.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, Luận văn
gồm 3 chương, 6 tiết.
Chương 1: Cơ sở lý luận về trong giải quyết án hôn nhân và gia đình
của Tòa án nhân dân.
Chương 2: Thực trạng trong giải quyết án hôn nhân và gia đình của Tòa
án nhân dân trên địa bàn thành phố Hà Nội.
Chương 3: Giải pháp, kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả trong giải quyết
án hôn nhân và gia đình của Tòa án nhân dân trên địa bàn thành phố Hà Nội.

7
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ ÁP DỤNG PHÁP LUẬT

TRONG GIẢI QUYẾT ÁN HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH
CỦA TOÀ ÁN NHÂN DÂN

1.1. Khái niệm đặc điểm áp dụng pháp luật trong giải quyết án hôn
nhân và gia đình
1.1.1. Khái niệm áp dụng pháp luật
Thực hiện đúng đắn và nghiêm chỉnh pháp luật là một yêu cầu khách
quan của cơ quan quản lý nhà nước bằng pháp luật ở nước ta hiện nay. Pháp
luật được ban hành nhiều nhưng ít đi vào cuộc sống thì điều đó chứng tỏ công
tác quản lý nhà nước kém hiệu quả. Do đó, xây dựng pháp luật và thực hiện
pháp luật có mối quan hệ chặt chẽ với nhau.
Vậy thực hiện pháp luật là gì? Thực hiện pháp luật là một quá trình
hoạt động có mục đích làm cho những quy định của pháp luật đi vào cuộc
sống, tạo ra cơ sở pháp lý cho hành động thực tế của các chủ thể pháp luật.
Các quy phạm pháp luật (QPPL) rất phong phú cho nên hình thức thực hiện
chúng cũng khác nhau. Căn cứ vào tính chất của hoạt động,thực hiện pháp
luật, khoa học pháp lý đã xác định những hình thức thực hiện pháp luật sau:
- Tuân thủ pháp luật: Là hình thức thực hiện pháp luật, trong đó các chủ
thể pháp luật tự kiềm chế, không tiến hành các hoạt động hay hành vi mà
pháp luật ngăn cấm.
- Thi hành pháp luật: Là một hình thức thực hiện pháp luật, trong đó
các chủ thể tích cực thực hiện nghĩa vụ của mình theo pháp luật quy định.
- Sử dụng pháp luật: Là một hình thức thực hiện pháp luật, trong đó các
chủ thể tích cực chủ động thực hiện các quyền chủ thể của mình theo quy
định của pháp luật.

8
- (ADPL) (hiểu theo một cách khái quát) là một hình thức thực hiện
pháp luật, trong đó Nhà nước dựa vào pháp luật để trao quyền cho các cơ
quan nhà nước, tổ chức xã hội, các cá nhân để căn cứ vào các quy định pháp

luật ban hành các quyết định cá biệt làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt
một quan hệ pháp luật cụ thể.
Quan niệm ADPL như vừa nêu trên được thể hiện rất rõ trong đời sống
xã hội. Chẳng hạn, để ADPL hình sự nhằm buộc kẻ phạm tội phải chịu trách
nhiệm pháp luật hình sự thì nhà nước đã trao quyền cho Toà án và Toà án căn
cứ vào các quy định cụ thể của pháp luật hình sự để xét xử ra một bản án (văn
bản ADPL hình sự) buộc kẻ phạm tội phải chịu một hình phạt nhất định. Hoặc
để bảo vệ an toàn giao thông, Nhà nước bằng pháp luật đã quy định cho các
chiến sỹ cảnh sát giao thông có quyền áp dụng các quy phạm pháp luật giao
thông ra các quyết định xử phạt vi phạm hành chính đối với các chủ thể có
hành vi vi phạm luật giao thông vượt đèn đỏ, đi ngược chiều… Ngoài ra,
trong một số trường hợp, Nhà nước cũng cho phép một số tổ chức xã hội
được ADPL, như pháp luật về thành lập Hội
Trong các hình thức thực hiện pháp luật, thì ADPL là một hình thức thực
hiện pháp luật đặc biệt, vì pháp luật ở đây được thực hiện bởi các chủ thể nắm
quyền lực nhà nước. Nếu tuân thủ pháp luật, thi hành pháp luật và sử dụng pháp
luật là những hình thức mà mọi chủ thể pháp luật đều có thể tự thực hiện thì
ADPL là hình thức luôn có sự tham gia của Nhà nước. ADPL là hình thức rất
quan trọng của thực hiện pháp luật. Trong đó pháp luật tác động vào cuộc sống,
vào các quan hệ xã hội để đạt được hiệu quả cao nhất, các quy định của nó đều
được thực hiện triệt để, bởi vì ADPL luôn có sự can thiệp của Nhà nước.
Trong thực tế, nếu chỉ thông qua các hình thức thực hiện pháp luật như:
tuân thủ pháp luật, thi hành pháp luật và sử dụng pháp luật, thì pháp luật có
lúc không được thực hiện triệt để vì các chủ thể không tự giác thực hiện, bởi

9
các hình thức này chỉ do các chủ thể pháp luật tự giác thực hiện mà không có
sự bắt buộc thực hiện của Nhà nước.
ADPL có những đặc điểm sau:
Một là, ADPL chỉ do những cơ quan Nhà nước có thẩm quyền tiến

hành. Pháp luật quy định cho mỗi loại cơ quan Nhà nước được quyền áp dụng
một số loại văn bản pháp luật nhất định trong những trường hợp nhất định.
Chẳng hạn, chỉ có cơ quan Toà án mới được ADPL tố tụng dân sự, Luật Hôn
nhân và gia đình để tiến hành giải quyết cho ly hôn, hoặc không cho ly hôn.
Cơ quan Công an, UBND các cấp không có thẩm quyền ban hành quyết định
ly hôn. Hoặc chỉ có các cơ quan Công an, Viện kiểm sát và Toà án mới được
ADPL hình sự để điều tra, truy tố và xét xử người phạm tội. Còn UBND các
cấp không được hình sự.
Hai là, ADPL là một hoạt động mang tính quyền lực Nhà nước, thể
hiện: Cơ quan ADPL áp dụng theo ý chí đơn phương mà không phụ thuộc vào
ý chí của bên bị áp dụng. Việc thực hiện các quy định trong văn bản ADPL
được đảm bảo thực hiện bằng cưỡng chế nhà nước. Ví dụ: Trong vụ án Hôn
nhân và gia đình có tranh chấp về tài sản chung của vợ chồng, Toà án áp dụng
Luật Hôn nhân và gia đình, Luật đất đai, Luật dân sự để ra bản án, quyết định
chia tài sản chung của vợ chồng mà không phụ thuộc vào sự đồng ý hay
không đồng ý của một bên hoặc các bên đương sự.
Ba là, ADPL là một hoạt động tiến hành theo một thủ tục tố tụng rất
chặt chẽ. Chẳng hạn, muốn ADPL để giải quyết vụ án Hôn nhân và gia đình
hay vụ án Dân sự, Hành chính, Kinh doanh thương mại, Toà án phải tuân thủ
chặt chẽ các bước tố tụng dân sự được quy định trong Luật tố tụng dân sự,
Luật tố tụng hành chính.
Bốn là, ADPL là một hoạt động sáng tạo. Nghĩa là, trong khuôn khổ
của pháp luật cho phép người ADPL phải vận dụng tri thức khoa học pháp lý,
khoa học xã hội của mình để ADPL sáng tạo mà không rập khuôn, máy móc.

10
ADPL thường được thực hiện trong các trường hợp sau:
Thứ nhất là khi cần áp dụng các biện pháp cưỡng chế bằng một chế tài
thích hợp đối với những chủ thể có hành vi vi phạm pháp luật. Chẳng hạn, khi
cần cưỡng chế một hình phạt tù đối với kẻ thực hiện hành vi phạm tội thì các

cơ quan bảo vệ pháp luật như Công an, Viện kiểm sát, Toà án đã dựa trên cơ
sở pháp luật hình sự để tiến hành điều tra, truy tố, xét xử, ra bản án, ấn định
trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội và buộc họ phải chấp hành hình
phạt đã tuyên trong bản án.
Thứ hai là khi những quyền và nghĩa vụ pháp lý của chủ thể không mặc
nhiên phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt nếu thiếu sự can thiệp của Nhà nước.
Chẳng hạn, Hiến pháp năm 1992 quy định: “Lao động là quyền và nghĩa vụ
của công dân” [27, Điều 55], nhưng quyền và nghĩa vụ đó chỉ phát sinh khi
có quyết định của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền hoặc tổ chức, cá nhân
được Nhà nước trao quyền tuyển dụng công dân đó vào làm việc.
Thứ ba là khi xảy ra tranh chấp về quyền chủ thể và nghĩa vụ pháp lý
giữa các bên tham gia quan hệ pháp luật (QHPL) mà các bên không tự giải
quyết được. Chẳng hạn, khi phát sinh tranh chấp về quyền và nghĩa vụ giữa
các bên trong hợp đồng dân sự mà hai bên không bàn bạc giải quyết được nên
phải nhờ đến Toà án và Toà án căn cứ vào các quy định của pháp luật ra một
bản án xác định các quyền và nghĩa vụ giữa các bên.
Thứ tư là trong một số quan hệ pháp luật mà Nhà nước thấy cần thiết
phải tham gia kiểm tra, giám sát hoạt động của các bên tham gia vào quan hệ
đó hoặc Nhà nước xác nhận sự tồn tại hay không tồn tại một số sự việc, sự
kiện thực tế. Ví dụ: việc xác nhận di chúc, chứng thực thế chấp, chứng nhận
đăng ký kết hôn…
Từ những sự phân tích trên, có thể đưa ra một khái niệm: ADPL là một
hoạt động mang tính tổ chức, tính quyền lực Nhà nước, trong đó Nhà nước

11
thông qua các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền, các tổ chức xã hội, các cá
nhân được Nhà nước trao quyền căn cứ vào các quy định của pháp luật để đề ra
một văn bản ADPL làm phát sinh, thay đổi hay chấm dứt các quan hệ pháp luật.
1.1.2. Khái niệm áp dụng pháp luật trong giải quyết án hôn nhân và
gia đình

Trước khi nghiên cứu khái niệm ADPL trong giải quyết án Hôn nhân
và gia đình, ta cần làm rõ khái niệm hôn nhân và gia đình.
1.1.2.1 Khái niệm hôn nhân và gia đình
* Khái niệm hôn nhân: Trước hết hôn nhân là hiện tượng xã hội, là sự
liên kết giữa người đàn ông và người đàn bà. Trong xã hội có giai cấp, hôn
nhân mang tính giai cấp. Dưới chế độ XHCN, hôn nhân là sự liên kết giữa
người đàn ông và người đàn bà được pháp luật thừa nhận để xây dựng gia
đình và chung sống với nhau suốt đời. Sự liên kết đó phát sinh, hình thành do
việc kết hôn và được biểu hiện ở một quan hệ xã hội gắn liền với nhân thân,
đó là quan hệ vợ chồng. Quan hệ này là quan hệ giới tính, thực chất và ý
nghĩa của nó biểu hiện trong việc sinh đẻ, nuôi nấng, giáo dục con cái, đáp
ứng cho nhau những nhu cầu tinh thần và vật chất trong đời sống hàng ngày.
Trong mỗi giai đoạn phát triển của lịch sử, giai cấp thống trị bằng pháp luật,
điều chỉnh quan hệ hôn nhân cho phù hợp với ý chí, nguyện vọng của mình,
phù hợp với ý chí giai cấp mình, xã hội nào thì có hình thái hôn nhân đó và
tương ứng với chế độ hôn nhân nhất định. Chẳng hạn, xã hội phong kiến có
hình thức hôn nhân phong kiến, mang bản chất của hôn nhân phong kiến.
Trong xã hội tư bản có hình thức hôn nhân tư sản mang bản chất của xã hội tư
sản. Xã hội XHCN có hình thức của hôn nhân xã hội chủ nghĩa.
Ở nước ta hiện nay, hôn nhân theo Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam
là sự liên kết giữa một người đàn ông và một người đàn bà trên nguyên tắc
hoàn toàn tự nguyện, bình đẳng theo quy định của pháp luật để chung sống với

12
nhau suốt đời, xây dựng gia đình hạnh phúc, dân chủ, hoà thuận và bền vững.
Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 giải thích: “Hôn nhân là quan hệ giữa
người vợ và người chồng sau khi đã kết hôn” [30, Điều 8, Khoản 6].
* Khái niệm gia đình: Rộng hơn khái niệm hôn nhân. Hôn nhân là mối
quan hệ giữa nam và nữ, giữa vợ và chồng, là tiền đề để xây dựng gia đình.
Xã hội loài người đã trải qua nhiều hình thái gia đình khác nhau, gia đình là

sản phẩm của xã hội, đã phát sinh và phát triển cùng với sự phát triển của xã
hội. Do vậy, gia đình là hình ảnh thu nhỏ của xã hội, là tế bào của xã hội.
Trong mỗi hình thái kinh tế - xã hội khác nhau mang tính chất và kết cấu của
gia đình cũng khác nhau. Gia đình XHCN là hình thái cao nhất trong lịch sử,
chế độ XHCN quyết định sự xuất hiện và phát triển của gia đình XHCN.
Quan hệ bình đẳng về mọi mặt giữa vợ chồng trong gia đình XHCN phản ánh
mối quan hệ bình đẳng giữa nam và nữ trong gia đình cũng như ngoài xã hội.
Ở Việt Nam Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 quy định: “Gia
đình là tập hợp những người gắn bó với nhau do hôn nhân, quan hệ huyết
thống hoặc do quan hệ nuôi dưỡng làm phát sinh các nghĩa vụ và quyền
giữa họ với nhau” [30, Điều 8, Khoản 10].
Như vậy, gia đình có thể gồm vợ chồng, con cái, anh chị em, cha mẹ,
ông bà cùng chung sống với nhau, có quan hệ huyết thống hoặc quan hệ
nuôi dưỡng, trong quá trình chung sống, phát sinh các quyền và nghĩa vụ đối
với nhau. Hôn nhân và gia đình là những hiện tượng xã hội mà luôn được các
nhà triết học, xã hội học, sử học, luật học nghiên cứu. Hôn nhân là cơ sở của
gia đình, còn gia đình là tế bào của xã hội, mà trong đó kết hợp chặt chẽ, hài
hoà lợi ích của mỗi công dân, nhà nước và xã hội. C. Mác và Ph. Ăngghen đã
chứng minh một cách khoa học rằng, hôn nhân và gia đình là phạm trù phát
triển theo lịch sử, rằng giữa chế độ kinh tế - xã hội và tổ chức gia đình có mối
quan hệ liên quan trực tiếp và chặt chẽ. Trong tác phẩm, Nguồn gốc gia đình,

13
của chế độ tư hữu và Nhà nước (1884), Ph.Ăngghen đã nhấn mạnh rằng:
“Chế độ gia đình trong xã hội phụ thuộc vào quan hệ sở hữu thống trị trong
xã hội đó và bước chuyển từ hình thái gia đình này lên hình thái gia đình
khác cao hơn suy cho cùng được quyết định bởi những điều kiện vật chất của
đời sống xã hội” [24]. Bằng tác phẩm đó, Ph.Ăngghen đã làm thay đổi quan
điểm trước đây về hình thái hôn nhân và gia đình trong lịch sử.
Tại các Điều 9, 10, 11, Chương X của Luật Hôn nhân và gia đình năm

2000 quy định việc kết hôn, để được công nhận hôn nhân hợp pháp, việc đăng
ký kết hôn phải tuân thủ theo các quy định của pháp luật và việc ly hôn cũng
như giải quyết các quan hệ liên quan đến hôn nhân cũng được tiến hành theo
trình tự pháp luật nhất định, các bước phải được tuân thủ theo Bộ luật tố tụng
dân sự, khi giải quyết một vấn đề cụ thể thì được áp dụng theo Luật Hôn nhân
và gia đình.
Hiện nay, khi lấy ý kiến sửa đổi Luật Hôn nhân và gia đình, có ý kiến
nên đưa quan hệ hôn nhân đồng tính vào Luật Hôn nhân và gia đình để điều
chỉnh. Nếu pháp luật hôn nhân và gia đình công nhận hôn nhân đồng tính thì
sẽ làm mất đi khái niệm người vợ, người chồng trong gia đình.
1.1.2.2 Áp dụng pháp luật trong giải quyết án Hôn nhân và gia đình -
Khái niệm và đặc điểm
* Khái niệm ADPL trong giải quyết án Hôn nhân và gia đình
Trong tổ chức bộ máy Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam,
Toà án là cơ quan duy nhất có thẩm quyền xét xử. Hiến pháp năm 1946, Hiến
pháp đầu tiên của Nhà nước Việt Nam độc lập, mặc dù không quy định rõ Toà
án là cơ quan xét xử, nhưng trên tinh thần của Hiến pháp chúng ta cũng có thể
hiểu Toà án là cơ quan xét xử. Các bản Hiến pháp năm 1959,1980 và 1992 đã
quy định rõ về chức năng xét xử của Toà án, Hiến pháp năm 1992 đã quy định:
“Toà án nhân dân tối cao, các TAND địa phương, các Toà án quân sự và các

14
Toà án khác do luật định là cơ quan xét xử của CHXHCNVN” [27, Điều 127].
Trên cơ sở Hiến pháp, Luật Tổ chức Toà án nhân dân quy định về chức năng
xét xử của Toà án: “Toà án xét xử những vụ án về Hình sự, Dân sự, Hôn nhân
và gia đình, Lao động, Kinh tế, Hành chính và giải quyết những việc khác
theo quy định của pháp luật” [31, Điều 1].
Trong quá trình xét xử Toà án phải ADPL để giải quyết các vụ án. Đối
với các vụ án Hôn nhân và gia đình, Toà án phải ADPL để giải quyết từ khâu
phân loại đơn, thụ lý đơn, điều tra, thu thập chứng cứ, xác minh, định giá tài

sản… cho đến khi đưa vụ án ra xét xử và tuỳ từng vụ án cụ thể mà phân loại
giải quyết khác nhau như: Quyết định chuyển vụ án, tạm đình chỉ vụ án, đình
chỉ vụ án, công nhận hoà giải thành, công nhận thuận tình ly hôn hoặc quyết
định đưa vụ án ra xét xử.
Theo quy định của Luật tố tụng dân sự khi đương sự gửi đơn đề nghị
giải quyết vụ án hôn nhân và gia đình đến TAND cấp có thẩm quyền giải
quyết, sau khi nhận đơn Toà án tiến hành phân loại việc hôn nhân và gia đình.
Nếu là quan hệ tranh chấp ly hôn thì thụ lý vụ án với quan hệ pháp luật “Tranh
chấp ly hôn”. Nếu đơn khởi kiện yêu cầu thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi
con chung sau khi ly hôn thì thụ lý vụ án với quan hệ pháp luật “Tranh chấp
việc cấp dưỡng nuôi con”… Sau khi thụ lý vụ án, Thẩm phán giải quyết vụ án
phải ADPL tố tụng và Luật Hôn nhân và gia đình để điều tra thu thập chứng cứ
vụ án, lựa chọn quy phạm pháp luật để ra các quyết định hoặc ra bản án buộc
các đương sự thi hành bằng nhiều hình thức như: tự nguyện thi hành hoặc có sự
cưỡng chế thi hành của cơ quan Thi hành án dân sự.
Ngoài cơ quan Toà án ADPL giải quyết án hôn nhân và gia đình còn có
sự tham gia của Viện kiểm sát nhân dân cùng cấp trong giai đoạn giải quyết
vụ án. Viện kiểm sát nhân dân có quyền và trách nhiệm kiểm sát việc tuân
theo pháp luật trong hoạt động tố tụng dân sự, như yêu cầu cá nhân, cơ quan

15
tổ chức cung cấp chứng cứ, tham gia phiên toà xét xử và được phát biểu về
việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán, Hội đồng xét xử trong quá trình giải
quyết vụ án và tại phiên toà. Tuy nhiên, TAND là cơ quan có trách nhiệm chủ
yếu trong việc giải quyết vụ án Hôn nhân và gia đình. Hầu hết trong các giai
đoạn ADPL, hoạt động giải quyết án Hôn nhân và gia đình do Toà án trực
tiếp giải quyết mà không phụ thuộc vào chủ thể nào khác.
* Đặc điểm của ADPL trong giải quyết án hôn nhân và gia đình của TAND:
- ADPL trong giải quyết án Hôn nhân và gia đình chỉ do các cơ quan nhà
nước có thẩm quyền tiến hành, đó là hệ thống TAND. Toà án là cơ quan có

thẩm quyền duy nhất có quyền ADPL để giải quyết án hôn nhân và gia đình.
- ADPL trong giải quyết án hôn nhân và gia đình được tiến hành theo
một thủ tục chặt chẽ do pháp luật tố tụng dân sự quy định và các quy phạm
pháp luật của Luật Hôn nhân và gia đình quy định. Khi tiến hành giải quyết
một vụ án hôn nhân và gia đình, các trình tự xây dựng hồ sơ từ khâu thụ lý,
điều tra, thu thập chứng cứ đến khi ra quyết định hoặc quyết định đưa vụ án ra
xét xử đều phải tuân theo các bước như đã quy định trong Bộ luật tố tụng dân
sự nhằm đảm bảo quyền lợi hợp pháp của các bên đương sự.
- ADPL trong giải quyết án hôn nhân và gia đình là một hoạt động
mang tính quyền lực nhà nước, Toà án được Nhà nước trao quyền để lựa chọn
các quy phạm pháp luật và ADPL trong giải quyết án hôn nhân và gia đình.
- ADPL trong giải quyết án hôn nhân và gia đình là một hoạt động
mang tính khoa học và sáng tạo do Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân thực
hiện. Chỉ có Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân trực tiếp giải quyết vụ án hôn
nhân và gia đình mới được áp dụng các quy phạm pháp luật, sao cho phù hợp
và khoa học để giải quyết vụ án hôn nhân và gia đình. Trong khuôn khổ của
pháp luật cho phép, Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân ADPL sáng tạo, nghĩa
là dựa vào trí tuệ và niềm tin nội tâm của mình để ADPL.

16
- ADPL trong giải quyết án hôn nhân và gia đình diễn ra trên phạm vi
rộng với nhiều vụ án đa dạng, phức tạp. Tuy nhiên, cùng một loại án về hôn
nhân và gia đình nhưng tính chất từng vụ án cũng khác nhau, tình tiết, chứng
cứ trong các vụ án cũng khác nhau. Khi giải quyết vụ án phải tuân thủ theo
các bước quy định trong Bộ luật tố tụng dân sự.
Dựa trên cơ sở khái niệm ADPL và từ sự phân tích về ADPL trong giải
quyết án hôn nhân và gia đình nêu trên, chúng ta có thể rút ra khái niệm:
ADPL trong giải quyết án hôn nhân và gia đình là một hoạt động mang tính
tổ chức, tính quyền lực nhà nước mà trong đó Nhà nước thông qua các Thẩm
phán, hoặc Hội đồng xét xử căn cứ vào các quy định của pháp luật Hôn nhân

và gia đình và các quy định khác của pháp luật để ra một quyết định cá biệt,
hoặc một bản án làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt các quan hệ pháp
luật về Hôn nhân và gia đình.
1.2. Các giai đoạn và nội dung áp dụng pháp luật trong giải quyết
án hôn nhân và gia đình
1.2.1. Các giai đoạn trong áp dụng pháp luật giải quyết án hôn nhân
và gia đình
ADPL giải quyết án hôn nhân và gia đình nói riêng của TAND, là sự
biểu hiện cụ thể của ADPL nói chung. Do tính đa dạng của tranh chấp về hôn
nhân và gia đình như trong vụ án tranh chấp về ly hôn, Toà án phải giải quyết
cả ba mối quan hệ: quan hệ hôn nhân, quan hệ nuôi con chung sau ly hôn và
quan hệ tài sản chung của vợ chồng sau khi ly hôn nên khi giải quyết nội dung
vụ án, Toà án phải áp dụng cả Luật Hôn nhân và gia đình, Luật đất đai, Bộ
luật dân sự để giải quyết vụ án. Ngoài ra, Toà án còn phải áp dụng những quy
định về thủ tục tố tụng khi giải quyết vụ án. Dựa trên cơ sở lý luận của ADPL,
có thể chia ADPL trong việc giải quyết án Hôn nhân và gia đình thành bốn
giai đoạn sau:

17
Một là phân tích các tình tiết khách quan của vụ án hôn nhân và gia
đình làm rõ các đặc trưng pháp lý của vụ án. Đây là hoạt động đầu tiên trong
các giai đoạn ADPL giải quyết án Hôn nhân và gia đình. Trong hoạt động
này, Toà án phải xác định thẩm quyền của Toà án theo loại việc (áp dụng
Điều 27, Điều 28 Bộ luật tố tụng dân sự), thẩm quyền theo lãnh thổ, theo cấp
Toà án hoặc theo sự lựa chọn của các bên đương sự (áp dụng Điều 33, Điều
34, Điều 35, Điều 36 Bộ luật tố tụng dân sự), để thông báo cho các đương sự
biết Toà án có thẩm quyền giải quyết vụ việc.
Đại đa số các vụ án Hôn nhân và gia đình đều do TAND cấp quận,
huyện giải quyết, trừ các vụ án có yếu tố nước ngoài thì do TAND cấp tỉnh
giải quyết. Do vậy, khi nhận đơn cần thu thập các thông tin liên quan đến các

loại việc hôn nhân và gia đình, thẩm quyền giải quyết của Toà án. Ví dụ:
Trong vụ án tranh chấp ly hôn phải yêu cầu ghi rõ các nội dung về tên tuổi,
địa chỉ của nguyên đơn, bị đơn, nguyên nhân mâu thuẫn, các thông tin về con
chung và tài sản chung, nguyện vọng của các đương sự sau ly hôn. Kèm theo
đơn ly hôn gồm các giấy tờ khác có liên quan để xác định thẩm quyền giải
quyết của Toà án: Sổ hộ khẩu, xác nhận nơi cư trú. Sau khi có các tài liệu cần
thiết để xác định loại việc, thẩm quyền của Toà án, Thẩm phán nghiên cứu
đơn áp dụng các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự, Luật Hôn nhân và gia
đình để xác định điều kiện khởi kiện của nguyên đơn. Ví dụ: Khi xét đơn khởi
kiện tranh chấp ly hôn, nếu xét thấy tài liệu nguyên đơn cung cấp thể hiện bị
đơn đã đi khỏi nơi cư trú hơn hai năm mà không xác định được địa chỉ của bị
đơn thì Thẩm phán xét đơn hướng dẫn nguyên đơn phải nộp đơn yêu cầu Toà
án xác định công dân mất tích trước rồi mới giải quyết việc ly hôn.
Khi xác định đương sự có đủ điều kiện thụ lý vụ việc hôn nhân và gia
đình, Thẩm phán đề xuất thụ lý vụ án. Sau khi thụ lý vụ án, Thẩm phán phải
phân tích các tình tiết khách quan của vụ án hôn nhân và gia đình, tiến hành

18
điều tra xác minh, làm rõ nội dung vụ án. Tuy nhiên, có những trường hợp
không nhất thiết phải tiến hành điều tra, mà xuất phát từ nguyên tắc quyền tự
định đoạt và nghĩa vụ chứng minh của các bên đương sự tự xuất trình chứng
cứ, các đương sự tự thoả thuận được các tranh chấp trong quan hệ Hôn nhân
và gia đình, thì vụ án cũng không phải tiến hành tất cả các hoạt động điều tra.
Đây cũng là đặc điểm riêng của vụ án Hôn nhân và gia đình. Ví dụ: khi thụ lý
giải quyết một vụ kiện xin ly hôn, Toà án yêu cầu nguyên đơn và bị đơn cung
cấp các tài liệu, giấy tờ liên quan đến quan hệ hôn nhân, các đương sự tự viết
vào bản tự khai. Trong quá trình giải quyết vụ án các đương sự đều nhất trí ly
hôn, tự thoả thuận được với nhau về người trực tiếp nuôi con, việc cấp dưỡng
nuôi con, thoả thuận về tài sản chung vợ chồng sau ly hôn thì Toà án ra Quyết
định công nhận việc thuận tình ly hôn và sự thoả thuận của các đương sự.

Trên cơ sở kết quả điều tra xác minh vụ án chủ thể ADPL, phân tích
những tình tiết khách quan của vụ án hôn nhân và gia đình, làm rõ các đặc
trưng pháp lý của vụ án để tiến hành các bước tiếp theo giải quyết vụ án đó.
Hai là lựa chọn các QPPL về Hôn nhân và gia đình, về Dân sự, về Tố
tụng dân sự tương ứng để giải quyết vụ án hôn nhân và gia đình.
Nói chung, việc lựa chọn QPPL để ADPL được tiến hành theo ý chí
đơn phương của Toà án có thẩm quyền, không phụ thuộc vào ý chí của chủ
thể bị áp dụng. Điều này được thể hiện rất rõ đối với việc ADPL trong giải
quyết án hình sự và giải quyết vi phạm hành chính, nhưng đối với việc giải
quyết án hôn nhân và gia đình về cơ bản cũng vậy, song có một số trường hợp
có thể trong khi giải quyết vụ án các đương sự có thể thực hiện quyền của
mình theo pháp luật quy định sẽ thay đổi quan điểm, nên dẫn đến vụ án không
phải tiếp tục điều tra, xét xử mà có thể ra một quyết định thoả thuận của các
đương sự mà không phụ thuộc vào ý chí của chủ thể ADPL, nhưng lựa chọn
QPPL vẫn là do cơ quan Toà án.

19
Ví dụ: Trong trường hợp các bên đương sự thuận tình ly hôn, thoả
thuận được với nhau về việc người trực tiếp nuôi con, thoả thuận về tài sản
khi ly hôn thì Toà án áp dụng Điều 89, Điều 90, Điều 94 Luật Hôn nhân và
gia đình năm 2000; Điều 182, Điều 183 Bộ luật tố tụng dân sự để ra Quyết
định công nhận thuận tình ly hôn và sự thoả thuận của các đương sự.
Đây là quá trình vận dụng tổng hợp các tri thức chính trị, kinh tế - xã
hội, đặc biệt là các tri thức pháp lý. Để làm sáng tỏ tư tưởng nội dung các quy
phạm liên quan đến lĩnh vực Hôn nhân và gia đình. Giai đoạn này của quá
trình ADPL nhằm nhận thức đúng đắn nội dung, tư tưởng của QPPL đưa ra áp
dụng để giải quyết vụ án hôn nhân và gia đình. Việc ADPL phải thông qua
người có thẩm quyền khi ADPL. Cụ thể, Thẩm phán trực tiếp giải quyết vụ án
phải căn cứ vào các quy định của Luật Hôn nhân và gia đình, Bộ luật dân sự,
Luật đất đai để giải thích cho các đương sự hiểu, hướng cho các đương sự đi

đến thoả thuận phù hợp với quy định của pháp luật. Giai đoạn này đòi hỏi
Thẩm phán giải quyết vụ án phải có trình độ vững vàng về pháp luật, có sự
hiểu biết sâu sắc về tâm lý, xã hội để phân tích, hoà giải.
Ba là ra quyết định ADPL hoặc ra một bản án để giải quyết vụ án Hôn
nhân và gia đình.
Đây là giai đoạn thể hiện kết quả của hai giai đoạn trên, ở giai đoạn này
Toà án có thẩm quyền ra quyết định hoặc bản án để quy định trách nhiệm,
quyền lợi và nghĩa vụ của các đương sự đang có tranh chấp trong quan hệ
Hôn nhân và gia đình. Văn bản ADPL này thể hiện rất rõ năng lực, trình độ
của Thẩm phán và Hội đồng xét xử khi ADPL. Bởi vì, trong giai đoạn này các
phán quyết cuối cùng mang tính pháp lý, phán quyết này chính là việc vận
dụng các quy định pháp luật về lĩnh vực Hôn nhân và gia đình để giải quyết
án Hôn nhân và gia đình.
Quyết định ADPL phải phù hợp với quy phạm pháp luật đưa ra áp dụng

20
chứ không thể xuất phát từ ý chí chủ quan hoặc tình cảm cá nhân của người
có thẩm quyền, nội dung quyết định bản án phải rõ ràng, chính xác.
Bốn là giai đoạn triển khai, tổ chức thực hiện văn bản áp dụng pháp
luật, được hiểu là việc thi hành bản án quyết định của Tòa án về vụ việc hôn
nhân và gia đình.
Theo quy định pháp luật, sau khi có bản án dân sự (… Hôn nhân và gia
đình) có hiệu lực pháp luật, nếu bên có nghĩa vụ không tự nguyện thực hiện
nghĩa vụ thì cơ quan có thẩm quyền thi hành bản án dân sự ( …Hôn nhân và
gia đình) có hiệu lực pháp luật là cơ quan Thi hành án dân sự. Theo Điều 30,
Luật Thi hành án dân sự năm 2008, trong thời hạn 05 năm kể từ ngày bản án,
quyết định có hiệu lực thì người được thi hành án, người phải thi hành án có
quyền yêu cầu cơ quan thi hành án dân sự có thẩm quyền ra quyết định thi
hành án. Đối với quyết định giám đốc thẩm, tái thẩm đã có hiệu lực pháp luật
nhưng chưa thi hành hoặc đã thi hành một phần thì thủ trưởng cơ quan thi

hành án dân sự ra quyết định tiếp tục thi hành.
Về thẩm quyền thi hành án dân sự:
Theo khoản 1, Điều 35, Luật Thi hành án dân sự năm 2008 thì cơ quan
thi hành án cấp huyện sẽ có thẩm quyền thi hành đối với bản án, quyết định
của Giám đốc thẩm của Toà án cấp tỉnh đối với bản án, quyết định đã có hiệu
lực pháp luật của Toà án cấp huyện nơi cơ quan thi hành dân sự cấp huyện có
trụ sở.Trong trường hợp nếu thấy cần thiết, bản án, quyết định của Giám đốc
thẩm nêu trên có thể chuyển giao cho cơ quan thi hành dân sự cấp tỉnh.
Hiện nay cơ quan thi hành án cấp huyện là Chi cục Thi hành án dân sự
huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh; Cơ quan thi hành án cấp tỉnh là Cục
Thi hành án dân sự tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương.
Về việc ra quyết định thi hành án:
Theo khoản 1, Điều 36, Luật Thi hành án dân sự năm 2008, thì trong

21
thời hạn năm ngày làm việc kể từ ngày nhận được bản án, quyết định của Toà
án, thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự phải chủ động ra quyết định đối với
phần bản án, quyết định sau đây:
(a)-Hình phạt tiền, truy thu thiền, tài sản thu lợi bất chính, án phí;
(b)- Trả lại tiền, tài sản cho đương sự;
(c)- Tịch thu sung quỹ nhà nước, tịch thu tiêu huỷ vật chứng,
tài sản cho đương sự;
(d)- Thu hồi quyền sử dụng đất và tài sản khác thuộc diện
sung quỹ nhà nước;
Trong thời hạn 24 giờ, kể từ khi nhận được quyết định áp dụng
biện pháp khẩn cấp tạm thời do Toà án chuyển giao hoặc do đương sự
giao trực tiếp, thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự phải ra quyết
định thi hành án và phân công chấp hành viên tổ chức thi hành.
Ngoài những trường hợp theo khoản 1, Điều 36 nêu trên, Thủ trưởng
cơ quan thi hành dân sự chỉ ra quyết định thi hành án khi có đơn yêu cầu thi

hành án.
Đương sự (bao gồm người được thi hành và người phải thi hành án) có
thể tự mình hoặc uỷ quyền cho người khác yêu cầu thi hành thông qua các
hình thức: Nộp đơn trực tiếp hoặc gửi đơn qua bưu điện hoặc trực tiếp trình
bày bằng lời nói tại cơ quan thi hành án dân sự. Việc yêu cầu thi hành án
phải kèm theo bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật.
1.2.2. Nội dung hoạt động áp dụng pháp luật trong giải quyết án hôn
nhân và gia đình
Hoạt động ADPL trong giải quyết án hôn nhân và gia đình cũng rất đa
dạng và phong phú, nhưng quy về những nội dung cơ bản sau:
Thứ nhất, hoạt động ADPL trong thụ lý, điều tra, đình chỉ và tạm đình
chỉ vụ án:

×