Tải bản đầy đủ (.docx) (135 trang)

LUẬN VĂN THẠC SĨ NÂNG CAO HIỆU QUẢ dạy học ở đại học QUÂN sự

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (402.65 KB, 135 trang )

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Nâng cao hiệu quả dạy và học trong các nhà trường nói chung, trường đại học quân
sự nói riêng, là vấn đề đặc biệt quan trọng, nhằm thực hiện chiến lược giáo dục - đào tạo
trong thời kỳ đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Ngày nay, do
sự tác động mạnh mẽ, sâu sắc và trực tiếp của cuộc cách mạng khoa học - công nghệ đã
và đang đặt ra yêu cầu phải đổi mới mạnh mẽ quá trình giáo dục - đào tạo, chuẩn bị con
người cho các lĩnh vực hoạt động. Vấn đề quan trọng đặt ra đối với sự nghiệp giáo dục
hiện nay là cần tìm ra phương thức tối ưu trong việc phát triển con người, thơng qua đó
thúc đẩy xã hội phát triển nhanh và bền vững. Như vậy, giáo dục huấn luyện phải nhằm
đúng và đáp ứng đầy đủ, kịp thời cho những nhu cầu đòi hỏi của xã hội, của bản thân
người học đang trở thành một trong những hướng đi cơ bản của quá trình nâng cao hiệu
quả giáo dục - huấn luyện hiện nay. Vấn đề này đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh đề cập,
khái quát thành luận điểm sư phạm, để chỉ đạo thực tiễn công cuộc xây dựng, phát triển
nền giáo dục nước nhà cũng như trong hoạt động giáo dục - huấn luyện của Quân đội
nhân dân Việt Nam.
Quán triệt tư tưởng “huấn luyện phải nhằm đúng nhu cầu của Chủ tịch Hồ Chí Minh,
sự nghiệp giáo dục - đào tạo của đất nước ta đã đạt được những thành tựu rất quan trọng
kể từ sau Cách mạng tháng 8 năm 1945 đến nay. Nghị quyết Trung ương hai, khoá VIII,
Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam đã khẳng định: "Giáo dục - đào
tạo đã góp phần quan trọng trong nâng cao dân trí, đào tạo đội ngũ lao động... và đội
ngũ cán bộ đông đảo phục vụ các nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội, an ninh, quốc
phòng" [26, tr.21]. Bên cạnh những thành tựu đó, Nghị quyết cũng đã chỉ rõ mặt yếu
kém trong giáo dục và đào tạo là: "... Chưa đáp ứng kịp thời những đòi hỏi lớn và ngày
càng cao về nhân lực của công cuộc đổi mới kinh tế - xã hội..." [26, tr.23]. Điều này cho
thấy để nâng cao hiệu quả giáo dục - đào tạo, một trong những vấn đề rất quan trọng
hiện nay là phải quán triệt và thực hiện đầy đủ, đúng đắn tư tưởng “huấn luyện phải
nhằm đúng nhu cầu” của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Thực tiễn giáo dục - huấn luyện của Quân đội nhân dân Việt Nam và quá trình dạy
học ở nhà trường quân sự cho thấy, để nâng cao hiệu quả của hoạt động giáo dục - huấn
luyện là phải đảm bảo cho toàn bộ q trình này ln nhằm đúng và đáp ứng tốt nhất




cho các nhu cầu của xã hội, của sự nghiệp xây dựng và chiến đấu của quân đội, của sự
tiến bộ của các quân nhân, trong từng thời kỳ lịch sử cụ thể. Về vấn đề này, Nghị quyết
93 của Đảng ủy Quân sự trung ương đã chỉ rõ: "Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ phải đón
trước và phục vụ đắc lực cho các yêu cầu, nhiệm vụ phát triển của qn đội..." [28.
tr.51]. Gần đây đã có nhiều cơng trình nghiên cứu nhằm góp phần đổi mới, nâng cao
hiệu quả của quá trình dạy học ở đại học quân sự. Các cơng trình đó, xét trên những góc
độ nhất định, đã có đề cập tới cần phải đảm bảo cho quá trình dạy học ở đại học quân sự
đáp ứng được yêu cầu của thực tiễn phát triển quân đội và thực tiễn phát triển đất nước.
Song, chưa có cơng trình nào đi sâu nghiên cứu về tư tưởng "huấn luyện phải nhằm
đúng nhu cầu” của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Do đó, cần có những nghiên cứu mang tính hệ thống làm rõ thực chất tư tưởng "huấn
luyện phải nhằm đúng nhu cầu” của Chủ tịch Hồ Chí Minh, từ đó đề xuất được những
phương hướng cơ bản trong việc nâng cao hiệu quả dạy học ở đại học qn sự hiện nay
theo hướng đó. Vì vậy, tác giả đã chọn đề tài “ Nâng cao hiệu quả dạy học ở đại học
quân sự hiện nay theo tư tưởng “huấn luyện phải nhằm đúng nhu cầu của Chủ tịch Hồ
Chí Minh" làm cơng trình nghiên cứu của mình
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Việc nghiên cứu tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về giáo dục và giáo dục quân sự
là một nội dung quan trọng, đã được các nhà khoa học trong và ngoài quân đội thường
xuyên quan tâm nghiên cứu, khai thác trên những phương diện khác nhau. Các tác giả
đã tập trung làm rõ hệ thống tư tưởng giáo dục và giáo dục quân sự của Người, giá trị
khoa học - thực tiễn của các tư tưởng đó và việc vận dụng vào thực tiễn giáo dục - đào
tạo của đất nước, của quân đội nhằm không ngừng cải tiến, nâng cao chất lượng, hiệu
quả của công tác giáo dục - đào tạo.
Trong lĩnh vực giáo dục học, có thể kể đến một số cơng trình tiêu biểu như: "Hồ Chí
Minh - nhà giáo dục vĩ đại" của Giáo sư Nguyễn Lân [56], Tuyển tập “Tìm hiểu tư
tưởng giáo dục của Chủ tịch Hồ Chí Minh" [111] của tập thể các tác giả trong Ban đề tài
"Chủ tịch Hồ Chí Minh với sự nghiệp giáo dục". Luận án tiến sĩ của tác giả Đào Thanh

Âm với "Tư tưởng Hồ Chí Minh về quyền trẻ em, xét dưới góc độ giáo dục học" [6].
Đức Vượng với "Hồ Chí Minh với vấn đề đào tạo cán bộ" [113]. Ngồi ra cịn nhiều bài
báo, tham luận được đăng tải trong nhiều tạp chí, kỷ yếu của các nhà khoa học khác


nghiên cứu về tư tưởng giáo dục của Chủ tịch Hồ Chí Minh trên các phương diện khác
nhau.
Những cơng trình đó đã góp phần làm sáng tỏ hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh về
giáo dục - huấn luyện; đồng thời cũng đặt ra yêu cầu cần có sự nghiên cứu chuyên sâu
về hệ thống tư tưởng giáo dục - huấn luyện của Chủ tịch Hồ Chí Minh, đặc biệt là việc
xác định những phương hướng cơ bản trong vận dụng các luận điểm sư phạm của
Người vào thực tiễn nhằm nâng cao hơn nữa hiệu quả công tác giáo dục.
Trong lĩnh vực giáo dục học quân sự, việc nghiên cứu, quán triệt tư tưởng giáo dục
của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong nhiều năm qua ln là mối quan tâm của các cấp lãnh
đạo, chỉ huy và của các nhà sư phạm quân sự. Trong những năm chiến tranh giải phóng,
tuy chưa có điều kiện đi sâu nghiên cứu một cách có hệ thống những tư tưởng giáo dục huấn luyện quân sự của Chủ tịch Hồ Chí Minh; nhưng trên thực tế, tinh thần căn bản
của các tư tưởng đó đã được đúc kết thành những quan điểm, nguyên tắc chỉ đạo mọi
hoạt động giáo dục - huấn luyện trong tồn qn cũng như trong cơng tác đào tạo tại các
nhà trường quân sự. Ví dụ, tư tưởng "huấn luyện phải nhằm đúng nhu cầu” của Hồ Chí
Minh đã được khái quát thành luận điểm "Dạy những cái chiến tranh cần". Nhờ sự vận
dụng đúng đắn các tư tưởng đó, chất lượng huấn luyện được nâng cao, đã góp phần
nâng cao sức mạnh chiến đấu, thực hiện được yêu cầu vừa tác chiến, vừa xây dựng của
quân đội ta.
Những năm gần đây việc đi sâu nghiên cứu, vận dụng tư tưởng giáo dục quân sự của
Chủ tịch Hồ Chí Minh nhằm nâng cao hiệu quả dạy học ở đại học quân sự đã thu hút
được sự quan tâm của nhiều nhà sư phạm quân sự. Một trong những cơng trình tiêu biểu
là tác phẩm "Hồ Chí Minh với sự nghiệp giáo dục quân sự" [93], đây là công trình
nghiên cứu của tập thể các nhà sư phạm quân sự. Trong cơng trình này, các tác giả đã đi
sâu nghiên cứu tư tưởng giáo dục quân sự của Hồ Chí Minh trên những góc độ khác
nhau. Kết quả nghiên cứu của các tác giả đã khẳng định: Hồ Chí Minh là nhà sư phạm

quân sự vĩ đại, những tư tưởng về giáo dục - huấn luyện của Người có giá trị to lớn cả
trên phương diện lý luận và thực tiễn; cần được tiếp tục đi sâu nghiên cứu, khai thác,
vận dụng vào thực tiễn dạy học ở đại học quân sự cũng như trong công tác giáo dục,
huấn luyện tại các đơn vị trong tồn qn, nhằm khơng ngừng nâng cao hiệu quả của
hoạt động này, góp phần xây dựng quân đội vững mạnh, hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ
được giao trong giai đoạn mới.


Như vậy, việc đi sâu nghiên cứu về tư tưởng giáo dục - huấn luyện của Chủ tịch Hồ
Chí Minh đã và đang được nhiều nhà khoa học giáo dục trong và ngoài quân đội quan
tâm. Tuy nhiên, cho đến nay, vẫn chưa có một cơng trình nghiên cứu chun sâu về tư
tưởng "huấn luyện phải nhằm đúng nhu cầu” của Hồ Chí Minh với việc nâng cao hiệu
quả dạy học ở đại học quân sự.
3. Mục đích nghiên cứu
Làm sáng tỏ thực chất tư tưởng "huấn luyện phải nhằm đúng nhu cầu” của Chủ tịch
Hồ Chí Minh; trên cơ sở đó, đề xuất những phương hướng cơ bản nhằm nâng cao hiệu
quả dạy học ở đại học quân sự hiện nay theo tư tưởng đó.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục tiêu trên, luận án có các nhiệm vụ cơ bản sau:
- Phân tích làm rõ thực chất tư tưởng "huấn luyện phải nhằm đúng nhu cầu” của Chủ
tịch Hồ Chí Minh.
- Khảo cứu thực tiễn việc vận dụng tư tưởng "huấn luyện phải nhằm đúng nhu cầu
của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong cơng tác giáo dục - đào tạo ở các nhà trường quân sự.
- Đề xuất những phương hướng cơ bản để nâng cao hiệu quả dạy học ở đại học quân
sự hiện nay theo tư tưởng "huấn luyện phải nhằm đúng nhu cầu” của Chủ tịch Hồ Chí
Minh.
5. Khách thể và đối tượng nghiên cứu
- Khách thể nghiên cứu của luận án là quá trình dạy học ở đại học quân sự theo tư
tưởng "huấn luyện phải nhằm đúng nhu cầu” của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
- Đối tượng nghiên cứu của luận án là phương hướng nâng cao hiệu quả dạy học ở

đại học quân sự hiện nay theo tư tưởng "huấn luyện phải nhằm đúng nhu cầu” của Chủ
tịch Hồ Chí Minh.
6. Phạm vi nghiên cứu
Luận án giới hạn phạm vi nghiên cứu những phương hướng nâng cao hiệu quả dạy
học ở đại học quân sự hiện nay theo tư tưởng "huấn luyện phải nhằm đúng nhu cầu” của
Chủ tịch Hồ Chí Minh, trong quá trình đào tạo các sĩ quan binh chủng hợp thành cấp
phân đội.


7. Giả thuyết khoa học
“Huấn luyện phải nhằm đúng nhu cầu của Chủ tịch Hồ Chí Minh là một luận điểm
quan trọng trong hệ thống những tư tưởng về giáo dục của Người. Trên thực tế, tư tưởng
này đã được vận dụng và mang lại hiệu quả to lớn trong huấn luyện ở các đơn vị quân
đội và trong dạy học ở các nhà trường quân sự, nhất là trong chiến tranh giải phóng.
Nếu ta đi sâu nghiên cứu làm sáng tỏ thực chất tư tưởng “huấn luyện phải nhằm đúng
nhu cầu” của Chủ tịch Hồ Chí Minh; đồng thời, biết vận dụng đúng đắn, sáng tạo vào
thực tiễn dạy học ở đại học quân sự hiện nay như: xác định đúng mục tiêu dạy học, lựa
chọn nội dung dạy học bảo đảm được tính cơ bản, tồn diện, thiết thực ; đổi mới cơ bản
cách dạy và học, coi trọng việc bồi dưỡng năng lực tự học, tự nghiên cứu, năng lực thực
hành theo mục tiêu đào tạo thì hiệu quả dạy học ở đại học quân sự sẽ được nâng lên.
8. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện chứng của chủ nghĩa Mác - Lênin; quán
triệt sâu sắc tư tưởng Hồ Chí Minh và các quan điểm của Đảng ta về giáo dục - đào tạo,
nhất là những chủ trương đổi mới về phương pháp dạy và học trong thời CNH - HĐH
đất nước. Trong quá trình nghiên cứu, tác giả luận án tiếp cận vấn đề theo quan điểm hệ
thống - cấu trúc; quan điểm phức hợp: hoạt động - giá trị - nhân cách: phương pháp lịch
sử - lơ gíc, trên cơ sở phân tịch rõ hồn cảnh lịch sử, điều kiện hình thành và quá trình
vận dụng tư tưởng "huấn luyện phải nhằm đúng nhu cầu” của Chủ tịch Hồ Chí Minh
trong thực tiễn huấn luyện của Quân đội nhân dân Việt Nam. làm sáng tỏ cơ sở khoa
học và thực chất tư tưởng của Người. Đồng thời tác giả vận dụng tổng hợp các phương

pháp nghiên cứu của khoa học giáo dục:
- Các phương pháp nghiên cứu lý thuyết, bao gồm: phương pháp phân tích, tổng hợp,
khái quát, hệ thống hoá các vấn đề qua nghiên cứu hệ thống tài liệu lý luận, chuyên
khảo thuộc phạm vi nghiên cứu.
Các phương pháp nghiên cứu thực tiễn:
+ Tổng kết kinh nghiệm: khảo cứu thực tiễn hoạt động huấn luyện của nhà trường
quân đội trong các thời kỳ, rút ra những bài học kinh nghiệm về giáo dục - huấn luyện
của nhà trường quân đội theo tư tưởng “huấn luyện phải nhằm đúng nhu cầu” của Chủ
tịch Hồ Chí Minh.


+ Quan sát sư phạm: tiến hành quan sát quá trình giáo dục - huấn luyện trong các nhà
trường quân sự.
+ Điều tra xã hội học: đã dùng phiếu điều tra khảo sát 110 đồng chí giáo viên và 500
đồng chí học viên của 5 trường đại học quân sự thuộc khối đào tạo sĩ quan cấp phân đội
có trình độ đại học để đánh giá thực trạng về việc thực hiện tư tưởng "huấn luyện phải
nhằm đúng nhu cầu” trong thực tiễn dạy học của nhà trường.
- Phương pháp thực nghiệm sư phạm: được xác định là phương pháp cơ bản trong
quá trình nghiên cứu (sẽ trình bày riêng trong chương 3).
9. Đóng góp của luận án
Luận án có 2 đóng góp mới chủ yếu sau:
- Góp phần làm sáng tỏ thực chất tư tưởng "huấn luyện phải nhằm đúng nhu cầu” của
Chủ tịch Hồ Chí Minh.
- Đề xuất những phương hướng cơ bản, có tính khả thi trong việc vận dụng tư tưởng
"huấn luyện phải nhằm đúng nhu cầu” của Chủ tịch Hồ Chí Minh vào thực tiễn dạy học
ở đại học quân sự hiện nay nhằm nâng cao hiệu quả quá trình dạy học ở đại học quân
sự.
10. Kết cấu của luận án
Luận án có 197 trang, gồm phần mở đầu, 3 chương (8 tiết), kết luận, kiến nghị, danh
mục cơng trình của tác giả, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục.

Chương 1
THỰC CHẤT TƯ TUỞNG "HUẤN LUYỆN PHẢI NHẰM ĐÚNG NHU CẦU"
CỦA CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH VÀ VIỆC QN TRIỆT TƯ TƯỞNG ĐĨ
TRONG CÁC NHÀ TRƯỜNG QUÂN ĐỘI
1.1 Một số khái niệm liên quan
Để hiểu thực chất tư tưởng "huấn luyện phải nhằm đúng nhu cầu” của Chủ tịch Hồ
Chí Minh, trước hết luận án nêu lên một số khái niệm có liên quan.
1.1.1 Giáo dục
Nội dung khái niệm giáo dục hiện còn có nhiều định nghĩa khác nhau.


Dưới đây là định nghĩa về giáo dục theo giáo dục học quân sự.
Giáo dục (theo nghĩa rộng), là một quá trình tổng thể của các hoạt động dạy học,
giáo dục (nghĩa hẹp), phát triển, chuẩn bị tâm lý cho học viên, được tổ chức một cách có
mục đích, có kế hoạch, do các nhà giáo dục lãnh đạo nhằm đào tạo học viên sĩ quan
phát triển theo yêu cầu của xã hội của quân đội .
Giáo dục ở đây được hiểu như là một hệ thống phức hợp của các hoạt động cơ bản
trong nhà trường quân sự, là một q trình mang tính chất tồn vẹn của việc xây dựng
các phẩm chất và năng lực cho người học viên sĩ quan [43].
Giáo dục (theo nghĩa hẹp), đó là q trình tác động có mục đích, có hệ thống liên tục
của các lực lượng giáo dục trong nhà trường quân sự đối với học viên nhằm hình thành
những chuẩn mực văn hố, đạo đức, những nét tính cách và những phẩm chất cần thiết
của người cán bộ quân đội cách mạng. Chức năng trội của giáo dục là xây dựng các
phẩm chất nhân cách thông qua việc tổ chức cuộc sống, tổ chức các hoạt động, các mối
quan hệ giao lưu của các học viên và tập thể học viên ở nhà trường quân sự.
1. 1.2. Đào tạo
Theo từ điển bách khoa Việt Nam, đào tạo được hiểu là quá trình tác động đến một
con người làm cho người đó lĩnh hội và nắm vững tri thức, kỹ năng, kỹ xảo một cách có
hệ thống nhằm chuẩn bị cho người đó thích nghi với cuộc sống và khả năng nhận một
sự phân cơng lao động nhất định, góp phần của mình vào việc phát triển xã hội, duy trì

và phát triển nền văn minh của loài người. Về cơ bản, đào tạo là giảng dạy và học tập
trong nhà trường, gắn với giáo dục đạo đức, nhân cách... [l02, tr.735].
Vậy có thể thấy, khái niệm giáo dục (theo nghĩa rộng) đã bao hàm cả khái niệm đào
tạo. Đào tạo là chỉ một trong những chức năng quan trọng, trực tiếp của giáo dục, một
thuộc tính cơ bản của giáo dục, đào tạo là cơ cấu quá trình quyết định mang lại cho giáo
dục tính tổ chức, kế hoạch, hướng đích và điều khiển được" [96, tr.43].
1.1.3. Dạy học
Với tư cách là một bộ phận của quá trình sư phạm trong nhà trường quân sự, dạy học
là một quá trình có mục đích, có tổ chức, phối hợp thống nhất giữa hoạt động của người
dạy và hoạt động của người học nhằm trang bị các kiến thức, kỹ xảo. kỹ năng nghề
nghiệp quân sự, phát triển khả năng tư duy sáng tạo, giáo dục những phẩm chất nhân


cách cần thiết cho người học viên sĩ quan. Chức năng trội của dạy học là hướng vào
hình thành hệ thống kiến thức, kỹ xảo, kỹ năng cho người học, trên cơ sở đó phát triển
trí tuệ, giáo dục nhân cách cho họ [43].
1.1.4. Huấn luyện
Thuật ngữ huấn luyện trong giáo dục học quân sự được hiểu đồng nghĩa với thuật
ngữ dạy học [43]. Khi nghiên cứu tư tưởng giáo dục của Chủ tịch Hồ Chí Minh, chúng
tơi thấy rằng quan niệm của Người về huấn luyện có nội hàm rộng hơn thuật ngữ dạy
học. Người cho rằng "... phải huấn và luyện. Huấn là dạy dỗ, luyện là rèn giũa cho sạch
những vết xấu xa trong đầu óc..." [78. tr.48]. Như vậy, huấn luyện được hiểu đó là sự
kết hợp thống nhất hữu cơ giữa dạy học và giáo dục, rèn luyện phẩm chất nhân cách cho
người học viên nhằm đạt được mục tiêu giáo dục. Do đó, dạy học chỉ là một bộ phận
hữu cơ không tách rời của huấn luyện.
Như vậy, giáo dục, đào tạo, dạy học, huấn luyện là những khái niệm khơng hồn tồn
đồng nhất, nhưng có mối quan hệ lơgíc, thống nhất chặt chẽ với nhau. Trong phạm vi
của luận án, chúng tôi giới hạn vấn đề nghiên cứu là tìm hiểu một trong những hệ thống
tư tưởng về giáo dục - huấn luyện của Chủ tịch Hồ Chí Minh đó là tư tưởng "huấn luyện
phải nhằm đúng nhu cầu”. Qua đó góp phần làm sáng tỏ thực chất tư tưởng này và vận

dụng vào một quá trình cụ thể trong giáo dục - đào tạo ở ĐHQS đó là q trình dạy học,
nhằm nâng cao hiệu quả dạy học, góp phần trực tiếp tới việc nâng cao chất lượng, hiệu
quả đào tạo ở ĐHQS hiện nay.
1.1.5. Nhu cầu
Thuật ngữ nhu cầu hiện có nhiều định nghĩa với ý nghĩa rộng, hẹp khác nhau. Dưới
đây nêu lên hai định nghĩa phổ biến:
Nhu cầu là cái mà bản chất tự nhiên hay xã hội đòi hỏi [32. tr.602].
Nhu cầu là những đòi hỏi tất yếu khách quan biểu hiện sự cần thiết về một cái gì đó
cần được thỏa mãn của con người trong cuộc sống và hoạt động [95, tr.248].
Qua hai định nghĩa trên ta thấy, nhu cầu có nhiều cấp độ: xét trên phương diện xã hội
thì nhu cầu của xã hội cũng có nhiều cấp độ. Cấp độ chung (tổng thể) là nhu cầu của
toàn xã hội; cấp độ hẹp hơn là nhu cầu của các nhóm xã hội; tiếp nữa là nhu cầu của cá
nhân con người. Do đó, chúng tơi cho rằng: Nhu cầu là những đòi hỏi của cá nhân, của


tập thể(nhóm), của tồn xã hội đối với những điều kiện khách quan nhất định nhằm
đảm bảo cho sự tồn tại của cá nhân, của tập thể (nhóm) và của xã hội. Nhu cầu được
nảy sinh bởi mối quan hệ giữa hoàn cảnh bên ngoài với điều kiện bên trong của con
người, nó biểu hiện sự phụ thuộc của con người vào hồn cảnh sống cụ thể. Nhu cầu
ln gắn chặt với hoạt động; nhờ hoạt động mà một sự cần thiết trừu tượng nào đó mới
được vật chất hố và trở thành nhân tố kích thích trực tiếp đối với hoạt động sống của
mỗi cá nhân. Các nhu cầu do điều kiện khách quan quy định và điểm này được xem như
là biểu hiện tính quy định khách quan của sự phát triển trong các lĩnh vực của đời sống
xã hội, các điều kiện này quy định việc tạo nên cách thức, biện pháp hoạt động của con
người. trong do nhu cầu động vai trò là động lực thúc đẩy. Mác - Ăngghen đã xem nó
như là tiền đề đầu tiên trong lịch sử. Trong "Hệ tư tưởng Đức", các ơng đã viết: "Người
ta phải có khả năng sống đã rồi mới có thể (làm ra lịch sử). Nhưng muốn sống được thì
trước hết phải có thức ăn, thức uống, nhà ở, quần áo và một vài thứ khác nữa. Như vậy,
hành vi lịch sử đầu tiên là việc sản xuất ra những tư liệu để thoả mãn những nhu cầu ấy"
[61, tr.286].

Các loại hình hoạt động của con người rất đa dạng. Trên cơ sở những điều kiện vật
chất khách quan cho phép, con người thực hiện các nhu cầu của minh thông qua hoạt
động thực tiễn. Hoạt động thực tiễn của con người được xem như là trình độ năng lực
cải tạo tự nhiên và xã hội để đáp ứng các nhu cầu chính đáng của mình. Nhu cầu đóng
vai trị là cơ sở của q trình chuyển hoá năng lực chủ quan thành những hoạt động có
mục đích. Nhu cầu tồn tại với tư cách là mối quan hệ chặt chẽ giữa cái khách quan và
cái chủ quan, thúc đẩy con người đạt tới những đòi hỏi có tính khách quan và quyết định
hệ thống hành vi, cảm xúc, hình thành tính tịch cực của con người. Khi một nhu cầu nào
đó xuất hiện, con người hướng ra xung quanh để tìm kiếm đối tượng, đồng thời tích cực
hố những lực lượng bên trong của mình, biến nó thành hành động nhằm chiếm lĩnh đối
tượng để thoả mãn nhu cầu. Do đó nhu cầu là nguốn gốc của tính tích cực hoạt động
của con người. Ph. Ăngghcn đã chỉ ra rằng: "... đáng lẽ người ta phải giải thích rằng
hoạt động của mình là do nhu cầu của mình quyết định (mà nhu cầu đó, quả thật đã
được phản ánh vào đầu óc người ta và đã làm cho họ có ý thức đối với những nhu cầu
đó), thì người ta lại quen giải thích rằng hoạt động của mình là tư duy của mình quyết
định" [5, tr.651].


Các nhu cầu của con người và của xã hội vừa mang tính khách quan, vừa phản ánh
tính chủ quan, nó được hình thành trong q trình sống, trong các quan hệ xã hội, chịu
sự tác động của hoàn cảnh, của điều kiện tự nhiên - xã hội và của giáo dục. Nhu cầu của
xã hội và của cá nhân con người rất phong phú, đa cấp và luôn vận động, biến đổi, phát
triển cùng với sự vận động, phát triển của hồn cảnh, của điều kiện sống, của chính sự
vận động và phát triển của xã hội, của con người. Như vậy, nói đến nhu cầu, chúng ta
cần hiểu cả trên bình diện của cá nhân, của xã hội; thấy được vai trị, tính chất và sự vận
động biến đổi của nó. Vấn đề quan trọng để bảo đảm cho xã hội và cá nhân phát triển
hài hoà, ổn định và bền vững là bảo đảm cho được sự thống nhất giữa nhu cầu của cá
nhân với nhu cầu của xã hội và phương thức đúng đắn cho việc giải quyết thoả đáng các
nhu cầu đó. Song phương thức để thoả mãn các nhu cầu phụ thuộc rất lớn vào kết quả
của giáo dục. Do đó, giáo dục- huấn luyện phải nhằm đúng và đáp ứng tốt nhất cho

những nhu cầu chính đáng của xã hội, của cá nhân là phương thức hữu hiệu, bảo đảm
thực hiện tốt nhất vấn đề thống nhất giữa nhu cầu của cá nhân với nhu cầu của xã hội.
Qua đó sẽ tạo nên động lực thúc đẩy tính tích cực của cả cá nhân và xã hội trong quá
trình vận động và phát triển.
1.2. Vấn đề dạy học với việc đáp ứng nhu cầu trong lịch sử giáo dục
Trong lịch sử phát triển của giáo dục, việc bảo đảm cho dạy học đáp ứng nhu cầu
phát triển của xã hội, của con người là vấn đề được quan tâm từ rất sớm, đã được các
nhà tư tưởng đề cập đến trên những mức độ và bình diện khác nhau.
Ngay từ thời cổ đại, vấn đề dạy học và nhu cầu đã được các nhà giáo dục cả phương
Tây và phương Đông đề cập đến. Có thể kể đến một số nhà giáo dục tiêu biểu như Sôcrát, A-ris-tốt, Pla-ton, Khổng Tử...
Sô-crát (469 - 399 TCN) cho rằng, quá trình nhận thức chân lý là quá trình liên tục
giải quyết các mâu thuẫn của người nhận thức. Trên cơ sở đó, ơng đề xuất phương pháp
“đàm thoại” trong dạy học, nhằm dẫn dắt người học vào các tình huống có vấn đề, dưới
sự dẫn dắt của người thầy, để người học tự khám phá và rút ra tri thức mới. Như vậy, ở
một mức độ nhất định, Sô-crát đã xuất phát từ nhu cầu nhận thức của bản thân người
học, để đề xuất một cách thức – một phương pháp dạy học. Đây chính là ý tưởng cho
việc nảy sinh tư tưởng dạy học phải xuất phát và đáp ứng nhu cầu nhận thức của người
học [104].


Pla-ton (427 – 318 TCN) cho rằng, việc giáo dục phải có hệ thống thứ bậc theo lứa
tuổi và các địa chỉ của mỗi người với các vị trí, thứ bậc khác nhau sau này trong xã hội.
Quan điểm này của ơng tuy có mặt phiến diện, duy tâm. Song, hạt nhân hợp lý là ở chỗ
bước đầu ý tưởng của ơng về sự địi hỏi giáo dục, dạy học, phải nhằm vào những nhu
cầu của thực tiễn xã hội đối với việc đào tạo con người cho các lĩnh vực hoạt động của
xã hội đã bước đầu xuất hiện [104].
A-ris-tốt (384 - 322 TCN), ông là một trong những nhà tư tưởng đầu tiên trong lịch
sử đưa ra luận điểm giáo dục phải xuất phát từ đặc điểm tự nhiên và nhu cầu của con
người. Ông cho rằng, con người là một thực thể tự nhiên được cấu thành bởi ba yếu tố
(xương thịt, ý chí, lý trí). Do đó, việc giáo dục con người phải xuất phát và nhằm thực

hiện cho được việc phát triển đồng thời các yếu tố trên. Từ đó, ơng đưa ra các nội dung
giáo dục tương ứng là giáo dục thể dục, giáo dục đức dục, giáo dục trí dục. Đi sâu vào
sự phát triển của trẻ em, Aris-tốt cho rằng, trẻ em phát triển qua các thời kỳ, các lứa tuổi
có những đặc điểm riêng về tâm - sinh lý nhất định, do đó cần phải có những nội dung,
phương pháp giáo dục thích hợp với từng thời kỳ, từng lứa tuổi. Như vậy, A-ris-tốt đã
xuất phát từ đặc điểm và nhu cầu phát triển của con người để đề xuất những nội dung,
phương pháp giáo dục thích hợp [104].
Ở phương Đơng, Khổng Tử (551 - 479 TCN), là người đầu tiên trong lịch sử nêu lên
mối quan hệ giữa giáo dục với xã hội. Theo ông, mỗi dân tộc muốn tồn tại và phát triển
phải có được ba thành tố: “thứ - phú - giáo". Như vậy giáo dục là một thành tố khơng
thể thiếu và nó gắn bó chặt chẽ với các thành tố khác trong sự phát triển của các quốc
gia, dân tộc trong những tư tưởng về dạy học của Khổng Tử, chúng ta có thể thấy ơng
đặc biệt quan tâm tới việc phát huy và kích thích nhu cầu tự nhận thức, tự khám phá,
tìm tịi của người đọc [104].
Mặc Tử (475 - 390 TCN) cũng là một trong những nhà tư tưởng đầu tiên trong lịch sử
cho rằng, nội dung học tập phải gắn với thực tế, phù hợp với lợi ích của mn dân trăm
họ. Đó là tư tưởng "Quốc gia bách tính nhân dân chi lợi", “Bách tính nhân dân nhĩ mục
chi thực"[104. tr.67]. Từ đó, ơng đề ra ngun tắc giáo dục là thực tiễu và tự nhiên.
Theo đó, giáo dục phải xuất phát từ thực tiễn, từ đặc điểm người học, theo sức lực và
khả năng của người học "lượng lực sở năng chi" [104. tr.68]. Vậy có thể thấy rằng, tư
tưởng của Mặc Tử về việc dạy học phải đáp ứng nhu cầu của thực tiễn, của người học
đã được thể hiện khá rõ.


Như vậy, ngay từ rất sớm, những ý tưởng về việc gắn kết chặt chẽ giữa giáo dục, dạy
học với xã hội, với con người, nhằm đảm bảo cho giáo dục, dạy học đáp ứng được các
nhu cầu phát triển của xã hội, của con người đã được các nhà tư tưởng đề cập đến từ rất
sớm. Cho đến nay, nhiều quan điểm trên vẫn cịn có giá trị lý luận, thực tiễn to lớn; tuy
nhiên do những hạn chế nhất định, những ý tưởng đó cịn mang tính chủ quan, phiến
diện [l04].

Thời kỳ chủ nghĩa tư bản hình thành và phát triển, nhiều nhà giáo dục lớn đã có chủ
trương xây dựng một nền giáo dục dân chủ, nhân đạo, coi trọng việc thực hiện gắn kết
chặt chẽ giữa giáo dục với cuộc sống, với sự phát triển của con người. Có thể kể đến
một số tư tưởng giáo dục tiêu biểu sau:
J. A. Kô-men-xki (1592 - 1670): Triết lý giáo dục nổi bật và xuyên suốt của ông là
giáo dục phải phù hợp với tự nhiên. Ông cho rằng, con người là một thực thể của tự
nhiên, mà tự nhiên diễn ra theo quy luật, nên việc giáo dục con người cũng phải tuân
theo quy luật; ông cho rằng, trẻ em phát triển qua các thời kỳ khác nhau, giữa các giai
đoạn đó có sự kế thừa, sự phát triển. Do đó, giáo dục phù hợp với tự nhiên là phải căn
cứ vào sự phát triển của trẻ, để có những nội dung, những phương thức giáo dục đúng
đắn, thiết thực. Đây chính là một bước tiến mới trong việc khẳng định tư tưởng giáo dục
- dạy học phải bắt nguồn từ nhu cầu phát triển của đối tượng để xác định mục tiêu nội
dung và phương thức giáo dục đúng đắn [104].
Giôn-Lốc (1632 - 1704), cho rằng cơ sở khoa học của việc giáo dục trẻ em là phải từ
đặc điểm cá nhân của trẻ em, từ đó ơng địi hỏi phải biết quan sát tìm là được những
phẩm chất khác của trẻ, từ đó hoạt động giáo dục phải thích ứng được những cá tính của
trẻ. Đi sâu vào việc dạy học. ông yêu cầu các giáo viên phải khơi dậy ở trẻ lòng ham
mê, say sưa, trong việc tìm và nắm được tri thức [l04].
J.J. Rút-xô (1812 - 1778), luận đề nổi tiếng của ông là “Giáo dục tự nhiên và tự do".
Ơng địi hỏi việc giáo dục con người phải tuân theo quy luật của tự nhiên, mà một trong
quyền thiêng liêng nhất của con người là tự do. Vì thế giáo dục tự nhiên cũng có nghĩa
là phải tiến hành giáo dục tự do. Rút-xô đã chia trẻ em thành các lứa tuổi với sự phân
tịch những đặc điểm phát triển riêng về tâm - sinh lý, từ đó ơng u cầu mỗi lứa tuổi cần
có sự xác định rõ ràng, cụ thể về nội dung, phương thức giáo dục, nhằm làm cho trẻ
được phát triển tự do về nhân cách, để trở thành người làm chủ bản thân, có quyền tham


gia quản lý xã hội. Như vậy, Rút-xô đặc biết nhấn mạnh việc giáo dục - dạy học phải
bắt nguồn từ nhu cầu của đối tượng.
Pét-xta-lô-di (1746-1827), là người chịu ảnh hưởng quan điểm giáo dục tự nhiên của

J. J. Rút-xơ; song, ở ơng có cái nhìn đầy đủ và tồn diện hơn. Ơng u cầu, giáo dục
phải trên cơ sở sự phát triển tự nhiên của trẻ, song quá trình này cần có sự can thiệp
của con người như là sự định hướng vào đời cho trẻ. Từ đó, ông cho rằng, mục đích
giáo dục là làm phát triển mọi tiềm năng tự nhiên ở con người, một sự phát triển toàn
diện và cân đối để tiêu diệt tận gốc rễ mọi sự nghèo khổ của nhân dân, tạo nên những
người cơng dân có ích cho xã hội. Ơng chỉ rõ nội dung giáo dục con người phải bao
hàm cả đức dục - trí dục - thể dục - lao động.
Như vậy, ở thời kỳ này đã xuất hiện nhiều tư tưởng giáo dục tiến bộ, trong đó luận
điểm giáo dục - dạy học phải hướng vào và đáp ứng đầy đủ những nhu cầu phát triển
tự nhiên của con người đã được nhiều nhà tư tưởng đề cập. Song, do hạn chế bởi "cảm
giác luận" và triết học duy lý, nên những tư tưởng đó cịn phiến diện. giản đơn [104 ].
Cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, với sự xuất hiện của nhiều trào lưu triết học mang
màu sắc duy tâm chủ quan như chủ nghĩa hiện sinh, chủ nghĩa thực dụng, đồng thời với
sự xuất hiện thuyết hành vi trong tâm lý học đã ảnh hưởng mạnh mẽ tới các nhà giáo
dục. Giáo dục trong thời kỳ này xuất hiện đa dạng với nhiều trường phái và tên gọi khác
nhau. Có thể kể đến một số trường phái tiêu biểu như:
“Nhà trường mới", do bác sĩ Rét-di người Anh đề xưóng vào năm 1889, sau đó phát
triển sang các nước khác ở Pháp, Mỹ, Thụy Sĩ… Xét về mọi bình diện từ việc tổ chức
đến việc xác định nội dung, phương thức và đầu tư cho giáo dục ở "nhà trường mới"
đều có tính ưu việt hơn với các nhà trường khác, nhằm đào tạo một lớp người có chất
lượng cao để kế tục sự nghiệp quản lý nhà nước tư sản. Loại hình nhà trường này đã
bước đầu quan tâm tới nhu cầu của xã hội đối với việc đào tạo lớp người cho xã hội.
Song, hạn chế cơ bản của kiểu nhà trường này là không nhằm phục vụ cho đông đảo
tầng lớp nhân dân lao động.
“Nền giáo dục công dân" và "nhà trường lao động", lúc đầu xuất hiện ở Đức sau đó
phát triển sang các nước khác ở Âu - Mỹ. Đó là một xu thế mới về giáo dục. Người đề
xuất loại hình này là Kéc-Sens-ten-ơ. Giáo sư người Đức ở Muy ních (1854 - 1932).
Theo Kéc-Sens-ten-ơ thì nhà trường phải là cơng cụ để thực hiện nhiệm vụ chính trị. Từ



đó, ơng đề xuất cải cách nhà trường đương thời thành "nhà trường lao động" và thực
hiện trong "nền giáo dục công dân". Ở đây, mọi trẻ em đều được học và học theo mục
đích thực dụng: cần gì học nấy, nhằm mục đích đào tạo lớp người lao động phục vụ cho
đế quốc Đức.
“Nền giáo dục thực nghiệm", người khởi thảo cho trường phái này là nhà giáo dục
người Pháp A.Bi-nê (1857 - 1911), với tư tưởng chủ đạo là nghiên cứu trẻ em bằng
phương pháp thực nghiệm trong phịng thí nghiệm sau đó đưa ra lý thuyết giáo dục và
áp dụng vào thực tiễn, phương pháp đặc thù và phổ biến nhất được các nhà giáo dục
thực nghiệm thường dùng là “test”- trắc nghiệm. Ưu điểm của trường phái này là đã đặc
biệt chú trọng tới đặc điểm của đối tượng trong quá trình giáo dục, song nhược điểm
căn bản là quá đề cao phương pháp test, dẫn tới tách rời các phương pháp khác, từ đó đi
tới những kết luận về đối tượng thiếu khách quan và phiến diện [104].
“Nền giáo dục thực dụng", với đại biểu tiêu biểu là J. Di-wây (1859 - 1952), nhà giáo
dục người Mỹ. Di-wây cho rằng, yếu tố quan trọng bậc nhất trong sự phát triển của con
người là di truyền, từ đó ơng cho rằng giáo dục chỉ là một quá trình phát triển những xu
hướng bẩm sinh về lý trí và tình cảm". Ơng phủ nhận sự rèn luyện những đức tính cá
nhân trong q trình sống và giáo dục. Ơng địi hỏi giáo dục phải dựa vào di truyền,
phải xuất phát từ hứng thú và kinh nghiệm thực tế của trẻ. Thầy giáo là người theo trẻ
để cung cấp cho trẻ những phương tiện nhằm thỏa mãn mọi nhu cầu "tự nhiên" của trẻ.
Trẻ em là hình ảnh trung tâm của quá trình giáo dục, là thái dương mà mọi q trình
giáo dục ví như các hành tinh khác phải xoay quanh nó. Mặt tích cực trong tư tưởng
giáo dục của J. Di-wây là đã đặc biệt quan tâm tới các nhu cầu, các đặc điểm tự nhiên
của đối tượng giáo dục. Song cần thấy rõ tính chất phản khoa học của lý luận giáo dục
này, đó là đã tuyệt đối hoá nhân tố sinh học, coi nhẹ yếu tố xã hội, yếu tố giáo dục trong
sự hình thành và phát triển nhân cách con người [104].
Như vậy, cùng với sự phát triển của xã hội và của các lĩnh vực khoa học khác, giáo
dục trong thời kỳ này cũng có bước phát triển đáng kể. Nhìn chung những cải cách giáo
dục trong thời kỳ này đã chú trọng đến đặc điểm, nhu cầu của đối tượng, bước đầu đã
quan tâm tới nhu cầu của xã hội đối với việc đào tạo con người. Song, những cải cách
và những tư tưởng giáo dục đó cịn có những nhược điểm làm: tuyệt đối hoá sự phát

triển tự nhiên, tự do của trẻ dẫn tới hạ thấp, coi nhẹ yêu cầu đòi hỏi của xã hội đối với
những chủ nhân tưong lai của xã hội.


Sự là đời của chủ nghĩa Mác - Lênin và học thuyết giáo dục mác xít đã làm cho khoa
học giáo dục thực sự có bước phát triển về chất. Trên cơ sở thế giới quan duy vật triệt để
và phương pháp luận biện chứng, hệ thống tư tưởng giáo dục mác xít đã làm cho khoa
học giáo dục có sức sống mới, có giá trị chỉ đạo thực tiễn to lớn. Trong hệ thống các tư
tưởng giáo dục đó, một trong những vấn đề đã được các nhà giáo dục mác xít đặc biệt
quan tâm là phải đảm bảo cho tồn bộ q trình giáo dục huấn luyện - đào tạo con
người , phải đáp ứng tốt nhất cho những nhu cầu của xã hội, của cách mạng và nhu cầu
tất yếu cho sự phát triển con người một cách tồn diện. Có thể kể đến một số tác giả tiêu
biểu sau:
C. Mác (1818 - 1883) và Ph.Ăngghen (1820 - 1895), xuất phát từ luận đề nổi tiếng
"... bản chất của con người không phải là cái trừu tượng cố hữu của cá nhân riêng biệt.
Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hồ những quan hệ xã hội" [60,
tr.11]. Mác, Ăngghen cho rằng để xây dựng nền giáo dục mới nhằm đào tạo con người
phát triển toàn diện phải tiến hành cuộc cách mạng xã hội. làm thay đổi quan hệ xã hội,
thiết lập quan hệ xã hội mới và chỉ trên quan hệ xã hội mới đó mới xây dựng nhân cách
của con người xã hội tương lai được. Đồng thời, từ sự phân tích sâu sắc về bản chất của
lao động tha hoá đã dẫn tới sự phát triển của con người phiến diện dưới chế độ có giai
cấp bóc lột mà điển hình nhất là chủ nghĩa tư bản.
Mác, Ăngghen đã luận chứng khoa học về tính tất yếu do sự địi hỏi của nền sản xuất
đại cơng nghiệp, từ nhu cầu nguyện vọng của cá nhân con người mà trong xã hội xã hội
cộng sản chủ nghĩa cần phải giáo dục xây dựng con người phát triển tồn diện. Đây
chính là mục đích của nền giáo dục cộng sản chủ nghĩa.
V.I. Lê-nin (1870 - 1924), nhà lãnh tụ thiên tài của giai cấp vơ sản, đồng thời là người
góp phần sáng lập nên lý luận giáo dục của giai cấp vơ sản. Ơng đã phát triển. làm
phong phú lý luận của Mác, Ăng-ghen về giáo dục, đề xuất chỉ đạo thực tiễn sự nghiệp
xây dựng, phát triển nền giáo dục của đất nước Liên-xô (cũ). Trong hệ thống tư tưởng

giáo dục của ông, Lê-nin đặc biệt quan tâm tới việc xây dựng và phát triển nền giáo dục
mới gắn chặt với những nhu cầu đòi hỏi và sự phát triển thực tiễn của sự nghiệp cách
mạng vô sản cũng như nhu cầu chính đáng của cá nhân con người. Lê-nin cho rằng, nhà
trường mới phải trở thành công cụ của giai cấp vô sản. Giáo dục của nhà trường XHCN
phải tạo mọi điều kiện thuận lợi để thỏa mãn nhu cầu học tập của quần chúng lao động


[104, tr.221]. Điều này phải đuợc thực hiện trong việc xác định mục đích, nội dung,
phương pháp tổ chức giáo dục của nền giáo dục cộng sản chủ nghĩa.
Sau Mác, Ăng-ghen, Lê-nin, các nhà giáo dục học Liên-xô (cũ) là những người có
đóng góp hết sức quan trọng tới việc tổ chức thực hiện những tư tưởng giáo dục cơ bản
của các nhà kinh điển vào thực tiễn xây dựng và phát triển nền giáo dục XHCN. Từ sau
Cách mạng Tháng Mười năm 1917 đến những năm 1945, Đảng và Nhà nước Xô-viết đã
rất quan tâm tới việc xây dựng, phát triển nền giáo dục XHCN. Một trong những vấn để
có tính ngun tắc của việc xây dựng nền giáo dục XHCN là gắn sự phát triển giáo dục
với yêu cầu xây dựng chế độ xã hội mới. phục vụ cho sự nghiệp chiến tranh vệ quốc và
xây dựng chính quyền cách mạng; đồng thời đáp ứng tốt nhất nhu cầu học tập của quần
chúng nhân dân lao động [104, tr.150-155]. Trong giai đoạn này nổi lên những nhà giáo
dục tiêu biểu như: N. K. Krúp-xcaia, A.S. Ma-ka-ren-kô, Lu-na-trat-xki, Pa ven Pê-trôvic, B-lôn-xki... Sự nghiệp giáo dục của đất nước Liên-xơ trong thời kỳ này đã góp phần
rất quan trọng trong đào tạo thế hệ trẻ Xơ-viết có đủ phẩm chất năng lực tham gia lao
động sản xuất và cuộc chiến tranh vệ quốc một cách có hiệu quả.
Vậy có thể thấy, tư tưởng giáo dục của Mác. Ăngghen, Lê nin và thực tiễn xây dựng,
phát triển nền giáo dục Xơ-viết cho đến những năm 1950, với những đóng góp rất to lớn
của các nhà giáo dục Xô-viết đã khẳng định: phải đảm bảo cho toàn xã hội hoạt động
giáo dục, huấn luyện gắn chặt với những hoạt động khác của mọi lĩnh vực xã hội. Phải
làm cho giáo dục, huấn luyện đáp ứng tốt nhất cho những nhu cầu của xã hội, nhu cầu
học tập của mọi tầng lớp nhân dân lao động.
Ở Việt Nam, một trong những điểm nổi bật về truyền thống của dân tộc là rất coi
trọng việc giáo dục, đã tổ chức phát triển giáo dục trong sự gắn kết chặt chẽ với nhu
cầu tồn tại và phát triển của đất nước, của dân tộc góp phần đắc lực vào việc xây dựng,

bảo vệ và phát triển bản sắc văn hoá của dân tộc Việt Nam; đồng thời đã phần nào đáp
ứng được nhu cầu hiếu học của con người Việt Nam. Điều này được thể hiện cụ thể:
Dưới chế độ phong kiến, nhìn tổng quát giáo dục phong kiến Việt Nam là nền giáo
dục Nho giáo. Song, Nho giáo đã được biến đổi phù hợp với truyền thống văn hiến và
bản sắc văn hoá của dân tộc, phục vụ đắc lực cho công cuộc dựng nước và giữ nước của
các triều đại phong kiến Việt Nam [99. tr11]. Mục tiêu đào tạo của Nho giáo là đào tạo
“kẻ sĩ" và "người quân tử". Ở nước ta, mục tiêu này đã được xác định cụ thể và rõ ràng
hơn. Đó là, đào tạo được lớp quan lại có đủ đức tài, có năng lực xây dựng xã hội phong


kiến, biết chỉ huy chiến đấu tài giỏi để giữ nước, chống ngoại xâm. Đối với đông đảo
tầng lớp nhân dân thì mục tiêu đó được xác định là học để "làm người", học để giúp cho
muôn dân, trăm họ. Nội dung giáo dục là nội dung tư tưởng Nho giáo. Tuy tư tưởng
Nho giáo giữ địa vị chính thống, song vẫn có sự hồ nhập với tư tưởng Phật giáo, Đạo
giáo và tư tưởng nhân nghĩa, đạo đức truyền thống của dân tộc Việt Nam. Xin đề cập
đến một ví dụ: Ở Nguyễn Trãi, quan niệm về đức, của ông đã vươn tới khái niệm rộng
hơn so với lý luận đạo đức của Nho giáo Trung Hoa, đó là nghĩa đồng bào. Ông cho
rằng:
"Đồng bào cốt nhục nghĩa càng bền
Cành Bắc, cành Nam một cội nên
Ở thế, nhịn nhau muôn sự đẹp
Cương, nhu cùng biết cả hai bên" [99. tr.86].
Từ đó cho thấy, mặc dù cịn có những hạn chế nhất định, nhưng giáo dục dưới chế độ
phong kiến đã để lại những kinh nghiệm quý trong việc gắn kết chặt chẽ giữa giáo dục
với công cuộc dựng nước, giữ nước cũng như trong việc bảo vệ và phát triển bản sắc
văn hoá của dân tộc Việt Nam.
Đến cuối thế kỷ 19, Nho giáo đã suy tàn, đòi hỏi phải có sự cải cách. Trong giai đoạn
này đã có nhiều sĩ phu phong kiến và ngay cả triều đình nhà Nguyễn đã nhìn thấy sự bất
lực, sa sút của Nho giáo. Trên lĩnh vực giáo dục, một số nhà tư tưởng đã đề cập đến sự
cần thiết phải canh tân giáo dục; trong đó, tư tưởng cải cách giáo dục của Nguyễn

Trường Tộ (1828 - 1871) là một trong những tư tưởng tiêu biểu nhất. Ông cho rằng, cần
phải bỏ lối học Nho giáo, chuyển đổi giáo dục theo hướng đáp ứng thiết thực cho thực
tiễn của đất nước. Ông chỉ rõ “học để mà biết, biết để mà làm…, làm công việc thực tế
trong nước hiện nay và để lại việc làm hữu dụng cho đời sau [199, tr.159]. Từ đó, ơng
địi hỏi phải thay đổi nội dung, chương trình, phương pháp giáo dục theo hướng bám sát
thực tiễn của đất nước, góp phần giải quyết những nhiệm vụ của đất nước trong công
cuộc chống nguy cơ xâm lược của thực dân Pháp và phát triển nền kinh tế của đất nước.
Như vậy, ý tưởng về sự cần thiết phải đáp ứng nhu cầu thực tiễn của đất nước trong
giáo dục của Nguyễn Trường Tộ đã thể hiện khá đậm nét, nhưng đề nghị cải cách của
ông không được triều đình nhà Nguyễn chấp thuận.


Cùng với việc xâm lược nước ta, thực dân Pháp cũng đã sử dụng giáo dục như một
công cụ, phương tiện để thơn tính nước ta. Chúng đã thi hành một nền giáo dục thực
dân phản động. Do đó, kể từ khi xâm lược, cho đến trước Cách mạng Tháng Tám năm
1945, nền giáo dục của nước nhà hầu như khơng có sự phát triển đáng kể. Giáo dục
khơng đáp ứng được nhu cầu của xã hội và con người Việt Nam [99].
Vậy có thể thấy rằng, trong lịch sử phát triển của dân tộc Việt Nam vấn đề phát triển
giáo dục của đất nước gắn chặt với các lĩnh vực khác nhằm đảm bảo cho việc thực hiện
dựng nước đi đôi với giữ nước, giữ vững và phát triển bản sắc văn hoá dân tộc đã được
các triều đại phong kiến, cũng như được nhân dân ta đặc biệt quan tâm. Tuy nhiên, do
nhiều nguyên nhân những ý tưởng và truyền thống đó vẫn chưa được tồn diện và việc
thực hiện trên thực tế vẫn còn hạn chế.
Từ những điều trình bày trên ta thấy, trong lịch sử giáo dục, vấn đề dạy học với việc
đáp ứng nhu cầu của người học đã được các nhà tư tưởng ở cả trên thế giới và trong
nước đặt biệt quan tâm. Tuy cách trình bày có khác nhau nhưng đều thống nhất ở chỗ,
để dạy học có kết quả cần tìm hiểu nhu cầu của người học, kích thích để nảy sinh nhu
cầu, từ đó đáp ứng nhu cầu. Đây là tiền đề để đi sâu nghiên cứu cơ sở khoa học và thực
chất tư tưởng "huấn luyện phải nhằm đúng nhu cầu” của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
1.3. Cơ sở khoa học và thực chất tư tưởng "huấn luyện phải nhằm đúng nhu cầu”

của Chủ tịch Hồ Chí Minh
Luận điểm "huấn luyện phải nhằm đúng nhu cầu của Chủ tịch Hồ Chí Minh được
Người nói tại "Hội nghị tồn quốc lần thứ nhất về công tác huấn luyện và học tập", khai
mạc ngày 06 tháng 5 năm 1950, trong bối cảnh tình hình cách mạng Việt Nam đã có
bước phát triển mới .
Trên bình diện quốc tế, hệ thống XHCN thế giới hình thành, cách mạng Trung Quốc
thành cơng; Liên Xô, Trung Quốc và các nước dân chủ nhân dân cơng nhận Chính phủ
nước Việt Nam dân chủ cộng hồ. Những vấn đề đó đã làm cho thế của cách mạng Việt
Nam thêm mạnh.
Ở trong nước, đây là thời gian cuộc chiến tranh giữa ta và thực dân Pháp đang ở thế
giằng co quyết liệt. Về phía ta, tuy đã giành chiến thắng trong chiến dịch "Việt Bắc Thu
Đông", nhưng chưa đủ sức tiến lên tiêu diệt từng mảng lớn qn địch, giải phóng những
vùng đất rộng, người đơng. Đây là thời gian ta vừa đẩy mạnh kháng chiến và kiến quốc


ở vùng giải phóng, vừa ra sức xây dựng lực tượng về mọi mặt. Bước vào năm 1950, với
ý định tranh thủ thời cơ giành một thắng lợi lớn về quân sự, đẩy mạnh cuộc kháng
chiến, Hội nghị toàn quốc lần thứ 3 của Đảng chỉ rõ: "Cần phải nhân đà tiến bộ của bản
thân ta, dựa vào sự giúp đỡ của các lực tượng bạn, lợi dụng sự lúng túng của địch... gấp
rút hoàn thành nhiệm vụ chuẩn bị chuyển mạnh sang tổng phản công" [109, tr.375]. Hội
nghị cũng đã chỉ ra nhiệm vụ quân sự cần kíp là: "Một mặt chiến đấu để tiêu diệt sinh
lực địch, một mặt gấp rút bồi dưỡng và xây dựng quân đội nhân dân..." [109, tr.380381].
Yêu cầu nhiệm vụ cách mạng, nhiệm vụ quân đội đặt ra vấn đề bức thiết phải tăng
cường và nâng cao hiệu quả hoạt động giáo dục - huấn luyện xây dựng đội ngũ cán bộ
cách mạng, cán bộ qn đội. Trong khi đó, tình hình cơng tác giáo dục của đất nước,
của quân đội cho thấy, đánh giá một cách khách quan thời kỳ này còn nhiều nhược
điểm. Nhược điểm lớn nhất như Chủ tịch Hồ Chí Minh nhận định là việc huấn luyện
chưa thiết thực. chưa đáp ứng được nhu cầu của các đoàn thể,. các ban, ngành [78]. Kết
quả đào tạo theo báo cáo thì đơng, nhưng trên thực tế chúng ta cịn q thiếu cán bộ.
Đây là căn bệnh của việc "huấn luyện cịn hữu danh vơ thực, làm chỉ cốt nhiều mà

khơng thiết thực chu đáo" [78, tr.46]. Do đó, cần thiết phải có những chỉ đạo khoa học
để nâng cao hiệu quả cho công tác huấn luyện của đất nước, của qn đội. Vì vậy, “Hội
nghị tồn quốc lần thứ nhất về công tác huấn luyện và học tập" đã được tiến hành tháng
5 năm 1950. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã có bài phát biểu quan trọng chỉ đạo (xem tồn
văn bài nói tại phụ lục l).
Nội dung bài nói của Chủ tịch Hồ Chí Minh gồm 3 phần:
Phần l: Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định, “phải thiết thực chu đáo trong công việc
huấn luyện "
Mở đầu phần này, với cách đặt vấn đề “Việc huấn luyện học tập khơng phải là một
việc đơn giản, muốn làm được thì phải hiểu cho rõ". Theo Người khi tiến hành huấn
luyện cần trả lời 6 vấn đề cơ bản sau:
1. Từ trước đến nay đoàn thể đã huấn luyện được mấy người?
2. Huấn luyện ai?
3. Ai huấn luyện ?


4. Huấn luyện gì ?
5. Huấn luyện thế nào ?
6. Tài liệu huấn luyện ?
Với cách đặt vấn đề trực tiếp, dễ hiểu, Người đã lần lượt trình bày những vấn đề rất
cơ bản của huấn luyện: trước hết (vấn đề 1 ), Người phân tích kết quả thực tế của hoạt
động huấn luyện trong thời gian đó và rút ra kết luận: Việc huấn luyện cịn hữu danh vơ
thực, làm chỉ cốt nhiều mà không thiết thực chu đáo"; vấn đề 2 (huấn luyện ai ?), Người
chỉ là đối tượng của quá trình huấn luyện; vấn đề 3 (Ai huấn luyện ?), Người nói về chủ
thể của q trình huấn luyện; vấn đề 4 (Huấn luyện gì ?), Người chỉ là nội dung huấn
luyện; vấn đề 5 (Huấn luyện thế nào ?). Người chỉ rõ phương pháp cách thức huấn
luyện; vấn đề 6, Người chỉ ra những tài liệu đảm bảo cho huấn luyện. Tư tưởng "huấn
luyện phải nhằm đúng nhu cầu” được Người trình bày trong vấn đề 5, huấn luyện: cốt
thiết thực, chu đáo hơn tham nhiều; huấn luyện từ dưới lên trên; phải gắn liền lý luận
với công tác thực tế; huấn luyện phải nhằm đúng nhu cầu; huấn luyện phải chú trọng

việc cải tạo tư tưởng.
Phần 2 : Chủ tịch Hồ Chí Minh đề cập đến vấn để tự học với chỉ dẫn "phải nâng cao
và hướng dẫn việc tự học".
Trước đó, năm 1947 trong tác phẩm "Sửa đổi lối làm việc". Người đã chỉ rõ vai trị
quan trọng của tự học trong q trình học tập: "Cách học tập: tổ chức từng ban cao cấp
hoặc trung cấp, lấy tự học làm cốt, do thảo luận và chỉ đạo giúp vào" [70, tr.273]. Lần
này, Người phân tích kỹ hơn về tự học, Người cho rằng, "phải biết tự động học tập".
Triển khai ý tưởng "tự động học tập", Chủ tịch Hồ Chí Minh đã phân tích các vấn đề:
1. Học đề làm gì ? Theo Người: “học để sửa chữa tư tưởng; học để tu dưỡng đạo đức
cách mạng; học để tin tưởng vào Đoàn thể, vào nhân dân, vào tương lai của dân tộc và
tương lai cách mạng; học để hành".
2. Học ở đâu ? Theo Người, phải “học ở trường, học ở sách vở, học lẫn nhau và học
nhân dân".
Phần 3 Chủ tịch Hồ Chi Minh phân tích “một khuyết điểm cần sửa chữa ngay trong
việc huấn luyện”


Trong phần này, Người đã chỉ rõ "khuyết điểm chung là tham làm nhiều mà không
chu đáo", "rõ ràng nhất là trong việc mở lớp huấn luyện...". đó là “lớp quá đông" hoặc
"mở lớp lung tung". Người yêu cầu phải sửa chữa ngay khuyết điểm đó, phải "mở lớp
nào cho ra lớp ấy, lựa chọn người dạy và người đến học cho cẩn thận, đừng mở lớp lung
tung".
Qua lược thuật những nội dung cơ bản của bài "Nói về cơng tác huấn luyện và học
tập" của Chủ tịch Hồ Chí Minh cho thấy, bài nói của Người khơng dài (khoảng 4000
chữ) nhưng đã bao hàm những chỉ dẫn sâu sắc, vừa có tính khái qt, vừa có tính rõ
ràng cụ thể trong chỉ đạo việc phát triển cả về lý luận và thực tiễn quá trình giáo dục
cách mạng ở nước ta. Những nội dung của bài nói đó gắn kết chặt chẽ, thống nhất với
nhau theo một lôgic khoa học có giá trị lý luận thực tiễn rất cao. Theo tác giả Đặng
Quốc Bảo, bài nói này "trở thành một tài liệu có tính kinh điển để phát triển lý luận dạy
học, lý luận giáo dục của nền giáo dục học cách mạng Việt Nam”[11. tr.22].

Luận điểm "huấn luyện phải nhằm đúng nhu cầu” trong bài "Nói về cơng tác huấn
luyện và học tập" là một trong hệ thống tư tưởng nhất quán, xuyên suốt của Chủ tịch Hồ
Chí Minh khi bàn về giáo dục - huấn luyện là:
“Huấn luyện phải thiết thực, chu đáo...; huấn luyện từ dưới lên trên; lý luận liên hệ
với thực tế...; huấn luyện phải nhằm đúng nhu cầu; huấn luyện phải chú trọng cải tạo tư
tưởng..." [78]. Tư tưởng huấn luyện phải nhằm đúng nhu cầu và hệ thống tư tưởng trên
đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh đề cập đến nhiều lần ở các khía cạnh khác nhau trong
các tác phẩm của Người; đồng thời đã được Người vận dụng thành công trong thực tiễn
hoạt động sư phạm, cũng như trong việc tổ chức xây dựng và chỉ đạo sự nghiệp phát
triển của nền giáo dục cách mạng Việt Nam qua các thời kỳ lịch sử cụ thế. Để làm sáng
tỏ cơ sở khoa học và hiểu đúng thực chất tư tưởng này, chúng tơi cho rằng cần có sự
tổng quan về tư tưởng "huấn luyện phải nhằm đúng nhu cầu” của Chủ tịch Hồ Chí
Minh.
1.3.1. Tổng quan tư tưởng "huấn luyện phải nhằm đúng nhu cầu” của Chủ tịch
Hồ Chi Minh
Tư tưởng "huấn luyện phải nhằm đúng nhu cầu” cùng với hệ thống tư tưởng về giáo
dục - huấn luyện của Người được hình thành, phát triển trong suốt cuộc đời hoạt động
cách mạng, hoạt động sư phạm của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Được Người vận dụng sáng


tạo theo yêu cầu nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam trong từng giai đoạn lịch sử. Biểu
hiện ở hai giai đoạn chủ yếu sau:
1.3.1.1. Giai đoạn trước Cách mạng Tháng 8 năm 1945
Ngay từ những năm 1919 - 1920, Nguyễn Ái Quốc đã liên tục đấu tranh vạch trần
chính sách giáo dục phản động của thực dân Pháp ở các nước thuộc địa, đòi hỏi phải
xây dựng nền giáo dục tiến bộ, tự do cho các dân tộc thuộc địa. Trong “Lời phát biểu tại
Đại hội toàn quốc lần thứ XVIII Đảng xã hội Pháp", Người đã chỉ rõ, thực dân Pháp đã
thi hành chính sách tàn bạo ở Đơng Dương đó là: "Nhà tù nhiều hơn trường học...".
Người cịn chỉ rõ: "Chúng tơi phải sống trong cảnh ngu dốt, tối tăm vì chúng tơi khơng
có quyền tự do học tập…[63, tr.22-23]. Tiếp đó trong bài "Đây cơng lý của thực dân

Pháp ở Đông Dương", Nguyễn Ái Quốc đã bóc trần thủ đoạn mị dân trong việc lập
trường học của thực dân Pháp. Người viết: “Trường học lập ra không phải để giáo dục
cho thanh niên Việt Nam một nền học vấn tốt đẹp và chân thực, mở mang trí tuệ và phát
triển tư tưởng cho họ, mà trái lại càng làm cho họ đần độn thêm..." [64, tr.399]. Trong
các "Yêu sách của nhân dân An Nam". Người đã yêu cầu Chính phủ Pháp phải thực
hiện tự do học tập, thành lập các trường kỹ thuật và chuyên nghiệp ở tất cả các tỉnh cho
người bản xứ" [62. tr.435]. Trong "Chánh cương vắn tắt của Đảng" (1930), Người đã
xác định. Đảng Cộng sản Việt Nam phải thực hiện "Phổ thơng giáo dục theo cơng nơng
hố" [66, tr.1]. Đến năm 1941, trong "Chương trình Việt Minh", Chủ tịch Hồ Chí Minh
đã chỉ rõ chương trình "Văn hố giáo dục" của Mặt trận Việt Minh là:
1. Hủy bỏ nền giáo dục nô lệ, gây dựng nền quốc dân giáo dục. Cưỡng bức giáo dục
từ bậc sơ học. Mỗi dân tộc có quyền dùng tiếng mẹ đẻ trong nền giáo dục của dân tộc
mình.
2. Lập các trường chun mơn huấn luyện chính trị, quân sự, kỹ thuật để đào tạo các
lớp nhân tài.
3. Khuyến khích và giúp đỡ các hạng trí thức được phát triển tài năng của họ.
4. Khuyến khích và giúp đỡ nền giáo dục quốc dân làm cho nòi giống ngày thêm
mạnh. [67. tr.584].
Để đáp ứng yêu cầu đào tạo đội ngũ cán bộ cho cách mạng Việt Nam, năm 1924
Nguyễn Ái Quốc về Quảng Châu (Trung Quốc). Tại đây, Người đã mở lớp “Huấn luyện
chính trị" cho các thanh niên yêu nước Việt Nam. Người đã trực tiếp biên soạn và giảng


dạy các bài lý luận cách mạng. Do trình độ của học viên còn rất thấp, Thầy giáo Nguyễn
đã chọn cách dạy phù hợp, thiết thực nhất. Khi giảng bất cứ một vấn đề gì, dù là xa
rộng, lớn lao, nhưng đều được thầy cấu trúc lại hết sức ngắn gọn, dễ hiểu, dễ vận dụng.
Kết thúc mỗi bài giảng thầy giáo Nguyễn đều rút ra những kết luận liên hệ sát với thực
tiễn cách mạng Việt Nam. Tập hợp các bài giảng của thầy giáo Nguyễn Ái Quốc đã
được "Bộ tuyên truyền của Hội Liên hiệp các dân tộc bị áp bức ở Á Đông", xuất bản
năm 1927, với tên gọi "Đường cách mệnh" [65]. Quy trình học tập của lớp học này

được tiến hành chặt chẽ theo các bước: nghe giảng - thảo luận tập thể - tự nghiên cứu thâm nhập thực tế [99, tr.274-276]. Cùng với hoạt động đào tạo đội ngũ cán bộ cho cách
mạng Việt Nam nói chung, Người đã rất chú trọng tới việc huấn luyện về quân sự cho
các tổ chức các lực tượng cách mạng. Để chuẩn bị về tư tưởng, lý luận và tổ chức cho
việc thành lập "Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân", năm 1944 Chủ tịch Hồ
Chí Minh đã viết tác phẩm “Chiến thuật du kích", làm tài liệu huấn luyện quân sự rộng
rãi trong các Đoàn thể cách mạng. Tác phẩm được viết ngắn gọn, dễ hiểu, thể hiện tư
tưởng quân sự của Hồ Chí Minh, đáp ứng được yêu cầu huấn luyện quân sự trong giai
đoạn chuẩn bị Tổng khởi nghĩa Tháng 8 năm 1945 [68].
Như vậy, trong giai đoạn trước Cách mạng Tháng 8 năm 1945, yêu cầu trực tiếp của
cách mạng Việt Nam là tiến hành cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, đánh đổ
chế độ thực dân, phong kiến giành độc lập tự do cho dân tộc, giành chính quyền về tay
nhân dân. Do đó, mọi hoạt động của cách mạng lúc này là phải tập trung giải quyết cho
được yêu cầu cơ bản, cấp thiết đó. Trên lĩnh vực giáo dục, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
hướng mọi hoạt động giáo dục - huấn luyện vào thực hiện yêu cầu cơ bản của cách
mạng Việt Nam. Đó là: sự kết hợp chặt chẽ giữa hoạt động đấu tranh vạch trần chính
sách giáo dục phản động của thực dân Pháp, đề xuất vấn đề xây dựng nền giáo dục tiến
bộ, phù hợp với lợi ích của dân tộc tự do, phù hợp với nguyện vọng của nhân dân, phù
hợp với mục tiêu của cách mạng. Đồng thời, trong xây dựng lực tượng cách mạng, việc
giáo dục - huấn luyện phải thiết thực, sát với yêu cầu thực tiễn, đảm bảo cho cách mạng
luôn phát triển, chuẩn bị dầy đủ mọi điều kiện để tiến hành tổng khởi nghĩa giành thắng
lợi.
1.3.1.2. Giai đoạn từ sau Cách mạng Tháng 8 năm 1945
Từ sau Cách mạng Tháng 8 năm 1945 cho đến lúc qua đời, Chủ tịch Hồ Chí Minh,
trên cương vị Chủ tịch nước, Chủ tịch của đảng cầm quyền, mặc dù phải tập trung giải


quyết nhiều nhiệm vụ trọng yếu của đất nước song Người vẫn luôn quan tâm chỉ đạo
xây dựng, phát triển nền giáo dục Việt Nam, bảo đảm cho giáo dục luôn gắn chặt với
thực tiễn, đáp ứng yêu cầu của nhiệm vụ cách mạng, nhu cầu được "học - hành" của
toàn dân.

Ngay sau khi Cách mạng Tháng 8 năm 1945 thành công, trước thực trạng hơn 90%
số dân của nước ta mù chữ và tình trạng hủ tục nặng nề mà chế độ thực dân, phong kiến
để lại, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đề nghị những nhiệm vụ cấp bách mà Nhà nước Việt
Nam Dân chủ Cộng hoà cần làm ngay là:
Vấn đề thứ hai, nạn dốt... Một dân tộc dốt là một dân tộc yếu. Vì vậy, tơi đề nghị mở
một chiến dịch để chống nạn mù chữ.
Vấn đề thứ tư - Chế độ thực dân đã đầu độc dân ta với rượu và thuốc phiện... Chúng
ta có nhiệm vụ cấp bách là phải giáo dục lại nhân dân chúng ta. Chúng ta phải làm cho
dân tộc chúng ta trở nên một dân tộc dũng cảm, yêu nước, yêu lao động, một dân tộc
xứng dáng với nước Việt Nam độc lập [69, tr.8-9].
Bước vào cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ
vấn đề phải sửa đổi giáo dục cho phù hợp với yêu cầu nhiệm vụ cách mạng, vừa kháng
chiến, vừa kiến quốc. Trong “Thư gửi Hội nghị giáo dục toàn quốc" (tháng 7 năm
1948), Người đã chỉ rõ:
Chúng ta cần phải có một nền giáo dục kháng chiến và kiến quốc.
Vì vậy chúng ta:
1. Phải sửa đổi triệt để chương trình giáo dục cho hợp với sự nghiệp kháng chiến và
kiến quốc.
2. Muốn như thế, chúng ta phải có sách kháng chiến và kiến quốc cho các trường.
3. Chúng ta phải sửa đổi cách dạy cho hợp với sự đào tạo nhân tài kháng chiến và
kiến quốc.
4. Chúng ta phải đào tạo cán bộ mới và giúp đỡ cán bộ cũ theo tôn chỉ kháng chiến và
kiến quốc... [73, tr.462].
Sau thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Pháp, nhiệm vụ chính của cách mạng là:
củng cố hồ bình, thực hiện thống nhất đất nước. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ:


"Nhiệm vụ chính của thanh niên học sinh là học... Bây giờ phải học để: yêu Tổ quốc...,
yêu nhân dân..., yêu lao động..., yêu khoa học..., yêu đạo đức... học để phụng sự Tổ
quốc, phụng sự nhân dân, làm cho dân giàu nước mạnh" [81, tr.398-399]. Tiếp đó, trong

bài "Kỷ niệm 10 năm Bình dân học vụ”, Chủ tịch Hồ Chí Minh đề nghị: "Từ nay về sau,
chương trình của Bình dân học vụ cần ăn khớp với chính sách chung là củng cố hồ
bình, thực hiện thống nhất. Nội dung dạy và học cần liên hệ thiết thực với những công
tác chung: củng cố miền Bắc, chiếu cố miền Nam, thi đua yêu nước, khôi phục kinh tế,
củng cố quốc phòng...." [82, tr.65]. Năm 1956, trong “Thư gửi giáo sư, học sinh, cán bộ,
thanh niên và nhi đồng nhân dịp bước vào năm học mới, Người đã chỉ rõ:
Cần xây dựng tư tưởng dạy và học để phục vụ Tổ quốc, phục vụ nhân dân. Nhà
trường phải gắn liền với thực tế của nước nhà, với đời sống của nhân dân...
Ngoài ra, mỗi một cấp giáo dục cần nhận rõ nhiệm vụ của mình trong lúc này là:
Đại học thì cần kết hợp lý luận khoa học với thực hành, ra sức học tập lý luận và
khoa học tiên tiến của các nước, kết hợp với thực tiễn của nước ta, để thiết thực giúp ích
cho cơng cuộc xây dựng nước nhà.
Trung học thì cần đảm bảo cho học trị những tri thức phổ thơng chắc chắn, thiết
thực, thích hợp với nhu cầu và tiền đồ xây dựng nước nhà... [83, tr.80-81].
Để đáp ứng yêu cầu khôi phục và phát triển kinh tế của đất nước, Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã yêu cầu: "... Kế hoạch giáo dục phải ăn liền với kế hoạch kinh tế... Dạy và học
cần phải theo nhu cầu của dân tộc, của Nhà nước" [84, tr.137].
Trong công cuộc kháng chiến chống Mỹ của dân tộc, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đặt ra
yêu cầu cho cơng tác giáo dục là: "Dù khó khăn đến đâu cũng phải tiếp tục thi đua dạy
tốt và học tốt. Trên nền tảng giáo dục chính trị và lãnh đạo tư tưởng tốt, phải phấn đấu
nâng cao chất tượng văn hố và chun mơn nhằm thiết thực giải quyết các vấn đề do
cách mạng nước ta đề ra”[90 tr.402-403]. Trước lúc đi xa, trong Di chúc của mình,
Người đã căn dặn chúng ta: "... Đầu tiên là công việc đối với con người... Sửa đổi chế
độ giáo dục cho hợp với hoàn cảnh mới của nhân dân …[91 tr.503-505].
Vậy có thể nói, trong q trình chỉ đạo xây dựng nền giáo dục Việt Nam. Chủ tịch Hồ
Chí Minh đã đặc biệt quan tâm chỉ đạo việc giáo dục - huấn luyện phải phục vụ thiết
thực cho nhiệm vụ cách mạng, cho sự phát triển của dân tộc, đáp ứng ngày càng tốt hơn
nhu cầu được học hành của toàn thể nhân dân Việt Nam. Cùng với những chủ trương



×