Tải bản đầy đủ (.docx) (22 trang)

TIỂU LUẬN PHẬT GIÁO hãy trình bày khái niệm niết bàn (nibanna) của ba thời kỳ phật giáo

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (208.34 KB, 22 trang )

TRƯỜNG…
KHOA …


TIỂU LUẬN
Chủ đề: HÃY TRÌNH BÀY KHÁI NIỆM NIẾT-BÀN (NIBANNA)
CỦA BA THỜI KỲ PHẬT GIÁO

Họ tên học viên:…………………….
Lớp:…………….,

– 2021


MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU
NỘI DUNG
1.

Phật giáo

2.

Ba thời kỳ Phật giáo

1
2
2
3


3.
3.1.

Khái niệm Niết-bàn (Nibanna) của ba thời kỳ Phật giáo

3.2.

Các loại Niết-bàn (Nibanna)

3.3.
3.4.

Khái niệm Niết-bàn (Nibanna) của thời kỳ Chánh pháp
Khái niệm Niết-bàn (Nibanna) của thời kỳ Tượng pháp

9
11
13

3.5.

Khái niệm Niết-bàn (Nibanna) của thời kỳ Mạt pháp

15

Định nghĩa Niết-bàn (Nibanna)

KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


8
8

18
19


MỞ ĐẦU
Có thể nói rằng Phật giáo khơng giống như những tôn giáo khác chỉ làm
thõa mãn tri thức của con người, vì rằng ngơn từ khái niệm chỉ làm cho con
người lẩn quẩn trong vòng chữ nghĩa, của tri thức thường nghiệm. Phật giáo cần
một sự thể nhập bằng tự tâm mới có thể đạt đến Niết-bàn. Vì Niết-bàn là trạng
thái vắng lặng, đoạn trừ phiền não nhiễm ô, vượt ra khỏi những giới hạn tầm
thường của ngôn ngữ.
Về quan niệm Niết-bàn, Phật giáo Đại thừa có phần tích cực và nhập thế
hơn so với Phật giáo Nguyên thủy. Về hình thức thì hai quan niệm đó có khác
nhau, nhưng về bản chất là một. Niết-bàn của các thời kỳ Phật giáo cơ bản có sự
giống nhau và thống nhất nhất định. Tuy nhiên giữa ba thời kỳ Phật giáo cịn có
những khác biệt về quan niệm Niết-bàn. Các thời kỳ sau cũng chỉ là kế thừa tinh
thần của Nguyên thủy về Niết-bàn nhưng phát triển thêm để thích nghi với thời
đại. Cho nên ta thấy có sự liên hệ mật thiết giữa ba thời kỳ Phật giáo, đó là Phật
giáo ở thời kỳ sau ra đời dựa trên nền tảng của Phật giáo Ngun thủy, nếu
khơng có Ngun thủy ắt hẳn sẽ khơng có các thời kỳ Phật giáo sau này, vì
Ngun thủy là gốc, cịn các thời kỳ sau là ngọn. Và ngược lại, các thời kỳ Phật
giáo sau này ra đời làm hiển hưng, là kết tinh của Phật giáo Nguyên thủy, khôi
phục lại chân ý của Đức Phật. Nếu khơng có Phật giáo Ngun thủy khơng biết
đi về đâu giữa vịng quay của bánh xe lịch sử nếu khơng thích nghi để tồn tại.
Cho nên nghiên cứu các thời kỳ Phật giáo nói chung và quan niệm Niếtbàn qua các thời kỳ đó có ý nghĩa rất lớn, giúp chúng ta hiểu rõ hơn ngọn nguồn
khái niệm Niết-bàn. Đó là lý do mà em chọn đề tài “Hãy trình bày khái niệm
Niết-bàn (Nibanna) của ba thời kỳ Phật giáo” làm đề tài tiểu luận.


3


NỘI DUNG
1. Phật giáo
Phật giáo (chữ Hán:  - chữ Phạn: 
 
) hay đạo Phật, đạo Bụt là
một tôn giáo đồng thời cũng là một hệ thống triết học bao gồm một loạt các giáo
lý, tư tưởng triết học cũng như tư tưởng cùng tư duy về nhân sinh quan, vũ trụ
quan, thế giới quan, giải thích hiện tượng tự nhiên, tâm linh và xã hội, bản chất
sự vật và sự việc; các phương pháp thực hành, tu tập dựa trên lời dạy của một
nhân vật lịch sử có thật là Siddartha (, 

 , Tất-đạt-đa Cồđàm) và các truyền thống, tín ngưỡng được hình thành trong q trình truyền bá,
phát triển Phật giáo sau thời của Siddhārtha Gautama.

Siddartha

Gautama thường được gọi là Bụt hay Phật hoặc người giác ngộ, người tỉnh thức.
Theo kinh điển của Phật giáo, cũng như các tài liệu khoa học khảo cổ chứng
minh rằng, Siddartha Gautama đã sống và thuyết giảng ở vùng đông bắc bán đảo
Ấn Độ xưa (nay thuộc Ấn Độ, Nepanl, Bhutan) từ khoảng thế kỷ thứ 6TCN đến
thế kỷ thứ 4TCN.
Sau khi Siddhārtha Gautama nhập vào nibbāna (niết-bàn) thì Phật giáo bắt
đầu phân hóa ra thành nhiều nhánh và nhiều hệ tư tưởng khác nhau, với nhiều sự
khác biệt, mặc dù cùng có xuất phát từ tư tưởng của Phật giáo nguyên thủy:
Phật giáo Nguyên thủy, còn gọi là Phật giáo Nam Tông, Phật giáo Thượng
tọa, Phật giáo Tiểu thừa. Đây là nhánh Phật giáo có hệ thống kinh điển được coi

là gần nhất với triết lý nguyên thủy của Phật giáo.
Phật giáo Phát triển, còn gọi là Phật giáo Bắc tông, Phật giáo Đại chúng,

Phật giáo Đại thừa.
Phật giáo Chân ngơn, cịn gọi là Phật giáo Tây Tạng, Phật giáo Mật tông,

Phật giáo Kim cương thừa.

4


Các trường phái Phật giáo khác nhau ở quan điểm về bản chất của con
đường đưa đến giác ngộ để được giải thốt, tính chính thống của các bài thuyết
giảng và kinh điển, đặc biệt là ở phương thức tu tập. Vì hướng đến việc nhận
thức đúng đắn bản ngã và thế giới khách quan nên hệ thống triết lý Phật giáo
chứa đựng nhiều quan điểm bản thể luận, nhận thức luận. Siêu hình học trong
triết học Phật giáo đã phát triển đến một trình độ cao. Phương Tây dịch giác ngộ
thành khai sáng (enlightenment) vì trong triết học phương Tây khai sáng là tự sử
dụng trí tuệ của mình để nhận thức đúng đắn thế giới cũng giống như giác ngộ
trong Phật giáo. Cũng như Nho giáo, Lão giáo và triết học phương Tây hiện đại,
Phật giáo là một hệ thống triết học mang tính khai sáng nhằm hướng con người
đến Chân - Thiện - Mỹ.
2. Ba thời kỳ Phật giáo
Theo cổ đức nhận định, y vào lời dạy của Đấng Tồn Giác, thì dịng
pháp giải thốt phải trải qua ba thời kỳ: Chánh Pháp, Tượng Pháp và Mạt
pháp; điều đó lại càng đúng hơn vì hết thảy các pháp đều sinh diệt vô
thường. Tuy nhiên sự sinh diệt như vậy là cái nhìn của hiện tượng, mang nhãn
quan tục đế, phù hợp với nhận thức thế nhân. Riêng bản thể các pháp vốn
không xoay vần, không lập định theo chiều hướng sinh diệt qua hiện
tượng thế gian; do vì các pháp chỉ thực tại hiện hữu, thực tại sinh diệt,

khi con người bị lệ thuộc sinh diệt luân hồi theo, chứ chúng vẫn như thị, có
nghĩa vẫn tùy theo nhận thức mà con người gán cho. Thật nghĩa đó cho
nên Đức Phật dạy, vốn các pháp khơng sanh cũng không diệt, không đến cũng
không đi... Ngài phủ nhận tất cả, phủ nhận để xác nhận tâm của chúng
sanh vô thường, bất định, đến khi hiểu được điều này, chúng sanh mới vượt
lên, trở thành giác ngộ, giải thoát; từ đó mới thấy hết thảy các pháp thật
sự khơng sinh cũng khơng diệt.
Vậy thì người Phật tử chúng ta sẽ nhận thức thế nào về sự trôi chảy của
ba thời kỳ Phật pháp, khi sự xuất hiện của một vị Phật ra đời thường phải trải
5


qua. Mong rằng niềm suy tư của người học Phật ngày nay sẽ thấy được, tìm
được chân lý giải thốt, vẫn cịn đang tươi nhuận ít ra trong tâm thức; và hy
vọng hiện lên thành hành động qua cuộc sống thăng trầm khổ lụy này.
Để nhận xét quan sát cụ thể, sau đây chúng ta thử tìm hiểu phần yếu nghĩa
sự kiện trong ba thời kỳ Phật pháp, từ khi Đấng Tồn Giác xuất hiện cho
đến hơm nay, đã hơn hai ngàn năm trăm năm.
* Thời kỳ Chánh pháp
Là thời kỳ tươi đẹp huy hoàng nhất, lúc ấy Đấng Toàn Giác không chỉ
dạy đệ tử bằng lời qua giảng thuyết, mà tất cả hành động sinh hoạt của Ngài còn
làm tăng thêm tính cụ thể của chân lý. Chẳng hạn Ngài dạy từ bi, tức thì đệ
tử tìm thấy ngay đời sống từ bi vô hạn của Ngài. Ngài dạy trí huệ, thì trí huệ đó
sẽ cho đệ tử thấy, hết thảy việc làm của Ngài thể hiện tính siêu việt giải thốt,
ln giúp mọi người đạt được tánh hiểu biết sáng suốt như Ngài. Từ Bi và Trí
Huệ của Ngài hóa giải hết mọi đối tượng chúng sanh; do đó người có thích hay
khơng thích, đều học được trí huệ siêu việt đó. Chính trí huệ như vậy, mà kẻ hại
Ngài, chỉ trích Ngài vẫn tạo được duyên giải thoát trong tương lai. Việc này các
bậc Đại sư trong thời Tượng Pháp khó thể làm được nói gì thời Mạt Pháp. Tất cả
là do năng lực Từ Bi vô hạn của Ngài, do kim thân dung tướng của bậc thanh

tịnh trang nghiêm, có năng lực thấm vào tâm thức nhãn quan người đối diện.
Chánh pháp là thời gian, không gian nơi Đấng Toàn Giác hiện hữu, tới khi
Ngài thị tịch trải đến gần 500 năm sau. Thời gian khi Ngài thị tịch trong
vòng năm trăm năm, âm hưởng, dư âm giải thốt của bậc siêu nhân vẫn cịn. Vì
các đệ tử nối tiếp gìn giữ lời dạy và sinh hoạt khuôn mẫu như Ngài. Chư
vị Thánh Tăng A La Hán trong thời này vẫn cịn nhiều; do đó người ta có
thể học đạo rất mau, và chứng đạt an lạc dễ dàng. Khi học đạo, nghe pháp Phật
tử lập tức nhận ra hình bóng Đấng Tồn Giác thế nào, việc làm của Ngài ra
sao; quán tưởng được như vậy là do vị Pháp sư thời ấy đa số đều chứng đạo,
đã chứng đạo thì lời dạy của các Ngài khơng khác gì Thế Tơn. Các Ngài dạy từ
bi, các Ngài dạy vô thường... đều được thể hiện cụ thể qua cuộc sống của một
6


vị Thánh Tăng A La Hán, chứ không phải lời giảng của vị pháp sư chỉ học mà
chưa hành, và hành mà chưa chứng quả.
Lại nói thêm sự nhận thức hồn cảnh mơi trường của người học Phật,
người ta lại càng có đủ nhân duyên hơn.
Nhân duyên trước tiên nhận thức được đời là khổ. Khổ đó là khổ tinh
thần chứ khơng phải khổ vật chất, vì nếu khổ chỉ do vật chất, tất sẽ khơng có
Đấng Tồn Giác; bởi trước khi Thế Tơn xuất gia Ngài hồn tồn khơng có
khổ vật chất. Nếu có chỉ là những khổ bình thường đến từ thân ngũ uẩn;
nhưng truyền thuyết cho rằng, Ngài khoẻ mạnh lực lưỡng cho tới ngày rời
thành xuất gia. Thế thì người học đạo càng dễ nhận thức rằng, có một cái khổ
mà kể cả người khỏe mạnh, thông minh xuất chúng như Thái Tử Tất Đạt Đa còn
phải cảm nhận.
Khi nhận thức được khổ, gọi là khổ về tinh thần tâm linh, thì người học
Phật lại thấy sự từ bỏ hồng cung của vị Thái tử thơng minh kia, quả là điều
đáng học; và khi nhìn ngược lại mình, người ta lại thấy đa số con người đều khổ
cả


hai, vật

chất lẫn tinh

thần. Cuối

cùng sự thành

đạo của Thái

Tử trở

thành bậc Tồn Giác, là một sự thật, một hình ảnh chân lý, chứ không phải
một truyền thuyết, một lời đồn đại nào đó của ai. Hơn thế nữa những người theo
Ngài học đạo, đã chứng minh thể nghiệm được sự giác ngộ để trở thành chư
vị Thánh Tăng siêu xuất, mà không một tôn giáo nào thời bấy giờ có thể vượt
qua các Ngài nói gì đến Thế Tơn.
Niềm tơn kính, hân hoan sung sướng đó, khiến vơ số người trong thời Thế
Tôn cho đến thời gian Ngài vắng bóng suốt gần năm trăm năm, vẫn cịn hưng
khởi. Hễ ai thật lòng học đạo, ước nguyện thành đạt sẽ dễ dàng. Kể cả người
chưa thực hành học hiểu giáo lý giải thốt, cũng có nhân dun cúng
dường khi Tăng

đồn Thánh

chúng vào

làng khất


thực. Công

đức cúng

dường chư vị Thánh Tăng, khiến khi mạng chung dễ được tái sanh trong thời
chánh pháp, hoặc xuất gia hoặc làm đại cư sĩ hộ trì Tam Bảo.

7


Thời Chánh Pháp xảy ra như vậy nên dễ tu dễ hành, do đó Nhơn Vương
Kinh Sớ nói: “Có giáo lý, có hành trì, có quả chứng gọi là chánh pháp’’ ý
nghĩa là vậy [1, tr.267].
* Thời kỳ Tượng pháp
Là thời kỳ tính từ 500 năm sau khi Thế Tơn thị tịch, cho đến 1000 năm
sau nữa. Con số tính như vậy đó là ước tính theo khoảng thời gian gấp đôi thời
chánh pháp hoặc xa hơn, đây không nhất định chính xác. Hay có thể giải
thích thêm, nghĩa Tượng Pháp là mường tượng, tưởng tượng lại thời chánh
pháp, chứ khơng giống y ngày xưa thời Thế Tơn cịn hiện hữu, hay thời gian Thế
Tơn vừa viên tịch trong vịng 500 năm.
Xét cho cùng, chúng ta chỉ hiểu thời gian nầy đã xa Chánh Pháp cả mấy
trăm năm rồi. Thời này Thánh Tăng ít đi thấy rõ, người ta khơng còn dễ dàng
thấy Thánh Tăng như thời Chánh Pháp. Dù vậy nếu muốn vẫn tìm được các
Ngài, bởi đa số chư vị đều thích ẩn cư nơi rừng sâu hẻo lánh. Tuy
nhiên việc cúng dường khất thực cho cả Tăng đồn, có thể cịn có Thánh
Tăng lẫn lộn trong đó.
Việc học đạo giải thốt lúc này khó khăn hơn, vì không phải như thời
Chánh Pháp, pháp sư thuyết pháp hầu hết đều chứng quả Thánh; chứ khơng
phải Tượng Pháp địi hỏi phải có nhân dun, có phước báo cơng đức; đạo
tràng phải thanh tịnh, thính chúng phải thành tâm mới duyên cảm được. Thế

là Thời kỳ Tượng pháp, thính chúng nghe pháp hầu như chỉ gieo duyên, tích
lũy phước đức mong hẹn đời sau.
Rồi không chỉ người cư sĩ gặp khó khăn học đạo, mà ngay trong hàng đệ
tử xuất gia của Thế Tơn, đã có phân chia thành tơng phái. Sự phân chia cũng xảy
ra trong thời Chánh pháp, nhưng chưa nghiêm trọng, vì chư Thánh chúng hãy
cịn nhiều. Đến thời Tượng pháp, Thánh chúng thưa dần, sự phân chia trở nên rõ
rệt; do đó trở thành khó khăn trong việc tìm cầu Thánh Tăng học đạo giải thốt.
Một số chư Thánh Tăng vì muốn giữ lại truyền thống khất thực độ sanh, nên
hay thực hiện hạnh đầu đà, tìm sống ẩn cư rừng núi, chỉ khi khất thực mới tiếp
xúc quần chúng. Chính việc bảo trì hạnh sống tịnh tu yên lặng đó, nên Thánh
8


Tăng khó tìm, mà người muốn học đạo cịn phải địi hỏi có đủ thể lực tinh
thần mới theo học được.
Riêng hàng Thánh Tăng có tinh thần phóng khống muốn đem đạo giải
thốt vào đời, đích thực bằng giáo lý giải thoát thực tế. Đã phương tiện triển
khai giáo lý qua cách sống hài hòa, biết hy sinh, biết thực hiện tinh thần vị tha,
vì người quên mình, bởi mình với người cũng chỉ đang trên đường học Phật, hơn
nữa mình đây chỉ là giả danh, vơ ngã... và đúng hơn hết là tinh thần nhập thế cứu
độ chúng sanh như Thế Tôn từng dạy ‘Tất cả chúng sanh đều có Phật tánh’’.
Do tinh thần phóng khống độ tha như vậy, người ta mới nghe, mới gọi là tinh
thần Bồ Tát Đạo. Tuy nhiên đã đem đạo vào đời, hòa mình tiếp cận thế tục nhiều
hơn, chư vị đệ tử xuất gia trong thời Tượng Pháp đòi hỏi phải là Thánh
Tăng. Nếu khơng phải Thánh Tăng đắc Tứ Quả, thì cũng phải là Sơ Quả - Tu Đà
Hồn, nếu khơng sẽ bị dao động, phiền trược của thế gian xâm nhập vào tâm,
làm lệch đi chí hướng tinh thần Bồ Tát Đạo. Như vậy người học đạo trong thời
kỳ này, dù chọn nơi lâm sơn hẻo lánh, hay gần phố thị đơng người, đều phải khó
khăn học đạo. Bởi phải tự biết thắng mình để gìn giữ truyền thống Như Lai,
hoặc tự biết được mình trong khi va chạm vào đời sống thế gian đúng theo tinh

thần vô nhiễm của Bồ Tát.
Chính khó khăn đó Nhơn Vương Kinh Sớ lại nói : ‘Có giáo lý, có hành
trì khơng quả chứng, gọi là tượng pháp’’. Có giáo lý, như chúng ta hiểu dù bấy
giờ chư vị Thánh Tăng đã ít dần đi, nhưng sự trì tụng lập lại lời Phật
dạy qua ngơn từ hãy cịn đầy đủ tính giải thốt, cho nên vẫn gọi là có giáo lý.
Có hành trì khơng quả chứng là hành trì một cách khơng dứt khốt, bởi
vì hồn cảnh bắt buộc phải có tâm lực, thể lực mạnh, mới thắng được hai mơi
trường hồn cảnh như đã bàn qua. Và như thế số người đủ tâm lực thể lực thực
hành theo giáo lý giải thoát quả thật là ít, ít đến nổi ví là khơng.
* Thời kỳ Mạt pháp
9


Là thời kỳ từ Tượng Pháp tính đến 1000 năm sau và hơn nữa, đây là
thuyết của kinh Đại Bi. Lần nữa chúng ta cũng không quan tâm lắm đến con
số chính xác thế nào, chỉ biết là sau thời kỳ Tượng Pháp đã hơn ngàn năm, nay
lại tính hơn cả mấy ngàn năm nữa, việc này mới quan trọng. Và quan trọng nhất
khi biết rằng đời nay chúng ta đang sống chính là thời kỳ Mạt Pháp. Ta đang
sống cách thời Phật hơn 2500 năm vượt qua Tượng Pháp cả 1000 năm. Thời
kỳ như vậy cũng Nhơn Vương Kinh Sớ nói: Có giáo lý, khơng hành trì, khơng
quả chứng gọi là Mạt Pháp.
Đến đây đã hiểu khi xem lại phần Chánh Pháp và Tượng Pháp; và
phải nhận định thế nào trong thời kỳ gọi là Mạt Pháp; phải nhận thức học
hiểu Phật pháp ra sao, so với hai thời kỳ Chánh và Tượng Pháp ở trên.
Nói thêm về hồn cảnh môi trường ngày nay, càng tăng thêm trở ngại cho
người học Phật, điều này ai cũng thấy. Trên mặt hiện tượng thế gian học Phật, ta
thấy thật nhiều chùa chiền đồ sộ nguy nga, ta thấy phương tiện truyền thơng điện
tốn giới thiệu Phật học, chinh phục được khơng gian, thời gian khoảng cách.
Nhưng về an lạc nội tâm áp dụng được Phật pháp trong đời sống thuần
thành qua ý thức sinh tử luân hồi nhân quả, ta còn quá xem thường, quá dễ duôi,

để rồi chứng kiến bao nhiêu người ra đi mà ta chưa hề tỉnh ngộ. Ta chưa tỉnh
ngộ có khác gì câu trả lời ta chưa học hiểu gì giáo lý căn bản của Như Lai!. Và
dù ta có hiểu Phật pháp căn bản đi nữa, ta cịn phải vơ cùng khó khăn khi bắt
buộc vượt qua bao cam go thử thách của vật chất, tiền tài danh vọng đang vây
bủa chung quanh.
Ta hay cho mọi thứ là phương tiện, nhưng phương tiện học Phật chỉ đem
đến người an lạc, giải thoát khổ đau, nhưng ta vẫn cịn q đau khổ thì làm sao
gọi là phương tiện! Nếu ta dùng phương tiện để tạo duyên cho người học Phật,
thì ta cũng phải biết phương tiện đó cũng là cho ta, khơng thơi ta sẽ là người
đếm tiền trong ngân hàng, mà chính bản thân mình không lợi chi cả.
10


Thời kỳ Mạt Pháp hồn cảnh khơng sao kể hết được, cho nên Nhơn
Vương Kinh Sơ đã nói rằng: Có giáo lý, khơng hành trì, khơng quả chứng, gọi
là Mạt Pháp.
3. Khái niệm Niết-bàn (Nibanna) của ba thời kỳ Phật giáo
3.1. Định nghĩa Niết-bàn (Nibanna)
Niết-bàn (nibbāna,) là từ được dịch âm từ gốc tiếng Phạn nirvāṇa hoặc
tiếng Pali nibbāna. Nirvāti với nghĩa “thổi tắt”, “dập tắt” (một ngọn lửa) và như
thế thì nirvāṇa mang nghĩa đã bị dập tắt, thổi tắt. Qua đó mà thuật
ngữ nirvāṇa cũng được dịch nghĩa là Diệt, Diệt tận, Diệt độ, Tịch diệt, Bất sinh,
và vì sự tịch diệt được hiểu là mục đích tối cao trong đạo Phật nên nirvāṇa cũng
được dịch ý là Giải thốt, Vơ vi, An lạc.
Kinh Tạp A Hàm viết : “Niết-bàn là gì, hỡi đạo hữu ? Sự tận diệt tham,
tận diệt sân, tận diệt si. Đó, này đạo hữu, gọi là Niết-bàn” [2, tr.190].
Niết-bàn là mục đích tu hành cứu cánh của mọi trường phái Phật giáo. Trong
đạo Phật Nguyên thủy, Niết-bàn được xem là đoạn Diệt Luân hồi . Đó là sự tận diệt
gốc rễ của ba nghiệp bất thiện là tham, sân và si. Đồng thời Niết-bàn có nghĩa là
khơng cịn chịu sự tác động của nghiệp khơng cịn chịu quy luật nhân dun (dun

khởi), Vơ vi đặc tính của nó là thiếu vắng sự sinh, thành, hoại, diệt.
3.2. Các loại Niết-bàn (Nibanna)
Có hai loại Niết-bàn thường được biết đến, đó là Hữu dư Niết-bàn và Vơ
dư Niết-bàn. Hai lọai Niết-bàn này của Phật giáo có phần tương tự với hai loại
giải thoát của Vedanta là hữu thân giải thốt và vơ thân giải thốt.
* Hữu dư y Niết-bàn (Sopadisesa Nibbana)

11


Là cảnh giới thốt khỏi vịng ln hồi nhưng nhục thể vẫn cịn hiện hữu,
đó là trạng thái diệt hết mọi phiền não, cắt đứt mười kiết sử; tham, sân, si được
đoạn trừ nhưng còn thân của nghiệp báo dư thừa. Hành giả ngay nơi thân này
mà đạt đến Hữu dư Niết-bàn.
Trong kinh Itivuttaka, Đức Phật dạy: “Này các Tỷ kheo, thế nào là Niếtbàn giới có dư y ? Ở đây này các Tỷ kheo, Tỷ kheo là Bậc Alahán, các lậu hoặc
đã tận, phạm hạnh đã thành, đã giải thốt nhờ chánh trí. Trong vị ấy năm căn
cịn tồn tại, ngang qua năm căn ấy, vị ấy hưởng thọ khả ý, khơng khả ý, vì rằng
tự ngã khơng có thương hại cảm giác lạc khổ. Với vị ấy, tham diệt, sân diệt, si
diệt. Này các Tỷ kheo, đây gọi là Niết-bàn có dư y”.
Như vậy Hữu dư y Niết-bàn là trạng thái hành giả đã thực chứng vạn
pháp, diệt mọi phiền não nhiễm ơ nhưng vẫn cịn thân ngũ uẫn, vì cịn thân ngũ
uẫn nên vẫn cịn những giới hạn của thân thể. Ví như Đức Phật, ngài đã đạt đến
Niết-bàn tịch tĩnh nhưng khi ăn phải nấm độc của Cunda cúng dường vẫn bị kiết
lỵ như những người bình thường khác. Từ quan điểm Hữu dư Niết-bàn này của
Nguyên thủy mà phát sinh khái niệm Niết-bàn vô trụ (sa. apratiṣṭhita-nirvāṇa)
của Đại thừa về sau.
* Vô dư y Niết-bàn (Anupadisesa Nibbana)
Vơ dư Niết-bàn (nirupadhiśeṣa-nirvāṇa): là Niết-bàn khơng cịn ngũ uẩn
(pañca-skandha), mười hai xứ (āyatana), mười tám giới (dhātu) và các Căn
(indriya). Loại Niết-bàn này cũng được gọi là Bát-niết-bàn ( parinirvāṇa), là

Niết-bàn toàn phần.
“Này các Tỷ kheo, thế nào gọi là Niết-bàn giới khơng có dư y ? Ở đây,
này các Tỷ kheo, Tỷ kheo là bậc A la hán, các lậu hoặc đã tận, phạm hạnh đã
thành, việc nên làm đã làm, đã đặt gánh nặng xuống, đã đạt được mục đích, hữu
kiết sử đã diệt, đã giải thoát nhờ chánh tri. Ở đây đối với vị ấy, mọi cảm thọ
12


đều khơng có hoan hỉ ưa thích, sẽ được lắng dịu. Này các Tỷ kheo, Đây gọi là
Niết-bàn khơng có dư y” [3, tr.90].
Đây là trạng thái tâm thức đã gột sạch hết mọi vơ minh phiền não, sự giải
thốt khỏi các kiết sử tùy miên, sự đọan diệt hoàn toàn mọi tham ái, sự dập tắt
tham sân si. Trạng thái an tịnh tuyệt đối khơng cịn bị bốn tướng sanh lão bệnh
tử chi phối nữa. Quả Hữu dư và Vơ dư cịn được giải thích, từ sơ quả đến tam
quả Bất hoàn được gọi là Hữu dư, quả A la hán thứ tư được gọi là Vô dư. Trong
các kinh điển Nguyên thủy, rất nhiều đoạn Kinh Đức Phật hay dùng phương
pháp phủ định để hiển thị Niết-bàn, như đoạn sau:
Kinh Bản sinh giải thích: “Thế nào là Vơ dư Niết-bàn? Đó là trạng thái
đã chứng được La Hán, hết sạch các phiền não, phạm hạnh đã được thành lập,
việc cần làm đã làm đủ, đã vứt bỏ mọi gánh nặng, đã chứng tự nghĩa, đã khéo
giải thoát, đã được biết khắp. Tất cả các điều cảm thụ bây giờ đều khơng cịn do
nhân dẫn đến, khơng cịn mong cầu, hy vọng cũng hết, rốt ráo tịch lặng, vĩnh
viễn trong mát, ẩn lặng không hiện, chỉ y vào cái thanh tĩnh khơng lý luận,
khơng thể bảo rằng có, cũng chẳng thể nói rằng khơng mà cũng khơng cho rằng
chẳng có chẳng khơng [4, tr.380].
“Đồng nghĩa với Niết-bàn giới, này các Tỷ kheo, là nhiếp phục tham,
nhiếp phục sân, nhiếp phục si. Cũng được gọi là đoạn tận các lậu hoặc”.
Niết-bàn là nguyên lý siêu thế, vượt ra ngoài phạm trù của ngơn ngữ, suy
tính, trắc nghiệm, đo lường. Do đó Đức Phật đã dùng hình thức phủ định để nói
đến Niết-bàn, nhằm đánh đổ mọi ý niệm kẹt chấp, dính mắc vào những gì có thể

của chúng sanh. Và không thể dùng ngôn từ khẳng định để diễn tả Niết-bàn, vì
trong lời nói khẳng định đó hàm chứa một ngã tướng “làm sao có thể đi vào
Niết-bàn bằng ngơn ngữ của cây khơ”. Có thể nói rằng ngơn từ, khái niệm trở
nên bất lực trước cái gọi là Niết-bàn.
3.3. Khái niệm Niết-bàn (Nibanna) của thời kỳ Chánh pháp
13


Niết-bàn ở đây được diễn tả như sự đoạn diệt vô minh, sự an tịnh của tâm
thức chứ không phải là cảnh giới tiêu diệt, tán hoại hay dập tắt. Nói Hữu dư hay
Vơ dư cũng là do thân thể cịn hay khơng mà phân biệt vậy thơi chứ bản chất
vốn không sai khác.
Trong Kinh Tập (Suttanipattà), Tiểu Bộ Kinh, chương “Con đường đến bờ
bên kia”, thanh niên Upasìva đã hỏi Thế Tôn về phép để qua bờ bên kia, Thế
Tôn dạy:
“Ngày đêm ông nhận thấy
Đoạn dục ly nghi ngờ
Ái diệt là Niết-bàn”.
Theo N.Dutt, khái niệm Niết-bàn (Nibanna) của thời kỳ Chánh pháp có
thể trình bày qua ba phương diện:
- Luân lý: “Niết-bàn độc nhất chỉ là một trạng thái luân lý, chứng được
trong đời sống này bởi phương pháp ln lý, thiền định và trí tuệ”. Như vậy,
Niết-bàn khơng phải siêu thế gian. Niết-bàn được diễn tả như sự đoạn trừ tham,
sân, si… phiền não, già chết. Về phương diện tích cực, Niết-bàn được tả như
một trạng thái cực lạc, bất tử, an tịnh và vô úy.
- Tâm lý: nói về thiền định hay tu tập thiền định với mục đích hướng dẫn
tâm tư vào một trạng thái khơng cịn dục lạc thế gian và đau khổ. Mục đích này
đạt được nhờ giải thốt tâm trí ra ngồi mọi vấn đề thế tục.
- Siêu hình: “Này các tỳ kheo, có cái bất sinh, bất tạo tác, vơ vi”; nghĩa là
thời kỳ Chánh pháp không xem Niết-bàn như đoạn diệt, mà là một cách gì tích

cực, nhưng vơ biên khơng thể diễn tả như hư không. Niết-bàn vượt ra khỏi ba
giới và được gọi là siêu thế giới. Trạng thái này cần sự tự chứng ngộ.
14


Có ý kiến cho rằng Niết-bàn rốt ráo chỉ là cái tên gọi khác của Hư vơ mà
thơi vì họ cho rằng đó là cái đương thể của vơ minh, tức là ý sống đã bị tiêu diệt
hết ví như ngọn đèn khi dầu hết thì lửa tự tắt. Vì Niết-bàn được diễn tả bằng
những từ ngữ phủ định, nên nhiều người hiểu lầm đó là trạng thái tự hủy diệt.
Nếu hủy diệt, chỉ là sự hủy diệt dục vọng và mọi ý tưởng sai lầm về Ngã. Niếtbàn không thuộc về có, vì khơng có tướng mạo. Niết-bàn khơng thuộc về khơng,
vì hằng tri hằng giác. Đây là trạng thái thoát ly năm thủ uẩn, là cảnh giới “Phi
nhị biên, ly tứ cú, tuyệt bách phi”. Trạng thái tâm vắng lặng mà rỏ biết là đương
thể của Niết-bàn. Cái đương thể này đầy đủ bốn đặc tính Thường, Lạc, Ngã,
Tịnh thì làm sao là hư vơ đoạn diệt được? Nếu chúng ta hiểu Niết-bàn là cảnh hư
vô tuyệt diệt là đã rơi vào kiến chấp đoạn diệt, bèn thành tà kiến, và dĩ nhiên là
tự mình đã phản bội lại với đức Phật rồi.
Cho nên hãy nghe Đức Phật nói về vấn đề này : “Này Vaccha! Dựa theo
sắc mà lường tính Như Lai thì Như Lai đã bỏ sắc ấy cũng như cây Đa-la đã
tuyệt gốc khơng cịn sinh phận thì tương lai là pháp bất sinh. Bạt- ta! Như Lai
giải thốt sắc ấy rồi thì cũng như biển lớn sâu xa khơng thể lường tính được,
nếu bảo là tái sinh mà khơng tái sinh thì khơng đúng, mà bảo là không tái sinh
nhưng cũng không phải không tái sinh thì cũng lại sai” [5, tr.134].
Niết-bàn là cảnh giới giải thốt, ly khai ngơn ngữ, nên khơng phải là vấn đề
để khảo sát, không thể hiểu được bằng tri thức. Đó là trạng thái chuyển biến của
tâm thức, một người không trải qua không thể biết được, như người uống nước tự
biết lạnh nóng. Cho nên đó là cảnh giới siêu việt có - khơng, một sự tồn tại không
thể diễn tả, không thể nghĩ bàn được. Ở đây Đức Phật định nghĩa: “Đây là Thánh
Đế về khổ diệt, này các tỳ kheo, chính là ly tham, đoạn diệt, khơng có dư tàn khát
ái ấy, sự quăng bỏ, từ bỏ, giải thốt khơng chấp trước”.
Như vậy, khái niệm Niết-bàn thời kỳ Chánh pháp là khổ diệt tức Niết-bàn,

muốn chuyển hóa khổ đau, phải loại trừ hồn tồn ngun nhân của khổ. Đối
với người chưa giác ngộ thì mọi suy diễn đều khơng thể biểu đạt, do đó những
15


ngơn từ chỉ là giả nói, khơng thể chỉ ra sự thật chỉ có những ai thực hành, thực
chứng mới thể nhập được.
3.4. Khái niệm Niết-bàn (Nibanna) của thời kỳ Tượng pháp
Thời kỳ Tượng pháp tương ứng với sự chia rẽ của Phật giáo. Sau thời Phật
giáo nguyên thuỷ (tính từ khi Phật tại thế tới 100 năm sau khi ông mất), Phật
giáo dần dần chia thành hai nhánh: Phật giáo Tiểu thừa và Phật giáo Đại thừa. Hai
nhánh này có quan niệm khơng giống nhau về Niết-bàn. Xuất phát từ lập
trường thực tại luận, Tiểu thừa cho rằng, thế giới này tồn tại thực sự, con
người cũng tồn tại thực sự nên những khổ đau của con người cũng là có thật chứ
khơng phải chỉ là những gì thuộc về cảm giác. Từ đó, họ đi tới kết luận, chỉ có
thể giải thốt khỏi khổ đau bằng con đường lánh đời, thoát tục, xuất gia tu hành,
lấy “diệt tận là cứu cánh” với phương châm diệt (diệt mọi phiền não), tận (chấm
dứt mọi nghiệp sinh tử), ly (giải thoát khỏi nỗi khổ trong ba cõi), diệu (đạt tới Vô
dư Niết-bàn). Niết-bàn mà Tiểu thừa hướng tới là Niết-bàn xuất thế, lánh đời, đạt
được bằng lối tu kham nhẫn. Với Tiểu thừa, vì vơ ngã là Niết-bàn nên muốn đến
được Niết-bàn, con người phải từ bỏ những thú vui trần thế, những u thương và
khao khát “trở thành”. Khơng cịn những sôi động, buồn vui nơi nhân thế, Niếtbàn chỉ là sự tịch diệt, cô đơn, vắng lặng, cô đơn, buồn tẻ và vô cảm. Lý
tưởng Niết-bàn Vô dư tịch tĩnh đã khiến Phật giáo mất dần sức hấp dẫn, khó thực
hiện với mọi người, chỉ dành cho thiểu số người có cơ duyên đặc biệt.
Sự ra đời của Phật giáo Đại thừa thực chất là một phong trào chấn
hưng Phật giáo, xuất phát từ nhu cầu khắc phục những hạn chế trong Tiểu thừa,
mong tìm lại chỗ đứng trong xã hội. Độc đáo nhất trong thời kỳ Tượng pháp
là quan niệm về Niết-bàn. Khái niệm Niết-bàn trong thời kỳ Tượng pháp được
đẩy lên một nấc thang mới. Nếu thời kỳ Chánh pháp đề cao Vơ dư Niếtbàn thì thời kỳ Tượng pháp nghiêng về phía Hữu dư Niết-bàn với một cái nhìn
mới mẻ, độc đáo hơn. Đối với Đại thừa, Niết-bàn và ln hồi khơng có gì sai

khác. Theo họ, vì bị bóng tối của đám mây vơ minh bao phủ nên con người mới
16


nhầm lẫn hiện tượng ảo giả với bản chất đích thực của thế giới. Do đó, giải
thốt khơng cần sự chối bỏ cuộc sống mà chỉ cần “xuất tự thế gian tướng” để đạt
tới trạng thái khơng cịn phân biệt bờ bên này - sinh tử và bờ bên kia - giải thốt,
khơng cịn phân biệt chúng sinh và Phật, mê và ngộ. Sinh tử tức Niết-bàn, phiền
não tức Bồ đề. Niết-bàn và luân hồi chỉ là một nhưng nhìn trong vơ minh thì
là ln hồi, nhìn khi giác ngộ là Niết-bàn, giống như nhìn sợi dây thừng trong
bóng tối là con rắn nhưng nhìn trong ánh đèn thì chỉ là sợi dây thừng, khơng
cịn đáng sợ nữa. Vì vậy, phải chấp nhận sống trong luân hồi thì mới chi
phối được nghiệp báo luân hồi. Trong thời kỳ Tượng pháp, phái Duy thức bổ
sung thêm hai loại Niết-bàn nữa, là Tự tính thanh tịnh Niết-bàn và Bất trụ Niếtbàn.
Thời kỳ Tượng pháp, người ta có một quan điểm mở rộng Niết-bàn dựa
trên khái niệm Bồ Tát (bodhisatta) và trên tính nhất thể của vạn vật. Ở đây,
người ta phân biệt hai loại Niết-bàn: Vô trụ xứ niết-bàn (apratiṣṭhitanirvāṇa)
và Trụ xứ niết-bàn ( pratiṣṭhita-nirvāṇa) với ý nghĩa cố định, bất động).
Thời kỳ Tượng pháp là thời kỳ lý tưởng giải thoát được mở rộng cho nên
hai loại Niết-bàn của thời kỳ Chánh pháp khơng đáp ứng được thệ nguyện độ
sanh. Vì rằng Niết-bàn của thời kỳ Chánh pháp bị giới hạn trong phạm vi cá
nhân mà thời kỳ Tượng pháp thì lại hướng đến tinh thần Bồ tát đạo, đó là làm lợi
lạc cho tha nhân. Chính vì thế từ thời kỳ Chánh pháp sang thời kỳ Tượng pháp
thì quan điểm về Niết-bàn có chiều hướng thay đổi, nhưng cốt yếu vẫn dựa trên
nền tảng thời kỳ Chánh pháp, đó là Bất trụ Niết-bàn. “Bất trụ Niết-bàn là tuy
lấy làm lý tưởng tối hậu, nhưng khơng trụ ở bình đẳng giới mà trái lại trụ ở sai
biệt giới để cùng với hết thảy chúng sanh tiến tới, dần dần đả phá sự tồn tại hạ
đẳng mà tiến tới sự tồn tại ở địa vị cao đẳng và chính đối với quá trình đó mà
mệnh danh Bất trụ Niết-bàn” [6, tr.176].
Bất trụ Niết-bàn là sự dung hòa giữa hai tư tưởng giải thốt và ln hồi,

tuy ở trong ln hồi nhưng khơng còn bị chi phối bởi nghiệp lực mà lại tự tại nơi
17


tất cả các pháp và tích cực độ sanh. Thời kỳ Tượng pháp cũng lấy giải thoát làm
lý tưởng, là mục tiêu tối hậu nhưng khác khác với trạng thái tịch tĩnh của Vô dư
Niết-bàn.
Trạng thái tâm vắng lặng mà thường biết là đương thể của Niết-bàn. Thế
nên, Niến bàn chính là bản tâm thanh tịnh xưa nay. Niết-bàn hay sinh tử rốt cùng
cũng chỉ là cái tâm của chúng ta, vì sinh tử (mê) và Niết-bàn (giác) chỉ là biểu
tượng hai mặt của tâm.
Trong Kinh Pháp Hoa, tướng Niết-bàn được diễn tả là Không (sùnyatà):
“Đức Như Lai biết pháp một tướng một vị ấy, nghĩa là : Tướng giải thốt, tướng
xa lìa, tướng diệt, tướng rốt ráo Niết-bàn thường tịch diệt, trọn về nơi Khơng”.
Có khi người ta hiểu Niết-bàn là một cảnh giới, nhưng là một cảnh giới vi
diệu mà ở đó tất cả chân lý tuyệt đối vượt ngoài nhị nguyên và tương đối.
Như vậy Niết-bàn của thời kỳ Tượng pháp vốn khơng hình tướng, khơng
sanh khơng diệt, không thể cảm nhận bằng tri thức thường nghiệm, vượt lên trên
mọi ý niệm về luân hồi và giải thoát, ý niệm về một cảnh giới cần phải đạt đến
và trên hết đó là tích cực đi vào cuộc đời cứu độ chúng sanh.
Có thể thấy rằng, khái niệm Niết-bàn trong Phật giáo là một cuộc cách
mạng trong lịch sử tư tưởng Ấn Độ, đem lại một diện mạo mới với sức sống mới
cho Phật giáo. Từ con người cá nhân cơ đơn trong lộ trình thăm thẳm tìm về
cõi tâm linh bí ẩn tìm giải thốt trong Niết-bàn của thời kỳ Chánh pháp tới con
người sống cùng những buồn vui nhân thế của thời kỳ Tượng pháp, khái
niệm Niết-bàn đã trở nên hấp dẫn hơn, thể hiện một triết lý sống nhân
bản của tôn giáo - triết học Phật giáo.
3.5. Khái niệm Niết-bàn (Nibanna) của thời kỳ Mạt pháp

18



Kế thừa những hạt nhân hợp lý trong quan niệm Niết-bàn của hai thời kỳ
trước, thời kỳ Chánh pháp và thời kỳ Tượng pháp. Khái niệm Niết-bàn trong
thời kỳ thứ ba - thời kỳ Mạt pháp có những quan niệm mới. Trên thực tế, khơng
phải có hai loại Niết-bàn mà có hai hình thức Đạo Quả Niết-bàn. Hai danh từ
khác nhau để chỉ hai hình thức chứng nghiệm: một trước khi chết và một sau khi
chết. Khi Đạo Quả Niết-bàn được thành tựu trong kiếp sống hiện tiền nghĩa là
trong lúc cịn mang thân ngũ uẩn, thì gọi là “Hữu Dư Niết-bàn” (Sopadisesa
Nibbana Dhatu). Lúc bỏ xác thân, vị A La Hán đạt Đại Niết-bàn, khơng cịn vật
chất, chừng ấy gọi là “Vô Dư Niết-bàn” (Anupadisesa Nibbana Dhatu).
Nhiều người cho rằng sự ngưng chảy của tiếng trình tâm gọi là Niết-bàn.
Về mặt tâm lý, khi tâm khơng cịn phiền não thì vẫn hoạt động theo chiều khơng
phiền não. Đây là khái niệm của các bộ phái Phật giáo, điều này cũng đúng
trong một số trường hợp những vị này nhập vơ dư y Niết-bàn khơng cịn hoạt
động tâm thức. Bên cạnh đó, một số trường hợp khi cịn sống nhưng họ trở nên
vô cảm đối với mọi vật xung quanh, đây cũng là một khái niệm tiêu cực của
Niết-bàn.
Nhưng khi Đức Phật chứng Niết-bàn dưới cội bồ đề thì Niết-bàn của ngài
hoàn toàn khác với Niết-bàn của các bộ phái. Sự chứng đắc Niết-bàn của ngài
chính là sự vơ ngã vị tha, khơng cịn chấp ngã, chấp pháp để phân biệt mình và
người trên tinh thần trí tuệ, do đó ngài vẫn thuyết pháp độ sinh, hàng phục ngoại
đạo. Như vậy, Niết-bàn không phải là sự dừng, ngưng của tâm đó mới là Niếtbàn thật sự.
Về sau, thời kỳ Mạt pháp nói khơng có niệm khởi làm tâm (dĩ vơ niệm vi
tông, dĩ vô tướng vi thể, dĩ vô trụ vi bổn). Lấy vơ niệm làm tơng, “vơ niệm”
khơng có nghĩa là sự ngừng hoạt động của tâm mà ngay trên niệm khởi đó khơng
dính mắc với nó, thấy nó là giả thì đó mới gọi là vơ niệm.

19



Thời kỳ Mạt pháp, trong các bộ kinh Nikaya cho rằng: “Niết-bàn là chấm
dứt khổ đau một cách vĩnh viễn như củi hết lửa tắt”. Đây là một dạng khái niệm
nếu đứng trên nghĩa đen thì tiêu cực, nếu như thế có thể hiểu Niết-bàn là một
trạng thái hư vơ. Đây là quan niệm hồn tồn khơng đúng. Tuy nhiên chúng ta
cần hiểu rằng, hết củi chính là hết động lực phiền não (vô minh tham ái) do vô
minh chấp ngã. Con người vẫn còn hoạt động trong một trạng thái khơng cịn
phiền não (khơng cịn tham sân si) và với một động lực vô tận (vô lượng tâm)
của đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả do khơng cịn bị cái ngã nhỏ bé trói buộc. Dục
vọng là nhiên liệu cho ngọn lửa cháy, truyền năng lượng qua các kiếp luân hồi
triền miên. Nếu không nuôi dưỡng ngọn lửa đó nữa, nghĩa là khơng cịn dục
vọng, nó sẽ lụi tàn. Khi đó, Niết-bàn được hiểu như sự thanh lương, mát mẻ.
Khái niệm Niết-bàn thời kỳ Mạt pháp là một lĩnh vực thuộc tiềm thức,
nếu khơng có sự tu tập thiền định thì chúng ta khơng thể nào thấy được tàng
thức của chúng ta. Niết-bàn là một trạng thái an lạc bên trong. Niết-bàn vượt
trên ngôn ngữ của thế gian là sự tự chứng nghiệm của bản thân như cảm giác
nóng lạnh của nước chỉ có người trực tiếp uống mới cảm nhận được.
Các mô tả về Niết-bàn
Hoa khai kiến Phật ngộ vô sinh
Bất thối Bồ tát vi bạn lữ
Tuy nhiên, Niết-bàn tức “vô sinh”, không nên rơi vào chấp khơng, nghĩa
là khơng cịn sinh tử, mà nên hiểu là khơng cịn bị sinh tử trói buộc, bởi khi thấy
sinh tử là giả thì bất tử vơ sinh. Như vậy Niết-bàn là vơ sinh có nghĩa là vẫn cịn
sinh tử nhưng khơng bị sinh tử trói buộc, tức “ý sinh thân” muốn sinh ở cõi nào
thì sinh khơng cịn bị lệ thuộc sinh tử.
Thời kỳ Mạt pháp, Niết-bàn là “vô ngã”: “Niết-bàn là cái gì tuyệt đối
khơng dung ngã. Niết-bàn khơng có hạn lượng, khơng có nơi chốn, vì Niết-bàn
20



là vơ tướng - vơ tướng nên khó vào. Muốn vào Niết-bàn ta cũng phải vô tướng
như Niết-bàn. Cửa Niết-bàn rất hẹp, chỉ bằng tơ tóc, nên ta khơng thể mang theo
hành lý mà hy vọng vào được Niết-bàn. Cái thân đã không mang theo được, mà
cả ý niệm về tôi, về ta cũng không thể mang theo được. Cái ta càng to thì càng
xa Niết-bàn. Nên biết rằng: hễ hữu ngã là luân hồi mà vô ngã là Niết-bàn”. (Vơ
ngã là Niết-bàn - HT. Thích Thiện Siêu).
Trong thiền mơn thường sử dụng hình ảnh con trâu đen chuyển thành trâu
trắng. Con trâu trắng tượng trưng cho Niết-bàn, con trâu đen tượng trưng cho
sinh tử, như vậy bản chất chỉ có một con trâu mà thơi. Khi chúng ta giác ngộ
chúng ta chỉ nhìn nhận thân tâm, con người và thế giới bằng cái nhìn khác mà
thơi. Vọng tâm hay chân tâm khơng hai mà cũng khơng một mà đó là sự chuyển
đổi, thay đổi cho nhau. Chân tâm là thể của vọng tâm.
Theo thời kỳ Mạt pháp, hết vọng tâm là tâm thanh tịnh, tuy nhiên tâm thanh
tịnh cũng không phải là chân tâm. Cái thể vô ngã của thanh tịnh mới chính là chân
tâm. Cái thể rỗng khơng của vọng động phiền não là chân tâm, động hay tịnh của
tâm là trạng thái lúc hoạt động hay ngưng nghỉ. Cũng giống như biển lặng n hay
có sóng khơng phải là chân tâm mà là chất nước mới là chân tâm. Chân tâm là thể
của tịnh và động.
KẾT LUẬN
Niết-bàn là khái niệm thể hiện triết lý độc đáo về giải thoát của Phật giáo.
Đây là một trạng thái tâm linh hồn tồn thanh thản, giải thốt khỏi mọi đau
khổ của cuộc đời. Trạng thái này có thể đạt được khi còn đang sống (Hữu dư
Niết-bàn) hoặc khi đã chết (Vô dư Niết-bàn). Phật giáo thời kỳ Chánh pháp
hướng tới Vô dư Niết-bàn - một Niết-bàn tịch diệt, cô đơn, từ bỏ mọi thú
vui trần thế. Phật giáo thời kỳ Tượng pháp lại hướng tới Hữu dư Niết-bàn một Niết-bàn nhân bản, nhập thế và hoạt động cùng những buồn vui nhân

21


thế. Quan niệm này đã mang lại một sức hấp dẫn, sức sống mới cho Phật

giáo, đặc biệt là trong xã hội hiện đại.
Khát vọng về tự do là một khát vọng cao đẹp của nhân loại. Các học
thuyết xã hội về sự giải phóng con người đều hướng tới một thế giới tự do lý
tưởng. Trong Thiên Chúa giáo, thế giới lý tưởng đó là Thiên đường đầy hoa
thơm trái ngọt, chỉ có hạnh phúc, u thương, khơng thù hận. Trong Nho
giáo, xã hội lý tưởng là một xã hội đại đồng. Đích của giải thốt trong Phật
giáo là Niết-bàn. Đối với một số người, tiếp cận khái niệm dưới góc độ hướng
ngoại thì Niết-bàn là một khái niệm tương đối khó hiểu, thậm chí cịn bị hiểu sai
lệch thành một vị trí địa lý, một khơng gian như Thiên đường trong Thiên Chúa
giáo mà con người sẽ được về đó sau khi chết. Đi từ sự khảo cứu kinh sách Phật
giáo và một số cơng trình nghiên cứu của các chuyên gia về Phật học, từ góc độ
tiếp cận hướng nội, trong bài viết này, chúng tôi muốn đề cập tới khái
niệm Niết-bàn và những hình thức chủ yếu của nó, lấy đó làm một trong những
cơ sở để giải thích về sự hồi sinh của Phật giáo trong thời đại ngày nay.

22


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bhikkhu Narada, Đức Phật và Phật pháp, Dịch giả Phạm Kim Khánh,
Nxb Hồng Đức, 2014.
2. Nguyễn Hùng Hậu (2002), Đại cương lịch sử tư tưởng triết học Việt
Nam, tập 1, Nxb Đại học quốc gia, Hà Nội.
3. Nguyễn Lang (1992), Việt Nam Phật giáo sử luận, tập 1, Nxb Văn học,
Hà Nội.
4. Lê Mạnh Thát (2006), Lịch sử Phật giáo Việt Nam (từ khởi nguyên đến
thời Lý Nam Đế), tập 1, Nxb Tổng hợp, Tp Hồ Chí Minh.
5. Ấn Thuận, Giảng Giải Luận Đại Thừa Khởi Tín, Nxb Phương Đơng, 2012.
6. Thích Thanh Tứ, Trung luận giảng giải, Giáo hội Phật giáo Việt Nam,
Hội nghiên cứu Phật học, Ban Thiền học, Nxb Tôn giáo, 2008.


23



×