Tải bản đầy đủ (.doc) (25 trang)

TÀI LIỆU THAM KHẢO QUÁ TRÌNH đổi mới tư DUY lý LUẬN của ĐẢNG về mô HÌNH KINH tế ở nước TA bài GIẢNG LỊCH sử ĐẢNG SAU đại học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (216.37 KB, 25 trang )

Chuyên đề 4
QUÁ TRÌNH ĐỔI MỚI TƯ DUYLÝ LUẬN CỦA ĐẢNG
VỀ MƠHÌNH KINH TẾ Ở NƯỚC TA
A. MỤC TIÊU
- Kiến thức:Trang bị cho học viên những kiến thức cơ bản về quá trình
hình thành và phát triển nhận thức của Đảng về mơ hình kinh tế trong thời kỳ
q độ lên CNXH ở Việt Nam;
- Kỹ năng:Chuyên đề góp phần hình thành cho học viên phương pháp
tư duy khoa học trong nhận thức, đánh giá về hoạt động lý luận và thực tiễn
của Đảng về mơ hình kinh tế ở Việt Nam; biết vận dụng kiến thức được trang
bị để phân tích, đánh giá các vấn đề liên quan đến hoạt động phát triển kinh tế
trong công cuộc đổi mới toàn diện đất nước hiện nay.
-Về tư tưởng: Giúp học viên củng cố niềm tin với những căn cứ khoa
học về vai trò của Đảng đối với cách mạng Việt Nam; tích cực đấu tranh
chống lại các quan điểm, nhận thức sai trái.
B. NỘI DUNG
1. Bối cảnh và tính tất yếu chuyển sang đường lối phát triển kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa
1.1. Ở trong nước, mô hình kinh tế phi thị trường và đơn nhất thành
phần kinh tế đã tỏ ra kém hiệu quả.
Nước ta quá độ lên chủ nghĩa xả hội bỏqua chế độ tư bản chủ nghĩa
trong hoàn cảnh một nước nghèo, kinh tế, kỹ thuật lạc hậu, trình độ phát triến
xã hội thấp, lại bị chiến tranh tàn phá nặng nề. Suốt một thời gian dài, Việt
Nam cũng như nhiều nước xã hội chủ nghĩa khác đã áp dụng mơ hình xã hội
chủ nghĩa kiểu Xơviết, mơhình kinh tế kế hoạch hóa tập trung, quan liêu bao
cấp, mà thực chất là mơ hình kinh tế cứng nhắc phi thị trường, quá đề cao vai
trò của một thành phần kinh tế xã hội chủ nghĩa dưới hai hình thức: kinh tế
quốc doanh và kinh tế tập thể, còn các thành phần kinh tế khác bằng những
chính sách, biện pháp hành chính, áp đặt nóng vội để đẩy nhanh tiến độ cải
tạo xã hội chủ nghĩa đối với chúng, với mục tiêu chính khơng phải là để huy
động, phát triển, mà là hạn chế, thu hẹp, thậm chí xóa bỏ các thành phần kinh


1


tế được gọi là "phi xã hội chủ nghĩa". Kết cục là thành phần kinh tế xã hội chủ
nghĩa (quốc doanh và tập thể) phát triển nhanh về số lượng, mở rộng quy mô
và phạm vi hoạt động, nhưng hiệu quả sản xuất, kinh doanh thấp và ngày
càng có xu hướng giảm sút.
Cơng bằng mà nói, trong một thời gian, mơ hình kinh tế này đã từng
phát huy tác dụng tích cực trong việc thúc đẩy sự nghiệp cơng nghiệp hóa
theo kiểu cổ điển, tập trung được các nguồn lực, sức người, sức của đáp ứng
yêu cầu của cuộc .kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, giải phóng miền Nam,
thống nhất đất nước. Nhưng càng về sau, nócàng bộc lộ những khiếm khuyết,
mà chủ yếu là các nhu cầu của xã hội vượt quá khả năng đáp ứng của một nền
kinh tế kém hiệu quả, thiếu năng động do thực hiện cơ chế kế hoạch hóa tập
trung, quan liêu và chế độ phân phối (về cơ bản) bình quân chủ nghĩa. Chính
điều đó, đã kìm hãm, đã làm thui chột động lực và tính cạnh tranh giữa các lực
lượng kinh tế, không huy động và sử dụng được các nguồn lực của đất nước để
tạo đà cho sự phát triển. Cộng với công tác chỉ đạo, lãnh đạo, quản lý cũng
phạm phải một số sai lầm, mà nguyên nhân sâu xa của những sai lầm ấy là bệnh
giáo điều, chủ quan, duy ý chí, giản đơn, nóng vội, khơng tơn trọng quy luật
kinh tế khách quan; nhận thức về chủ nghĩa xã hội không đúng với thực tế của
Việt Nam,khiến cho nền kinh tế lâm vào tình trạng trì trệ kéo dài, rồi khủng
hoảng kinh tế - xã hội trầm trọng và kéo dài; sản xuất phát triển chậm, kém hiệu
quả và bấp bênh, tình trạng thiếu hụt, khan hiếm hàng hóa (kể cả lương thực);
lạm phát phi mả (774,7% năm 1987), đời sống nhân dân rất khó khăn. Do dó,
đoạn tuyệt với cơ chế kinh tế cũ, lạc hậu và phát triển kinh tế đã trở thành đòi
hỏi bức thiết và tất yếu đối với Việt Nam
1.2. Từ phía quốc tế, bắt đầu từ thập niên 80 của thế kỷ XX, nhiều
sức ép đối với sự phát triển kinh tế của Việt Nam cũng đã xuất hiện và gia
tăng

Chính phủ Mỹ thi hành chính sách cấm vận kinh tế đối với Việt Nam từ
cuối thâp niên 70 của thế kỷ XX nhằm đặt nền kinh tế Việt Nam vào thế cô
lập, suy yếu và dẩn tới sự sụp đổ. Dưới áp lực của Mỹ, nhiều Chính phủ, tổ
chức kinh tế - tài chính quốc tế, tập đồn và cơng ty trên thế giới cũng buộc
phải hạn chếhoặc ngừng quan hệ với Việt Nam. Tuy chính sách này khơng
làm cho Việt Nam bị cơ lập hồn tồn, nhưng kéo dài thời gian thi hành chính
sách cấm vận ấy đã gây ra hậu quả không nhỏ đối với nền kinh tế Việt Nam.
2


Khi Việt Nam lâm vào khủng hoảng kinh tế - xã hội thì Liên Xơ, các
nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu và nhiều nước trong hệ thống xã hội chủ
nghĩa trên thế giới cũng lâm vào tình cảnh tương tự.
Do khủng hoảng kinh tế, các nước xã hội chủ nghĩa cũng không thể
triển khai kế hoạch hợp tác kinh tế với Việt Nam một cách bình thường. Do
đó, viện trợ từ các nước xã hội chu nghĩa - nguồn lực phát triển hết sức quan
trọng đối với Việt Nam - bị suy giảm; hoạt động thương mại của Việt Nam đối
với khu vực thị trường truyền thống, thị trường quan trọng hàng đầu cũng bị
suy giảm mạnh, làm trầm trọng thêm những mất cân đối lớn vốn có của
nềnkinh tế.
Trong khi đó, thành cơng của Trung Quốc trong việc "cảicách,mở cửa"
(1978) nền kinh tếtheo định hướng thi trường nhưng vẫn giữ được con đường
xãhội chủ nghĩa và nền kinh tề Trung Quốc có sự tăng trưởng phát triển
nhanh. Có thể nói đây là những gợi ý và tham khảo cho chiến lược phát triến
của Việt Nam trong bối cảnh mới.
Hơn nữa, trên thế giới cuộc cách mạng khoa học - kỹ thuật đang diễn ra
với quy mô lớn chưa từng có, đem lại cho lồi người những thành tựu vô cùng
to lớn. Dưới sự tác động của cuộc cách mạng khoa học - kỹ thuật, nhiều nước
trên thế giới thực hiện cơ cấu lại nền kinh tế, mở cửa nền kinh tế và phát triển
kinh té thị trường có sự quản lý của nhà nước.

1.3. Để thốt khỏi tình thế khó khăn, khủng hoảng tất yếu phải đổi
mới
Những điểm trên đây đã khắc họa tình thế, có thể nói là khó khăn và
"nguy nan" của nền kinh tế Việt Nam vào nửa đầu thập niên 80 của thế kỷ XX.
Để thốt khỏi tình thế đó, rõ ràng cần có sự đột phá lớn. Cơng cuộc tìm tịi, thử
nghiệm đã được đặt ra đối với Đảng Cộng sản và nhân dân Việt Nam.
Hội nghị lần thứ sáu BCHTƯ Đảng khóa IV (8-1979), với quan điểm
"làm cho sản xuất bung ra", có thể coi là sự đột phá đầu tiên trong việc-thay đổi
chủ trương, chính sách trên lĩnh vực kinh tế, với ý nghĩa là khắc phục những
khuyết điểm sai lầm trong quản lý kinh tế, trong cải tạo xã hội chủ nghĩa, điều
chỉnh những chủ trương, chính sách kinh tế, phá bỏ những rào chắn để cho lực
lượng sản xuất phát triển. Đó là bước đột phá đầu tiên trong hành trình tìm tịi đổi
mới của Đảng
3


Chỉ thị 100 của Ban Bí thư Trung ương Đảng về "khốn sản phẩm đến
nhóm và người lao dộng" đã tạo ra động lực mới trong sản xuất nông
nghiệp.Quyết định 25-CP của Chính phủ “Vềmột số chủ trương và biện
pháp phát huy quyền chủ động sản xuất kinh doanh và quyền tự chủ tài
chính của các xí nghiệp quốc doanh" là một sự điều chỉn quan trọng cơ
chế quản lý cơng nghiệp.
Hội nghị lần thứ tám BCHTƯ Đảng khóa V (tháng 6- 1985) đã tập trung
bàn về giá - lương - tiền. Hội nghị đã đi đến quyết định quan trọng: dứt khốt
xóa bỏ tập trung quan liêu bao cấp, thực hiện chế độ tập trung, dân chủ, hạch
toán kinh tế và kinh doanh xã hội chủ nghĩa. Đây chính là khâu đột phá cótính
quyết định để xóa bỏ cơ chế tập trung, quan liêu bao cấp; thực hiện cơ chế một
giá, chuyển sang cơ chế hạch toán kinh doanh xã hội chủ nghĩa. Đây là bước mở
đầu hình thành tư duy về sản xuất hàng hóa, thừa nhận những quy luật của sản
xuất hàng hóa.

Những cuộc thử nghiệm ban đầu, những cải biến và thay đối cục bộ
trong khuôn khổ của cơ chế cũ - tùy theo một xu hướng tích cực và nhất thời
tháo gỡ được một số khó khăn, ách tắc trên lĩnh vực kinh tế, nhưng cũng lại
xuất hiện những bất cập, sai lầm mới, nhất là trong lĩnh vực phân phối lưu
thơng, vì vậy khủng hoảng kinh tế xã hội không giảm, mà trở nên bất ổn hơn.
Điều đó chứng tỏ bước đột phá để thốt ra khỏi khó khăn phải hết sức căn
bản, tồn bộ, đổi mới phải mang tính cách mạng và triệt để.
2. Qúa trình đổi mới tư duy lý luận của Đảng về mơ hình kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
2.1. Đại hội lần thứ VI của Đảng – chính thức đặt nền móng cho mơ hình
kinh tế mới ở Việt Nam
- Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng (12-1986) chính thức
khởi xướng cơng cuộc đổi mới tồn diện đất nước, trong đó đổi mới kinh tế
là nhiệm vụ trọng tâm. Đại hội xác định tư tưởng chỉ đạo cho quá trình đổi
mới nền kinh tế đất nước là: giải phóng mọi năng lực sản xuất hiện có, khai
thác mọi khả năng tiềm tàng của đất nước, sử dụng có hiệu quả sự giúp đỡ
quốc tế để phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất.
+ Về quan hệ sở hữu: Để tạo tiền đề cho lực lượng sản xuất phát triển thì
giải pháp mang tính chiến lược được Đại hội xác định là xây dựng nền kinh tế
4


hàng hoá nhiều thành phần và xoá bỏ triệt để cơ chế kế hoạch hoá tập trung, bao
cấp.
+ Về quan hệ tổ chức quản lý: Đại hội VI định hình cơ chế quản lý
kinh tế mới, khác biệt căn bản với cơ chế cũ : “Cơ chế kế hoạch hoá theo
phương thức hạch toán kinh doanh xã hội chủ nghĩa, đúng nguyên tắc tập
trung dân chủ”(1). Trong đó, kế hoạch hoá là đặc trưng số một và sử dụng
đúng đắn quan hệ hàng hoá - tiền tệ là đặc trưng số hai của cơ chế quản lý
kinh tế mới.

(+) Đại hội nhấn mạnh nhiệm vụ đổi mới công tác kế hoạch hoá trong
quản lý nền kinh tế. Kế hoạch hoá khơng thể là sự áp đặt chủ quan ý chí của
nhà nước, mà là sự vận dụng tổng hợp các quy luật kinh tế cơ bản, gắn liền
với sử dụng đúng đắn các đòn bẩy kinh tế.
(+) Quản lý kinh tế bằng biện pháp hành chính mệnh lệnh phải dần
được thay thế bằng các phương pháp kinh tế là chủ yếu, với động lực thúc đẩy
là sự kết hợp hài hồ lợi ích nhà nước, tập thể và cá nhân người lao động. Các
đơn vị kinh tế quốc doanh và tập thể có quyền tự chủ sản xuất, kinh doanh, tự
chủ về tài chính. Hợp đồng kinh tế giữa các đơn vị sản xuất, kinh doanh vừa
là cơ sở để xây dựng kế hoạch, vừa là công cụ pháp lý đảm bảo thực hiện kế
hoạch.
(+) Nếu như trước đổi mới, Nhà nước trực tiếp giao chỉ tiêu pháp lệnh
cho các doanh nghiệp thì đến Đại hội VI, kế hoạch pháp lệnh chỉ được giới
hạn sử dụng trong những trường hợp cá biệt: “Việc giao kế hoạch pháp lệnh
chỉ hạn chế trong một số chỉ tiêu thật cần thiết nhằm đảm bảo những cân đối
cơ bản và những nghĩa vụ cam kết với nước ngồi”(1).
(+) Cơng tác kế hoạch hố được phân công, phân cấp theo nguyên tắc
tập trung dân chủ, phân biệt rõ chức năng quản lý hành chính - kinh tế của
các cơ quan nhà nước Trung ương và địa phương với chức năng quản lý sản
xuất, kinh doanh của các đơn vị kinh tế cơ sở.
(+) Để khắc phục hiện tượng các cơ quan quản lý hành chính - kinh tế
can thiệp sâu vào hoạt động sản xuất, kinh doanh của các đơn vị kinh tế cơ sở
nhưng lại không chịu trách nhiệm về vật chất đối với quyết định của mình;
(1)

Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI,Nxb.Sự thật,
Hà Nội, 1987, tr.65.
(1),(2),(3)
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI,sđd, tr.68,67, 63-64.


5


các đơn vị kinh tế cơ sở vừa khơng có quyền tự chủ, vừa không bị ràng buộc
trách nhiệm với kết quả sản xuất, kinh doanh... Đại hội VI chủ trương đổi mới
quản lý nhà nước về kinh tế theo hướng:“Nhà nước kiểm sốt và điều khiển
các xí nghiệp và đơn vị sản xuất, kinh doanh thuộc mọi thành phần kinh tế
bằng pháp luật, chính sách kinh tế, chính sách tiến bộ kỹ thuật, thay cho sự
can thiệp sâu vào hoạt động sản xuất kinh doanh của các xí nghiệp”(2).
(+) Khi đề cập đến đặc trưng thứ hai của cơ chế quản lý kinh tế mới
là sử dụng đúng đắn quan hệ hàng hoá - tiền tệ, Đại hội VI nêu: “Việc sử
dụng quan hệ hàng hoá - tiền tệ đòi hỏi sản xuất phải gắn với thị trường, mọi
hoạt động kinh tế phải so sánh chi phí với hiệu quả, các tổ chức và các đơn vị
kinh tế phải tự bù đắp chi phí và có lãi để tái sản xuất mở rộng, tức là phải
thực hiện hạch toán kinh doanh xã hội chủ nghĩa”(3).
→ Quan điểm này thể hiện sự phát triển trong nhận thức của Đảng về xác
lập chủ thể của kinh tế thị trường cũng như xác định rõ phương thức sản xuất,
kinh doanh của các chủ thể đó trong cơ chế quản lý kinh tế mới. Sử dụng và xác
lập quan hệ hàng hoá - tiền tệ đồng nghĩa với việc thừa nhận nền kinh tế nhiều
thành phần gắn với thị trường; thị trường là căn cứ cơ bản điều chỉnh kế hoạch,
phương thức sản xuất, kinh doanh của các cơ sở kinh tế và của nền kinh tế nói
chung.
→ Trong cơ chế quản lý mới, nguyên tắc tập trung dân chủ cần được
quán triệt nghiêm túc, kiên quyết chống tập trung quan liêu, lập lại trật tự, kỷ
cương trong quản lý. Giải pháp được Đại hội VI coi là hữu hiệu nhất để thực
hiện mục tiêu trên là tiến hành phân cấp quản lý, đảm bảo quyền làm chủ của cả
ba cấp: quyền quyết định của Trung ương với những lĩnh vực then chốt và với
những vấn đề có ý nghĩa chiến lược, quyền chủ động của địa phương trong quản
lý kinh tế - xã hội của địa phương, và quyền tự chủ của các đơn vị sản xuất, kinh
doanh.

+ Về quan hệ phân phối:
(+) Để sử dụng tốt các đòn bẩy kinh tế trong cơ chế mới, Đại hội VI
chủ trương đổi mới phương thức kinh doanh của hệ thống thương nghiệp
quốc doanh, chuyển từ cơ chế bao cấp sang hoạt động theo thị trường, tự cân đối
nguồn hàng mua và bán ra thị trường, chỉ trừ một số mặt hàng nhạy cảm trong nền
kinh tế thì do Nhà nước độc quyền quản lý. Việc thiết lập một thị trường thống
6


nhất trong toàn quốc được đặc biệt coi trọng: “Để kích thích sản xuất phát triển,
lập lại trật tự và ổn định thị trường, phải có chính sách mở rộng giao lưu hàng hố,
xố bỏ tình trạng ngăn sơng, cấm chợ, chia cắt thị trường theo địa giới hành
chính”(1).
(+) Về vấn đề giá cả, Đại hội VI chủ trương: “Chính sách giá cả phải
vận dụng tổng hợp nhiều quy luật, trong đó quy luật giá trị có tác động trực
tiếp. Giá cả phải phù hợp với giá trị, đồng thời phải phù hợp với sức mua của
đồng tiền và tính đến quan hệ cung cầu” (2). Phấn đấu thi hành chính sách một
giá có tác dụng kích thích sản xuất và mở rộng lưu thông... được xác định là
mục tiêu quan trọng trong quá trình thiết lập cơ chế quản lý mới trong nền
kinh tế.
Như vậy, với những chủ trương trên, Đại hội VI bước đầuđịnh hình
cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước bằng pháp luật, xác định rõ
quyền và trách nhiệm của các cơ sở sản xuất, kinh doanh trong cơ chế mới...
Hạn chế của Đại hội VI là vẫn tách rời kế hoạch hoá và thị trường khi xem
“kế hoạch hoá là đặc trưng số một”, và “sử dụng đúng đắn quan hệ hàng hoá tiền tệ là đặc trưng số hai”; vẫn duy trì cơ chế Nhà nước giữ độc quyền ngoại
thương. Tuy còn một số hạn chế, song những chủ trương đổi mới của Đại hội VI
có ý nghĩa quan trọng trong quá trình xác lập nền kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
2.2. Sự phát triển tư duy lý luận của Đảng về mơ hình kinh tế sau
Đại hội VI

* Đại hội VII của Đảng (6-1991)
- Đại hội đề chủ trương xây dựng nền kinh tế thị trường có sự quản lý
của nhà nước theo định hướng XHCN.Đại hộixác định mục tiêu chiến lược
trong tiếp tục đổi mới mơ hình kinh tế ở nước ta theo hướng xây dựng nền
kinh tế hàng hoá nhiều thành phần và đổi mới quản lý kinh tế.
+ Về cơ chế vận hành nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo
định hướng xã hội chủ nghĩa là cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước
bằng pháp luật, kế hoạch, chính sách và các cơng cụ khác. Trong cơ chế đó,
các đơn vị kinh tế có quyền tự chủ sản xuất, kinh doanh, quan hệ bình đẳng,
cạnh tranh hợp pháp, hợp tác và liên doanh tự nguyện.
(1),(2)

Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI,sđd, tr.69, 70.

7


+ Thị trường có vai trị trực tiếp hướng dẫn các đơn vị kinh tế lựa chọn
lĩnh vực hoạt động và phương án tổ chức sản xuất, kinh doanh có hiệu quả.
Nhà nước quản lý nền kinh tế nhằm định hướng, dẫn dắt các thành phần kinh
tế, tạo môi trường và điều kiện thuận lợi cho hoạt động sản xuất, kinh doanh
theo cơ chế thị trường, kiểm soát chặt chẽ và xử lý các vi phạm pháp luật
trong hoạt động kinh tế; bảo đảm sự hài hoà giữa phát triển kinh tế và phát
triển xã hội.
- Đại hội VII chỉ ra một số giải pháp cụ thể để tiếp tục xác lập cơ chế
quản lý mới trong nền kinh tế quốc dân:
+ Giải pháp cấp bách là sắp xếp lại và đổi mới quản lý kinh tế quốc
doanh. Trong cơ chế mới, hiện tượng bao cấp của Nhà nước đối với các doanh
nghiệp quốc doanh từng bước được xoá bỏ.
+ Tiếp tục củng cố và phát triển các cơ sở kinh tế trọng điểm, các cơ sở

kinh tế làm ăn có hiệu quả. Đối với những đơn vị làm ăn thua lỗ kéo dài, Đại
hội chủ trương thực hiện các biện pháp mạnh như: cho thuê, chuyển hình thức
sở hữu hoặc giải thể...
+ Cùng với việc sắp xếp đổi mới quản lý trong các cơ sở quốc doanh,
Đại hội VII đã nhấn mạnh tới việc tiếp tục đổi mới và kiện toàn kinh tế tập
thể, phát triển mạnh mẽ kinh tế gia đình, định hướng cho kinh tế tư nhân phát
triển.
+ Từng bước hình thành và mở rộng đồng bộ các thị trường như: thị
trường hàng tiêu dùng, thị trường tư liệu sản xuất, thị trường vốn và tiền tệ,
thị trường ngoại hối, thị trường sức lao động và đa dạng hố các loại hình
kinh doanh dịch vụ.
+ Mở rộng giao lưu hàng hố trong nước, chú trọng nơng thơn và miền
núi, xố bỏ triệt để mọi hình thức chia cắt thị trường theo địa giới hành chính,
gắn thị trường trong nước với thị trường thế giới,... được coi là giải pháp quan
trọng để tiếp tục xác lập cơ chế quản lý kinh tế mới.
Đến Đại hội VII, tư duy về xây dựng cơ chế thị trường có sự quản lý
của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa đã được xác lập trên cả bình
diện quản lý vĩ mô cũng như trong hoạt động của các đơn vị kinh tế cơ sở.
* Đại hội lần thứ VIII (6-1996):
8


- Khi đánh giá khái quát về công cuộc chuyển đổi cơ chế quản lý kinh
tế, về quá trình đổi mới nhận thức, điều chỉnh quan hệ sản xuất trong 10 năm
đổi mới (1986-1996) Đại hội VIII đã khẳng định: “Quan hệ sản xuất được
điều chỉnh phù hợp hơn với tính chất, trình độ và u cầu phát triển của sức
sản xuất, giải phóng và phát huy tiềm năng to lớn trong nước, tạo thuận lợi
khai thác nguồn lực bên ngồi”(1).
- Xuất phát từ tình hình thực tiễn, Đại hội VIII đánh giá: đất nước ta
đã thoát khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội nghiêm trọng và kéo dài 15 năm

qua, mặc dù một số mặt còn chưa vững chắc. Những thành tựu đạt được cho
phép chuyển sang thời kỳ mới - thời kỳ đẩy mạnh cơng nghiệp hố, hiện đại
hố.
- Mục tiêu, nhiệm vụ của cơng nghiệp hố, hiện đại hoá ở nước ta đến
năm 2020: "Mục tiêu của cơng nghiệp hố, hiện đại hố là xây dựng nước ta
thành một nước cơng nghiệp có cơ sở vật chất - kỹ thuật hiện đại, cơ cấu kinh
tế hợp lý, quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp với trình độ phát triển của lực l ượng sản xuất, đời sống vật chất và tinh thần cao, quốc phòng, an ninh vững
chắc, dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh"2.
- Đại hội xác định quan điểm chỉ đạo: trong thời kỳ mới, xây dựng và
củng cố nền kinh tế nhiều thành phần được xác định là nhiệm vụ trọng yếu
trong đường lối kinh tế: “Nếu công nghiệp hoá, hiện đại hoá tạo nên lực
lượng sản xuất cần thiết cho chế độ xã hội mới, thì việc phát triển nền kinh tế
nhiều thành phần chính là để xây dựng hệ thống quan hệ sản xuất phù hợp”(2).
- Khi đánh giá về vai trò của cơ chế thị trường đối với sự phát triển của
lực lượng sản xuất, Đại hội VIII nhấn mạnh: “Cơ chế thị trường đã phát huy
tác dụng tích cực to lớn đến sự phát triển kinh tế - xã hội. Nó chẳng những
khơng đối lập mà còn là một nhân tố khách quan cần thiết của việc xây dựng
và phát triển đất nước theo con đường xã hội chủ nghĩa”(1).
→ Luận điểm này đánh dấu bước chuyển biến căn bản trong nhận
thức của Đảng về cơ chế thị trường, từ chỗ phủ nhận, coi đây là cơ chế đặc
trưng riêng biệt của chủ nghĩa tư bản, đối lập với chủ nghĩa xã hội... đến thừa
nhận sự tồn tại khách quan cần thiết của nó đối với nền kinh tế nước ta trong
(1),(2)

Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, sđd, tr.10-11, 24.

2

. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Sđd, tr.80.


9


thời kỳ quá độ.
- Mục tiêu cụ thể:
+ Về cơ cấu kinh tế: thực hiện nhất quán chính sách kinh tế nhiều
thành phần có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Kinh tế nhà nuớc là chủ đạo, đổi mới và phát huy thành phần kinh tế hợp tác,
tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế phát triển.
+ Tiếp tục đổi mới cơ chế quản lý kinh tế. Xây dựng cơ chế thị trường
theo định hướng xã hội chủ nghĩa; tạo lập đồng bộ các yếu tố thị trường; hoàn
chỉnh hệ thống pháp luật kinh tế; đổi mới công tác kế hoạch; đổi mới chính
sách tài chính, tiền tệ; nâng cao năng lực quản lý kinh tế của Nhà nước.
- Đại hội VIII nhấn mạnh tới việc xác lập một cách đồng bộ các loại
thị trường trong thời kỳ cơng nghiệp hố, hiện đại hố đất nước: “Đẩy mạnh
cơng nghiệp hố, hiện đại hố, phát triển nền kinh nhiều thành phần không thể
tách rời việc xây dựng đồng bộ và vận hành có hiệu quả cơ chế thị trường có
sự quản lý của Nhà nước theođịnh hướng xã hội chủ nghĩa”(1).
- Đại hội chủ trương nâng cao năng lực quản lý vĩ mô của Nhà nước
nhằm phát huy tác dụng tích cực đi đơi với ngăn ngừa, hạn chế và khắc phục
những mặt tiêu cực, mâu thuẫn với chủ nghĩa xã hội của cơ chế thị trường. Để
tạo điều kiện thuận lợi cho các thành phần kinh tế tham gia vào hoạt động
kinh tế thương mại, việc điều chỉnh vai trò chức năng quản lý của Nhà nước
đối với kinh tế được Đảng ta xác định là vấn đề có ý nghĩa quyết định. Quản
lý nhà nước về kinh tế tách khỏi quản lý sản xuất, kinh doanh của doanh
nghiệp. Đổi mới chức năng kinh tế của Nhà nước khơng có nghĩa là thủ tiêu
vai trò của Nhà nước trong quản lý kinh tế mà là q trình tìm tịi những biện
pháp, hình thức quản lý phù hợp với cơ chế mới cũng như giữ vững định
hướng xã hội chủ nghĩa.
* Đại hội lần thứ IX (2001)- Khái quát những nét đặc trưng căn bản

của mơ hình kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam
- Mơ hình kinh tế tổng qt của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở
Việt Nam là: phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành theo cơ
chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa;
đó chính lànền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
(1)

Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIIIsđd, tr.26.

10


- Mục tiêu của nền kinh tế thị trường định hướng xó hội chủ nghĩa ở
Việt Nam: “phỏt triển lực lượng sản xuất, phát triển kinh tế để xây dựng cơ sở
vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xó hội, nõng cao đời sống nhân dân. Phát
triển lực lượng sản xuất hiện đại gắn liền với xây dựng quan hệ sản xuất mới
phù hợp trên cả ba mặt sở hữu, quản lý và phõn phối”(2).
- Đặc trưng của Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa:
(+) Có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh
tế nhà nước giữ vai trị chủ đạo; kinh tế nhà nước cùng kinh tế tập thể ngày
càng trở thành nền tảng vững chắc.
(+) Nhà nước quản lý nền kinh tế bằng pháp luật, chiến lược, quy hoạch, kế
hoạch, chính sách, sử dụng cơ chế thị trường, áp dụng các hình thức kinh tế và
phương pháp quản lý của kinh tế thị trường để kích thích sản xuất, giải phóng sức
sản xuất, phát huy mặt tích cực, hạn chế và khắc phục tiêu cực của cơ chế thị
trường...
(+) Thực hiện phân phối chủ yếu theo kết quả lao động và hiệu quả
kinh tế, đồng thời phân phối theo mức đóng góp vốn và các nguồn lực khác
vào sản xuất, kinh doanh và thông qua phúc lợi xã hội.
(+) Tiêu chuẩn căn bản để đánh giá hiệu quả xây dựng quan hệ sản xuất

theo định hướng xã hội chủ nghĩa là thúc đẩy phát triển lực lượng sản xuất,
cải thiện đời sống nhân dân, thực hiện công bằng xã hội. Tăng trưởng kinh tế
gắn liền với bảo đảm tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước phát
triển. Tăng trưởng kinh tế đi đôi với phát triển văn hoá và giáo dục, xây dựng
nền văn hoá Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc.
(+) Trong thời kỳ q độ có nhiều hình thức sở hữu về tư liệu sản xuất,
nhiều thành phần kinh tế, giai cấp, tầng lớp xã hội khác nhau. Mối quan hệ giữa
các giai cấp, các tầng lớp xã hội là quan hệ hợp tác và đấu tranh trong nội bộ nhân
dân, đoàn kết và hợp tác lâu dài trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc dưới
sự lãnh đạo của Đảng. Lợi ích giai cấp cơng nhân thống nhất với lợi ích tồn dân
tộc.
(+) Tăng cường tạo mơi trường pháp lý cho việc mở rộng và phát triển
nhiều loại hình thị trường đáp ứng kịp với nhu cầu nền kinh tế và đời sống xã
hội như: thị trường tín dụng, thị trường chứng khoán, thị trường bất động sản,
thị trường lao động, thị trường dịch vụ khoa học - công nghệ,... Trách nhiệm
của Nhà nước là phải tôn trọng nguyên tắc và cơ chế hoạt động khách quan
11


của thị trường; tạo điều kiện phát huy mặt tích cực, đồng thời hạn chế những
tác động tiêu cực của cơ chế thị trường; kiên quyết xoá bỏ những quy định và
thủ tục mang nặng tính hành chính quan liêu, bao cấp, kìm hãm sự phát triển
của lực lượng sản xuất, gây phiền hà, sách nhiễu cho doanh nghiệp và nhân
dân...
* Đại hội lần thứ X (4-2006):
- Trước nhu cầu cấp bách đưa nước ta sớm thốt khỏi tình trạng kém
phát triển vào năm 2010 và về cơ bản trở thành một nước công nghiệp vào
năm 2020, Đại hội X tiếp tục có những đổi mới quan trọng về tư duy kinh tế,
cơ chế quản lý kinh tế. Nghị quyết Đại hội X chủ trương “Tiếp tục hoàn thiện
thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”, trong đó đã bổ sung,

phát triển một số nhận thức mới về nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa ở nước ta trong thời kỳ mới bao gồm: mục tiêu phát triển kinh tế
thị trường ở Việt Nam; tính đồng bộ, tính hiệu quả của các loại thị trường;
vai trị, vị trí các thành phần kinh tế và mối quan hệ giữa chúng trong quá
trình phát triển; quản lý nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa.
- Đại hội xác địnhmục tiêu phát triển nền kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa ở nước talà nhằmthực hiện dân giàu, nước mạnh, xã hội
cơng bằng, dân chủ, văn minh; giải phóng mạnh mẽ và không ngừng sức sản
xuất, nâng cao đời sống nhân dân; khuyến khích mọi người vươn lên làm giàu
chính đáng, đồng thời giúp đỡ người khác thốt nghèo và vươn lên khá giả
hơn, đẩy mạnh xố đói giảm nghèo.
- Chủ thể nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là cơ cấu
kinh tế nhiều thành phần, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trị chủ đạo; kinh
tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của
nền kinh tế quốc dân. Các thành phần kinh tế hoạt động theo pháp luật, đều là bộ
phận hợp thành quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa, bình đẳng trước pháp luật, cùng phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh
lành mạnh.
-> Như vậy, Đại hội X vừa khẳng định vai trò chủ đạo của kinh tế nhà
nước, vừa làm sáng tỏ hơn vai trị, vị trí và mối quan hệ giữa các thành phần
kinh tế khi hợp thành chủ thể kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
12


Với vai trò chủ đạo, kinh tế nhà nước là lực lượng vật chất quan trọng để Nhà
nước định hướng và điều tiết nền kinh tế, tạo môi trường và điều kiện thúc
đẩy các thành phần kinh tế cùng phát triển.
Quan hệ giữa các thành phần kinh tế là bình đẳng trước pháp luật,
cùng phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh. Xoá bỏ mọi sự phân

biệt đối xử theo hình thức sở hữu; Nhà nước chỉ thực hiện sự ưu đãi hoặc hỗ
trợ phát triển đối với một số ngành, lĩnh vực sản xuất; một số mục tiêu xuất
khẩu, tạo việc làm, xố đói giảm nghèo, khắc phục rủi ro; một số địa bàn, các
doanh nghiệp vừa và nhỏ.
- Phát triển kinh tế thị trường phải coi trọng tính đồng bộ của các loại
thị trường và quản lý có hiệu quả sự vận hành của các loại thị trường. Để đảm
bảo tính đồng bộ của thị trường, bên cạnh phát triển những thị trường đã định
hình (thị trường hàng hoá - dịch vụ, thị trường sức lao động, thị trường bất
động sản, thị trường vốn), cần chú ý tạo mơi trường, thể chế, tâm lý, chính
sách cho sự hình thành những thị trường mới manh nha (thị trường chứng
khốn, thị trường khoa học - cơng nghệ). Gắn với phát triển đồng bộ các loại
thị trường là quản lý có hiệu quả các loại thị trường, tránh để thị trường vận
động tự phát, gây ra các ngoại ứng tiêu cực. Khơng chỉ chú ý các loại hàng
hố “hữu hình” mà ngày càng phải đặc biệt coi trọng phát triển các loại hàng
hố “vơ hình”. Thu hẹp những hàng hoá - dịch vụ được tạo ra từ doanh nghiệp
độc quyền, chú ý dịch vụchất lượng cao, nhất là hàng hố - dịch vụ có hàm
lượng trí tuệ cao.
- Đại hội X chủ trương tăng cường nâng cao vai trị và hiệu lực quản lý
của Nhà nước thơng qua việc thực hiện đúng chức năng quản lý và lựa chọn
phương thức tác động phù hợp.
+ Về chức năng quản lý của Nhà nước, trước hết, định hướng sự phát
triển bằng các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch và cơ chế, chính sách trên cơ
sở tơn trọng các ngun tắc của thị trường; thứ hai, tạo môi trường pháp lý và cơ
chế, chính sách thuận lợi để phát huy các nguồn lực xã hội cho phát triển; thứ
ba, hỗ trợ phát triển, chăm lo xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội
quan trọng, hệ thống an sinh xã hội; thứ tư, bảo đảm tính bền vững và tích cực
của các cân đối kinh tế vĩ mô, hạn chế các rủi ro và tác động tiêu cực của cơ chế
thị trường.
13



+ Về phương thức tác động: Trước hết, Nhà nước tác động đến thị trường,
chủ yếu bằng phương thức điều hành gián tiếp thơng qua cơ chế, chính sách và các
cơng cụ kinh tế. Mặt khác, khi có những biến động lớn trên thị trường trong nước,
khu vực và thế giới, Nhà nước phải sử dụng kịp thời, có hiệu quả một số biện pháp
cần thiết để ổn định thị trường. Thứ hai, thực hiện quản lý nhà nước bằng hệ thống
pháp luật, giảm hẳn sự can thiệp hành chính vào hoạt động của thị trường và doanh
nghiệp.
-> Đây là biểu hiện khác biệt chủ yếu của cơ chế thị trường so với cơ
chế kế hoạch hoá tập trung; đồng thời là yêu cầu phát triển nền kinh tế nhiều
thành phần và xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Dĩ nhiên, để
thực hiện được điều đó địi hỏi phải tách chức năng quản lý hành chính của
Nhà nước khỏi chức năng quản lý kinh doanh của doanh nghiệp; xoá bỏ “chế
độ chủ quản”; tách hệ thống cơ quan hành chính cơng khỏi hệ thống cơ quan
sự nghiệp; phát triển mạnh các dịch vụ công (giáo dục và đào tạo, khoa học
và cơng nghệ, y tế, văn hố, thể dục thể thao...).
- Điều kiện để thực hiện các chức năng quản lý và đổi mới phương thức
quản lý nhà nước trong nền kinh tế thị trường là phải: 1) tiếp tục đổi mới
chính sách tài chính, tiền tệ đảm bảo tính ổn định và sự phát triển bền vững
của nền tài chính quốc gia; 2) phân định rõ chức năng, mối quan hệ giữa Quốc
hội, Chính phủ và các bộ, ngành, uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc
Trung ương trong quản lý nhà nước về kinh tế và xã hội.
* Đại hội lần thứ XI của Đảng (1-2011):
- Đại hội xác định 3 đột phá chiến lược. Đột phá chiến lược giữ vị trí
hàng đầu được xác định là: "Hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa, trọng tâm là tạo lập mơi trường cạnh tranh bình
đẳng và cải cách hành chính"(1).
- Trong định hướng đổi mới mơ hình tăng trưởng và cơ cấu lại nền kinh
tế, Đại hội chủ trương chuyển đổi mơ hình tăng trưởng từ chủ yếu phát triển
theo chiều rộng sang phát triển hợp lý giữa chiều rộng và chiều sâu. Thực

hiện cơ cấu lại nền kinh tế hướng tới trọng tâm là xây dựng cơ cấu hợp lý
giữa các ngành sản xuất, dịch vụ, phù hợp với các vùng.
(1)

Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, sđd, tr.106

14


- Đại hội XI tiếp tục đề ra các giải pháp cụ thể trong tình hình mới để
hồn thiện thể chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta trong
giai đoạn mới gồm:
+ Tiếp tục đổi mới việc xây dựng và thực thi luật pháp bảo đảm cạnh
tranh bình đẳng, minh bạch giữa các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế;
+ Tiếp tục đổi mới chính sách tài chính quốc gia để đảm bảo phân phối
và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực phát triển;
+ Tạo lập đồng bộ và vận hành thông suốt các loại thị trường;
+ Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ và nâng cao hiệu quả hoạt động của các doanh
nghiệp nhà nước, nhất là các tập đoàn kinh tế và các tổng công ty nhà nước.
* Đánh giá về tác động của của quá trình phát triển nhận thức và sự
chỉ đạo của Đảng trong xây dựng mơ hình kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa đối với môi trường kinh doanh của Việt Nam
- Việc thiết lập đồng bộ thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa ở nước ta hiện nay vẫn còn là một q trình gắn với các nhiệm vụ
như: hồn thiện khung pháp lý để hình thành đồng bộ các loại thị trường; cải
cách doanh nghiệp nhà nước vừa có khả năng đóng vai trị chủ đạo trong nền
kinh tế, vừa có quyền tự chịu trách nhiệm về mọi phương án sản xuất, kinh
doanh; minh bạch hoá và giảm dần sự bảo trợ của Nhà nước với doanh nghiệp
nhà nước, tạo mơi trường bình đẳng cho mọi thành phần kinh tế cùng cạnh
tranh, phát triển; hồn thiện các cơng cụ quản lý vĩ mô trong điều kiện hội

nhập kinh tế quốc tế sâu rộng...
Nền kinh tế Việt Nam ngày càng hội nhập sâu hơn vào nền kinh tế thế
giới. Việt Nam đã trở thành một bộ phận của hệ thống kinh tế toàn cầu và do
vậy, mức độ phụ thuộc lẫn nhau giữa kinh tế Việt Nam và kinh tế thế giới
ngày càng tăng: Việt Nam đã là thành viên của Tổ chức Thương mại thế giới
(WTO), của ASEAN, APEC, ASEM; đã tham gia sâu rộng vào hiệp định song
phương và đa phương, đã thiết lập quan hệ ngoại giao với trên 200 quốc gia
và vùng lãnh thổ; thu hút đầu tư nước ngồi của trên 800 cơng ty của trên 70
nước; tranh thủ viện trợ phát triển chính thức của trên 45 nước, tổ chức tài
chính quốc tế và 350 tổ chức phi chính phủ; đã ký kết hiệp định thương mại
song phương với gần 100 nước; đã ký Hiệp định khuyến khích đầu tư với 46
nước…) nền kinh tế nước ta sẽ tiếp tục hội nhập ngày càng sâu rộng vào hệ
15


thống kinh tế thế giới, tham gia mạnh mẽ vào hệ thống phân cơng lao động
quốc tế tồn cầu.
- Bên cạnh thành tựu, cơng cuộc xây dựng và hồn thiện thể chế kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa của Việt Nam cịn có nhiều hạn chế:
+ Theo Đại học Harvard và Diễn đàn kinh tế thế giới, mức độ thuận lợi
cho thương mại của Việt Nam, năm 2008 là 91/118 nền kinh tế được nghiên
cứu xếp hạng. Việc thực hiện hoạt động thương mại ở Việt Nam hiện nay là
khó khăn hơn nhiều so với các nước lựa chọn trong khu vực, nhất là tại khu
vực có hai nền kinh tế xếp hạng 1/118 và 2/118 là Hồng Kông và Singapo.
Trong khi chỉ số thuận lợi thương mại của Việt Nam là 91/118 xếp gần cuối
bảng thì các nền kinh tế Trung Quốc, Thái Lan và Inddooneexxia lần lượt xếp
ở các hạng 48,52 và 47/118, tức là ở nửa đầu bảng xếp hạng. Trong số các
nước Đông Nam Á được xếp hạng, thứ hạng của Việt Nam chỉ hơn được
Campuchia (103/118) còn kém cả Philippin (82/118).
+ Trong bốn chỉ số phụ của ETI, Việt Nam đạt điểm cao nhất và thứ hạng

cao nhất ở chỉ số phụ môi trường kinh doanh (62/118) và thấp nhất ở chỉ số tiếp
cận thị trường (112/118). Trong số 10 tiêu chí hợp phần của ETI, tiêu chí an ninh
trật tự an tồn xã hội, ổn định chính trị đạt điểm và thứ hạng cao nhất (46/118), tiêu
chí hàng rào thuế và phi thuế quan đạt thứ hạng thấp nhất (114/118). Tiêu chí mơi
trường quy định ở Việt Nam vẫn gây cản trở cho kinh doanh (83/118).
+ Trong số 10 tiêu chí hợp phần của ETI, Việt Nam được đánh giá là có
mức độ thuận lợi thương mại trung bình về trật tự an tồn xã hội và ổn định
chính trị (xếp hạng 46/118); về hiệu quả thủ tục xuất, nhập khẩu, (50/118). 7
tiêu chí khác của Việt Nam đều xếp ở nửa cuối bảng xếp bảng cho thấy mức
độ thuận lợi thương mại của Việt Nam là rất thấp so với các nền kinh tế được
xếp hạng. Trong ba tiêu chí thuận lợi nhất cho thương mại Việt Nam, chỉ có
tiêu chí trật tự an tồn xã hội và ổn định chính trị của Việt Nam có thứ hạng
cao hơn một chút so với các nền kinh tế lựa chọn khác. Đối với 9 tiêu chí
khác, khoảng cách về thứ hạng của Việt Nam và các nước lựa chọn là cách xa
nhau.
*Nguyên nhân của hạn chế: Tuy Việt Nam đã rất nỗ lực thực hiện cải
cách thể chế môi trường kinh doanh, nhưng nhịp độ, chất lượng và hiệu quả
16


cải cách thể chế vẫn chưa đáp ứng được những yêu cầu thực tiễn đang đặt ra
do những nguyên nhân chính sau đây:
- Điều kiện kinh tế sản xuất hàng hóa nhỏ, trình độ phát triển của nền
kinh tế thấp: Nền kinh tế nước ta vẫn cịn lạc hậu. Cơng nghiệp nơng thơn chưa
thực sự được thúc đẩy nhằm đóng vai trị nịng cốt cho sự phát triển nơng thơn.
Kinh tế nơng thơn nước ta vẫn mang tính “thuần nơng” với sự hiện diện của hệ
thống các quan hệ kinh tế “nông thôn - cổ truyền” trong đời sống xã hội… Hệ
thống thể chế bao gồm cả những quy tắc xã hội được hình thành từ một cơ sở kinh
tế “thuần nông” như vậy chứa đựng nhiều mâu thuẫn và bất cập về năng lực thể
chế môi trường kinh doanh trong điều kiện kinh tế thị trường, sản xuất hàng hóa

lớn.
- Di sản của cơ chế kế hoạch hóa tập trung bao cấp vẫn còn tồn tại khá
nặng: việc Nhà nước vẫn còn bao cấp tư duy, bao cấp chức năng, bao cấp
trách nhiệm đối với các doanh nghiệp Nhà nước; Nhà nước vẫn ôm đồm
nhiều thứ trong lĩnh vực kinh tế, dẫn đến những hệ quả sau đây:
+ Sự khác biệt và chênh lệch về trình độ thể chế và trình độ cơ cấu
(kinh tế - văn hóa - xã hội) của nước ta so với quốc tế;
+ Năng lực cạnh tranh thấp và chưa có triển vọng cải thiện nhanh, phản
ánh tập trung nhất những khó khăn của nền kinh tế nước ta hiện nay: Tiềm lực
kinh tế nhỏ bé và khả năng tích lũy nội bộ thấp; Trình độ khoa học và cơng
nghệ nói chung thấp hơn hẳn so với đa số các nền kinh tế khác trong khu vực
và trên thế giới; Khai thác lợi thế lao động kém hiệu quả, chưa ưu tiên rõ nét
cho những ngành, những lĩnh vực kinh tế (tư nhân, hợp tác xã) tạo nhiều việc
làm. Chiến lược đầu tư vào con người chưa ngang tầm với đòi hỏi phát triển
hiện nay.
- Chưa chủ động, sáng tạo và sẵn sàng trong hội nhập: chưa được
chuẩn bị khẩn trương, đầy đủ các điều kiện cần thiết cho hội nhập quốc tế,
chưa lường hết những khó khăn, thách thức của hội nhập, chưa khai thác tốt
các cơ hội của hội nhập trong khi lại rất lúng túng trong đối phó với những
nguy cơ, thách thức của hội nhập.
- Năng lực thể chế và chuyên môn yếu do hạn chế về nguồn nhân lực:
là nguyên nhân chủ quan quan trọng nhất làm cho thể chế môi trường kinh
17


doanh của Việt Nam chưa đáp ứng được yêu cầu của hội nhập cho phát triển.
Sự yếu kém của nguồn nhân lực là do sự yếu kém của hệ thống giáo dục và
đào tạo quốc gia, do sự yếu kém về nhận thức và tư duy các nhà quản lý, của
doanh nghiệp và toàn xã hội.
3. Một số nhận xét

3.1. Quá trình đổi mới tư duy của Đảng và thiết lập thể chế kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa luôn gắn với xu thế chung của
thời đại và phù hợp với yêu cầu thực tiễn của Việt Nam
- Đổi mới mơ hình, thể chế kinh tế ở Việt Nam từ năm 1979 đến nay là
sự phát triển tự thân, xuất phát từ nhu cầu bức thiết của nền kinh tế - xã hội.
Do đó, q trình nhận thức của Đảng về hình thành và phát triển nền kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta gắn liền với quá trình từng
bước dứt bỏ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung bao cấp.
- Gắn với điều kiện thực tiễn, xuất phát từ yêu cầu thực tiễn nhưng
việc thiết lập mơ hình kinh tế mới ở Việt Nam luôn gắn, hội nhập với xu thế
chung của thời đại. Một trong xu thế chung của quá trình phát triển thế chế
kinh tế thị trường của các quốc gia hiện nay là theo xu thế rút ngắn.
+ Thế giới đã từng có những con đường phát triển kinh tế thị trường với
các mơ hình khác nhau: (i)Mơ hình của các nước Âu – Mỹ: theo con đường
tuần tự - cổ điển. Ở đây, kinh tế thị trường phải lần lượt trải qua tất cả các giai
đoạn nhất định và do đó, thời gian kéo dài hàng trăm năm. Ngày nay, hồn
cảnh khơng cho phép và cũng không bắt buộc phải lặp lại con đường phát
triển kinh tế thị trường tuần tự. (ii) Mơ hình của Nhật Bản: phát triển kinh tế
thị trường rút ngắn cổ điển. Bí quyết phát triển của Nhật Bản là ở chỗ biết
khai thác lợi thế của người đi sau và phát huy nội lực để tranh thủ tối đa ngoại
lực là vốn liếng, công nghệ và tri thức phương Tây. Nhà nước Nhật Bản chủ
động tạo dựng môi trường thể chế thuận lợi kết hợp với việc đề ra một hệ
thống cơ chế, chính sách và sử dụng cơng cụ điều tiết linh hoạt, mềm dẻo.
Công thức nổi tiếng của người Nhật Bản là: kỹ thuật và cơ chế thị trường
phương Tây + tinh thần Nhật Bản và văn hóa Khổng giáo phương Đông. Nhật
Bản tiến hành phát triển kinh tế thị trường và cơng nghiệp hóa mất 50 – 60
năm. (iii) Mơ hình của NICs châu Á: phát triển kinh tế thị trường rút ngắn
18



hiện đại. NICs cũng đã không áp dụng nguyên mẫu con đường phát triển kinh
tế thị trường của Nhật Bản. Đây hoàn toàn là sản phẩm của thời đại mới. Mơ
hình này, một mặt, vừa hội tụ được ưu điểm của con đường phát triển rút ngắn
cổ điển, mặt khác, lại biết phát huy vai trò điều tiết mạnh và thông minh của
Nhà nước; đặc biệt, đã sử dụng triệt để xu hướng tồn cầu hóa vừa mới xuất
hiện nhằm tranh thủ tối đa tư bản nước ngoài và mở cửa rộng rãi nền kinh tế.
Nhờ thế, NICs châu Á trong những thập kỷ đầu nửa sau thế kỷ XX chỉ cần
khoảng thời gian 30 – 35 năm để từ tình trạng nơng nghiệp lạc hậu cất cánh trở
thành những con rồng, con hổ hùng mạnh về kinh tế trong khu vực.
- Như vậy, so sánh thời gian của ba mơ hình cho thấy tồn tại khả năng
phát triển theo gia tốc tăng dần và rút ngắn khoảng cách đang ngày càng phù
hợp và phát huy tác dụng. Do đó cơng cuộc xây dựng mơ hình kinh tế mới ở
Việt Nam ngày càng chịu áp lực mạnh mẽ và chi phối của quy luật tăng tốc và
phát triển rút ngắn. Việc hoạch định đường lối xây dựng nền kinh tế thị trường
định hướng XHCN trong những năm ở Việt Nam đã từng bước hội nhập với
xu thế của thời đại với những đặc điểm nổi trội sau:
+ Cuộc cách mạng khoa học và công nghệ chuyển sang giai đoạn thứ
tư, mở ra khả năng phát triển rút ngắn phi cổ điển, cho phép từ một trình độ
thấp đi thẳng vào xã hội hậu công nghiệp và nền kinh tế tri thức.
+ Thế giới chấm dứt tình trạng đối đầu, cơ lập và đóng kín, buộc mọi
quốc gia bất luận chế độ chính trị - xã hội phải mở cửa hội nhập để phát triển
với những cơ hội và thách thức lớn hơn.
+ Nền kinh tế thị trường hiện đại đạt tới trình độ cao dưới hình thái chủ
nghĩa tư bản tồn cầu hóa đồng thời cũng bộc lộ những hạn chế và mâu thuẫn
sâu sắc, trong lịng nó đang chín muồi những tiền đề cho sự tự phủ định để
chuyển sang nấc thang mới cao hơn – xã hội hậu thị trường, kinh tế tri thức
theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
- Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam từng
bước đươc thiết lập ở Việt Nam mang trong mình những đặc trưng chung của
nền kinh tế thị trường đồng thời cũng chứa đựng những yếu tố đặc sắc của

tính “định hướng XHCN”:
+ Những đặc trưng của kinh tế thị trường:
19


(+) Tính tự chủ và tự chịu trách nhiệm: các chủ thể hay doanh nghiệp
trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đều có quyền tự chủ
kinh doanh, tự chịu trách nhiệm về lỗ lãi, tự điều chỉnh, căn cứ vào những tín
hiệu thị trường mà khơng phải dựa vào mệnh lệnh hành chính quan liêu từ
bên ngồi hay từ trên dội xuống.
(+) Tính cạnh tranh: cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa là nhân tố quyết định việc phân bổ hiệu quả các nguồn lực,
thúc đẩy cải tiến công nghệ, hợp lý hố sản xuất, tiết kiệm chi phí, hạ giá
thành và nâng cao chất lượng, mẫu mã sản phẩm để chiếm lĩnh thị phần. Cạnh
tranh cũng dẫn tới phân hoá và độc quyền, nếu thiếu sự kiểm soát chặt chẽ
của Nhà nước xã hội chủ nghĩa.
(+) Tính tự phát: do cơ chế vận hành của thị trường phải thơng qua
những dao động khơng ngừng của tín hiệu giá cả, nên luôn tiềm ẩn các yếu tố
phá vỡ cân đối, tách rời cung cầu và sự xung đột ý chí giữa các chủ thể độc
lập, thậm chí đơi khi gây nên những tổn thất to lớn như lạm phát, thất nghiệp,
suy thối, xâm hại mơi trường và cạn kiệt những nguồn tài ngun khơng thể
tái sinh. Chính vì lý do này mà hơn ở đâu, trong nển kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa thì "bàn tay vơ hình" cần được bổ sung bằng “bàn tay
hữu hình” với sự điều tiết vĩ mô mạnh của Nhà nước xã hội chủ nghĩa nhằm
can thiệp, hạn chế tối đa các khuyết tật và thất bại vốn có của thị trường.
(+) Tính mở: xét về cả khơng gian, quy mơ và trình độ, kinh tế thị
trường là phương thức kinh tế tích lũy và tăng trưởng, tái sản xuất mở rộng
theo cả hai hướng – quảng canh và thâm canh, đương nhiên thâm canh phải là
chủ yếu.
(+) Phải tuân theo các quy luật chung của kinh tế thị trường là quy luật

giá trị, quy luật giá trị thặng dư, quy luật cung - cầu, quy luật lưu thông tiền
tệ…
+ Những đặc trưng của tính “định hướng XHCN”:
(+) Khơng ngừng củng cố, hồn thiện và phát huy vai trị tổ chức, sáng
tạo, mở đường và định hướng xã hội chủ nghĩa của thượng tầng chính trị pháp luật đối với kinh tế thị trường. Giống như kinh tế thị trường xã hội chủ
nghĩa đặc sắc Trung Quốc, kinh tế thị trường định hướng xã bội chủ nghĩa
20


Việt Nam cịn có đặc điểm vơ cùng quan trọng quy định tính chất xã hội chủ
nghĩa của cả hai mơ hình này. Đó là vai trị tổ chức và sáng tạo đặc biệt của
thượng tầng chính trị - pháp luật là Nhà nước xã hội chủ nghĩa – Nhà nước
kiểu mới “của dân, do dân, vì dân” đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản
Việt Nam. Có thể nói đây là điều kiện tiên quyết đảm bảo xây dựng và phát
triển thành công nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Nếu
thiếu sự tổ chức, lãnh đạo và quản lý này thì khơng thể nói tới bất kỳ một nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa nào; thậm chí là khơng thể nói
tới xây dựng ngay cả một nền kinh tế thị trường thông thường. Bởi kinh tế thị
trường hiện đại về nguyên tắc không thể ra đời tự phát và không được điều
khiển, theo kiểu thị trường tự do hoang dã trong các thế kỷ trước.
(+) Kết hợp giải quyết hài hoà ngay từ đầu mối quan hệ giữa tăng
trưởng - công bằng xã hội - môi trường, thực hiện phát triển bền vững. Đây là
quan điểm chỉ đạo xuyên suốt q trình đổi mới mơ hình, cơ chế quản lý kinh
tế của Đảng từ năm 1986 đến nay. Những thành tựu toàn diện về kinh tế - xã
hội mà nước ta đạt được trong gần 3 thập niên qua là kết quả của sự kết hợp
hài hóa giúa các yếu tố trên trong quá trình phát triển.
3.2. Quá trình xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa ở Việt Nam là sự chuyển biến toàn diện về quan hệ sản xuất, đặc
biệt là quan hệ sở hữu.
- Cơ cấu sở hữu công cộng và tư nhân với các hình thức đa dạng, đan

xen và hỗn hợp:.
+ Về cơ cấu sở hữu trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa ở Việt Nam cho đến nay cũng còn nhiều ý kiến khác nhau. Song
cần nhìn thẳng vào thực tiễn vận hành của nền kinh tế để tìm ra hạt nhân hợp
lý của nó. Khơng thể phủ nhận rằng, quá trinh đổi mới ở Việt Nam gần 30
năm qua đã có sự biến dổi căn bản và đi vào chiều sâu, trong đó, đáng lưu ý là
sự biến đổi cơ cấu sở hữu. Từ một nền kinh tế dựa trên nền tảng đơn nhất và
thuần nhất là chế độ cơng hữu, với hai hình thức tồn dân và tập thể, đã từng
bước hình thành một cơ cấu sở hữu công, tư kết hợp với nhiều hình thức sở
hữu đa dạng, đan xen, hỗn hợp, ngày càng thích ứng với thực tiễn kinh doanh,
cho phép huy động mọi nguồn lực trong và ngoài nước vào tăng trưởng và
21


phát triển kinh tế theo mục tiêu "dân giàu, nước mạnh, xã hội cơng bằng, dân
chủ, văn minh". Có thể đánh giá sự biến đổi về cơ cấu sở hữu ở nước ta thời
gian qua như sau:
Thứ nhất, việc chuyển sang nền kinh tế thị trường và cho phép tự do
hóa kinh doanh đã làm sống lại và phát triển nhanh chóng khu vực kinh tế dựa
trên sở hữu tư nhân dưới mọi hình thức: cá thể và doanh nghiệp tư nhân trong
và ngồi nước với quy mơ khác nhau trong các lĩnh vực công nghiệp và dịch
vụ.
Thứ hai, “mềm hóa” sở hữu và tạo ra cơ cấu phân quyền - phân chia
quyền sở hữu nhà nước (hay toàn dân), làm cho sở hữu dần dần thích ứng
vói điều kiện thị trường và thúc đẩy sản xuất tiếp tục phát triển. Có thể coi
đây là một trong những đặc trưng và ưu thế của cải cách tuần tự (trong sự
khác biệt với cải cách theo sơ đồ “liệu pháp sốc”: thực hiện tư nhân hóa cấp
tốc và bằng mọi giá.
Thứ ba, quá trình mở rộng kinh tế đối ngoại đã tạo cơ hội cho việc xác
lập và phát triển thành phần kinh tế có vốn đầu tư nước ngồi. Về cơ bản,

thành phần này hoạt động dựa trên chế độ sở hữu tư nhân và các quy luật thị
trường.
Thứ tư, q trình cải tổ chế độ sở hữu tồn dân mà trong thực tế quản lý
và vận hành tài sản kinh doanh thuộc sở hữu nhà nước, cùng với quá trình mở
rộng kinh tế đối ngoại và phát triển kinh tế tư nhân trong nươc trên đây, đã
hình thành khu vực kinh tế hỗn hợp với kêt câu đa nguyên về sở hữu.
- Dưới tác động của quá trình đổi mới quan hệ sở hữu và quan hệ tổ
chức quản lý, quan hệ phân phối trong nền kinh tế Việt Nam có nhiều bước
tiến mới:
+ Sự tồn tại của chế độ đa sở hữu qvới nhiều chủ thể sản xuất kinh
doanh khác nhau đã làm cho chủ thể phân phối thu nhập là đa ngun hố chứ
khơng phải chỉ có một chủ thể phân phối thống nhất là Nhà nước như trong
nền kinh tế kế hoạch hoá trước đây.
+ Hai là, trong nền kinh tế thị trường nói chung và kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa nói riêng, động lực huy động và phân bổ các

22


nguồn lực phải tuân thủ theo cơ chế thị trường. Vì vậy việc phân phối thu
nhập ở Việt Nam ngày càng chịu sự điều tiết của cơ chế thị trường.
+ Ba là, thước đo phân phối không chỉ đơn nhất là lao động mà là đa dạng
thức, do sự đa ngun hố loại hình sở hữu và tính đa ngun của các chủ thể lợi
ích kinh tế.
3.3. Q trình định hình mơ hình kinh tế thị trường định hướng
XHCN ở Việt Nam hiện nay đang đặt ra nhiều vấn đề cấn tiếp tục đổi mới
- Kinh tế thị trường định hướng xã bội chủ nghĩa là mơ hình kinh tế
thị trường mới, đang trong quá trình tạo lập và tìm tòi thể nghiệm, vừa làm
vừa tống kết rút kinh nghiệm, khái quát thành lý luận, từ đó quay lại kiểm
chứng và đồng thời chỉ đạo thực tiễn. Do là mô hình mới nên Nhà nước cũng

chưa thể ngay từ dầu điều hành thuẩn thục đối với kinh tế thị trường, chưa thể
vận dụng tốt hệ thống các quy luật và phạm trù của nó. Đây tiếp tục là q
trình hồn thiện thể chế kinh tế với khơng ít khó khăn trong giai đoạn mới.
- Những vấn đề cần tiếp tục đổi mới, hồn thiện:
+ Hồn thiện mơi trường quy định, khắc phục những chồng chéo, mâu
thuẫn nhằm tăng hiệu quả và hiệu lực thực thi của hệ thống quy định thể chế.
+ Đẩy mạnh cải cách hành chính nhằm tạo thuận lợi cho hoạt động kinh
doanh của doanh nghiệp:
+ Tăng cường năng lực thể chế cho việc xây dựng và phát triển các thị
trường chức năng và bảo đảm sự vận hành hiệu quả của các thị trường này:
Trên thị trường đất đai, bất động sản, những khó khăn trong việc được cấp
Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đang cản trở doanh nghiệp tiếp cận đất
đai cũng như tài chính cho phát triển kinh doanh. Cần mở rộng hơn nữa quyền
kinh doanh hướng tới bảo đảm các khu vực doanh nghiệp thuộc mọi thành
phần kinh tế được tự do cạnh tranh trong mơi trường cơng bằng và bình đẳng:
+ Cần nâng cấp và phát triển mới cơ sở hạ tầng kinh doanh cả phần
cứng và phần mềm, khắc phục các nút thắt về giao thông, năng lượng, cơ chế,
tạo thuận lợi cho phát triển.
+ Tập trung sức phát triển nguồn nhân lực Việt Nam: Nguồn nhân lực
nước ta vẫn còn xa mới đáp ứng được một cách đầy đủ và có hiệu quả các địi
hỏi phát triển đất nước trong bối cảnh hội nhập. Vì vậy, tập trung sức phát
23


triển nguồn nhân lực Việt Nam trên các phương diện tư duy và nhận thức, kỹ
năng và phong cách, chất lượng và hiệu quả, chuyên nghiệp và nhân văn...
CÂU HỎI ÔN TẬP
1. Quá trình phát triển nhận thức của Đảng về đổi mới cơ chế quản lý
kinh tế, xác lập nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
2. Nhận thức của Đảng về nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ

nghĩa – bước phát triển từ Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ
năm 1991 và Cương lĩnh bổ sung, phát triển năm 2011.
3. Những nội dung cơ bản trong quan điểm của Đảng về nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
- Tài liệu tham khảo bắt buộc
1. Đảng CSVN, BCHTW, Báo cáo tổng kết một số vấn đề lý luận
và thực tiễn qua 30 năm đổi mới (1986 – 2016), Nxb CTQG, HN, 2015.
2. Đinh Thế Huyng, Phùng Hữu Phú…. (Chủ biên), 30 năm đổi mới và
phát triển ở Việt Nam, Nxb CTQG, HN, 2015.
3. Giao trình Lịch sử Đảng CSVN, Nxb CTQG, HN, 2008.
4. Giao trình Lịch sử Đảng CSVN, tập 2, Nxb QĐND, HN, 2008.
5. Hỏi đap Lịch sử Đảng CSVN, Nxb QĐND, HN, 2004.
- Tài liệu tham khảo không bắt buộc
1. Nguyễn Phú Trọng: Về định hướng xã hội chủ nghĩa và con đường
đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Nxb CTQG, H, 2001.
2. Nguyễn Đức Bình (Chủ biên), Về CNXH và con đường lên
CNXH ở Việt Nam, Nxb CTQG, HN, 2004.
3. Nguyễn Trọng Phúc (2001): Vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản
Việt Nam trong thời kỳ đổi mới, Nxb CTQG, Hà Nội.
4. Nguyễn Trọng Phúc (2007): Đổi mới ở Việt Nam thực tiễn và nhận
thức lý luận, Nxb CTQG, Hà Nội.
5. Nguyễn Văn Sự, Con đường đổi mới đưa đất nước thoát khỏi khủng
hoảng kinh tế xã hội 91986-1996), Nxb QĐND, HN, 2014.

24


25



×