Tải bản đầy đủ (.pdf) (79 trang)

Áp dụng pháp luật trong thực hành quyền công tố của viện kiểm sát nhân dân cấp huyện đối với các vụ án đánh bạc trên địa bàn tỉnh nghệ an

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (642.14 KB, 79 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC VINH
PHẠM THỊ BẰNG GIANG
ÁP DỤNG PHÁP LUẬT TRONG THỰC HÀNH QUYỀN
KHỐ 24
CƠNG TỐ CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN CẤP HUYỆN ĐỐI VỚI
CÁC VỤ ÁN ĐÁNH BẠC TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH NGHỆ AN

PHẠM THỊ BẰNG GIANG

ÁP DỤNG PHÁP LUẬT TRONG THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ
CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN CẤP HUYỆN ĐỐI VỚI CÁC
VỤ ÁN ĐÁNH BẠC TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH NGHỆ AN

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Nghệ An, năm 2018


2

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC VINH

PHẠM THỊ BẰNG GIANG

ÁP DỤNG PHÁP LUẬT TRONG THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ
CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN CẤP HUYỆN ĐỐI VỚI CÁC VỤ
ÁN ĐÁNH BẠC TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH NGHỆ AN

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC


Chuyên ngành: Lý luận và lịch sử nhà nƣớc và pháp luật
Mã số: 8380106
Người hướng dẫn khoa học: TS. Phạm Thị Thúy Liễu

Nghệ An, năm 2018


3

LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu của riêng tơi.
Các số liệu, trích dẫn, ví dụ trong luận văn đảm bảo độ tin cậy,
chính xác và trung thực. Những kết luận khoa học của luận văn
chưa từng được ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác.
TÁC GIẢ


4

MỤC LỤC
Trang
Lời cam đoan

3

Mục lục

4

Danh mục các ký hiệu, các chữ viết tắt


5

MỞ ĐẦU

6

Chương 1: Một số vấn đề lý luận về áp dụng pháp luật trong thực hành quyền công tố

11

của Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện đối với các vụ án đánh bạc
1.1. Khái quát về áp dụng pháp luật trong thực hành quyền công tố của Viện kiểm sát

11

nhân dân cấp huyện đối với các vụ án đánh bạc
1.2. Nội dung áp dụng pháp luật thực hành quyền công tố của Viện kiểm sát nhân dân

19

cấp huyện đối với các vụ án đánh bạc
1.3. Các điều kiện đảm bảo thực hành quyền công tố của Viện kiểm sát nhân dân cấp

26

huyện đối với các vụ án đánh bạc
Chương 2: Thực trạng áp dụng pháp luật trong thực hành quyền công tố của Viện

32


kiểm sát nhân dân cấp huyện đối với các vụ án đánh bạc trên địa bàn tỉnh Nghệ An
2.1. Khái quát chung các yếu tố ảnh hưởng đến việc thực hành quyền công tố của Viện 32
kiểm sát nhân dân cấp huyện đối với các vụ án đánh bạc
2.2. Thực tiến áp dụng pháp luật trong thực hành quyền công tố của Viện kiểm sát

33

nhân dân cấp huyện đối với các vụ án đánh bạc trên địa bàn tỉnh Nghệ An
2.3. Đánh giá thực trạng áp dụng pháp luật trong thực hành quyền công tố của Viện

46

kiểm sát nhân dân cấp huyện đối với các vụ án đánh bạc trên địa bàn tỉnh Nghệ An
Chương 3: Quan điểm và giải pháp đảm bảo áp dụng pháp luật trong thực hành quyền

56

công tố của Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện đối với các vụ án đánh bạc trên địa bàn
tỉnh Nghệ An
3.1. Quan điểm đảm bảo áp dụng pháp luật trong thực hành quyền công tố của Viện

56

kiểm sát nhân dân cấp huyện đối với các vụ án đánh bạc
3.2. Một số giải pháp đảm bảo áp dụng pháp luật trong thực hành quyền công tố của

59

Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện đối với các vụ án đánh bạc trên địa bàn tỉnh Nghệ An

KẾT LUẬN

75

TÀI LIỆU THAM KHẢO

77


5

DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
Từ viết tắt

Từ đầy đủ

ADPL

Áp dụng pháp luật

BLHS

Bộ luật hình sự

BLTTHS

Bộ luật tố tụng hình sự

HĐND


Hội đồng nhân dân

MTTQ

Mặt trận tổ quốc

VKS

Viện kiểm sát

VKSND

Viện kiểm sát nhân dân

VKSNDTC

Viện kiểm sát nhân dân tối cao


6

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong giai đoạn hiện nay, nước ta đang hội nhập với xu thế của thế giới
và khu vực, nền kinh tế được vận hành theo cơ chế thị trường, định hướng xã
hội chủ nghĩa. Việc gia nhập các tổ chức thế giới như trở thành thành viên của
WTO (2007), ASEAN (1995), ký kết AFTA, tham gia APEC đã gíup cho nền
kinh tế phát triển nhanh, năng động, vị thế và uy tín của Việt Nam được nâng
cao trên trường quốc tế…Tuy nhiên, sự phát triển kinh tế đó cũng kéo theo
nhiều hệ lụy, trong đó có các tệ nạn xã hội, trong đó có tệ nạn đánh bạc. Điều

này làm ảnh hưởng không nhỏ tới an ninh trật tự và cuộc sống bình yên của mọi
người trong xã hội. Tệ nạn xã hội nói chung và tệ nạn đánh bạc nói riêng là một
vấn đề nhức nhối làm suy thoái đạo đức, nhân cách, gây khó khăn cản trở sự
phát triển kinh tế xã hội; trái pháp luật và thuần phong mỹ tục, do đó chúng ta
cần phải ngăn chặn, loại bỏ ra khỏi đời sống xã hội.
Tình hình tệ nạn đánh bạc trên phạm vi cả nước nói chung và tại tỉnh
Nghệ An nói riêng thời gian qua ngày càng có những diễn biến ngày càng phức
tạp dưới nhiều hình thức, thủ đoạn khác nhau và ngày càng tinh vi, nhiều đối
tượng “nhàn rỗi” trong xã hội, một số tầng lớp thanh, thiếu niên, thậm chí có cả
cán bộ, đảng viên đã và đang sa lầy trong những trò chơi may rủi này bất chấp
sự trừng phạt của pháp luật, sự lên án của xã hội, sự suy thoái về mặt đạo đức.
Tệ nạn đánh bạc không chỉ đơn thuần mang lại hệ lụy cho bản thân những đối
tượng tham gia trực tiếp mà cịn ảnh hưởng đến cuộc sống của gia đình và xã
hội, tiềm ẩn nguy cơ phát sinh nhiều loại tội phạm và tệ nạn xã hội nguy hiểm
khác như tội giết người, cướp của, trộm cắp tài sản,…Trong 5 năm (từ 2013 đến
2017), tỉnh Nghệ An đã phát hiện, bắt giữ 1.441 vụ/7.346 đối tượng vi phạm
pháp luật về đánh bạc. Vì vậy, phát hiện, đấu tranh phịng, chống tệ nạn xã hội
nói chung và tệ nạn đánh bạc nói riêng là một nhiệm vụ cấp bách trong xã hội
ngày này nhằm từng bước ngăn chặn, đẩy lùi những tệ nạn xã hội, góp phần giữ
vững sự an tồn, bình yên cho cuộc sống của Nhân dân.


7

Xuất phát từ tình hình và yêu cầu thực tiễn trong giai đoạn hiện nay về
cơng tác đấu tranh phịng, chống tệ nạn đánh bạc, học viên đã chọn đề tài “Áp
dụng pháp luật trong thực hành quyền công tố của Viện kiểm sát nhân dân
cấp huyện đối với các vụ án đánh bạc trên địa bàn tỉnh Nghệ An” để làm luận
văn Thạc sỹ luật học của mình.
Về mặt lý luận, trên diễn đàn các sách, báo pháp lý, các tạp chí cũng xuất

hiện nhiều bài viết, bài nghiên cứu, trao đổi về hoạt động thực hành quyền công
tố đối với các vụ án hình sự nói chung, chưa có tài liệu nào trao đổi trực tiếp về
thực hành quyền công tố đối với các vụ án đánh bạc nói riêng.
Một số cơng trình liên quan như:
- Phạm Sỹ Chiến (2000), Quyền công tố và thực hành quyền công tố,
Chuyên đề số 7, Tạp chí Kiểm sát.
- PGS. TS. Nguyễn Hịa Bình (2016), Tăng cường trách nhiệm cơng tố
trong hoạt động điều tra, gắn công tố với hoạt động điều tra theo yêu cầu cải
cách tư pháp.
- Ths. Lê Văn Quang (2017), Nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác
thực hành quyền công tố các vụ án xâm phạm tình dục trẻ em trên đại bàn huyện
Lộc Ninh, tỉnh Bình Phước, Chun đề số 20, Tạp chí Kiểm sát.
Tuy nhiên, nhìn chung, các cơng trình, sách, báo, bài viết đó đều chủ yếu
tập trung phân tích, làm rõ những quy định chung của hoạt động thực hành
quyền công tố về góc độ lý luận, thực trạng hoạt động của ngành kiểm sát hay
những hạn chế, bất cập của pháp luật về thực hành quyền công tố đối với các vụ
án hình sự nói chung, từ đó đưa ra những giải pháp để đảm bảo áp dụng pháp
luật trong thực hành quyền công tố của Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện đối
với các vụ án hình sự nói chung. Chưa có cơng trình ở cấp độ thạc sỹ luật học
nghiên cứu tồn diện, có hệ thống những vấn đề lý luận và thực tiễn công tác
thực hành quyền công tố của Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện đối với các vụ
án đánh bạc, chỉ ra những hạn chế, bất cập, vướng mắc và đề xuất giải pháp
nhằm hoàn thiện pháp luật, đảm bảo hoạt động thực hành quyền công tố của
Viện kiểm sát nhân dân đạt hiệu quả trên thực tế.


8

2. Đối tƣợng nghiên cứu của luận văn
Là những vấn đề lý luận và thực tiễn của việc ADPL trong thực hành

quyền công tố của Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện đối với các vụ án đánh bạc
trên địa bàn tỉnh Nghệ An.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích của luận văn là góp phần làm rõ những vấn đề lý luận và thực
tiễn về ADPL trong thực hành quyền công tố của VKSND cấp huyện đối với các
vụ án đánh bạc, từ thực tiễn tỉnh Nghệ An, nhằm đáp ứng yêu cầu cải cách tư
pháp cũng như yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm đánh bạc hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về ADPL trong thực hành quyền công
tố của VKSND cấp huyện đối với các vụ án đánh bạc, như khái niệm, đặc điểm,
nội dung của ADPL trong thực hành quyền công tố của VKSND cấp huyện đối
với các vụ án đánh bạc, những yếu tố ảnh hưởng và các điều kiện đảm bảo
ADPL trong hoạt động đó.
- Đánh giá thực trạng ADPL thực hành quyền công tố của VKSND cấp
huyện đối với các vụ án đánh bạc trên địa bàn tỉnh Nghệ An.
- Quan điểm, giải pháp nhằm đảm bảo ADPL trong thực hành quyền công
tố của VKSND cấp huyện đối với các vụ án đánh bạc trong giai đoạn hiện nay
trên địa bàn tỉnh Nghệ An.
4. Những đóng góp mới của luận văn
- Làm rõ những khái niệm, đặc điểm và nội dung ADPL trong thực hành
quyền công tố của VKSND cấp huyện đối với các vụ án đánh bạc.
- Phân tích, đánh giá ưu điểm, hạn chế và tìm ra nguyên nhân của việc
ADPL trong thực hành quyền công tố của VKSND cấp huyện đối với các vụ án
đánh bạc.
- Đề xuất các giải pháp đảm bảo ADPL trong thực hành quyền công tố
của VKSND cấp huyện đối với các vụ án đánh bạc trong thời gian tới trên địa
bàn tỉnh Nghệ An.



9

- Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể được sử dụng dùng làm tài liệu
tham khảo cho cán bộ nghiên cứu, giảng dạy, cho sinh viên các cơ sở đào tạo
pháp luật quan tâm đến lĩnh vực này.
5. Phạm vi nghiên cứu của luận văn
- Về thời gian: Luận văn này tập trung nghiên cứu những vấn đề lý luận
và thực tiễn việc ADPL thực hành quyền công tố của VKSND cấp huyện đối với
các vụ án đánh bạc trên địa bàn tỉnh Nghệ An, từ khi khởi tố vụ án hình sự đến
khi VKSND quyết định truy tố bị can ra trước Toà án để xét xử; hoặc ra quyết
định đình chỉ, tạm đình chỉ vụ án, không nghiên cứu những vấn đề ADPL thực
hành quyền công tố trong giai đoạn xét xử trong thời gian từ 2013 - 2017.
- Về không gian: Với đề tài này, học viên chỉ nghiên cứu trong phạm vi
ADPL thực hành quyền công tố đối với tội đánh bạc của VKSND cấp huyện
trên địa bàn tỉnh Nghệ An.
6. Phƣơng pháp nghiên cứu của luận văn
Luận văn được nghiên cứu dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật; các quan điểm của
Đảng và Nhà nước ta về tăng cường pháp chế trong đấu tranh phòng, chống tội
phạm, xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì
nhân dân ở nước ta, đặc biệt là quan điểm chỉ đạo của Đảng về cải cách tư pháp
được thể hiện trong Nghị quyết 08-NQ/TW ngày 02/01/2002; Nghị quyết số 49
– NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị; Kết luận 79-KL/TW ngày
28/7/2010 của Bộ Chính trị và đặc biệt là chiến lược cải cách tư pháp đến năm
2020 đã được nêu trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên
CNXH mà Đại hội đại biểu Đảng tồn quốc lần thứ XI đã thơng qua.
Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu của triết học Mác- Lênin
và các khoa học chuyên ngành khác, trong đó đặc biệt chú trọng đến phương
pháp phân tích và tổng hợp, thống kê, so sánh kết hợp giữa lý luận và thực
tiễn…
7. Cấu trúc của luận văn



10

Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
của luận văn gồm 03 chương.
Chương 1. Một số vấn đề lý luận về áp dụng pháp luật trong thực hành
quyền công tố của Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện đối với các vụ án đánh bạc
Chương 2. Thực trạng áp dụng pháp luật trong thực hành quyền công tố
của Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện đối với các vụ án đánh bạc trên địa bàn
tỉnh Nghệ An.
Chương 3. Quan điểm và giải pháp đảm bảo áp dụng pháp luật trong thực
hành quyền công tố của Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện đối với các vụ án
đánh bạc trên địa bàn tỉnh Nghệ An.


11

CHƢƠNG 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ ÁP DỤNG PHÁP LUẬT TRONG THỰC
HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN CẤP
HUYỆN ĐỐI VỚI CÁC VỤ ÁN ĐÁNH BẠC
1.1. Khái quát về áp dụng pháp luật trong thực hành quyền công tố
của Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện đối với các vụ án đánh bạc
1.1.1. Khái niệm áp dụng pháp luật
ADPL là hoạt động có tính tổ chức, quyền lực nhà nước, do các cơ quan,
tổ chức hoặc cá nhân có thẩm quyền theo quy định của pháp luật tiến hành nhằm
cá biệt hóa các quy phạm pháp luật hiện hành vào những trường hợp cụ thể, đối
với các cá nhân, tổ chức cụ thể.
Từ định nghĩa về áp dụng pháp luật như trên, ta thấy, áp dụng pháp luật

có các đặc điểm sau:
Thứ nhất, ADPL là hoạt động có tính tổ chức, quyền lực nhà nước
Hoạt động áp dụng pháp luật do các cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân có
thẩm quyền theo quy định pháp luật tiến hành và mỗi chủ thể cũng chỉ được
phép áp dụng pháp luật trong một phạm vi nhất định theo quy định của pháp
luật. Chẳng hạn, trong hệ thống các cơ quan, tổ chức nhà nước thì chỉ có Viện
kiểm sát mới có quyền truy tố bị can ra trước Tòa án để xét xử…Chủ thể tiến
hành áp dụng pháp luật chủ yếu là các cơ quan, tổ chức nhà nước, song cũng có
thể là chủ thể được Nhà nước trao quyền hoặc cho phép.
Trong quá trình ADPL, chủ thể có thẩm quyền áp dụng có thể nhân danh
quyền lực nhà nước, sử dụng quyền lực nhà nước để ban hành ra những mệnh
lệnh, quyết định có giá trị bắt buộc phải tôn trọng hoặc thực hiện đối với các tổ
chức cá nhân có liên quan. Các mệnh lệnh, quyết định này luôn thể hiện ý chỉ
đơn phương của chủ thể có thẩm quyền áp dụng mà khơng phụ thuộc vào ý chí
của chủ thể của đối tượng áp dụng. Tuy nhiên, cần lưu ý rằng, ý chí đơn phương
của chủ thể có thẩm quyền khơng thể là ý chí cá nhân, tùy tiện của người áp


12

dụng mà phải là ý chỉ được xây dựng trên cơ sở pháp luật, căn cứ vào pháp luật
và phù hợp với pháp luật.
ADPL là hoạt động có tính tổ chức rất cao vì nó vừa là hình thức thực
hiện pháp luật vừa là hình thức nhà nước tổ chức cho các chủ thể thực hiện các
quy định của pháp luật, Vì thể, hoạt động này phải được tiến hành theo những
điều kiện, trình tự, thủ tục rất chặt chẽ do pháp luật quy định.
Thứ hai, ADPL là hoạt động điều chỉnh cá biệt, cụ thể đối với các quan hệ
xã hội hay là hoạt động nhằm các biệt hóa các quy phạm pháp luật hiện hành
vào những trường hợp cụ thể, đối với các cá nhân, tổ chức cụ thể
Các quy phạm pháp luật là những quy tắc xử sự chung nên không chỉ rõ

chủ thể cụ thể và trường hợp cụ thể cần áp dụng. Khi một quy phạm nào đó
được áp dụng vào việc giải quyết một vụ việc thực tế của một chủ thể cụ thể thì
có nghĩa là quy phạm đó đã được cá biệt hóa vào trường hợp của chủ thể đó.
Các đặc điểm trên là cho áp dụng pháp luật khác hoàn toàn với các hình
thức thực hiện pháp luật khác, bởi lẽ, chủ thể của các hình thức tuân theo, thi
hành, sử dụng pháp luật có thể là bất kỳ tổ chức, cá nhân nào trong xã hội; trong
khi đó, chủ thể tiến hành áp dụng pháp luật chỉ có thể là chủ thể có thẩm quyền
theo quy định của pháp luật. Khi tuân theo, thi hành hoặc sử dụng pháp luật,
chủ thể có thể khơng cần phải đưa ra một quyết định pháp lý nào và có thể cũng
khơng bị bắt buộc phải theo những trình tự, thủ tục nhất định. Cịn khi áp dụng
pháp luật, chủ thể có thẩm quyền luôn bị bắt buộc phải tiến hành theo những
điều kiện, trình tự, thủ tục chặt chẽ do pháp luật quy định và bao giờ cũng phải
đưa ra một quyết định áp dụng pháp luật để giải quyết một vụ việc cụ thể.
1.1.2. Khái niệm vụ án đánh bạc
Đánh bạc là hành vi dùng tiền hoặc lợi ích vật chất khác để sát phạt được
thua thơng qua các trị chơi.
Đánh bạc có các đặc điểm sau:
- Đánh bạc được tổ chức dưới nhiều hình thức khác nhau như: tổ tơm,
chắn cạ, xóc đĩa, tam cóc, xì tố, xập xám, tú lơ khơ, tá lả...và các hình thức cá
cược khác. Tệ nạn cờ bạc có nhiều người mắc phải và có tính lây lan phát triển


13

nhanh, rất đa dạng bao gồm nhiều thành phần có nghề nghiệp, độ tuổi, trình độ
văn hố khác nhau (cán bộ công nhân viên chức nhà nước, học sinh, sinh viên,
đối tượng không nghề, nghề nghiệp không ổn định, lưu manh...).
- Các đối tượng đánh bạc, tổ chức đánh bạc, chứa bạc có nhiều thủ đoạn
hoạt động tinh vi xảo quyệt để đối phó lại sự phát hiện của quần chúng nhân dân
và hoạt động điều tra của cơ quan cơng an. Chúng hình thành các ổ nhóm,

đường dây để hoạt động, thường xuyên thay đổi địa bàn, nhiều tổ chức đường
dây hoạt động liên địa bàn, xuyên quốc gia.
Từ các đặc điểm trên cho thấy: Vụ án đánh bạc là các vụ án do các cơ
quan tố tụng thực hiện việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với các hành vi
phạm tội được qui định tại Điều 321, Điều 322 Bộ luật hình sự số
100/2015/QH13 ngày 27/11/2015 của Nước Cộng hoà XHCN Việt Nam.
1.1.3. Khái niệm áp dụng pháp luật trong thực hành quyền công tố của
Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện đối với các vụ án đánh bạc
1.1.2.1. Khái niệm thực hành quyền công tố
* Khái niệm quyền công tố và thực hành quyền công tố
Trên cơ sở học thuyết Mác – Lê nin về Nhà nước pháp quyền XHCN, từ
thực tiễn thực hiện chức năng kiểm sát tuân theo pháp luật, ngành KSND đã tổ
chức nhiều cuộc hội thảo khoa học về: Khái niệm quyền cơng tố và thực hành
quyền cơng tố. Theo đó, các ý kiến đều cho rằng: Quyền công tố là quyền nhân
dân nhà nước truy tố người có hành vi phạm tội ra tòa. Khái niệm này được hiểu
trên hai phương diện:
Trước hết, quyền công tố là quyền lực nhà nước giao cho VKSND. Quy
định này xuất phát từ chế định lập hiến của nước ta. Điều 107, Hiến pháp 2013
quy định: VKSND thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp. Điều
này khẳng định, ngồi VKS, khơng có bất cứ cơ quan nhà nước nào khác có thể
thay thế VKSND thực hiện quyền lực này. Theo Luật tố tụng hình sự Việt Nam
(sửa đổi) thơng qua ngày 01/01/2018, thì quyền cơng tố của VKS gắn kiền với
hoạt động điều tra và hoạt động xét xử. Theo tinh thần đó, quyền cơng tố chỉ đặt
ra trong lĩnh vực tố tụng hình sự.


14

- Phạm vi thực hành quyền công tố:
Quyền công tố được tiến hành từ khi có quyết định khởi tố vụ án hình sự

và kết thúc khi bản án của Tịa án có hiệu lực thi hành. Theo quy định của Bộ
luật Tố tụng Hình sự (BLTTHS) năm 2015, VKS thực hành quyền công tố ở tất
cả các giai đoạn tố tụng, từ giai đoạn điều tra đến giai đoạn xét xử (bao gồm cả
xét xử sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm và tái thẩm). Để xác định được chính
xác phạm vi thực hành quyền cơng tố, cần xem xét đến phạm vi của quyền công
tố, bởi quyền công tố là cơ sở, nền tảng để thực hành quyền công tố. Như đã đề
cập ở phần trên, quyền công tố phát sinh ngay khi có tội phạm xảy ra, bởi mục
đích của truy cứu trách nhiệm hình sự là nhằm bảo đảm mọi tội phạm xảy ra đều
phải được phát hiện và xử lý trước pháp luật. Do đó, về mặt nguyên tắc, cứ có
tội phạm xảy ra là địi hỏi quyền cơng tố phải được phát động. Song, để có cơ sở
phát động quyền cơng tố phải có một giai đoạn chuẩn bị để thu thập tài liệu,
chứng cứ về tội phạm xảy ra như: tiếp nhận, xác minh tin báo, tố giác về tội
phạm, tiến hành một số hoạt động điều tra ban đầu trước khi khởi tố vụ án như:
khám nghiệm hiện trường, lấy lời khai của những người có liên quan hoặc
những người biết về vụ việc... Cịn thực hành quyền cơng tố chỉ phát sinh khi có
quyết định khởi tố vụ án. Trên thực tế, có khơng ít tội phạm xảy ra nhưng khơng
được phát hiện để khởi tố (Khoa học tội phạm gọi chúng là tội phạm ẩn). Yêu
cầu phát hiện kịp thời và khởi tố điều tra mọi hành vi phạm tội đương nhiên là
vấn đề có tính ngun tắc. Bởi vì, Nhà nước có trách nhiệm nhân danh xã hội
truy cứu trách nhiệm hình sự đối với mọi người phạm tội. Quyền công tố luôn
"treo trên đầu" đối với tất cả những người đó thực hiện hành vi phạm tội nhưng
chưa bị phát hiện để khởi tố điều tra. Điều này có nghĩa là, phạm vi quyền cơng
tố bao giờ cũng rộng hơn phạm vi thực hành quyền công tố. Về mặt nguyên tắc,
phạm vi quyền công tố bắt đầu từ khi có tội phạm xảy ra (vì lúc đó xuất hiện
mối quan hệ giữa Nhà nước với người phạm tội) và kết thúc khi bản án có hiệu
lực pháp luật, khơng bị kháng nghị (quyền truy cứu trách nhiệm hình sự đó đạt
được thơng qua bản án có hiệu lực pháp luật). Trên thực tế, không phải trường
hợp nào quyền cơng tố cũng kéo dài đến khi bản án có hiệu lực pháp luật mà



15

quyền này có thể bị triệt tiêu ở giai đoạn tố tụng sớm hơn theo quy định của
pháp luật, đó là các trường hợp Cơ quan điều tra hoặc VKS đình chỉ vụ án, bị
can... Khi quyền cơng tố chấm dứt thì thực hành quyền cơng tố cũng chấm dứt.
Như vậy, phạm vi thực hành quyền công tố bắt đầu từ khi khởi tố vụ án và kết
thúc khi bản án đó có hiệu lực pháp luật hoặc khi vụ án được đình chỉ theo quy
định của pháp luật tố tụng hình sự.
- Nội dung thực hành quyền cơng tố:
Nội dung của quyền công tố là tổng hợp các giải pháp mà VKS được phép
vận dụng theo quy định của pháp luật để truy tố người có hành vi phạm tội ra
Tịa và buộc tội người đó trước Tịa. Theo quy định của Luật tổ chức Viện kiểm
sát nhân dân năm 2014 và Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015, nội dung thực
hành quyền công tố của Viện kiểm sát nhân dân bao gồm: Khởi tố vụ án, khởi tố
bị can; Những biện pháp áp dụng TNHS đối với người phạm tội; Những biện
pháp xử lý vụ án; Những hoạt động thực hành quyền công tố của Viện kiểm sát
tại phiên tịa.
Với những phân tích trên có thể quan niệm, nội dung thực hành quyền
công tố là việc Viện kiểm sát sử dụng các quyền năng tố tụng độc lập do pháp
luật quy định nhằm truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội, khơng
để lọt người, lọt tội, không làm oan người vô tội, được thực hiện ngay từ khi
khởi tố vụ án và trong suốt quá trình tố tụng.
* Khái niệm áp dụng pháp luật trong thực hành quyền công tố của Viện
kiểm sát nhân dân cấp huyện đối với các vụ án đánh bạc
Dưới góc độ lý luận chung về nhà nước và pháp luật, thực hành quyền
công tố của viện kiểm sát nhân dân là hoạt động ADPL. Đây là hình thức thực
hiện pháp luật, là hoạt động mang tính tổ chức quyền lực nhà nước của các cơ
quan có thẩm quyền nhằm cá biệt hóa những qui định của pháp luật vào từng
trường hợp cụ thể đối với những cá nhân, đơn vị, tổ chức cụ thể.
ADPL trong thực hành quyền công tố của VKSND cấp huyện đối với các

vụ án hình sự là một dạng của áp dụng pháp luật nói chung. ADPL trong thực
hành quyền công tố của VKSND cấp huyện đối với tội phạm đánh bạc thuộc


16

trường hợp áp dụng pháp luật: Khi Nhà nước thấy cần thiết phải tham gia bằng
hình thức giám sát hoạt động của các chủ thể trong các quan hệ điều tra các tội
phạm đánh bạc. Cơ sở phát sinh hoạt động áp dụng pháp luật của Viện kiểm sát
nhân dân đó là các quyết định của cơ quan điều tra, các hành vi của những người
tiến hành tố tụng trong hoạt động tố tụng hình sự. Các quyết định và các hành vi
đó có thể được ban hành, thực hiện theo đúng hoặc không đúng quy định của
pháp luật. Khi đó Nhà nước thơng qua hệ thống cơ quan VKSND hoạt động
kiểm sát việc tuân theo pháp luật của các cơ quan điều tra, và các đương sự, cá
nhân có liên quan nhằm phát hiện những sai phạm, những lệch lạc. Trên cơ sở
đó VKSND đã dựa vào pháp luật để ra các quyết định, như quyết định phê
chuẩn quyết định khởi tố bị can hoặc kiến nghị đối với các chủ thể trong quá
trình điều tra các vụ án hình sự, khắc phục, sửa chữa những thiếu sót, sai phạm
đảm bảo cho việc giải quyết các vụ án hình sự được tuân thủ theo các quy định
của pháp luật.
Từ khái niệm về áp dụng pháp luật nói chung và từ sự phân tích về hoạt
động ADPL thực hành quyền công tố của VKSND đối với các vụ án đánh bạc,
chúng ta có thể rút ra khái niệm về áp dụng pháp luật trong thực hành quyền
công tố của VKSND cấp huyện đối với các vụ án đánh bạc là hoạt động mang
tính tổ chức, tính quyền lực Nhà nước, trong đó Nhà nước thơng qua các cơ
quan VKSND có thẩm quyền căn cứ vào các quy định pháp luật hình sự, tố
tụng hình sự và các quy định pháp luật khác để ra các quyết định cá biệt (văn
bản ADPL) làm phát sinh thay đổi, chấm dứt các quan hệ xã hội trong gia đoạn
thực hành quyền công tố đối với các vụ án đánh bạc được nghiêm minh, đúng
pháp luật.

1.1.2.2. Đặc điểm thực hành quyền công tố của Viện kiểm sát nhân dân
cấp huyện đối với các vụ án đánh bạc
Môt là, thực hành quyền công tố của viện kiểm nhân dân đối với án đánh
bạc là hoạt động chỉ do viện kiểm sát nhân dân tiến hành theo pháp luật quy
định.


17

Theo quy định của pháp luật thì viện kiểm sát nhân dân các cấp là cơ quan
có chức năng thực hiện quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp. Thông
qua việc thực hiện chức năng này, viện kiểm sát nhân dân góp phần thực hiện
quyền lực nhà nước, trực tiếp thực hiện quyền tư pháp góp phần bảo vệ pháp chế
XHCN, bảo vệ chế độ XHCN, quyền làm chủ của nhân dân, bảo vệ tài sản của
Nhà nước, bảo vệ tính mạng, sức khỏe, tài sản, tự do, danh dự và nhân phẩm của
công dân. Bảo đảm mọi hành vi xâm phạm tới lợi ích của Nhà nước, của tập thể
và lợi ích hợp pháp của cơng dân phải được xử lý nghiêm minh trước pháp luật.
Là cơ quan duy nhất nhằm thực hiện chức năng kiểm sát việc tuân theo
pháp luật của các cơ quan tư pháp và thực hành quyền công tố. Hoạt động thực
hành quyền công tố của viện kiểm nhân dân đối với vụ án hình sự nói chung, án
đánh bạc nói riêng được quy định tại Điều 14, Luật tổ chức viện kiểm sát nhân
dân năm 2014.
Theo qui định tại Điều 16 Luật Tổ chức VKSND năm 2014 thì: Trong
giai đoạn xét xử các vụ án hình sự, Viện kiểm sát nhân dân có trách nhiệm thực
hành quyền cơng tố, bảo đảm việc truy tố đúng người, đúng tội, đúng pháp luật,
không để lọt tội phạm và người phạm tội; kiểm sát việc xét xử các vụ án hình sự,
nhằm đảm bảo việc xét xử đúng pháp luật, nghiêm minh, kịp thời. [15].
Với những quy định của pháp luật như trên thì VKSND có quyền áp dụng
mọi biện pháp cần thiết khi thực hành quyền công tố đối với các vụ án hình sự.
Đảm bảo cho việc khởi tố, điều tra, truy tố và xét xử các vụ án hình sự được

tuân theo quy định của pháp luật; bảo đảm việc truy tố đúng người, đúng tội và
đúng pháp luật.
Hai là, thực hành quyền công tố của viện kiểm sát nhân dân đối với vụ án
đánh bạc phải tuân thủ những quy định về trình tự, thủ tục do pháp luật quy
định.
Hoạt động thực hành quyền công tố của Viện kiểm sát nhân dân đối với
quá trình điều tra tội phạm của cơ quan điều tra, hoạt động xét xử của Toà án
nhân dân là một quá trình thực hiện chức năng, nhiệm vụ của Viện kiểm sát đối
với hoạt động tố tụng của cơ quan Cơng an và Tồ án. Đây là những hoạt động


18

rất quan trọng có tính quyết định trong q trình giải quyết những vụ án hình sự.
Trong tất cả các giai đoạn tố tụng hình sự đều có hoạt động thực hành quyền
công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp của VKSND. Chính vì vậy, pháp luật nói
chung và pháp luật tố tụng hiện hành nói riêng đó quy định rất chặt chẽ việc áp
dụng pháp luật trong thực hành quyền công tố của viện kiểm nhân dân đối với
án hình sự nói chung, án đánh bạc nói riêng, như: Việc khởi tố vụ án, khởi tố bị
can, các biện pháp điều tra, các biện pháp ngăn chặn, nhập - tách vụ án, đình chỉ,
tạm đình chỉ vụ án, thời hiệu điều tra, thời hạn điều tra, thời hạn chẩn bị xét xử,
thời hạn bắt buộc toà án phải đưa vụ án ra xét xử, trình tự thủ tục tại phiên toà,
việc toà án và những người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng phải tuân
thủ pháp luật trong toàn bộ hoạt động xét xử.
Thực hành quyền công tố trong các giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử của
Viện kiểm sát nhân dân đối với các vụ án hình sự nói chung, án đánh bạc nói
riêng là chức năng được nhà nước trao quyền cho VKSND thực hiện theo qui
định của pháp luật nhằm mục đích để việc giải quyết vụ án hình sự đảm bảo tính
khách quan, kịp thời, đúng pháp luật, chống bỏ lọt tội phạm và hành vi phạm
tội, tránh oan, sai, thực hiện việc giải quyết vụ án hình sự đúng trình tự thủ tục

do pháp luật tố tụng hình sự quy định.
Ba là, thực hành quyền công tố của viện kiểm sát nhân dân đối với án
đánh bạc là sự thể hiện quyền lực nhà nước trong các giai đoạn tố tụng.
Thực hành quyền công tố của VKSND đối với vụ án đánh bạc là hoạt
động thực hiện pháp luật nhằm đảm bảo cho toàn bộ hoạt động điều tra, truy tố,
xét xử các vụ án hình sự đối với tội phạm đánh bạc của các cơ quan tiến hành tố
tụng được tuân thủ theo đúng quy định của pháp luật.
Những quyết định của VKS trong hoạt động thực hành quyền cơng tố các
vụ án hình sự là thể hiện quyền lực nhà nước, do vậy các quyết định đó phải
được các cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội và mọi công dân chấp hành. Nhất là
cơ quan điều tra phải có trách nhiệm thi hành các quyết định của VKS; nếu cơ
quan điều tra khơng nhất trí thì cũng phải chấp hành nhưng có quyền kiến nghị
với VKS cấp trên (được quy định tại Điều 476 BLTTHS năm 2015). Đối với


19

Toà án nhân dân thực hiện nguyên tắc xét xử độc lập, nhưng khi quyết định của
hội đồng xét xử trái với quan điểm của VKS hoặc quyết định không có căn cứ,
trái pháp luật thì VKS có quyền kháng nghị, theo qui định tại điều 336 BLTTHS
năm 2015.
1.1.3. Ý nghĩa việc áp dụng pháp luật trong thực hành quyền công tố
của Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện đối với vụ án đánh bạc
Thông qua kiểm sát điều tra, kiểm sát xét xử VKS phát hiện những sơ hở,
thiếu sót; những sơ hở đó có thể là nguyên nhân của tội phạm để các cơ quan, tổ
chức có những biện pháp chủ động ngăn ngừa vi phạm và tội phạm. Đây là
nhiệm vụ thường xuyên và có hiệu quả của ngành kiểm sát nhân dân. VKSND
thực hiện đầy đủ nhiệm vụ, quyền hạn khi thực hành quyền công tố, kiểm sát
điều tra, kiểm sát xét xử các vụ án đánh bạc thì đó cũng chính là chức năng của
VKSND trong q trình thực hành quyền cơng tố các vụ án hình sự nói chung,

đối với án đánh bạc nói riêng được pháp luật qui định; Đó là sự thể hiện việc
thực hiện quyền lực nhà nước trong suốt quá trình tố tụng. Các yêu cầu và quyết
định của VKSND bắt buộc cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội hoặc công dân phải
chấp hành và thực hiện theo đúng qui định của pháp luật.
1.2. Nội dung áp dụng pháp luật trong thực hành quyền công tố của
Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện đối với các vụ án đánh bạc
Trên thực tế, ADPL là hoạt động được tiến hành liên tục ngay sau khi có
sự kiện pháp lý xảy ra cho đến khi ban hành văn bản ADPL và tổ chức thực hiện
văn bản đó. ADPL là hoạt động mang tính cá biệt, ln có đối tượng xác định.
ADPL trong thực hành quyền công tố của Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện đối
với các vụ án đánh bạc là hoạt động có nội dung rộng, phức tạp. Bởi vậy, khơng
thể có quy trình chung cho việc ban hành tất cả các loại văn bản ADPL. Trên cơ
sở quy định của BLTTHS, các văn bản hướng dẫn của ngành Kiểm sát và lý
luận chung về quy trình ADPL, có thể khái quát các nội dung ADPL trong thực
hành quyền công tố của Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện đối với các vụ án
đánh bạc như sau:


20

1.2.1. Chủ thể áp dụng pháp luật trong thực hành quyền công tố của
Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện đối với các vụ án đánh bạc
Theo quy định của pháp luật ở nước ta, VKS là cơ quan duy nhất được
phát động quyền công tố một cách độc lập, tức là cơ quan quyết định việc khởi
tố hay không khởi tố vụ án hình sự, khởi tố bị can. Sau khi kết thúc điều tra, hồ
sơ vụ án được cơ quan điều tra gửi sang Viện kiểm sát, VKS phải thẩm định,
kiểm tra lại tồn bộ q trình và kết quả điều tra, đánh giá toàn bộ hệ thống
chứng cứ để chứng minh có hay khơng có tội phạm, tính chất và mức độ của
hành vi phạm tội, người đó thực hiện tội phạm và các tình tiết khác của vụ án.
Chỉ trên cơ sở kết quả kiểm sát ấy, VKS mới tiến hành các hoạt động công tố

như đình chỉ vụ án, truy tố bị can ra Tịa bằng bản cáo trạng. Khi tiến hành các
hoạt động này VKS không phụ thuộc vào đề nghị truy tố của cơ quan điều tra
mà thơng qua chính kết quả hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật để thực
hiện quyền cơng tố, đó là việc đưa ra quyết định của mình để giải quyết vụ án
hình sự. Đến lượt mình, quyết định truy tố bị can trước Tịa bằng bản cáo trạng
được xem như là “hạt nhân” của việc thực hành cơng tố và đó là cơ sở để Viện
kiểm sát tiếp tục thực hiện hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong giai
đoạn xét xử các vụ án hình sự.
1.2.2. Nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện khi
áp dụng pháp luật trong thực hành quyền công tố đối với các vụ án đánh bạc
Là cơ quan duy nhất nhằm thực hiện chức năng kiểm sát việc tuân theo
pháp luật của các cơ quan tư pháp và thực hành quyền công tố. Hoạt động thực
hành quyền công tố của viện kiểm nhân dân đối với vụ án hình sự nói chung, án
đánh bạc nói riêng được quy định tại Điều 14, Luật tổ chức viện kiểm sát nhân
dân năm 2014. Theo đó, khi thực hành quyền công tố viện kiểm sát nhân dân
cấp huyện có những nhiệm vụ và quyền hạn sau đây :
- Yêu cầu Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số
hoạt động điều tra khởi tố hoặc thay đổi, bổ sung quyết định khởi tố vụ án, khởi
tố bị can.


21

- Hủy bỏ các quyết định khởi tố, quyết định thay đổi hoặc bổ sung quyết
định khởi tố vụ án, quyết định không khởi tố vụ án trái pháp luật; phê chuẩn,
hoặc hủy bỏ quyết định khởi tố, quyết định thay đổi hoặc bổ sung quyết định
khởi tố bị can trái pháp luật.
- Khởi tố, thay đổi, bổ sung quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can trong
những trường hợp do Bộ luật tố tụng hình sự quy định.
- Phê chuẩn, không phê chuẩn việc bắt người trong trường hợp khẩn cấp,

gia hạn tạm giữ, việc tạm giam và các biện pháp khác hạn chế quyền con người,
quyền công dân.
- Quyết định áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp bắt, tạm giữ, tạm giam,
các biện pháp ngăn chặn và các biện pháp khác hạn chế quyền con người, quyền
công dân theo quy định của luật.
- Phê chuẩn, không phê chuẩn, hủy bỏ các quyết định tố tụng khác của Cơ
quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra.
- Đề ra yêu cầu điều tra và yêu cầu Cơ quan điều tra, cơ quan được giao
nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra thực hiện việc điều tra để làm rõ
tội phạm, người phạm tội; yêu cầu Cơ quan điều tra truy nã bị can.
- Trực tiếp tiến hành một số hoạt động điều tra trong trường hợp để kiểm
tra, bổ sung tài liệu, chứng cứ khi xét phê chuẩn các lệnh, quyết định của Cơ
quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra
hoặc trong trường hợp phát hiện có dấu hiệu oan, sai, bỏ lọt tội phạm, vi phạm
pháp luật mà Viện kiểm sát nhân dân đã yêu cầu nhưng không được khắc phục.
- Khởi tố hoặc yêu cầu Cơ quan điều tra khởi tố vụ án hình sự khi phát
hiện hành vi của người có thẩm quyền trong việc giải quyết tố giác, tin báo về
tội phạm, kiến nghị khởi tố và trong việc khởi tố, điều tra có dấu hiệu tội phạm.
- Quyết định việc gia hạn thời hạn điều tra, thời hạn tạm giam, chuyển vụ
án, áp dụng thủ tục rút gọn, áp dụng biện pháp bắt buộc chữa bệnh.


22

- Thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn khác trong việc thực hành quyền công tố
theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. [15].
Trong quá trình điều tra, pháp luật tố tụng quy định cho cơ quan điều tra
có quyền ra các quyết định bắt, tạm giữ, ra lệnh tạm giam hoặc đề nghị áp dụng
các biện pháp ngăn chặn khác, hạn chế một số quyền của người phạm tội nhằm
phục vụ cho việc điều tra thu thập tài liệu chứng cứ, ngăn chặn người phạm tội

tiếp tục phạm tội hoặc tiêu hủy chứng cứ. Nhưng cơ quan điều tra không được
áp dụng các biện pháp ngăn chặn, nhất là các biện pháp bắt, tạm giữ, tạm giam
khi không có xét phê chuẩn của Viện kiểm sát. Pháp luật hiện hành địi hỏi VKS
phải nghiên cứu, xem xét tính có căn cứ và tính hợp pháp để phê chuẩn hoặc
không phê chuẩn các quyết định của cơ quan điều tra; kịp thời hủy bỏ các biện
pháp ngăn chặn trái pháp luật của cơ quan điều tra. Trong mọi trường hợp, khi
thực hiện các quyền năng này pháp luật cũng yêu cầu Viện kiểm sát cần quán
triệt tư tưởng nhanh chóng, chính xác và khách quan để phúc đáp được các yêu
cầu đối với quá trình điều tra vụ án hình sự tránh oan, sai, bỏ lọt tội phạm, nâng
cao hiệu quả cơng tác đấu tranh phịng chống tội phạm và bảo vệ quyền tự do
dân chủ của công dân.
1.2.3. Trình tự, thủ tục áp dụng pháp luật trong thực hành quyền công
tố đối với các vụ án đánh bạc của Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện
Bước 1. Nghiên cứu, xem xét, đánh giá các tình tiết, chứng cứ có liên
quan đến sự kiện pháp lý, đối tượng và quyết định xử lý do cơ quan điều tra
cung cấp
Đây là khâu đầu tiên, có ý nghĩa quan trọng của áp dụng pháp luật trong
hoạt động thực hành quyền công tố các vụ án hình sự. Việc VKS xem xét, đánh
giá các tài liệu, chứng cứ và thủ tục tố tụng do cơ quan điều tra tiến hành trong
các vụ án đánh bạc, nhằm xác định tính có căn cứ, qua đó xác định tính chất,
mức độ hành vi nguy hiểm cho xã hội của các đối tượng đã gây ra: có hay
khơng có hành vi phạm tội? Hành vi đó ở mức độ nào? xảy ra ở đâu? Khi nào?
Ai là người thực hiện? Công cụ phương tiện phạm tội? Nhân thân? năng lực
chịu trách nhiệm hình sự? Trình tự, thủ tục thu thập tài liệu chứng cứ…


23

Nếu trước đó cơ quan điều tra thu thập tài liệu chứng cứ khơng đúng trình
tự, thủ tục, khơng đầy đủ, khơng tồn diện thì việc xem xét đánh giá chứng cứ

một cách khách quan vụ án của VKSND sẽ gặp khó khăn, dễ dẫn tới sai lầm
trong khi ra văn bản áp dụng pháp luật. Do đó phạm vi thực hành quyền công tố
của VKSND phải được bắt đầu từ khâu tiếp nhận, xử lý tin báo liên quan tới tội
phạm.
Theo quy định của pháp luật TTHS thì VKSND tự mình thơng qua các
nguồn tin báo hoặc từ các tài liệu chứng cứ của cơ quan điều tra gửi tới để xem
xét đánh giá sự kiện pháp lý đã xảy ra: Việc thu thập tài liệu chứng cứ có hợp
pháp hay không, hành vi nguy hiểm cho xã hội đã đến mức phải xử lý bằng
hình sự hay chỉ cần xử lý bằng biện pháp hành chính, người thực hiện hành vi
nguy hiểm cho xã hội là ai, năng lực chịu trách nhiệm hình sự, đối tượng phạm
tội có thể bị áp dụng biện pháp ngăn chặn … tức là phải xem xét đánh giá các
yếu tố cấu thành tội phạm của đối tượng đã thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã
hội. Trong quá trình xem xét đánh giá các tài liệu chứng cứ ban đầu của vụ án
hình sự, VKSND cần phải có sự phân cơng trách nhiệm cụ thể rõ ràng cho cán
bộ, kiểm sát viên, có sự phối kết hợp chặt chẽ với cơ quan điều tra. Có thể nói
rằng, việc nghiên cứu hồ sơ vụ án ban đầu có một ý nghĩa hết sức quan trọng
đảm bảo cho việc ra quyết định áp dụng pháp luật của VKS có chất lượng, đảm
bảo cho việc giải quyết vụ án hình sự được tuân thủ theo quy định của pháp luật.
Bước 2. Xem xét các qui phạm pháp luật được áp dụng trong thực hành
quyền công tố của Viện kiểm sát nhân dân đối với vụ án đánh bạc
Ở giai đoạn áp dụng pháp luật này đòi hỏi phải: lựa chọn đúng quy phạm
pháp luật được trù tính cho trường hợp đó; quy phạm pháp luật áp dụng phải là
quy phạm pháp luật đang có hiệu lực pháp luật và không mâu thuẫn với văn bản
quy phạm pháp luật khác; xác định tính chính xác của văn bản quy phạm pháp
luật chứa đựng quy phạm này; nhận thức đúng đắn nội dung, tư tưởng của quy
phạm pháp luật. Để làm sáng tỏ tư tưởng và nội dung các quy phạm pháp luật,
đưa ra áp dụng, cần phải biết giải thích pháp luật.
Bước 3. Ban hành văn bản áp dụng pháp luật



24

Ban hành văn bản áp dụng pháp luật trong hoạt động thực hành quyền
công tố của VKSND đối với án đánh bạc là việc VKSND ra các quyết định;
quyết định phê chuẩn hoặc không phê chuẩn, quyết định truy tố bị can ra trước
Toà án bằng bản cáo trạng. Đây là giai đoạn trọng tâm, quan trọng nhất của cả
quá trình kiểm sát điều tra, kiểm sát xét xử các vụ án đánh bạc. Quyết định phê
chuẩn, quyết định không phê chuẩn, Quyết định truy tố của VKS trong lĩnh vực
này được ban hành sau khi đã xem xét, đối chiếu một cách thận trọng, khách
quan với toàn bộ những tài liệu, chứng cứ đã được thu thập trong hồ sơ vụ án.
Vì quyết định của VKSND đụng chạm trực tiếp đến lợi ích của Nhà nước, đến
trật tự trị an trên địa bàn và đến quyền tự do thân thể của cơng dân… nên địi hỏi
người có thẩm quyền ra văn bản áp dụng pháp luật phải tuân thủ nghiêm ngặt
theo các trình tự, thủ tục, quy định của pháp luật tố tụng hiện hành. Đặc biệt văn
bản áp dụng pháp luật của VKSND phải có tính khả thi và hiện thực.
Do vậy, để ban hành văn bản áp dụng pháp luật trong hoạt động thực hành
quyền công tố các vụ án đánh bạc, người có thẩm quyền áp dụng pháp luật của
VKSND phải hiểu biết về mặt pháp luật, biết tổng hợp, đánh giá các tình tiết vụ
án, đồng thời phải có kỹ năng soạn thảo văn bản, đảm bảo chất lượng kỹ thuật
văn bản.
Bước 4. Tổ chức thực hiện văn bản áp dụng pháp luật
Việc tổ chức thực hiện văn bản áp dụng pháp luật là giai đoạn cuối cùng
của quá trình áp dụng pháp luật. Khác với các văn bản áp dụng pháp luật của
các cơ quan nhà nước khác, văn bản áp dụng pháp luật của VKSND trong thực
hành quyền công tố các vụ án hình sự về đánh bạc là lệnh, quyết định, quyết
định không phê chuẩn, quyết định phê chuẩn buộc cơ quan điều tra phải thi
hành và tổ chức thực hiện nghiêm minh. Giám sát việc thực hiện các văn bản áp
dụng pháp luật của VKSND đối với toàn bộ hoạt động điều tra, hoạt động xét xử
vừa là chức năng, vừa là nhiệm vụ của ngành kiểm sát đã được pháp luật quy
định chặt chẽ và đầy đủ.

Điều 240 BLTTHS năm 2015 quy định trong thời hạn 20 ngày đối với tội
phạm ít nghiêm trọng và tội phạm nghiêm trọng, 30 ngày đối với tội phạm rất


25

nghiêm trọng và đặc biệt nghiêm trọng kể từ ngày nhận được hồ sơ vụ án và bản
kết luận điều tra, VKS phải ra một trong các quyết định sau: Truy tố bị can trước
Tòa án; Trả hồ sơ để yêu cầu điều tra bổ sung; Đình chỉ hoặc tạm đình chỉ vụ án;
đình chỉ hoặc tạm đình chỉ vụ án đối với bị can…
Sau khi nhận hồ sơ vụ án và bản kết luận điều tra, Viện kiểm sát có
quyền quyết định áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp ngăn chặn, biện pháp
cưỡng chế. Thời hạn tạm giam được áp dụng theo quy định chung của BLTTHS
năm 2015. Trong trường hợp truy tố thì trong thời hạn ba ngày, kể từ ngày ra
quyết định truy tố bằng bản cáo trạng, VKS phải gửi hồ sơ và bản cáo trạng đến
Tòa án để Tòa án thụ lý giải quyết theo thẩm quyền. Trong trường hợp vụ án
không thuộc thẩm quyền truy tố của mình, VKS ra ngay quyết định chuyển vụ
án cho VKS có thẩm quyền xử lý. Như vậy: Bản cáo trạng của VKS là một văn
bản pháp lý thể hiện quan điểm, thái độ của cơ quan kiểm sát đối với người
phạm tội và toàn bộ vụ án hình sự. Do đó nội dung của bản cáo trạng phải thể
hiện rõ những vấn đề phải chứng minh trong vụ án hình sự và phải tuân thủ theo
quy định tại Điều 243 BLTTHS năm 2015.
- Thực hành quyền công tố của VKSND đối với án đánh bạc trong giai
đoạn xét xử, theo quy định của điều 18, 19 Luật Tổ chức VKSND năm 2014,
điều 266, 267 BLTTHS năm 2015, đó là: Việc cơng bố bản cáo trạng của Viện
kiểm sát là để truy tố người có hành vi phạm tội tại phiên toà và bảo vệ quan
điểm của cơ quan kiểm sát được trình bày trong bản cáo trạng, kiểm sst việc
tuân theo pháp luật của Hội đồng xét xử về các trình tự thủ tục tại phiên toà và
thành phần của Hội đồng xét xử, kiểm sát việc tuân thủ pháp luật của những
người tham gia tố tụng khác như bị cáo, người làm chứng, người liên quan,

người giám định, người phiên dịch, luật sư, người bào chữa … trình bày bản
luận tội, tranh luận tại phiên toà với luật sư, người bào chữa, bị cáo, nếu các bên
đưa ra các quan điểm trái với quyết định truy tố của Viện kiểm sát, thông qua để
làm rõ hành vi phạm tội của bị cáo, viện dẫn điều luật về hành vi phạm tội của bị
cáo, làm rõ các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ đối với bị cáo, đề xuất với Hội
đồng xét xử áp dụng pháp luật và hình phạt tương xứng với mức độ và hành vi


×