Tải bản đầy đủ (.pdf) (24 trang)

Tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước pháp quyền Hồ Chí Minh ppt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (156.99 KB, 24 trang )

Tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước
pháp quyền
Hồ Chí Minh - người khai sinh nước Việt nam dân chủ
cộng hoà, trực tiếp đứng đầu Nhà nước đó trong 24 năm, đã
lãnh đạo nhân dân ta nhằm thực hiện sứ mệnh lịch sử: giải
phóng dân tộc, thống nhất Tổ quốc và đưa đất nước đi lên
con đường ấm no hạnh phúc, sánh vai với các nước tiên tiến
trên thế giới .
Chúng ta có thể tự hào về dân tộc ta đã sản sinh ra
con người vĩ đại, đã kế thừa và phát huy những tư tưởng của
các bậc tiền bối như “nước lấy dân làm gốc” hay “ người
đẩy thuyền cũng là dân, lật thuyền cũng là dân” và “vận
nước thịnh hay suy, mất hay còn là do sức mạnh của dân
quyết định” (Nguyễn Trãi) trong truyền thống dân tộc; đã
xuất phát từ thực tiễn cách mạng Việt Nam; từ sự tiếp thu
tinh hoa văn hoá nhân loại và những thành quả về Nhà nước
pháp quyền của nhiều quốc gia tiên tiến; vận dụng sáng tạo
những kinh nghiệm và lý luận đó vào việc xây dựng Nhà
nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân ở Việt Nam.
Có thể nói quá trình đi tìm đường cứu nước của
Người cũng là quá trình tìm kiếm một nhà nước mới phù
hợp với đất nước Việt Nam, với dân tộc Việt Nam, bởi lẽ
trong mọi cuộc cách mạng, vấn đề chính quyền nhà nước
luôn luôn là vấn đề cơ bản.
Trước khi ra đi tìm đường cứu nước, Hồ Chí Minh
sống trong cảnh nước mất nhà tan, từng chứng kiến cảnh
nhân dân ta bị áp bức, bóc lột nặng nề dưới chế độ hà khắc,
bất chấp luật pháp của bọn thực dân Pháp và phong kiến
Nam triều. Khi bôn ba nơi hải ngoại, nghiên cứu và học hỏi
kinh nghiệm của các nước phương Tây, ý tưởng về xây
dựng nhà nước pháp quyền đã xuất hiện ở Hồ Chí Minh.


Bởi vậy khi có điều kiện thể hiện ý tưởng ấy của mình,
Người đã chớp thời cơ, đấu tranh để có được trước
hết những quyền của người dân ghi trong pháp luật .
Năm 1919, Hội nghị Vécxây họp sau chiến tranh thế
giới lần thứ nhất, Người đã gửiYêu sách của nhân dân An
Nam tới Hội nghị gồm 8 điều, trong đó có 4 điều liên quan
tớivấn đề pháp quyền .
Cụ thể là:
Điều 1: Yêu cầu ân xá đối với tất cả chính trị phạm.
Điều 2: Đòi cải cách nền công lý ở Đông Dương
nhằm đảm bảo cho người bản xứ được hưởng những đảm
bảo về mặt pháp luật như người châu Âu. Người nói: “Cải
cách nền pháp lý ở Đông Dương bằng cách cho người bản
xứ hưởng những đảm bảo về mặt pháp luật như người châu
Âu”.
Điều 7: Đòi thay thế chế độ ra sắc lệnh bằng chế độ ra
các đạo luật.
Điều 8: Đòi có đoàn đại biểu thường trực của người
bản xứ cử ra tại Nghị viện Pháp.
Và Người đã chuyển bản yêu sách trên thành
“Việt Nam yêu cầu ca” để phổ biến rộng rãi cho mọi người,
trong đó có hai câu:
“Bảy xin hiến pháp ban hành
Trăm điều phải có thần linh pháp quyền ”
Sau khi tìm được con đường cứu nước, Người đã tổ
chức, lãnh đạo nhân dân ta giành lấy tự do độc lập cho Tổ
quốc. Ngay từ trước Cách mạng tháng Tám 1945, sau khi
Nhật đảo chính Pháp, Hồ Chí Minh đã chủ trương “thành
lập chính quyền cách mạng” ở các căn cứ địa, các khu giải
phóng lúc bấy giờ. Đến đầu tháng Tám 1945, mặc dù tình

hình lúc đó hết sức khó khăn, Người đã kiên quyết triệu tập
Đại hội quốc dân ở Tân Trào, cử ra Uỷ ban dân tộc giải
phóng Việt Nam - một tổ chức tiền chính phủ ra đời đảm
bảo tính hợp pháp của chính quyền mới. Tháng 8 năm 1945,
Hà Nội và các địa phương trong toàn quốc khởi nghĩa giành
chính quyền từ tay phát xít Nhật. Trước khi quân Đồng
minh đổ bộ vào Việt Nam, Hồ Chí Minh đã đọc bản Tuyên
ngôn độc lập ngày 2/9/1945, tại quảng trường Ba Đình để
tuyên bố với toàn thế giới và quốc dân đồng bào sự “khai
sinh” của nước Việt Nam mới - nước Việt Nam dân chủ
cộng hoà. Chính phủ lâm thời đã ra mắt trước quốc dân
Việt Nam và thế giới.Tuyên ngôn độc lập là văn kiện chính
trị đặc biệt, khẳng định rằng: Dân tộc Việt Nam bằng sức
mạnh kỳ diệu của mình đã giành được độc lập tự do và kiên
quyết bảo vệ quyền tự do và độc lập ấy. Nước Việt Nam dân
chủ cộng hoà ra đời là hợp hiến, hợp pháp . Chính phủ lâm
thời là hợp pháp, hợp công lý .
Trong phiên họp đầu tiên của Chính phủ, Hồ Chí
Minh đề ra 6 nhiệm vụ cấp bách, trong đó nhiệm vụ thứ 3
là: “Phải có một hiến pháp dân chủ” và đề nghị sớm tổ chức
tổng tuyển cử với chế độ phổ thông đầu phiếu. Đó là việc
tiếp tục xây dựng một Nhà nước pháp quyền , một Nhà
nước dân chủ, hợp pháp, một Nhà nước thực sự đại diện cho
nhân dân, do toàn dân bầu cử ra và quản lý xã hội bằng pháp
luật. Cuộc Tổng tuyển cử đầu tiên trong cả nước được thực
hiện ngày 6 tháng 1 năm 1946 và đã bầu ra Quốc hội đầu
tiên của nước Việt nam dân chủ cộng hoà.
Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm tới việc xây dựng
Hiến pháp và pháp luật, khẳng định pháp luật của nước ta là
ý chí chung của nhân dân, của dân tộc Việt Nam. Người yêu

cầu các cơ quan nhà nước, cán bộ viên chức nhà nước từ
Trung ương đến địa phương phải gương mẫu chấp hành
pháp luật và Đảng cầm quyền cũng phải hoạt động trong
khuôn khổ của Hiến pháp và pháp luật. Người rất coi trọng
việc đưa Hiến pháp và pháp luật vào thực hiện có hiệu quả
trong cuộc sống.
Hiến pháp đầu tiên (1946) của nước Việt Nam dân
chủ cộng hoà đã thể hiện tư tưởng này của Hồ Chí Minh.
Người yêu cầu Nhà nước ta phải là nhà nước có bộ máy
hành chính mạnh, có hiệu lực, điều hành bằng pháp luật;
mọi quyền dân chủ phải được thể chế trong hiến pháp, trong
các bộ luật và đòi hỏi công dân phải tuân theo.
Hồ Chí Minh đòi hỏi tính nghiêm túc không trừ một
ai trong thi hành pháp luật, nhất là cán bộ ngành tư pháp
càng phải nêu cao tinh thần “Phụng công, thủ pháp, chí
công vô tư”. Người nói: “Về việc Chính phủ liêm khiết, thì
Chính phủ hiện thời đã cố gắng liêm khiết lắm. Nhưng trong
Chính phủ, từ Hồ Chí Minh cho đến những người làm việc
ở các uỷ ban làng hiện đông lắm và phức tạp lắm. Dù sao
Chính phủ cũng đã hết sức làm gương. Và nếu làm gương
không xong thì sẽ dùng pháp luật mà trị những kẻ ăn hối lộ-
đã trị, đương trị và sẽ trị cho kỳ hết.”
Đặc biệt, trong tư tưởng trị nước của Hồ Chí Minh
có sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa “pháp trị” và “đức trị”.
Người nói: “Không xử phạt là không đúng, song chút gì
cũng trừng phạt là không đúng”. “Nhà nước phải vừa giáo
dục vừa sử dụng pháp luật để cải tạo họ, giúp đỡ họ trở nên
lương thiện”.
Xây dựng và củng cố nhà nước pháp quyền, yêu cầu
mọi người sống và làm việc tuân thủ pháp luật là nội dung

chủ đạo của tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước. Người nói:
“ Pháp lụât của ta là pháp luật thật sự dân chủ, vì nó bảo vệ
quyền tự do, dân chủ rộng rãi cho nhân dân lao động. Nhân
dân ta hiện nay có tự do, tự do trong kỷ luật. Mỗi người có
tự do của mình, nhưng phải tôn trọng tự do của người khác.
Người nào sử dụng quyền tự do của mình quá mức mà
phạm đến tự do của người khác là phạm pháp”
Tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước pháp quyền đã
được phát triển trong quá trình hoạt động cách mạng của
Người. Người đã dành không ít tâm trí, nghị lực để xây
dựng một Nhà nước kiểu mới - Nhà nước pháp quyền của
dân, do dân và vì dân.
Hồ Chí Minh nói: “Nhà nước của ta là Nhà nước của
dân”, “Bao nhiêu quyền hạn đều là của dân”, "Vận mệnh
quốc gia trong tay nhân dân."
Nội dung đầu tiên, cơ bản nhất về Nhà nước của dân
trong tư tưởng Hồ Chí Minh, là thực hiện quyền dân chủ của
nhân dân. Dân bầu ra chính quyền Nhà nước ở Trung ương
và chính quyền các cấp. “Tất cả quyền bính trong nước là
của toàn thể nhân dân Việt Nam. Việc nước là việc chung,
mỗi một người con Rồng cháu Tiên, bất kỳ già trẻ, gái trai,
giàu nghèo, nòi giống, tôn giáo đều phải gánh vác một
phần” và bản thân Người đã hoạt động không mệt mỏi nhằm
thức tỉnh toàn dân tộc phát huy cao nhất sức mạnh của trí
tuệ, tài năng và nghị lực vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ
chủ quyền, sự thống nhất của dân tộc Việt Nam.
Ngay sau ngày thành lập nước, Người yêu cầu tổ
chức “càng sớm càng hay cuộc Tổng tuyển cử với chế độ
phổ thông đầu phiếu”. Người nhấn mạnh : “Tổng tuyển cử
là một dịp cho toàn thể quốc dân tự do lựa chọn những

người có tài, có đức để gánh vác công việc nước nhà. Trong
cuộc Tổng tuyển cử, hễ là những người muốn lo việc nước
thì đều có quyền ra ứng cử, hễ là công dân thì đều có quyền
đi bầu cử ”. Lần đầu tiên tất cả công dân ViệtNam có
quyền bầu cử và ứng cử. Đây quả là điều hết sức mới mẻ
đối với nhân dân lao động Việt Nam. Cuộc Tổng tuyển cử
diễn ra thành công vào ngày 6 tháng 1 năm 1946 và sau đó
Quốc hội chính thức tổ chức ra bộ máy nhà nước đã thể hiện
tư tưởng Hồ Chí Minh trên thực tế, huy động toàn thể nhân
dân tham gia quản lý đất nước, nhân dân đóng vai trò làm
chủ đất nước.
Chính quyền là vấn đề cốt tử của cách mạng, mà
chính sách bầu cử, ứng cử là để cho toàn dân giải quyết vấn
đề đó, tính lập hiến trong việc hình thành bộ máy nhà nước:
tự do hay hạn chế; bình đẳng hay phân biệt; giả hay thật; áp
đặt hay tự do lựa chọn; cũng là một chuẩn mực để xem xét
bộ máy chính quyền thực sự của dân hay không. Với ý
nghĩa đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: Tổng tuyển cử là
một dịp cho toàn thể quốc dân lựa chọn những người có tài,
có đức để gánh vác công việc nước nhà. Có như thế dân mới
thực hiện được nguyện vọng và ý chí của mình. Đồng thời
cũng xuất phát từ nhu cầu cấp bách của tình hình phải
chuyển từ Chính phủ lâm thời sang chính thức để đối phó
với những âm mưu của kẻ thù định xoá nền độc lập và chính
quyền non trẻ của nước ta lúc bấy giờ. Đó thực sự là một ý
tưởng tuyệt vời của Chủ tịch Hồ Chí Minh về một nhà nước
của dân.
Đối với Hồ Chí Minh, xây dựng một nhà nước của
dân không chỉ trong ý tưởng, trong thiết kế, mà bằng hành
động thực tiễn của Người. Trước vận mệnh của đất nước

hiểm nghèo, “ngàn cân treo sợi tóc”, để đoàn kết dân tộc và
giữ vững chính quyền nhân dân non trẻ, Người đã đề nghị
bổ sung 70 ghế đại biểu quốc hội cho Việt Nam Quốc dân
Đảng. Đây là một sáng kiến kịp thời của Chủ tịch Hồ Chí
Minh để mở rộng khối đại đoàn kết toàn dân, nhằm tập hợp
lực lượng, lôi kéo các đảng phái, các tầng lớp xã hội tham
gia xây dựng và bảo vệ đất nước.
Được sự uỷ nhiệm của Quốc hội, trong “Lời tuyên
bố sau khi thành lập Chính phủ mới”, Hồ Chí Minh đã nhấn
mạnh: “Chính phủ mới phải tỏ rõ tinh thần đại đoàn kết,
không phân đảng phái Kết quả là, có những vị có tài năng
nhận lời tham gia Chính phủ: như Cụ Huỳnh, vì tuổi già
sức yếu mà cố từ, nhưng vì tôi lấy đại nghĩa mà lưu Cụ, Cụ
cũng gắng ở lại. Lại có nhiều vị đứng ngoài sẵn sàng ra sức
giúp đỡ: như Cụ Bùi Bằng Đoàn, linh mục Phạm Bá
Trực Dầu ở trong hay ngoài Chính phủ, ai nấy đều hứa sẽ
cố gắng làm việc, một lòng vì nước, vì dân
Tôi có thể tuyên bố trước Quốc hội rằng, Chính phủ này tỏ
rõ cái tinh thần quốc dân liên hiệp, là một Chính phủ chú
trọng thực tế và sẽ nỗ lực làm việc, để tranh thủ quyền độc
lập và thống nhất lãnh thổ cùng xây dựng một nước Việt
Nam mới.
Chính phủ này là Chính phủ toàn quốc, có đủ nhân
tài Trung, Nam. Bắc tham gia”
Quyền bính của nhân dân cũng được thể hiện rõ
trong việc nhân dân có quyền kiểm tra, kiểm soát và bãi
miễn đại biểu. Người nhắc nhở: “Chính phủ ta là Chính phủ
của nhân dân, chỉ có một mục đích là ra sức phụng sự lợi
ích của nhân dân. Chính phủ rất mong đồng bào giúp đỡ,
đôn đốc kiểm soát và phê bình để làm tròn nhiệm vụ của

mình là người đầy tớ trung thành, tận tuỵ của nhân dân”.
Để nhân dân có thể kiểm tra, kiểm soát , Người yêu
cầu cơ quan nhà nước phải có cách tổ chức thuận tiện cho
nhân dân thực hiện quyền của mình, tránh “cửa quyền”,
hách dịch, chống “lạm quyền”, “đứng trên dân”, “đè đầu
cưỡi cổ,ức hiếp dân”, thực hiện quyền khiếu tố của nhân
dân, đảm bảo quyền tự do dân chủ của nhân dân. Người
thường nhắc nhở: Nạn lãng phí, tham ô, là do bệnh quan
liêu, mệnh lệnh trong công tác của các cấp lãnh đạo ở các cơ
quan nhà nước gây ra Vì vậy, cần có cơ quan thanh tra nhà
nước, chẳng những chống lãng phí tham ô mà còn chống
bệnh quan liêu, mệnh lệnh để giúp đỡ các cơ quan nhà nước
cải tiến công tác, giữ gìn kỷ luật, thực hành dân chủ, góp
phần củng cố bộ máy nhà nước. “Đồng bào có oan ức, có
thắc mắc mới khiếu nại. Ta giải quyết tốt các khiếu nại,
đồng bào thấy Đảng và Chính phủ quan tâm lo lắng đến họ,
do đó mối quan hệ giữa quần chúng nhân dân với Đảng và
Chính phủ được củng cố tốt hơn.”
Người còn nói: “Từ ngày thành lập Chính phủ, trong
nhân viên còn có nhiều khuyết điểm. Có người là quan cách
mạng, chợ đen, chợ đỏ, mưu vinh thân phì gia Xin đồng
bào hãy phê bình, giám sát công việc chính phủ.”
Hồ Chí Minh yêu cầu: Để nhà nước thực sự là của
dân thì cán bộ nhà nước phải thường xuyên thực hiện phê
bình và tự phê bình, lấy ý kiến tín nhiệm hay không tín
nhiệm, khen, chê rõ ràng. Vì theo Người: kiểm soát, giám
sát là một nguyên tắc để thực hiện quyền làm chủ của nhân
dân: nhân dân có quyền bãi miễn đại biểu Quốc hội và đại
biểu Hội đồng nhân dân. Nguyên tắc ấy đảm bảo quyền
kiểm soát của nhân dân đối với đại biểu của mình. Những

người trong bộ máy các cấp phải là “công bộc của dân, do
dân cử ra trực tiếp hay gián tiếp thực thi quyền lực của dân,
là người phục vụ nhân dân”. bản thân Hồ Chí Minh tự nhận
là “Người lính già vâng mệnh lệnh của quốc dân ra mặt
trận”.
Nhận thức rõ vai trò to lớn của quần chúng nhân dân
trong sự nghiệp giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc, Hồ Chí Minh chủ trương xây dựng nhà nước do dân .
Điều đó có nghĩa là dân không chỉ lập ra Nhà nước mà còn
phải tham gia vào công việc quản lý nhà nước, Người nói:
“Nước ta là nước dân chủ, địa vị cao nhất là dân, vì dân là
chủ ". “Chính quyền từ xã đến Chính phủ Trung ương do
dân tổ chức nên. Nói tóm lại, quyền hành và lực lượng đều
ở nơi dân.”
Bao nhiêu nhiệm vụ, quyền hạn đều của dân, xây
dựng đất nước trách nhiệm của dân . Trong Báo cáo về Dự
thảo Hiến pháp sửa đổi tại kỳ họp thứ 11 Quốc hội khoá I
ngày 18 tháng 12 năm 1959 của nước Việt Nam dân chủ
cộng hoà, Người nói: Quốc hội là cơ quan quyền lực cao
nhất của Nhà nước. Hội đồng nhân dân là cơ quan quyền lực
cao nhất ở địa phương. Dân bầu ra người đại diện cho mình
và sử dụng cơ quan quyền lực thông qua người đại diện đó,
đồng thời dân có quyền kiểm soát, giám sát người mình bầu
ra và bãi miễn khi họ không làm tròn sự uỷ thác.
Nhà nước do dân tức là dân phải tham gia vào công
việc của nhà nước. Quốc hội nước ta tuy vị trí cao nhất
song không phải là cơ quan tập trung tất cả quyền lực. Khi
xuất hiện những công việc liên quan đến vận mệnh của quốc
gia, thì sẽ được đưa ra nhân dân giải quyết, nếu ba phần tư
tổng số đại biểu của quốc hội đồng ý (điều 22 Hiến pháp

1946).
Hội đồng nhân dân được xem như là một cơ quan tự
quản của dân, do dân địa phương bầu ra và chịu trách
nhiệm trước nhân dân địa phương.
Nhà nước do dân tức là mọi công việc xây dựng đất
nước là trách nhiệm của quần chúng nhân dân. Do đó, phải
phát huy vai trò của mặt trận, các đoàn thể trong công tác
quản lý Nhà nước và xã hội, Hồ Chí Minh rất quan tâm đến
vấn đề nhân dân thảo luận, phát huy sáng kiến và tìm cách
giải quyết các vấn đề của đất nước. Người nói: “Dân như
nước, mình như cá”, “lực lượng nhiều là ở dân hết”, “ công
việc đổi mới, xây dựng đất nước là trách nhiệm của dân ”.
Do vậy, Nhà nước muốn điều hành, quản lý xã hội có hiệu
lực, hiệu quả, nhất định phải dựa vào dân, dựa vào sáng
kiến và trí tuệ của dân. “Đem tài dân, sức dân, của dân làm
lợi cho dân Chính phủ chỉ giúp kế hoạch cổ động.”
Nhà nước do dân trong tư tưởng Hồ Chí Minh là dân
tự làm, tự lo việc, thông qua các mối quan hệ trong xã hội,
qua các đoàn thể, chứ không phải Nhà nước bao cấp, lo thay
dân, làm cho dân thụ động, ỷ lại, chờ đợi. Người cho rằng:
“Làm việc gì cũng phải có quần chúng tham gia bàn bạc,
khó đến mấy cũng trở nên dễ dàng và làm được tốt
Dễ mười lần không dân cũng chịu
Khó trăm lần dân liệu cũng xong”.
Chính vì vậy, Nhà nước do dân xây dựng và làm
chủ, đặt dưới sự kiểm tra và kiểm soát của nhân dân theo tư
tưởng Hồ Chí Minh còn là Nhà nước tin dân, mọi lực lượng
đều ở nơi dân, do dân nắm mọi quyền hành. Nhà nước tin
dân, dân tin ở sự lãnh đạo của Nhà nước thì việc gì cũng
làm được.

Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, Nhà nước vì dân là
Nhà nước phục vụ lợi ích của nhân dân, đảm bảo quyền dân
chủ rộng rãi và có hiệu quả trong đời sống xã hội. Đây là tư
tưởng nhất quán, nổi bật trong đời hoạt động của Người từ
những năm bôn ba ở nước ngoài cho đến khi trở thành lãnh
tụ tối cao của dân tộc Việt Nam, của Nhà nước Việt Nam.
Chỉ sau hơn một tháng thành lập nước Việt Nam dân
chủ cộng hoà, trong thư “Gửi các Uỷ ban nhân dân, các bộ,
tỉnh, huyện và làng”, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhắc nhở:
“Chúng ta hiểu rằng, các cơ quan Chính phủ từ toàn quốc
cho đến các làng, đều là công bộc của dân, nghĩa là để gánh
vác công việc chung cho dân, chứ không phải đè đầu dân
như trong thời kỳ dưới quyền thống trị của Pháp, Nhật.
Việc gì có lợi cho dân, ta phải hết sức làm.
Việc gì có hại cho dân, ta phải hết sức tránh.”
Bản thân cuộc đời Hồ Chí Minh là một tấm gương
sáng ngời về một con người suốt đời phụng sự Tổ quốc,
phụng sự nhân dân. Người yêu cầu mọi quy định của pháp
luật đều phải vì dân, cán bộ từ Trung ương đến địa phương
phải hết lòng, hết sức phục vụ nhân dân, phải thực sự gương
mẫu, thực sự trong sạch, phải lo trước thiên hạ và hưởng
sau thiên hạ, thực hành tiết kiệm, liêm chính, chí công vô
tư.
Sau khi Nhà nước Việt Nam mới ra đời (1945), Người đã
nhìn thấy trước một loạt các vấn đề phức tạp xuất hiện ở một
nước nông nghiệp lạc hậu, sản xuất đình trệ. Trong hoàn cảnh
đó, dễ nảy sinh những tệ nạn tham nhũng, lãng phí, quan liêu.
Đề phòng tệ nạn đó, Người nêu bật những đòi hỏi trên đối với
người cán bộ là có ý nghĩa rất thiết thực. Bản thân Hồ Chí Minh
là con người không có tham vọng quyền lực, chức vụ của Người

đảm nhiệm là trọng trách mà Người phải gánh vác trước nhân
dân, đất nước mà thôi ”Tôi tuyệt nhiên không muốn công danh
phú quý chút nào, bây giờ phải gánh vác chức Chủ tịch là vì
đồng bào uỷ thác thì tôi phải cố gắng làm Bao giờ đồng bào cho
tôi lui thì tôi rất vui lòng lui. Tôi chỉ có một sự ham muốn tột bậc
là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn
toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được
học hành. Riêng phần tôi thì làm một cái nhà nho nhỏ nơi có non
xanh nước biếc, để câu cá, trồng hoa, sớm chiều làm bạn với các
cụ già hái củi, trẻ em chăn trâu, không dính líu gì đến vòng danh
lợi.”
Đây quả là điều tuyệt vời trong đạo đức Hồ Chí Minh.
Người nhận thấy rõ rằng những kẻ quá ham muốn quyền lực sẽ
dẫn đến tình trạng chuyên quyền, độc đoán, sa vào chủ nghĩa cá
nhân, làm cho nhà nước biến dạng. Nhà nước kiểu mới không
cho phép như vậy. Nói chuyện với đồng bào trước lúc sang Pháp
đàm phán với Chính phủ Pháp về nền độc lập của dân tộc
Việt Nam, Hồ Chí Minh bày tỏ: "Cả đời tôi chỉ có một mục đích
là phấn đấu cho lợi ích của Tổ quốc và hạnh phúc của nhân dân.
Khi tôi ẩn nấp nơi núi non, ra vào chốn tù tội, xông pha nơi hiểm
nghèo vì mục đích đó. Đến lúc nhờ quốc dân đoàn kết, giành
được chính quyền, uỷ thác tôi gánh vác việc của Chính phủ, tôi
lo lắng ngày đêm, nhẫn nhục, cố gắng là vì mục đích đó.“
Trong cuộc họp đầu tiên của Uỷ ban nghiên cứu kế hoạch
kiến quốc sau tháng 8 năm 1945, Người nêu rõ mục tiêu của
Nhà nước là:

1.”Làm cho dân có ăn
2. Làm cho dân có mặc
3. Làm cho dân có chỗ ở

4. Làm cho dân có học hành”
Người còn nói: “ Chúng ta hy sinh phấn đấu để giành độc
lập. Chúng ta đã tranh được rồi Chúng ta tranh được tự do, độc
lập rồi mà dân cứ chết đói, chết rét, thì tự do, độc lập cũng không
làm gì. Dân chỉ biết rõ giá trị của tự do, độc lập khi mà dân được
ăn no, mặc đủ. ”
Nhà nước vì dân không chỉ biết làm lợi cho dân mà còn
phải kính dân. Người nói: “Chúng ta phải yêu dân, kính dân thì
dân mới yêu ta, kính ta”. Trong lời dạy của Người thể hiện rõ sự
kế thừa có sáng tạo các tư tưởng của những bậc tiền bối: Dân là
gốc, là quý và phải đối đãi dân như thế nào thì dân mới kính
mến, yêu nhà cầm quyền.
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, Nhà nước vì dân còn là
nhà nước sống trong lòng dân, tạo sự công bằng cho dân, đặt lợi
ích của Nhà nước gắn chặt với lợi ích của quần chúng nhân dân.
Như vậy, Nhà nước ta do dân xây dựng, phải là Nhà nước hoạt
động vì lợi ích của con người. Con người ở đây trước hết là nhân
dân lao động nói chung, bao gồm công nhân, nông dân, trí thức
và các giai tầng xã hội khác trong cộng đồng dân tộc Việt Nam.
Các giai cấp, tầng lớp ấy là lực lượng của toàn dân tộc, là những
người chung lưng đấu cật cho sự nghiệp chấn hưng dân tộc, gắn
vận mệnh của mình với vận mệnh dân tộc. Vì dân, vì con người,
vì sự nghiệp thúc đẩy tiến bộ của con người, của dân tộc là sợi
chỉ đỏ xuyên suốt trong tư tưởng Hồ Chí Minh.
Để có được một Nhà nước thực sự của dân, do dân và vì
dân, Hồ Chí Minh luôn luôn nhắc nhở phải xây dựng một bộ
máy nhà nước trong sạch, vững mạnh, đấu tranh với những bệnh
tật như tham nhũng, quan liêu, hách dịch, cửa quyền, vi phạm
quyền và lợi ích của nhân dân lao động.
Nhà nước vì dân còn là Nhà nước có trách nhiệm trước dân.

Nhiều lần Người căn dặn: “bất cứ việc gì cũng vì lợi ích của
nhân dân mà làm và chịu trách nhiệm trước nhân dân”. “Chính
sách của Đảng và Chính phủ phải hết sức chăm nom đến đời
sống của nhân dân, nếu dân đói là Đảng và Chính phủ có lỗi, nếu
dân rét là Đảng và Chính phủ có lỗi, nếu dân dốt là Đảng và
Chính phủ có lỗi, nếu dân ốm là Đảng và Chính phủ có lỗi.”
Trong lịch sử, tư tưởng Nhà nước “lấy dân làm gốc” đã
sớm xuất hiện ở những nhà lãnh đạo, những nhà chính trị lớn.
Nhưng đến Hồ Chí Minh, tư tưởng về Nhà nước của dân, do dân
và vì dân được phát triển sâu sắc, phong phú về nội dung, với
chất lượng mới, trở thành một quan điểm khoa học, nhân đạo về
bản chất nhà nước mới - Nhà nước của dân, do dân, vì dân .
Nếu như nước “ lấy dân làm gốc ” là tư tưởng chính trị
truyền thống thì đến Hồ Chí Minh, tư tưởng ấy được diễn đạt
trong một mệnh đề chủ động hết sức giản dị, tự nhiên: "Dân là
gốc nước" đúng như mấy câu thơ của Người:
“Gốc có vững thì cây mới bền
Xây lầu thắng lợi trên nền nhân dân”
Ngày nay, chúng ta đang xây dựng Nhà nước pháp quyền
Việt Nam xã hội chủ nghĩa và lấy tư tưởng về nhà nước pháp
quyền của dân, do dân và vì dân của Hồ Chí Minh làm nền tảng
tư tưởng cho chúng ta trong công cuộc xây dựng đó.
Với những kết quả đạt được trong qúa trình đổi mới,
cũng như những khó khăn, tồn tại quả hơn 18 năm đổi mới, hoàn
thiện nhà nước theo hướng xây dựng nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa đã tác động mạnh mẽ và trực tiếp đến quá trình đổi
mới đất nước nói chung. Thực tế cho thấy, vấn đề đổi mới và
hoàn thiện nhà nướ chiện nay là công việc còn khó khăn cả về lý
thuyết và thực tiễn. Điều đó đòi hỏi Đảng, Nhà nước và nhân dân
ta cần có những bước đi và giải pháp vừa khẩn trương, vừa vững

chắc trong hiện thực, tiếp tục cải cách triệt để hơn nữa tổ chức và
hoạt động của Nhà nước để đáp ứng được tình hình mới của đất
nước trong quá trình chấn hưng dân tộc và hội nhập hiện nay.

PGS.TS Lê Doãn Tá

×