Tải bản đầy đủ (.doc) (56 trang)

TÀI LIỆU THAM KHẢO tư TƯỞNG hồ CHÍ MINH về NHÀ nước PHÁP QUYỀN xã hội CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (254.75 KB, 56 trang )

1
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN
XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
MỞ ĐẦU

Trong cách mạng xã hội chủ nghĩa, chính quyền nhà nước là vấn đề rất
mấu chốt, rất cơ bản mà giai cấp vô sản cùng nhân dân lao động phải nhận
thức sâu sắc và giải quyết chính xác trong cuộc đấu tranh để tự giải phóng
khỏi mọi ách áp bức, bóc lột giai cấp; cải tạo xã hội cũ và xây dựng thành
công xã hội mới. Xây dựng nhà nước pháp quyền là một yêu cầu tất yếu,
khách quan và phù hợp với xu thế phát triển của thời đại. Thực hiện dân chủ
là một trong những nội dung cơ bản của nhà nước pháp quyền, đặc biệt là Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân. Khơng có nhà
nước pháp quyền thực sự thì khơng có nền dân chủ rộng rãi và bền vững. Dân
chủ đóng vai trị cơ sở, động lực thúc đẩy sự phát triển của nhà nước pháp
quyền. Đối với nước ta, dân chủ hoá xã hội vừa là điều kiện tiên quyết để xây
dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, vừa là biện pháp
căn bản để đẩy nhanh sự phát triển của đất nước.
Xây dựng nhà nước pháp quyền là một đòi hỏi tất yếu, khách quan và phù
hợp với xu thế phát triển lịch sử chung của xã hội loài người, bởi nhà nước pháp
quyền là một giá trị chung của nhân loại trên con đường phát triển tiến bộ. Ở
nước ta vẫn đang tồn tại quan niệm xem nhà nước pháp quyền như là một sản
phẩm của chủ nghĩa tư bản, do đó nó là cái đã lỗi thời, khơng tiến bộ, trái ngược
và khơng thích dụng với chủ nghĩa xã hội. Cũng giống như thái độ không đúng
trước đây về kinh tế thị trường, quan niệm sai trái như vậy về nhà nước pháp
quyền đang gây cản trở đối với tiến trình phát triển xã hội nói chung, cho việc
xây dựng nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân nói riêng.
Tại Đại hội tồn quốc lần thứ IX, Đảng Cộng sản Việt Nam đã khẳng định:
“Nhà nước ta là công cụ chủ yếu để thực hiện quyền làm chủ của nhân dân, là



2
Nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân” 1. Như vậy, đối với nước ta hiện
nay, việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì
dân đang trở thành vấn đề thời sự cấp bách. Bởi vì nhà nước ln là "một trong
những vấn đề phức tạp nhất, khó khăn nhất"; đồng thời, là vấn đề "rất cơ bản, rất
mấu chốt trong tồn bộ hệ thống chính trị". Thậm chí, ở một góc độ nhất định,
có thể nói, việc xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, của dân, do
dân, vì dân ở nước ta có ảnh hưởng rất lớn đến sự thành bại của chế độ, của
Đảng Cộng sản. Điều này thể hiện rõ trong thực tiễn đấu tranh chống tham
nhũng, chống lại một trong bốn nguy cơ lớn của Đảng và chế độ suốt nhiều năm
qua cũng như trong việc kiện toàn, hoàn thiện, nâng cao hiệu lực của bộ máy nhà
nước. Có thể nói rằng, nếu chúng ta không tạo dựng được một nhà nước pháp
quyền thực sự của dân, do dân, vì dân thì trong tương lai, xã hội ta, dân tộc ta có
thể sẽ phải chịu những hậu quả mà hiện nay khó lường được.
Đối với nước ta, việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
của dân, do dân, vì dân trong điều kiện xây dựng và vận hành cơ chế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa là nhiệm vụ mới mẻ, hiểu biết của chúng
ta cịn ít, có nhiều việc vừa làm, vừa tìm tịi, rút kinh nghiệm. Do vậy, nhiệm
vụ xây dựng nhà nước pháp quyền trong điều kiện lịch sử cụ thể ở nước ta,
đòi hỏi phải tiến hành nghiên cứu cơ bản về lý luận; tổng kết kinh nghiệm
thực tiễn 65 năm xây dựng nhà nước (nhất là sau 20 năm thực hiện cương lĩnh
chính trị 1991), nhằm xác định đúng đắn, mục tiêu và các giải pháp cải cách
có hiệu quả mơ hình tổ chức và hoạt động của nhà nước ta hiện nay.
Với tư cách là một trong những cơ sở lý luận để xây dựng, hoàn thiện
nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa; việc tìm hiểu, nghiên cứu tư
tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước pháp quyền có ý nghĩa đặc bit quan trng
v cp bỏch.
1

Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb CTQG,


H, 2001, tr.131


3
NỘI DUNG
Sự ra đời của Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hịa, nay là Nhà nước
Cộng hồ XHCN Việt Nam, gắn liền với tên tuổi của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Hồ Chí Minh khơng chỉ là người sáng lập mà còn là vị Chủ tịch đầu tiên đảm
đương trách nhiệm của một tổng cơng trình sư của sự nghiệp xây dựng Nhà
nước kiểu mới ở Việt Nam. Thời kỳ 1945-1946 - thời kỳ đầu tiên xây dựng
chế độ mới - Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tìm tịi giải quyết hàng loạt vấn đề về
chiến lược, sách lược để xây dựng và bảo vệ Nhà nước cách mạng non trẻ ở
nước ta trong một tình thế đặc biệt khó khăn. Qua đó, những quan điểm về
xây dựng Nhà nước pháp quyền kiểu mới của dân, do dân, vì dân đã được
Người thể hiện tương đối rõ nét. Những quan điểm đó xuất phát từ cơ sở lý
luận và thực tiễn khác nhau, nhưng cơ sở chủ yếu là học thuyết nhà nước và
cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin.
1. Cơ sở lý luận và thực tiễn hình thành quan điểm của Chủ tịch
Hồ Chí Minh về xây dựng Nhà nước kiểu mới
1.1. Chủ nghĩa Mác - Lênin là cơ sở lý luận chủ yếu quyết định sự
hình thành những quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về Nhà nước kiểu
mới
Trong tư tưởng của C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I. Lênin, khái niệm nhà nước
pháp quyền chưa được sử dụng. Nhưng những tư tưởng cốt lõi của nhà nước
pháp quyền thời đó được đề cập sâu sắc theo quan điểm khoa học và cách
mạng, đó là: một nhà nước kiểu mới hợp hiến, hợp pháp; một hệ thống pháp
luật dân chủ triệt để pháp chế nghiêm minh theo hướng giải phóng con người.
Nói cách khác trong khi đặt vấn đề xây dựng một xã hội mới, một nhà nước
kiểu mới C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I Lênin đã kế thừa phát triển tư tưởng nhà

nước pháp quyền trong điều kiện mới. Các ông đã sử dụng những tính nguyên
tắc về nhà nước pháp quyền của các nhà tư tưởng trước đó, đặc biệt là những


4
tư tưởng dân chủ, tư tưởng cộng hoà và cách mạng để hình thành, phát triển
những quan điểm của mình. Đó là tư tưởng của Rút-xơ, Mơng-te-xki-ơ,
những quan niệm của Can tơ, Hêghen về nhà nước và xã hội công dân của
Xanh Ximông, của các nhà tư tưởng Pháp thời phục hưng, cận đại…
Trước hết, từ tiêu chí “đề cao dân chủ, pháp luật và tính nhân văn của pháp
luật” như là những gi trị cơ bản của nhà nước pháp quyền, C. Mỏc, Ph.Ăngghen
đã nêu những tư tưởng sâu sắc về nhà nước pháp quyền trong các tác phẩm “gia
đình thần thánh”, “sự khốn cùng của triết học”, “Phê phán triết học pháp quyền
của Hêghen”, và đặc biệt trong tác phẩm “Tuyên ngôn của Đảng cộng sản”. C.
Mác, Ph.Ăngghen đó đặt vấn đề xây dựng một xó hội mới, một xã hội mà trong
đó “tự do của mỗi người là điều kiện phát triển tự do của tất cả mọi người”. Và
giải phúng con người là mục tiêu của nhà nước pháp quyền kiểu mới; đó là một
nhà nước tổ chức được đời sống chung của nhân dân, trong đó bảo đảm được sự
phát triển tối đa và phát triển “toàn diện con người” .
Về mặt nhà nước C.Mác chủ trương xây dựng một chế độ dân chủ triệt
để, dân chủ là do nhân dân tự quy định, là bước chuyển từ xã hội thần dân
sang xã hội công dân, là từ “nhân dân của nhà nước” sang “ Nhà nước của
nhân dân”. Dân chủ là xuất phát từ con người và pháp luật cũng vì con người.
Trong xã hội mới sẽ tạo ra điều kiện cơ bản để giải phóng các cá nhân; “bởi lẽ
xã hội sẽ khơng thể giải phóng cho mình được, nếu khơng giải phóng một cá
nhân riêng biệt”. Do vậy, xã hội phải được xây dựng trên cơ sở pháp luật.
Trong tác phẩm phê phán “ Cương lĩnh Gôta” C.Mác chỉ ra rằng: Việc
duy trì pháp luật xã hội chủ nghĩa là điều cần thiết, vì rằng, pháp luật ở đây
đóng vai trị quan trọng trong sự tổ chức những quan hệ xã hội mới. Pháp
luật ở khía cạnh này, khơng chỉ là một công cụ trừng trị, trấn áp và cưỡng

bức. Mặc dù đơi khi nó đóng vai trị đó. Cái chính ở đây là vai trò tổ chức


5
các quá trình kinh tế trong xã hội nhằm bảo đảm cho sự thắng lợi của chủ
nghĩa xã hội và xã hội cộng sản chủ nghĩa.
Những tư tưởng cơ bản của C.Mác, Ph.Ăngghen đã được V.I Lênin tiếp
thu và phát triển trong quá trình xây dựng một nhà nước kiểu mới, trong đó xác
định rõ mục đích của chính quyền Xô Viết là thu hút những người lao động tham
gia vào quản lý nhà nước, thực hiện một nền dân chủ rộng rãi nhằm giải phóng
con người và phát triển toàn diện con người trong xã hội mới. Người cho rằng
khơng có chế độ dân chủ thì chủ nghĩa xã hội sẽ không thực hiện được theo hai
nghĩa sau đây:
Thứ nhất, giai cấp vơ sản khơng thể hồn thành được cuộc cách mạng xã
hội chủ nghĩa, nếu họ không được chuẩn bị cho cuộc cách mạng đó thơng qua
cuộc đấu tranh cho chế độ dân chủ.
Thứ hai, Chủ nghĩa xã hội chiến thắng sẽ khơng giữ được thắng lợi của
mình và sẽ không dẫn được nhân loại đi đến thủ tiêu nhà nước, nếu không
thực hiện đầy đủ chế độ dân chủ.
Về mặt nhà nước, từ chỗ xác định “mục đích của chính quyền Xơ Viết là
sự tham gia của những người lao động vào chính quyền và việc thu hút được
mọi người lao động tham gia vào quản lý là một trong những ưu thế quyết
định của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa” V.I Lênin đã xác lập hàng loạt quan
điểm về xây dựng nhà nước kiểu mới, “Nhà nước khơng cịn ngun nghĩa”,
“Nhà nước nửa nhà nước”, “Nhà nước quá độ” để rồi chuyển dần tới một chế
độ tự quản. Muốn vậy, trước mắt phải thực hiện chế độ dân chủ theo các
hướng cơ bản.
Quyền bầu cử được thực hiện ngay sau cách mạng tháng Mười Nga
thành công và dần dần được mở rộng. Bầu cử theo ngun tắc “ Phổ thơng
bình đẳng, trực tiếp, bỏ phiếu kín” là nguyên tắc tiến bộ nhất của nền dân chủ



6
hiện đại. Qua đó, những người lao động tự lựa chọn được người xứng đáng
thay mặt mình giải quyết và quản lý công việc của nhà nước và xã hội.
Quyền tham gia quản lý nhà nước của những người lao động. Theo V.I
Lênin, những người lao động phải “thay nhau” tham gia vào tổ chức nhà nước
và quản lý nhà nước. Theo đó mỗi lần bầu cử nhất thiết phải đổi mới thành
phần đại biểu để có thêm nhiều đại biểu mới. Người còn coi đây là một
trường học, một phương thức đào tạo các bộ quản lý để họ có kinh nghiệm, có
điều kiện tham gia quản lý nhà nước. Qua đó ngày càng có nhiều người
trưởng thành, thật sự trở thành cán bộ quản lý nhà nước kiểu mới.
Quyền bãi miễn là quyền có ý nghĩa quan trọng trong việc thực hiện
chế độ dân chủ. Lênin nhấn mạnh: mọi cơ quan được bầu ra đều có thể coi
là có tính chất dân chủ chân chính và đại biểu thực sự cho ý chí của nhân
dân, khi nào quyền bãi miễn của cử tri đối với những người trúng cử được
thừa nhận và áp dụng từ chối không chịu áp dụng quyền bãi miễn, trì hỗn
thi hành quyền đó, hạn chế nó, thì như thế tức là phản lại dân chủ và hoàn
toàn từ bỏ nguyên tắc chủ yếu và nhiệm vụ của cuộc cách mạng xã hội chủ
nghĩa đã bắt đầu ở nước Nga.
Về mặt pháp luật. V.I Lênin khẳng định rõ vai trò của pháp luật về pháp
chế trong quản lý xã hội mới, coi đó là một trong những điều kiện cơ bản để
xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội, nhà nước xã hội chủ nghĩa phải “căn
cứ vào luật lệ của mình là điều kiện cần và đủ cho chủ nghĩa xã hội thắng lợi
triệt để”. Đặc biệt khi chuyển sang chính sách kinh tế mới (NEP), Người nhấn
mạnh những hình thức quan hệ mới được xác lập trong quá trình cách mạng
và trên cơ sở của chính sách kinh tế do chính quyền thực hiện, phải được thể
hiện trong pháp luật mà được bảo vệ về mặt tư pháp. Có thể nói ở đây Lênin
là người đã sáng tạo ra khái niệm pháp chế xã hội chủ nghĩa và là người trực



7
tiếp chỉ đạo xây dựng tổ chức viện kiểm sát nhân dân nhằm bảo đảm pháp
chế nghiêm minh và thống nhất.
Chủ nghĩa Mác - Lênin mà trực tiếp là học thuyết về nhà nước chun
chính vơ sản, nhà nước XHCN là cơ sở lý luận có vai trị quyết định hình thành
những quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về Nhà nước kiểu mới ở Việt Nam.
1.2. Truyền thống dân chủ, tư tưởng thân dân trong lịch sử Việt Nam
Suốt chiều dài của lịch sử dân tộc, nhân dân ta đã tiến hành cuộc đấu
tranh trường kỳ, bền bỉ để dựng nước và giữ nước, hun đúc nên truyền thống
yêu nước, tinh thần nhân ái, đoàn kết, kiên cường bất khuất, tự lực tự cường,
thông minh, sáng tạo. Trong đó, tinh thần yêu nước đã trở thành đạo lý sống và
là một nhân tố cơ bản đứng đầu trong bảng giá trị tinh thần của con người Việt
Nam. Chủ nghĩa yêu nước Việt Nam hàm chứa những tư tưởng đặc sắc và tiến
bộ như truyền thống dân chủ, tư tưởng thân dân…
Chủ nghĩa yêu nước truyền thống Việt Nam, nhất là truyền thống dân
chủ, sự cố kết cộng đồng quốc gia dân tộc, tư tưởng thân dân… cùng với
những truyền thống tốt đẹp của dân tộc đã có tác động sâu sắc đến tư tưởng
chính trị của Hồ Chí Minh. Đó cũng là cơ sở tư tưởng để Người tiếp thu tinh
hoa văn hố Đơng - Tây và đến với chủ nghĩa Mác - Lênin.
1.3. Tư tưởng trọng dân trong văn hố nhân loại
Ngay từ tuổi hình thành nhân cách, Hồ Chí Minh đã được tiếp thu triết
lý, đạo đức, chính trị của các nhà tư tưởng cổ đại Trung Hoa như thuyết Nhân
trị, thuyết Pháp trị, thuyết Đức trị. Chủ tịch Hồ Chí Minh cịn coi trọng tư
tưởng nhân ái của đạo Phật, muốn xây dựng một cuộc sống “thẩm mỹ, chí
thiện, bình đẳng, n vui, no ấm cho chúng sinh, xây dựng một xã hội hạnh
phúc và an lạc”, xoá bỏ nỗi đau khổ của con người trên trái đất.


8

Những năm lao động và dừng chân ở Mỹ (1912 - 1913), Người đã đọc
bản Tuyên ngôn độc lập 1776 của nước Mỹ, trong đó đề cập đến "quyền bình
đẳng, quyền sống, quyền tự do, quyền mưu cầu hạnh phúc của con người". Thế
nhưng, Người đã phát hiện ra những nghịch lý ngay tại nước Mỹ: đằng sau
những lời hoa mỹ về nhân quyền kia là sự bất bình đẳng và nghèo đói của hàng
triệu người lao động, là sự phân biệt chủng tộc sâu sắc cùng với những điều
kiện sống khủng khiếp của người da đen...
Thời gian hoạt động ở Pháp (1917 - 1923), Người được trực tiếp tiếp xúc
với các tác phẩm của các nhà tư tưởng khai sáng như Rútxô, Môngtétxkiơ… và
Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền 1791. Các nhà khai sáng Pháp đã chỉ rõ:
“quyền lực tối cao được thiết lập từ những cá thể thành viên hợp lại tạo ra nó” 2;
“Những người được uỷ thác nắm quyền hành pháp không phải là ông chủ của
nhân dân mà chỉ là những công chức”. Tuyên ngôn 1791 tại các điều 6, điều 12,
điều 13, điều 14, điều 15 đã nêu: luật pháp là sự biểu hiện ý chí chung; mọi cơng
dân đều có quyền tham gia trực tiếp hoặc thông qua các đại biểu của mình vào
việc xây dựng luật pháp; để đảm bảo quyền con người và cơng dân địi hỏi phải
có một lực lượng công cộng (bộ máy nhà nước), lực lượng này được lập ra vì lợi
ích của tất cả mọi người chứ khơng phải do lợi ích riêng của những người được
giao sử dụng nó; để ni dưỡng lực lượng cơng cộng và để trang trải những
khoản chi phí hành chính, việc đóng góp chung là cần thiết và phải được phân bổ
cho các công dân tuỳ theo khả năng từng người; mọi cơng dân đều có quyền
hoặc trực tiếp, hoặc thơng qua các đại diện của mình được xem xét sự cần thiết
của sự đóng góp chung, được theo dõi việc sử dụng đóng góp; xã hội có quyền
bắt buộc mọi công chức phải báo cáo về công việc quản lý của họ. Đề cập đến
sự uỷ thác quyền hành pháp của nhân dân cho chính phủ, Rútxơ chỉ rõ: “Dân
chúng có thể cất nhắc hay bãi miễn họ; họ khơng được phản kháng mà chỉ có
2

J.J. Rousseau (1762) “Quyển thứ nhất - Chương VII. Quyền lực tối cao”, J.J. Rousseau Bàn về khế ước xã
hội, Hoàng Thanh Đạm dịch, Nxb. Lý luận chính trị, Hà Nội, 2004, tr. 71.



9
phục tùng... Các hình thức chính phủ đó chỉ là hình thức nhất thời do dân chúng
lựa chọn; khi nào dân chúng thích một hình thức khác thì họ sẽ thay đổi đi”. Các
nhà khai sáng còn bàn đến lý thuyết phân chia quyền lực: “Mỗi quốc gia đều có
ba thứ quyền lực là: quyền lập pháp, quyền hành pháp và quyền tư pháp” 3. Để
chống độc đoán, lạm quyền thì ba thứ quyền này phải được tổ chức sao cho có
tính độc lập có thể kiểm sốt và kiềm chế lẫn nhau.
Khi nghiên cứu chủ nghĩa tam dân, Người thấy chủ nghĩa Tam dân và
chính sách mới của Tơn Trung Sơn có những tư tưởng tiến bộ có thể vận dụng
vào cách mạng Việt Nam. Khẩu hiệu “Độc lập - Tự do - Hạnh phúc” mà Chủ
tịch Hồ Chí Minh đề ra năm 1945 có phần vận dụng từ chủ nghĩa Tam dân
nhưng đã được phát triển với nội dung và trình độ mới của cuộc cách mạng dân
tộc dân chủ nhân dân, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản.
Trong khi tiếp thu những giá trị tư tưởng chân chính, những nhân tố nhân
văn tiến bộ của cách mạng dân chủ tư sản: khẳng định con người, nâng con người
đứng thẳng dậy giải phóng mình khỏi thần quyền và sự thống trị của những quan
hệ phong kiến, thì đồng thời Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đánh giá đúng những
hạn chế của nó. Chính vì khơng thoả mãn với con đường cách mạng tư sản, Người
đã tìm ra con đường cách mạng mới và đã đến với chủ nghĩa Mác - Lênin.
1.4. Thực tiễn xã hội và chính quyền, nhà nước Việt Nam
Giữa thế kỷ XIX, Việt Nam bị đế quốc Pháp xâm lược và thống trị.
Chúng cấu kết chặt chẽ với bọn phong kiến tay sai, thiết lập bộ máy bạo lực
phản cách mạng đồ sộ để duy trì ách áp bức bóc lột, biến nước ta từ một
nước phong kiến độc lập thành nước thuộc địa nửa phong kiến, từ một quốc
gia độc lập, thống nhất thành ba kỳ với ba chế độ thống trị khác nhau để dễ
bề cai trị và đàn áp. Các phong trào chống Pháp nổ ra liên tiếp, nhưng cuối
cùng đều thất bại, vì thiếu đường lối đúng. Trước lúc ra đi tìm đường cứu
3


Montesquieu (1748), “Quyển thứ mười một - Chương VI. Hiến pháp nước Anh”, Montesquieu Bàn về tinh thần
pháp luật, Hồng Thanh Đạm dịch, Nxb. Lý luận chính trị, Hà Nội, 2004, tr. 105.


10
nước, Hồ Chí Minh đã phê phán chế độ Nhà nước thực dân - phong kiến ở
Việt Nam lúc bấy giờ, lên án hệ thống cai trị hà khắc của thực dân - phong
kiến. Người khẳng định, Nhà nước thực dân - phong kiến đã lỗi thời, khơng
cịn đủ khả năng điều hành đất nước, ngăn cản sự phát triển xã hội, cần phải
xóa bỏ. Nhưng Người chưa hình dung được con đường và chế độ mới là gì.
Vì thế, Người quyết định ra nước ngồi tìm đường cứu nước với một quyết
tâm cháy bỏng: “Tự do cho đồng bào tôi, độc lập cho Tổ quốc tôi, đấy là tất
cả những điều tôi muốn, đấy là tất cả những điều tơi hiểu”.
Những năm đầu hoạt động ở nước ngồi, quan điểm về Nhà nước kiểu mới
của Chủ tịch Hồ chí Minh được hình thành và phát triển thể hiện qua một loạt tác
phẩm của Người như Yêu sách của nhân dân An Nam (1919), Đông Dương và
Triều Tiên (1921), Lời phát biểu tại Đại hội Tua (1920), Bản án chế độ thực dân
Pháp (1925)… Thơng qua các tác phẩm đó, Người tố cáo và lên án những tội ác tày
trời của chế độ thực dân nói chung, chế độ thực dân Pháp nói riêng trên mọi lĩnh
vực kinh tế, chính trị, văn hố, xã hội, và bóc trần bản chất của nhà nước thực dân
cai trị thuộc địa, cách thức tổ chức của nhà nước thực dân - phong kiến nhằm bóc
lột đến tận xương tuỷ dân tộc Việt Nam; đồng thời, Người đã suy nghĩ về Nhà nước
cách mạng, về chế độ mới sẽ thành lập để thay thế chế độ cũ.
Tháng 6.1923, Người đến Liên Xô, được trực tiếp tìm hiểu về Cách mạng
Tháng Mười, về chế độ XHCN và Nhà nước Xôviết. Lúc này Liên Xô đang thực
hiện chính sách Kinh tế mới và đạt được nhiều thành tựu lớn về kinh tế-xã hội.
Hồ Chí Minh ấn tượng sâu sắc và khát khao xây dựng ở Việt Nam một Nhà
nước kiểu mới như ở nước Nga Xôviết. Sau này, đánh giá về Nhà nước Xôviết,
Người viết: “Dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Lênin vĩ đại, nhà chiến lược và nhà

sách lược thiên tài, Đảng Cộng sản đã dìu dắt giai cấp vơ sản Nga giành chính


11
quyền và xây dựng Nhà nước đầu tiên của quần chúng lao động; sự ra đời của
Nhà nước đó mở đầu thời đại mới trong lịch sử loài người”4 .
Trên thực tế, hình thức nhà nước Xơviết đã xuất hiện ở Việt Nam ngay
trong Cao trào cách mạng 1930 - 1931. Nhiều nơi ở hai tỉnh Nghệ An và Hà
Tĩnh đã đánh đổ chính quyền thực dân phong kiến và lập ra Chính quyền Xơviết
cơng nơng. Tuy mới chỉ là hình thức manh nha của một chính quyền cách mạng
nhưng các Xôviết đã thực hiện được rất nhiều việc. Về chính trị: xố bỏ bộ máy
của chính quyền thực dân phong kiến, xoá bỏ các luật lệ do chúng đặt ra; lập các
toà án cách mạng để trấn áp bọn phản cách mạng, giữ gìn trật tự xã hội. Về kinh
tế: tịch thu ruộng đất công và ruộng đất của đế quốc chia cho dân cày nghèo;
bước đầu hình thành các hình thức “tổ sản xuất” để tương trợ lẫn nhau trong sản
xuất và giúp đỡ nhau trong đời sống. Về văn hoá-xã hội: bãi bỏ các hủ tục lạc
hậu, xây dựng lối sống mới; thực hiện nam nữ bình quyền; tổ chức dạy chữ quốc
ngữ... Tất cả các quan hệ kinh tế, quan hệ xã hội đều chịu sự giám sát, điều tiết
của Chính quyền Xơviết, do Đảng của giai cấp công nhân lãnh đạo, dựa trên
“Nông hội đỏ” - nịng cốt của quần chúng nơng dân.
Mặc dù đánh giá cao truyền thống cách mạng của công nông Nghệ Tĩnh, song
xuất phát từ tình hình cụ thể lúc bấy giờ, Hồ Chí Minh cũng thấy rằng, nhiệm vụ
trước mắt của Đảng chưa phải là khởi nghĩa giành chính quyền. Sự thất bại của
Xơviết Nghệ Tĩnh đã địi hỏi Người phải suy ngẫm về một hình thức chính quyền
nhà nước khác cho thích hợp với Việt Nam. Nhà nước đó phải thể hiện được lợi ích
tồn dân tộc, đại diện cho khối đại đồn kết tồn dân, lấy cơng nơng làm nền tảng.
Để giành được chính quyền về tay nhân dân, theo sáng kiến của lãnh tụ
Hồ Chí Minh, Hội nghị BCHTW lần thứ tám chủ trương thành lập mặt trận dân
tộc thống nhất rộng rãi, lấy tên là Việt Nam độc lập Đồng Minh, gọi tắt là Việt
Minh và đã làm thí điểm trước ở Cao Bằng. Ngày 25.10.1941, Việt Minh chính

4

Hồ Chí Minh (1955), “Chủ nghĩa Lênin và cơng cuộc giải phóng các dân tộc bị áp bức”, Hồ Chí Minh
Tồn tập, tập 7, Nxb. CTQG, Hà Nội, 2002, tr. 514.


12
thức ra Tun ngơn, Chương trình và Điều lệ. Chủ trương của Việt Minh sẽ liên
hiệp tất cả các tầng lớp nhân dân, các đảng phái cách mạng, các đoàn thể dân
chúng yêu nước, cùng nhau đánh đuổi Nhật - Pháp, giành độc lập cho dân tộc,
lập nên “Chính phủ cách mạng của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, theo tinh
thần tân dân chủ, lấy cờ đỏ giữa có ngôi sao vàng năm cánh làm lá cờ chung của
nước”5. Chương trình của Việt minh đã đề cập đến việc thành lập Chính phủ
nhân dân: “Chính phủ nhân dân của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà do Quốc
dân đại hội cử lên” và hình thức Phổ thơng đầu phiếu: “Hễ ai là người Việt Nam,
vô luận nam nữ, từ 18 tuổi trở lên đều có quyền tuyển cử và ứng cử, trừ bọn Việt
gian phản quốc”.
Từ sau khi Nhật đảo chính Pháp, phong trào khởi nghĩa từng phần phát
triển rầm rộ. Dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ địa phương, nhân dân Ba Tơ
(Quảng Ngãi) đã tiến hành khởi nghĩa (11.3.1945). Lực lượng khởi nghĩa đã tổ
chức xây dựng một hình thức chính quyền sơ khai và tun cáo trước nhân dân:
Chính quyền Ba Tơ là một bộ phận khăng khít của Chính quyền cách mạng
tồn quốc. Hoạt động của Chính quyền cách mạng đã tạo điều kiện cho đội du
kích Ba Tơ hoạt động, đẩy phong trào cách mạng của tỉnh Quảng Ngãi phát
triển. Đặc biệt, ở Việt Bắc, ngày 4.6.1945, khu giải phóng Việt Bắc ra đời gồm
6 tỉnh với dân số xấp xỉ một triệu người. Nhân dân các dân tộc Việt Bắc đã bầu
ra chính quyền của mình dưới hình thức UBND các cấp, từ xã, châu, quận
(huyện) đến tỉnh theo lối phổ thông đầu phiếu. Chính quyền khu Việt Bắc từng
bước thực hiện 10 chính sách của Mặt trận Việt Minh. Các quyền tự do dân chủ
của nhân dân được tôn trọng. Nền kinh tế và đời sống nhân dân được Chính

quyền chú trọng phát triển. Khu giải phóng Việt Bắc thực sự là hình ảnh thu
nhỏ của nước Việt Nam mới. Mơ hình chính quyền ở Việt Bắc được áp dụng
rộng rãi cho các vùng khởi nghĩa từng phần giành thắng lợi.
5

Hồ Chí Minh (1945), “Chương trình Việt Minh”, Hồ Chí Minh Tồn tập, tập 3, Nxb. CTQG, Hà Nội, 2002,
tr. 583.


13
Khi thời cơ cách mạng xuất hiện, sau Hội nghị tồn quốc của Đảng, Hồ
Chí Minh chủ trì Đại hội đại biểu quốc dân, họp tại Tân Trào (16, 17.8.1945).
Các đại biểu nhiệt liệt tán thành chủ trương Tổng khởi nghĩa của Đảng. Đại
hội cử ra Uỷ ban Dân tộc giải phóng xem như Chính phủ lâm thời của nước
Việt Nam, gồm 15 vị do Hồ Chí Minh làm Chủ tịch. Uỷ ban Dân tộc giải
phóng thay mặt quốc dân giao thiệp với các nước và chủ trì mọi cơng việc
trong nước. Đại hội cũng đã thơng qua Chương trình 10 điểm giao cho Uỷ
ban Giải phóng thi hành. Có thể thấy, Quốc dân đại hội Tân Trào có ý nghĩa
như là một Quốc hội lâm thời, hay một tiền Quốc hội và Chương trình 10
điểm này như là Hiến pháp lâm thời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hồ.
Như vậy, trước khi Tổng khởi nghĩa nổ ra, mơ hình Nhà nước kiểu
mới theo quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã được xây dựng ở khu
giải phóng và nó nhân rộng nhanh chóng khắp cả nước ngay khi Cách
mạng Tháng Tám giành được thắng lợi.
1.5. Trí tuệ và phẩm chất chính trị của Chủ tịch Hồ Chí Minh
Quan điểm, tư tưởng là sản phẩm của con người, do con người sáng tạo ra
trên cơ sở những nhân tố khách quan và chủ quan nhất định. Do đó, quan điểm,
tư tưởng còn phụ thuộc vào các yếu tố của trí tuệ, phẩm chất tinh thần con người
đã sản sinh ra nó, như tư chất, tính cách, bản lĩnh, tình cảm, tư duy…
Chủ tịch Hồ Chí Minh có phẩm chất chính trị, phẩm chất cá nhân tiêu

biểu, đặc sắc. Người sống có hồi bão lý tưởng, u nước thương dân sâu sắc,
có bản lĩnh kiên định, có khí tiết kiên cường trong đấu tranh thực hiện mục
tiêu lý tưởng. Lẽ sống của Người là suốt đời đấu tranh cho nước ta được hoàn
toàn độc lập, dân ta được hoàn tồn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn, áo
mặc, ai cũng được học hành. Người lịch thiệp, tế nhị, giàu lịng nhân ái lại rất
thơng minh, sắc sảo, nhạy bén về chính trị, ham học hỏi, có tư duy độc lập
sáng tạo, có trí tuệ un bác, kiến thức sâu rộng. Người là hiện thân của phẩm


14
chất cao quý: toàn tâm, toàn ý phục vụ cách mạng, phục vụ nhân dân, luôn
luôn khắc phục và vượt qua mọi khó khăn thử thách, vững vàng trong lập
trường cách mạng, sáng suốt trong đường lối chính sách, dũng cảm trong
hành động, thắng không kiêu, bại không nản...
Chủ tịch Hồ Chí Minh là nhà chính trị mácxít tiêu biểu của thời đại
chúng ta về tài năng và đức độ. Người sống mẫu mực trong cuộc sống hàng
ngày, khiêm tốn, giản dị, gần gũi mọi người, hoà đồng với quần chúng, vì nhân
dân, vì dân tộc, vì sự nghiệp hồ bình tiến bộ của lồi người. Nét đặc biệt trong
phong cách chính trị Hồ Chí Minh là ln ln gần gũi với nhân dân, lắng nghe
ý kiến của quần chúng, quan tâm đến nguyện vọng của mọi tầng lớp nhân dân.
Người thương yêu, kính trọng, tin tưởng vào con người nên có sức mạnh cảm
hố lớn. Nhà báo Liên Xơ Ôxíp Manđenxtam đã nhận xét: “Nguyễn ái Quốc
hiện là người An Nam duy nhất ở Mátxcơva, đại diện của chủng tộc Mã Lai cổ
xưa... Đồng chí nói tiếng Pháp - tiếng của những kẻ áp bức, nhưng mà những
chữ Pháp từ miệng đồng chí Nguyễn ái Quốc nghe trầm trầm, lắng xuống như
hồi âm của tiếng mẹ đẻ quê hương đồng chí... Dáng dấp của con người đang
ngồi trước mặt tôi đây, Nguyễn ái Quốc, cũng đang toả ra một cái gì thật lịch
thiệp và tế nhị... một thứ văn hố, khơng phải là văn hố Âu châu, mà có lẽ là
một nền văn hoá tương lai... Qua phong thái thanh cao, trong giọng nói trầm
ấm của Nguyễn ái Quốc, chúng ta như nghe thấy ngày mai, như thấy sự n

tĩnh mênh mơng của tình hữu ái tồn thế giới”6.
Là một bậc đại nhân, đại trí, đại dũng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã cho ta
một ý niệm đầy đủ nhất về phẩm chất chính trị nhân văn hết sức tiêu biểu của
một con người. Phẩm chất đó được phát huy trong suốt cuộc đời hoạt động
của Người. Nhờ vậy, giữa vô vàn lý thuyết, học thuyết khác nhau, đối lập
6

Ô. Manđenxtam (1923), “Thăm một chiến sỹ Quốc tế cộng sản - Nguyễn ái Quốc”, Hồ Chí Minh Tồn tập,
tập 1, Nxb. CTQG, Hà Nội, 2002, tr. 476 - 479.


15
nhau, đúng và sai, thật và giả đan xen lẫn lộn, Người vẫn tìm ra được mục
tiêu lý tưởng, con đường cách mạng đúng đắn, đó là lựa chọn Đảng kiểu mới,
Nhà nước kiểu mới, lựa chọn lực lượng và phương thức đấu tranh, lựa chọn
chế độ mới theo con đường cách mạng XHCN, phấn đấu vì độc lập của dân
tộc, vì hạnh phúc của nhân dân.
2. Những quan điểm cơ bản về nhà nước pháp quyền dân chủ
nhân dân của Chủ tịch Hồ Chí Minh
Từ thực tiễn và nhu cầu phát triển khách quan của cách mạng Việt Nam,
xu thế vận động của lịch sử nhân loại, trên cơ sở khảo cứu các loại hình nhà
nước đương thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu lên những quan điểm cơ bản về
xây dựng Nhà nước kiểu mới ở Việt Nam. Đây cũng là một đóng góp lý luận
quan trọng vào phát triển sáng tạo học thuyết Mác - Lênin về nhà nước nói
chung, về nhà nước chun chính vơ sản, nhà nước XHCN nói riêng.
2.1. Nhà nước dân chủ nhân dân phải là nhà nước có nền dân chủ thật
sự và toàn diện.
Nhờ phương pháp biện chứng của chủ nghĩa Mác – Lênin, nhờ học tập
kinh nghiệm cách mạng thế giới, kế thừa tinh hoa văn hóa dân tộc Việt Nam,
tinh hoa văn hóa phương Đơng và phương Tây, nhất là thời kỳ khai sáng, Hồ

Chia Minh đã nhìn ra vai trò to lớn của quần chúng nhân dân. Cụ thể hóa
quan điểm của C.Mác “Gia đình là cơ sở tự nhiên của nhà nước, còn xã hội
dân sự là cơ sở nhân tạo của nhà nước”, Hồ Chí Minh phát triển, cơ sở xã hội
của nhà nước Việt Nam là dân tộc.
Theo Hồ Chí Minh, cơ sở tồn tại và phát triển của nhà nước là dân tộc,
đại đồn kết và hịa hợp dân tộc. Tại Hội nghị của tồn thể Ban trung ương
của Đảng Cộng sản Đơng Dương họp tháng 9-1937, Người nói: “Các đồng
chí mắc phải cái bệnh thiên về thợ thuyền lao động quá, có khi chỉ biết đám
người ấy thôi mà quên hết cả quyền lợi của các từng lớp, các giai cấp khác,


16
quyền lợi chung của dân tộc cần phải bênh vực. Các đồng chí trong Đảng cần
phải hiểu rằng Đảng ta chẳng những là kẻ bênh vực và lãnh đạo cho giai cấp
vô sản mà thôi mà cũng là kẻ bênh vực và lãnh đạo cho cả toàn thể dân chúng
nữa. Đảng phải làm tròn vai trò ấy”7. Cơ sở xã hội của nhà nước trong Hồ Chí
Minh khơng những rộng lớn mà cịn khơng thay đổi phạm vi trong q trình
cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân đến cách mạng xã hội chủ nghĩa.
Hồ Chí Minh cho rằng dân là quý nhất, lực lượng to lớn nhất, “trong
bầu trời khơng gì q bằng nhân dân. Trong thế giới khơng gì mạnh bằng lực
lượng ddaonf kết của nhân dân. Trong xã hội khơng gì tốt đẹp, vẻ vang bằng
phục vụ cho lị ích của nhân dân”. Trí tuệ của nhân dân là cực kỳ to lớn, “dân
chúng biết giải quyết hiều vấn đề một cách giản đơn, mau chóng, đầy đủ, mà
những người tài giỏi, những đoàn thể to lớn nghĩ mãi không ra” 8. Từ vị thế to
lớn của nhân dân khi xá định chính thể Việt Nam là dân chủ cộng hòa, trên
báo Sự thật, số 120, ngày 15-10-1949, với đầu đề Dân vận, Hồ Chí Minh
khẳng định:
“Nước ta là nước dân chủ.
Bao nhiêu lợi ích đều vì dân
Bao nhiêu quyền hạn đều của dân.

Công việc đổi mới, xây dựng là trách nhiệm của dân.
Sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc là cơng việc của dân.
Chính quyền từ xã đến Chính phủ trung ương do dân cử ra.
Đồn thể từ Trung ương đến xã do dân tổ chức nên.
Nói tóm lại, quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân”9.
Hồ Chí Minh ln ln có lịng tin tuyệt đối vào nhân dân, vào dân tộc
vì lực lượng tồn dân là lực lượng vĩ đại hơn hết, “khơng có ai chiến thắng
7
8
9

Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, t6, tr.285
Hồ chí Minh: Tồn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, t5, tr.295.
Hồ chí Minh: Tồn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, t5, tr.698.


17
được lực lượng đó”10. Từ quan điểm, lực lượng của nhân dân là vơ địch, ngay
từ ngày đầu của chính quyền nhân dân, Người đã chỉ rõ: “khơng có nhân dân
thì Chính phủ khơng đủ lực lượng. Nếu khơng có Chính phủ, thì nhân dân
khơng ai dẫn đường. Vậy nên Chính phủ với nhân dân phải đồn kết thành
một khối ”11.
Nhà nước từ nhân dân mà ra, nhưng nhà nước muốn làm bất cứ việc gì
đều phải thật sự dựa vào dân thông qua việc huy động nhân tài, vật lực của dân.
Tư tưởng nhà nước của dân, do dân, vì dân của Hồ Chí Minh được thể hiện
trong nhiều tác phẩm: Sửa đổi lối làm việc (1947), Thư gửi các đồng chí Bắc Bộ
(1947)... Tư tưởng Hồ Chí minh đã thể hiện tính “do dân” phải dựa trên việc nhà
nước phục vụ cho lợi ích của ai. Vì vậy trên thực tế tính “do dân” của nhà nước
phải gắn bó chặt chẽ với tính “vì dân” của nhà nước. Trong Thư gửi Ủy ban
nhân dân các kỳ, tỉnh, huyện và làng, Hồ Chia Minh chỉ rõ: “Ngày nay, chúng ta

đã xây dựng nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hịa. Nhưng nếu nước độc lập
mà dân khơng được hưởng hạnh phúc tự do, thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý
gì”12. Trong thư đó, Hồ Chí Minh cũng nhấn mạnh, chính phủ của nước độc lập,
dân chủ cộng hịa việc gì lợi cho dân, ta phải hết sức làm; việc gì đến dân ta phải
hết sức tránh. Người cịn nhắc nhở các nhân viên nhà nước không được phép cậy
thế, hủ hóa, tư túi, lãng phí, chia rẽ, kiêu ngạo...
Tư tưởng đầu tiên về nhà nước pháp quyền của Hồ Chí Minh là vấn đề
dân chủ hóa. Hồ Chí Minh không những rất quan tâm đến vấn đề dân chủ cho
nhân dân, mà còn làm sao cho nhân dân được hưởng quyền dân chủ. Người
nói: “Nước ta là nước dân chủ, địa vị cao nhất là dân, vì dân là chủ”, “Dân
chủ là của quý nhất của nhân dân”. Trong Đường cách mệnh (1927), khi phân
tích kinh nghiệm cuộc cách mạng ở Pháp, Mỹ, Nga, Hồ Chí Minh chỉ rõ: cách
10
11
12

Hồ chí Minh: Tồn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, t4, tr.20.
Hồ chí Minh: Tồn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, t4, tr.56.
Hồ chí Minh: Tồn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, t4, tr.56.


18
mạng Pháp cũng như cách mạng Mỹ là cuộc cách mạng khơng đến nơi, tiếng
là dân chủ và cộng hịa, kỳ thực trong thì bóc lột cơng nơng, ngồi thì áp bức
thuộc địa. Cách mạng Pháp đã ba lần rồi (1789,1848,1871) mà nay cơng nơng
Pháp vẫn cịn phải muốn cách mạng lần nữa. Cách mạng Nga (1917) là “Cách
mạng đến nơi”, cách mạng mang lại dân chủ thực sự cho nhân dân. Cách
mạng An Nam nên nhớ những điều ấy13.
Hồ Chí minh cho rằng dân chủ ở phương Tây khơng chỉ là dân chủ
hình thức, giả hiệu mà trong đó cịn có phần dân chủ thực sự. Tuy nhiên, đó là

nền dân chủ chưa đầy đủ, còn ở mức độ thấp, có phần tơ vẽ. Chính vì thế, Hồ
Chí Minh đã tiếp thu những điểm tích cực của nền dân chủ Tây – Mỹ. Người
đã đưa cả những đoạn quan trọng trong Tuyên ngôn Đọc lập của Mỹ “Quyền
được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc” là quyền “khơng ai có
thể xâm phạm được”, Tun ngơn Nhân quyền và dân quyền Pháp “người ta
sinh ra tự do và bình đẳng và ln ln được tự do và bình đẳng về quyền lợi”
vào trong Tun ngơn Đọc lập của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa năm 1945.
Điều đặc biệt, Hồ Chí Minh đã tiếp thu nền dân chủ phương Tây – Mỹ mấy
thế kỷ để nhìn nhận ra được ba quyền mà nhầ nước phải bảo đảm cho cơng
dân: quyền chính trị, quyền kinh tế và quyền xã hội.
Với tư tưởng dân chủ đó, Người đã triển khai trong quá trình xác lập
quyền dân chủ ở Việt Nam thông qua các bản Hiến pháp như: Hiến pháp
1946, Hiến pháp 1959 và chính sách cụ thể của Chính phủ. Nói đến dân chủ,
trước hết dân chủ chính trị, nghĩa là dân chủ gắn lienf với thiết chế nhà nước,
là mối quan hệ giữa nhà nước và dân. Nhà nước là cơ quan đại diện được
nhân dân trao quyền. Nhân dân là người quyết định cuối cùng. Nói đến nhà
nước là nói đến quyền lực. Kế thừa truyền thống dân tộc, tinh hoa văn hóa
nhân loại, quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, Hồ Chí Minh khẳng định:
13

Hồ chí Minh: Tồn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, t2, tr.280.


19
trong nhà nước dân chủ nhân dân, quyền lực thuộc về nhân dân, nhân dân là
chủ thể của quyền lực nhà nước.
Trong một nhà nước dân chủ với tư cách cơ quan quyền lực công, cán bộ
nhà nước đương nhiên phải là “cơng bộc của dân”. Hồ Chí Minh viết: “Chính
phủ Cộng hịa Dân chủ là gì? là đầy tớ chung của dân, từ Chủ tịch toàn quốc
đến làng. Dân là chủ thì Chính phủ phải là đày tớ. Làm việc ngày nay không

phải để thăng quan, phát tài. Nếu chính phủ làm hại dân thì dân có quyền đuổi
Chính phủ”14. Quyền lực thuộc về nhân dân, nhân dân là chủ thể quyền lực nhà
nước, thì phải được thể hiện trực tiếp ở thiết chế tổ chức bộ máy nhà nước.
Theo Hồ Chí Minh, phương thức cơ bản thiết lập bộ máy nhà nước phải là bầu
cử trực tiếp., “chính quyền từ xã đến chính phủ trung ương do dân cử ra”. Theo
ngun tắc “phổ thơng, bình đẳng, trực tiếp và bỏ phiếu kín”. Trên cơ sở quan
điểm “dân chủ triệt để”, “dân chủ đến cùng”, Hồ Chí Minh cho rằng trong xã
hội dân chủ phải thật sự, nhân dân phải được thực hiện trên thực tế quyền bãi
miễn đói với các cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp, rằng “nhân dân có
quyền bãi miễn đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân nếu ngững
đại biểu ấy tỏ ra khơng xứng đáng với sự tín nhiệm của nhân dân”15.
Tư tưởng về chế độ bầu cứ của Hồ Chí Minh bảo đảm hai quyền cơ bản
của công dân trong xã hội dân chủ: quyền ứng cử và quyền bầu cử để chọn
được những người có, đức có tài. Sự sáng tạo đặc sắc của hồ Chí Minh ở chỗ,
khi Nhà nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa thành lập, chỉ sau một thời gian
ngắn, Người đã lãnh đạo Nhà nước tổ chức thành công Tổng tuyển cử bằng
phổ thông đầu phiếu trong cả nước (6-11-1946). Ở Liên Xô trước đây, 20 năm
sau Cách mạng Tháng Mười Nga (1917), năm 1936 mới thực hiện được chế
độ bầu cử phổ thơng, bình đẳng, trực tiếp, bỏ phiếu kín.

14
15

Hồ chí Minh: Tồn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, t5, tr.60.
Hồ chí Minh: Tồn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, t9, tr.591.


20
Theo quan điểm của C.Mác: chủ quyền của nhân dân không phải là cái
phát sinh ra từ chủ quyền nhà vua mà ngược lại, chủ quyền của vua dựa trên

chủ quyền của nhân dân16, các cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp chỉ là
người thừa hành quyền của nhân dân. Thế nhưng trong thực tế, dân chủ của ta
xuất hiện những “vị đại biểu” đã nhầm lẫn sự ủy quyền với quyền lực. Hồ Chí
Minh cho rằng chủ nghĩa cá nhân đã dẫn đến tùy tiện, lộng quyền và cửa
quyền. Sau Cách mạng Tháng Mười Nga, khi xây dựng chính quyền Xơviết,
Lênin đã thẳng thắn chỉ ra những “bệnh tật” ngay chính trong bộ máy và hệ
thống pháp luật của nhà nước cách mạng kiểu mới: bộ máy quan liêu, cồng
kềnh, đông người, nề mề; nạn hối lộ đang tồn tại phổ biến trên cơ sở trình độ
văn hóa cịn rất thấp; bộ máy rất hạn chế về trình độ, năng lực nhưng lại mắc
bệnh kiêu ngạo. Đó là “bộ máy nhã nước của ta rất đáng buồn, nếu khơng
muốn nói là rất tồi tệ”17. Hồ Chí Minh khơng những nhận ra, mà cịn phê phán
nghiêm khắc những hiện tượng “cậy thế mình trong ban này ban nọ, rồi ngang
tàng phóng túng, muốn sao được vậy, coi khinh dư luận, khơng nghĩ đến dân.
Qn rằng dân bầu mình ra là để làm việc cho dân, chứ không phải cậy thế
với dân”18.
Theo Hồ Chí Minh, dân chủ đại diện và dân chủ trực tiếp phải toàn
diện. Dân chủ trực tiếp là dân chủ mà nó thể hiện vai trị chủ động của dân
tộc, của nhân dân trong nhà nước. Chính hồn cảnh cụ thể của Việt Nam trong
kháng chiến phải thực hiện cuộc chiến tranh nhân dân, mới phát huy hết được
vai trò chủ động của cả khối dân tộc, của từng người dân, từng thanh niên,
từng ông già, từng phụ nữ, từng em bé thiếu nhi mới có thể thắng giặc. Sonh
Hồ Chí Minh khơng lý tưởng hóa viển vông dân chủ trực tiếp ngay ở mức
cao, mà phải từng bước từ thấp đến cao. Một mặt, Hồ Chí Minh khơng thể lấy
16
17
18

C.Mác và Ph.Ănghen: Tồn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, t1, tr.347
V.I.Leenin: Tồn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006, t.45, tr.442.
Hồ chí Minh: Tồn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, t4, tr.57.



21
nguồn gốc quyền lực nhà nước ở nhân dân, không chỉ chịu sự kiểm tra thường
xuyên của dân, không chỉ có một tinh thần hoạt động là gần dân, thân dân
nhằm phục vụ lợi ích của dân, xuất phát từ nguyện vọng của nhân dân; đối
với Hồ chí Minh, nhà nước cịn có chức năng phát hiện và hồn chỉnh những
sáng kiến của dân để làn thành những luật và chính sách.
Một nhà nước biết lắng nghe và học dân, biết bồi dưỡng và nâng cao
dân trí, thì dân sẽ nói lên điều mong muốn, gợi ý và chỉ ra cần luật gì, nội
dung luật ra sao, cơ quan nhà nước cần giải quyết quốc kế, dân sinh ra sao.
Thực tế Hồ Chí Minh đã làm được và thành cơng.
Chỉ có phát huy dân chủ mới tạo nên sức mạnh to lớn, bền vững cho
nhà nước cách mạng. “Nhà nước ta phải phát huy dân chủ đến cao độ,(...). Có
phát huy dân chủ đến cao độ thì mới động viên được tất cả các lực lượng của
nhân dân”19. Dân chủ xã hội, dân chủ chính trị gắn với pháp luật dân chủ là
bản chất của nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân. Trong quá trình
điều hành đất nước, Hồ Chí Minh nhắc đi nhắc lại nhiều lần dân chủ thực sự,
“chúng ta phải ra sức thực hiện những cải cách xã hội để nâng cao đời sống
của nhân dân, thực hiện dân chủ thực sự”20.
Dân chủ là điều kiện không thể thiếu được trong nhà nước pháp quyền.
Để đảm bảo cho hoạt động bình thường, phát huy tính tích cực của mọi người
dân, khơng có “dân chủ triệt để”, “dân chủ đến cùng”, “dân chủ thực sự” thì
khơng thể xây dựng thành cơng Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ
nghĩa. Hồ Chí Minh cũng chỉ ra dân chủ phải đi liền với kỷ luật, với chun
chính, vì nếu chỉ phát huy dân chủ mà khơng tăng cường kỷ luật thì dân chủ
sẽ trở thành vơ chính phủ. Về kỷ luật (hay chuyên chính), Hồ Chí Minh quan
niệm kỷ luật chỉ là phương tiện. Dân chủ, đoàn kết mới là mục tiêu và động
lực. Kỷ luật cũng chỉ nhằm phát triển dân chủ, phát triển đoàn kết. Theo Hồ
19

20

Hồ chí Minh: Tồn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, t9, tr.592.
Hồ chí Minh: Tồn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, t7, tr.323.


22
Chí Minh, dân chủ là của cái quý nhất của nhân dân, chun chính là cái
khóa, cái cửa để phịng kẻ phá hoại... chuyên chính để giữ dân chủ.
Trong tư tưởng và thực tế hoạt động xây dựng nhà nước dân chủ nhân
dân, Hồ Chia Minh đã lựa chọ những hạt nhân hợp lý của cả hai hình thức dân
chủ: dân chủ đại diện và dân chủ trực tiếp. Vấn đề dân chủ đại diện chủ yếu
theo kinh nghiệm của nước Anh, nước Pháp, nước Mỹ mà Hobbes, Locke
tổng kết, Montesquier và Rousseau tiếp nhận và bổ sung, Tocqueville (Mỹ)
phát triển. Sự lựa chọn của Hồ Chí Minh trong xây dựng nhà nước hiện đại
không chỉ chọn duy nhất dân chủ đại diện, cũng không chỉ chọn dân chủ trự
tiếp. Người đã kết hợp cả hai hình thức dân chủ đại diện và dân chủ trực tiếp
trong xây dựng nhà nước hiện đại.
2.2. Nhà nước pháp quyền dân chủ nhân dân phải là nhà nước thực
hiện quản lý xã hội bằng hệ thống pháp luật dân chủ.
Nhà nước pháp quyền phải là nhà nước “dân chủ triệt để”, “dân chủ
đến cùng”, “dân chủ toàn diện”, “dân chủ thực sự”, đồng thời phải là nhà
nước hợp hiến, hợp pháp, quản lý xã hội bằng hệ thống pháp luật dân chủ.
Trong Bản yêu sách của nhân dân An Nam (1919), Nguyễn Ái Quốc đã đòi
“Thay chế độ ra sắc lệnh bằng chế độ ra các đạo luật”, và điều đó cũng được
viết trong Việt Nam yêu cầu ca:
“Bảy xin hiến pháp ban hành,
Trăm đều phải có thần linh pháp quyền”.
Trong thư gửi Hội Vạn Quốc, Người viết: “Nếu nước được độc lập
ngay thì nước chúng tơi sẽ sắp đặt một hiến pháp về phương diện chính trị và

xã hội theo lý tưởng dân quyền’.
Hồ Chí Minh có quan niệm mới về nhà nước pháp quyền, đó là nhà
nước quản lý bằng hệ thống pháp luật, nhưng không phải là hệ thống pháp
luật bất kỳ mà là hệ thống pháp luật dân chủ. Tư tưởng về hệ thống pháp luật


23
dân chủ của hồ Chí Minh cũng đã được thể hiện trong nghị quyết Trung ương
Đảng lần thứ bảy (11-1940), đó là yêu cầu phải ban bố hiến pháp dân chủ, ban
bố những quyền tự do cho nhân dân, tự do ngơn luận, tự do tư tưởng, tự do tín
ngưỡng, tự do hội họp. “Trăm đều”, “thần linh pháp quyền” trong tư tưởng
Hồ Chí Minh bao hàm mọi người, mọi hành vi, mọi hoạt động ở mọi nơi, mọi
lúc, kể cả các cơ quan lập pháp, hành pháp, tư pháp và nhân viên của nhà
nước từ xã đến Trung ương do nhân dân cử ra đều phải có ý thức đặt mình
dưới “thần linh pháp quyền”. Tư tưởng Hồ Chí Minh thể hiện trong Việt Nam
yêu cầu ca ra đời từ 1920 đến nay vẫn còn phù hợp với yêu cầu xây dựng Nhà
nước pháp quyền Việt Nam thực sự của dân, do dân, vì dân hiện nay.
Kế thừa quan điểm của C.Mác: “Dưới chế độ dân chủ, không phải con
người tồn tại vì pháp luật, mà pháp luật tồn tại vì con người’ 21, trong tác phẩm
Đường cách mệnh, Hồ Chí Minh đã viết: “Tụi tư bản và đế quốc chủ nghĩa nó
lấy rơn giáo và văn hóa làm cho dân ngu, lấy phép luật buộc dân lại” 22, và
người khẳng định: “pháp luật Nhà nước ta là pháp luật thực sự dân chủ, vì nó
bảo vệ quyền tự do dân chủ rộng rãi cho nhân dân lao động” 23. Sau Cách mạng
Tháng Tám thành công, tại phiên họp đầu tiên của Chính phủ (3-9-1945), Hồ
Chí Minh đã nêu 2 trong 6 nhiệm vụ cấp bách liên quan đến xây dựng chính
quyền: tổng tuyển cử và xây dựng Hiến Pháp dân chủ. Người viết: “trước
chúng ta đã bị chế độ quân chủ chuyên chế cai trị, rồi đến chế độ thực dân
không kém phần chuyên chế nên nước ta khơng có Hiến pháp. Nhân dân ta
khơng được hưởng quyền tự do dân chủ. Chúng ta phải có một hiến pháp dân
chủ, Tơi đề nghị Chính phủ tổ chức càng sớm càng hay cuộc tổng tuyển cử với


21

C.Mác và Ph.Ănghen: Tồn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, t1, tr.350.
Hồ chí Minh: Tồn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, t2, tr.267.
23
Viện Khoa học pháp lý (Bộ tư pháp): Hồ Chí Minh bàn về nhà nước và pháp luật, Nxb. Pháp lý, Hà Nội,
tr.187
22


24
chế đọ phổ thông đầu phiếu. Tất cả công dân trai gái mười tám tuổi đều có
quyền ứng cử và đề cử, khơng phân biệt giàu nghèo, tơn giáo, dịng giống”24.
Theo Hồ Chí Minh, tổng tuyển cử là một dịp cho toàn thể quốc dân tự
do lựa chọn những người có tài, có đủ đức để gánh vác cơng việc nhà nước,
ngày bầu cở là ngày hội mà nhân dân “được hưởng quyền dân chủ của mình”.
Cịn đối với chính quyền thì do “tuyển cử mà tồn dân bầu ra Quốc hội, Quốc
hội sẽ bầu ra chính phủ. Chính phủ đó thực sự là chính phủ của tồn dân chứ
khơng phải chỉ của riêng Đảng. Tức là tạo ra nền tảng dân chủ cho nhà nước
kiểu mới”. Kết quả là tổng tuyển cử bằng phổ thông đầu phiếu đã diễn ra ở
Việt Nam, và sau đó Hiến pháp đầu tiên của Việt Nam dân chủ cộng hịa đã
được thơng qua.
Nhà nước quản lý bằng pháp luật, song đó phải là pháp luật mang tính
dân chủ, thể hiện được lợi ích của số đông. Người cho rằng pháp luật của
chúng ta là ý chí của giai cấp cơng nhân. Pháp luật của chúng ta hiện nay bảo
vệ quyền lợi cho hàng triệu người lao động. Pháp luật của chúng ta là pháp
luật thật sự dân chủ, vì nó bảo vệ quyền tự do dân chủ rộng rãi cho nhân dân
lao động. Nhân dân ta hiện nay có tự do nhưng tự do trong kỷ luật. Mỗi người
có tự do của mình, nhưng phải tôn trọng tự do của người khác. “Người nào sử

dụng quyền tự do của mình quá mức mà phậm đến tự do của người khác là
phạm pháp”25.
Kế thừa quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về pháp luật, Hồ Chí
Minh vận dụng sáng tạo và phát triển đề cao tính nghiêm minh của pháp luật
phải gắn với đạo dức, với tình thương và sự khoan dung. Người viết, “nghĩ

24

Hồ chí Minh: Tồn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, t4, tr.8.
Viện Khoa học pháp lý (Bộ tư pháp): Hồ Chí Minh bàn về nhà nước và pháp luật, Nxb. Pháp lý, Hà Nội,
tr.186
25


25
cho cùng vấn đề tư pháp cũng như mọi vấn đề khác trong lúc này là vấn đề ở
đời và làm người”26.
Tư tưởng về pháp luật của Hồ Chí Minh khơng chỉ đề cao pháp luật dân
chủ mà cịn mang đậm tính nhân văn. Hồ Chí Minh đã kết hợp nhuần nhuyễn
giữa pháp luật và đạo đức trong quản lý xã hội. Kế thừa văn hóa phương
Đơng nhưng khơng tuyệt đối hóa dẫn đến đức trị như Khổn Tử, hoặc pháp trị
như Hàn Phi Tử, dùng cái nọ loại trừ cái kia, mà Hồ Chí Minhkeets hợp
nhuẫn nhuyễn giữa pháp luật và đạo đức trong quản lý của nhà nước, quản lý
xã hội: “Chính phủ phải hết sức làm gương, nếu làm gương khơng xong thì
dùng pháp luật đẻ trừng trị hững kẻ hối lộ, đã trị và sẽ trị cho kỳ hết”.
Trong suốt 24 năm, trên cơ sở tư tưởng pháp quyền dân chủ, Chủ tịch
Hồ chí Minh thường xuyên quan tâm đến xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp
luật. Từ năm 1950, khi nói chuyện với cán bộ tư pháp, Hồ Chí Minh đã chỉ ra:
luật pháp của chúng ta hiện nay chưa đầy đủ. Chính các chú có trách nhiệm
phải góp phần làm cho luật pháp của ta tốt hơn, càng ngày càng phong phú

hơn. Phải cố gắng làm theo pháp luật ngày càng nhiều hơn, tốt hơn.
Trên cơ sở kế thừa và phát triển chủ nghĩa Mác – Lênin, Hồ chí Minh
hết sức đề cao nguyên tắc pháp chế. Hiến pháp 1946, đã giành hai điều quy
định nghĩa vụ cơng dân trong đó nghĩa vụ tơn trọng Hiến pháp, tuân thủ pháp
luật được đặt ngay sau nghĩa vụ bảo vệ Tổ quốc. Tiếp thu và đổi mới chủ
nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh các Hiến pháp 1980, Hiến pháp
1992 và Hiến pháp 1992 sửa đổi (2001) đều quy định rõ vấn đề này.
Tôn trọng Hiến pháp, tuân thủ pháp luật là nghĩa vụ, trách nhiệm của
mọi công dân, nhân viên các cơ quan lập pháp, hành pháp, tư pháp nhất là
đảng viên giữ vai trò chủ chốt phải gương mẫu đi đầu. Hồ Chí Minh chỉ rõ:
26

Viện Khoa học pháp lý (Bộ tư pháp): Hồ Chí Minh bàn về nhà nước và pháp luật, Nxb. Pháp lý, Hà Nội,
tr.8.


×