Tải bản đầy đủ (.doc) (29 trang)

BÀI GIẢNG CHUYÊN đề QUAN hệ QUỐC tế và ĐƯỜNG lối đối NGOẠI của ĐẢNG và NHÀ nước TA HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (185.09 KB, 29 trang )

0

QUAN HỆ QUỐC TẾ VÀ ĐƯỜNG LỐI ĐỐI NGOẠI
CỦA ĐẢNG, NHÀ NƯỚC TA TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
Cơ sở lý luận và thực tiễn quan điểm, chính sách đối ngoại của Đảng
và Nhà nước hiện nay
Chính sách đối ngoại là một bộ phận quan trọng trong chính sách chung
của Đảng và Nhà nước, là sự tiếp tục chính sách đối nội trong quan hệ với đối
tượng, đối tác bên ngoài. Chính sách đối ngoại phục tùng chính sách đối nội
và phục vụ chính sách đối nội; đồng thời, cùng với chính sách đối nội, thực
hiện các mục tiêu, nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Mấy chục năm qua, sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta, dưới sự lãnh
đạo của Đảng đã đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Thắng lợi đó, trước
hết là do Đảng ta có đường lối đúng đắn. Trên lĩnh vực quan hệ quốc tế, do có
quan điểm, chính sách đối ngoại độc lập tự chủ, đúng đắn sáng tạo. Đảng ta
và nhân dân ta đã kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, sức mạnh
trong nước với sức mạnh quốc tế, tạo nên sức mạnh tổng hợp của cách mạng.
Cơng cuộc đổi mới vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, tiến hành
công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước hiện nay của nhân dân ta đang diễn ra
trong bối cảnh thế giới có nhiều biến đổi to lớn, sâu sắc và phức tạp. Điều đó
đặt ra những yêu cầu mới ngày càng cao hơn đối với chính sách đối ngoại
nhằm phát huy nội lực, đồng thời mở rộng hợp tác quốc tế, tạo mơi trường
hồ bình, điều kiện quốc tế thuận lợi phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc, góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh của các lực lượng cách mạng
và tiến bộ trên thế giới vì hồ bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.
Quan điểm, chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta xuất phát từ
những cơ sở lý luận và thực tiễn sau:
1.1. Quan điểm chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về quan
hệ quốc tế.
Chủ nghĩa Mác-Lênin là học thuyết khoa học, cách mạng, lý luận về đấu
tranh giai cấp của giai cấp công nhân quốc tế nhằm thực hiện sứ mệnh lịch sử


thế giới của mình. Toàn bộ hệ thống lý luận cũng như mỗi nguyên lý cơ bản
của nó phản ánh hiện thực khách quan đời sống xã hội của thời đại và thực tiễn
đấu tranh cách mạng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động toàn thế


1
giới. Chủ nghĩa Mác-Lênin là học thuyết có tính quốc tế, đồng thời đòi hỏi phải
được vận dụng phù hợp với hoàn cảnh lịch sử cụ thể của mỗi quốc gia.
Cách mạng vô sản nhằm thực hiện sứ mệnh lịch sử của giai cấp cơng nhân:
giải phóng giai cấp, giải phóng dân tộc và giải phóng con người. Do đó, đây là
cuộc cách mạng xã hội sâu sắc, toàn diện và triệt để, vừa mang tính giai cấp,
tính dân tộc và tính quốc tế, là cuộc cách mạng chung của giai cấp cơng nhân
quốc tế: nó đặt ra tính tất yếu phải kết hợp chặt chẽ chủ nghĩa yêu nước và chủ
nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân, kết hợp thực hiện nhiệm vụ dân tộc và
nghĩa vụ quốc tế, sự phối hợp đấu tranh của giai cấp vô sản và nhân dân các
dân tộc. Mác và Ăng ghen viết: "Cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản chống lại
giai cấp tư sản, về nội dung không phải là cuộc đấu tranh dân tộc. Đương nhiên
là trước hết, giai cấp vơ sản mỗi nước phải thanh tốn xong giai cấp tư sản
nước mình đã" 1.
Sự nghiệp cách mạng của giai cấp cơng nhân chỉ có thể hồn thành nếu giải
quyết đúng đắn mối quan hệ giữa dân tộc và quốc tế, phải tạo nên các mối liên
hệ, tình đồn kết vững chắc giữa giai cấp công nhân và nhân dân lao động giữa
các dân tộc. Khẩu hiệu đoàn kết quốc tế đã được Mác-Ăngghen nêu bật đó là:
"Vơ sản tất cả các nước liên hiệp lại" và sau này được Lênin phát triển "Vô sản
tất cả các nước và các dân tộc bị áp bức toàn thế giới đoàn kết lại".
Chủ nghĩa Mác-Lênin đã chỉ ra mối quan hệ khăng khít giữa cách mạng vơ
sản và cách mạng giải phóng dân tộc V.I.Lênin đã nhiều lần đặt ra yêu cầu đối
với các Đảng cộng sản phải có sự ủng hộ, giúp đỡ các cuộc cách mạng ở các
nước thuộc địa và phụ thuộc trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc;
giai cấp vô sản phải nắm lấy ngọn dân tộc và dân chủ, đưa phong trào giải

phóng dân tộc vào quỹ đạo cách mạng vô sản.
Trong quan hệ quốc tế, chủ nghĩa Mác-Lênin luôn giương cao ngọn cờ hồ
bình, lên án các cuộc chiến tranh xâm lược tàn bạo của chủ nghĩa đế quốc đối
với các dân tộc, tích cực đấu tranh bênh vực và bảo vệ quyền lợi chân chính
của các dân tộc và coi đó là những vấn đề có tính ngun tắc đối với một Đảng
cộng sản chân chính. Các nhà kinh điển Mác-xít và những người cộng sản chân
chính có thái độ đấu tranh, phê phán không khoan nhượng với các trào lưu cơ
hội, xét lại, chủ nghĩa sô vanh, chủ nghĩa dân tộc đủ mọi màu sắc đề bảo vệ và
phát triển tình đoàn kết, sự ủng hộ và giúp đỡ lẫn nhau của phong trào cộng sản
quốc tế và giữa lực lượng cách mạng và tiến bộ trên thế giới.
1

C.Mác và Ph.Ăngghen, Tuyển tập, Tập 1, Nxb ST, H. 1980, tr. 555.


2
Đặc biệt, quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về quan hệ quốc tế thể hiện
nổi bật trong cương lĩnh dân tộc của Lê nin. Trong cương lĩnh dân tộc này
V.I.Lênin đã xác định lập trường và quan điểm của Đảng cộng sản và Nhà
nước xã hội chủ nghĩa trong việc giải quyết mối quan hệ giữa các dân tộc, đó
là: Tôn trọng quyền dân tộc tự quyết; thực hiện quyền bình đẳng giữa các dân
tộc; đồn kết giai cấp cơng nhân các nước và đoàn kết các dân tộc thế giới.
Đây là cơ sở lý luận chỉ đạo nguyên tắc giải quyết vấn đề dân tộc và quan hệ
quốc tế của các Đảng cộng sản và Nhà nước xã hội chủ nghĩa; đồng thời, tư
tưởng đó cịn là nền tảng để xây dựng và củng cố mối quan hệ quốc tế đúng
đắn giữa các quốc gia trên thế giới hiện nay, là cơ sở lý luận để đấu tranh với
các quan điểm và hành vi đi ngược lại lợi ích chân chính của các dân tộc.
Thế giới quan, phương pháp luận duy vật biện chứng và lập trường cách
mạng của chủ nghĩa Mác-Lênin là cơ sở lý luận và cương lĩnh hành động để
các Đảng cộng sản, Nhà nước xã hội chủ nghĩa xem xét, giải quyết mối quan

hệ quốc tế một cách khoa học và đúng đắn. Đó là việc đề ra chiến lược, sách
lược đối ngoại phải căn cứ vào lợi ích giai cấp cơng nhân, lợi ích quốc gia: từ
phân tích các đặc điểm, tính chất và xu thế thời đại: từ đánh giá đúng đối
tượng, đối tác quan hệ: phải xem xét các điều kiện khách quan và nhân tố chủ
quan, nhân tố bên trong, yếu tố bên ngồi... Đặc biệt, Lê nin địi hỏi những
người cộng sản phải ln ln trung thành với lợi ích của giai cấp công nhân và
nhân dân lao động, kiên định mục tiêu lý tưởng cách mạng xã hội chủ nghĩa,
không mơ hồ về bản chất chủ nghĩa đế quốc, từ đó có chiến lược, sách lược
cách mạng đúng đắn, sáng tạo, phù hợp với hoàn cảnh lịch sử cụ thể.
Trong hoạt động chính trị thực tiễn, các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác-Lênin
đặc biệt quan tâm tới xây dựng tình đồn kết và sự phối hợp hành động chung
của giai cấp công nhân, nhân dân lao động trên thế giới, sáng tạo nên nhiều
hình thức liên hệ phong trào cộng sản, công nhân quốc tế.
Mác-Ăngghen đã trực tiếp tổ chức chỉ đạo hoạt động của Quốc tế I, Quốc
tế II tổ chức phát động phong trào công nhân quốc tế ủng hộ Công xã Pari, bảo
vệ các chiến sĩ công xã trước sự khủng bố trả thù của giai cấp tư sản: lên án các
cuộc chiến tranh xâm lược của chủ nghĩa tư bản. Lê nin đã tổ chức, chỉ đạo
hoạt động Quốc tế III, hướng các hoạt động của Quốc tế vào mục tiêu chun
chính vơ sản và ủng hộ phong trào giải phóng dân tộc, chống chiến tranh thế
giới... Về sau, Hội nghị các Đảng cộng sản và công nhân trên thế giới (1957,
1960, 1969...) cũng là những hình thức liên hệ đa dạng, tích cực của phong trào


3
cộng sản quốc tế nhằm phối hợp hành động thực hiện chiến lược chung của
phong trào cộng sản - công nhân quốc tế.
Chủ tịch Hồ Chí Minh - lãnh tụ vĩ đại và yêu quý của Đảng và dân tộc ta,
anh hùng giải phóng dân tộc, chiến sĩ cộng sản lỗi lạc của phong trào cộng sản
quốc tế, danh nhân văn hố thế giới. Tồn bộ cuộc đời và sự nghiệp vĩ đại của
Người là tấm gương mẫu mực và sáng ngời về sự kết hợp nhuẫn nhuyễn chủ

nghĩa yêu nước chân chính với chủ nghĩa quốc tế trong sáng của giai cấp cơng
nhân. Tư tưởng Hồ Chí Minh về quan hệ quốc tế và đấu tranh ngoại giao là di
sản quý báu, cùng với chủ nghĩa Mác-Lênin là nền tảng tư tưởng, quan điểm,
chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta.
Trong nội dung phong phú và sâu sắc của tư tưởng Hồ Chí Minh về quan
hệ quốc tế, nổi bật lên một số vấn đề chủ yếu sau đây:
Thứ nhất, đó là tư tưởng về sự kết hợp chặt chẽ giữa cách mạng giải phóng
dân tộc với cách mạng vô sản, giữa độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; giữa
chủ nghĩa yêu nước với chủ nghĩa quốc tế vô sản.
Từ chủ nghĩa yêu nước, Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh đã đi đến chủ
nghĩa Mác-Lênin. Quá trình đi tìm đường cứu nước, tiếp thu chủ nghĩa MácLênin, trở thành chiến sĩ cộng sản kiệt xuất là sự thể hiện tập trung nhất, độc
đạo và đặc sắc nhất, chân thực và sinh động nhất hình tượng của một chiến sĩ
cách mạng mà trong đó hội tụ những phẩm chất cao đẹp của dân tộc và tinh
hoa của thế giới, của chủ nghĩa yêu nước chân chính với chủ nghĩa quốc tế vơ
sản trong sáng.
Là một người yêu nước của một dân tộc bị áp bức, được tận mắt chứng
kiến những cánh bất công của chủ nghĩa tư bản đối với giai cấp vô sản và các
dân tộc thuộc địa. Người nhận thấy rằng, dưới ách đơ hộ của chủ nghĩa tư bản
thì ở đâu cũng thấy con người, không kể da trắng hay da màu đều có hai loại:
người lao động, nghèo khổ bị bóc lột, áp bức và những kẻ giàu có, những kẻ
thống trị sống xa hoa truỵ lạc. Người vạch rõ bản chất bóc lột của chủ nghĩa đế
quốc, ví chủ nghĩa đế quốc như con đỉa có hai vịi: một vịi hút máu giai cấp vơ
sản chính quốc và một vịi hút máu giai cấp vô sản và nhân dân các dân tộc
thuộc địa. Vì vậy, muốn giết con vật ấy thì phải cắt cả hai cái vịi đó. Cho nên,
cách mạng vơ sản chính quốc phải liên kết với cách mạng giải phóng dân tộc,
hai cuộc cách mạng này như hai cái cánh của một con chim.
Với tư duy khoa học và tính nhạy bén chính trị, Hồ Chí Minh đã nắm bắt
được xu thế của thời đại mới - thời đại cách mạng vơ sản. Vì vậy: "Muốn cứu



4
nước và giải phóng dân tộc, khơng có con đường nào khác, con đường cách
mạng vơ sản". Từ đó, độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội trở thành
ngọn cờ tư tưởng của Đảng, mục tiêu chiến lược xuyên suốt của cách mạng
nước ta.
Thứ hai, trong quan hệ quốc tế, Hồ Chí Minh ln coi cách mạng Việt Nam
là một bộ phận cách mạng thế giới: Đảng Cộng sản Việt Nam là một đội ngũ
kiên cường của phong trào cộng sản quốc tế.
Mỗi thắng lợi của cách mạng Việt Nam cũng là thắng lợi của các lực lượng
cách mạng và tiến bộ trên thế giới. Đồng thời, mỗi thắng lợi của cách mạng thế
giới cũng là thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Cho nên, Người thường xuyên
chỉ rõ: Đảng ta và nhân dân ta phải làm hết sức mình để đánh thắng bọn đế
quốc thực dân xâm lược, giành và giữ độc lập dân tộc, đồng thời làm tròn
nghĩa vụ quốc tế. Dân tộc ta "Sẽ có vinh dự lớn, là một nước nhỏ mà đã đánh
thắng hai đế quốc to là Pháp và Mỹ, góp phần to lớn vào sự nghiệp cách mạng
thế giới".
Thứ ba, trong mối quan hệ dân tộc và quốc tế Hồ Chí Minh khẳng định vai
trị quyết định của sức mạnh nội lực dân tộc và ý nghĩa quan trọng của nhân tố
quốc tế.
Hồ Chí Minh ln ln kêu gọi nhân dân ta cần phải đề cao và phát huy
tinh thần tự lực, tự cường, tự lực cánh sinh là chính: tích cực chủ động cách
mạng, "đem sức ta mà tự giải phóng cho ta", khơng trơng chờ, ỉ lại bên ngoài:
song, đồng thời phải ra sức mở rộng quan hệ, tranh thủ sự ủng hộ, giúp đỡ của
các lực lượng cách mạng, tiến bộ trên thế giới, kể cả nhân dân các nước tư bản
đối với sự nghiệp cách mạng chính nghĩa của nhân dân ta.
Thứ tư, khơng ngừng chăm lo xây dựng, củng cố tình đồn kết quốc tế giữa
các lực lượng cách mạng và tiến bộ.
Hồ Chí Minh ln coi trọng tình cảm anh em và tình đồng chí thân thiết
của những người cùng lý tưởng chiến đấu và cùng có kẻ thù chung. Người đã
viết:

"Quan san mn dặm một nhà
Bốn phương vô sản đều là anh em"
Người thường xuyên quan tâm giáo dục Đảng ta và nhân dân ta không
ngừng nâng cao tinh thần yêu nước thiết tha, đi đơi với chăm lo bồi dưỡng tình
cảm quốc tế trong sáng, thuỷ chung, hết lòng với anh em, bè bạn quốc tế:


5
"Giúp bạn là tự giúp mình". Trong tồn bộ cuộc đời và sự nghiệp củ mình, Hồ
Chí Minh ln đem hết sức mình phấn đấu cho tình đồn kết giữa các Đảng
anh em và các nước anh em. Trước sự bất đồng trong phong trào cộng sản và
các nước xã hội chủ nghĩa, Người vơ cùng đau xót. Trong di chúc Người viết:
"Là một người suốt đời phục vụ cách mạng, tôi càng tự hào với sự lớn mạnh
của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế bao nhiêu, thì tơi càng đau lịng
bấy nhiêu vì sự bất hồ hiện nay giữa các Đảng anh em" và kêu gọi "Các Đảng
anh em và các nước anh em nhất định sẽ phải đồn kết lại". Người mong muốn
Đảng ta tích cực góp phần vào việc khơi phục và củng cố tình đồn kết trong
phong trào cộng sản quốc tế và các nước xã hội chủ nghĩa "trên nền tảng chủ
nghĩa Mác-Lênin và chủ nghĩa quốc tế vơ sản, có lý, có tình".
Thứ năm. tư tưởng Hồ Chí Minh và nghệ thuật đấu tranh ngoại giao vô
cùng phong phú, độc đáo và sáng tạo. Đó là phương lược xử lý "Dĩ bất biến,
ứng vạn biến"; trung thành lợi ích dân tộc và cách mạng, gương cao ngọn cờ
chính nghĩa: kiên trì về nguyên tắc, song mềm dẻo về sách lược: tình thần tự
tin, tự tại, chủ động trong mọi tình thế; biết phân hoá kẻ thù, lợi dụng mâu
thuẫn trong hàng ngũ kẻ thù: tranh thù thời cơ, nắm chắc thời cơ: nghệ thuật
đàm phán tài tình, khơn khéo... thắng từng bước, vừa hợp tác, vừa đấu tranh...
Tư tưởng Hồ Chí Minh về quan hệ đối ngoại, về đấu tranh ngoại giao đã
được Đảng ta vận dụng linh hoạt, sinh động trong hoạt động thực tiễn, góp
phần to lớn vào thắng lợi của sự nghiệp cách mạng dân tộc dân chủ và cách
mạng xã hội chủ nghĩa. Đó cũng là giá trị bất hủ trong lịch sử dân tộc và lịch sử

Đảng ta, là nền tảng tư tưởng cho Đảng và Nhà nước ta kế thừa và phát huy
trong công cuộc đổi mới hiện nay.
2. Truyền thống ngoại giao của dân tộc Việt Nam.
Trải qua quá trình lịch sử lâu dài dựng nước và giữ nước, dân tộc ta đã
đương đầu và đánh thắng nhiều thế lực xâm lược nước ngoài hùng mạnh và
hung hãn. Cùng với đấu tranh trên lĩnh vực khác, ngoại giao là một mặt trận
chiến đấu gay go, quyết liệt và góp phần to lớn tạo nên sức mạnh tổng hợp của
dân tộc ta đánh thắng kẻ thù. Hoà cùng sự nghiệp chiến đấu và xây dựng đất
nước trong lịch sử, ngoại giao của tổ tiên ta đã để lại cho các thế hệ đời sau
nhiều bài học kinh nghiệm quý báu, bổ ích và thiết thực. Đấu tranh ngoại giao
đã góp phần khẳng định bản lĩnh anh hùng, ý chí tự lực tự cường, cốt cách và
trí tuệ, tâm hồn Việt Nam, được cả lồi người khâm phục và kính trọng.


6
Lịch sử ngoại giao của cha ông ta đã để lại cho chúng ta những giá trị quý
báu và những bài học vô giá.
Trong lịch sử lâu dài của dân tộc, ngoại giao luôn luôn được các thế hệ cha
ông ta sử dụng như một công cụ, một phương thức và biện pháp đấu tranh quan
trọng, rất sắc bén và có hiệu quả cả trong q trình giành độc lập dân tộc, tự
chủ và trong xây dựng, bảo vệ đất nước, cả thời chiến và thời bình.
Ngoại giao Việt Nam truyền thống về bản chất là nền ngoại giao giữ nước
và cứu nước, ngoại giao chính nghĩa.
Những hoạt động ngoại giao của cha ông ta được chỉ đạo bởi những tư
tưởng chiến lược lớn: khẳng định chủ quyền danh dự dân tộc: đề cao đại nghĩa,
nhân ái; coi trọng hoà hiếu, yên dân. Những tư tưởng lớn đó đã được thể hiện
sâu sắc trong các thời kỳ lịch sử và vận dụng sáng tạo trong hoạt động ngoại
giao, đem lại những thắng lợi to lớn cho dân tộc, ngày nay vẫn cịn ngun giá
trị.
Lịch sử ngoại giao của ơng cha ta để lại một số bài học chủ yếu sau đây:

Bài học thứ nhất, luôn nêu cao ý thức độc lập dân tộc, tự chủ, bảo vệ chủ
quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, đề cao và bảo vệ lợi ích quốc gia, bản
sắc văn hố, danh dự dân tộc. Đặt lợi ích dân tộc lên trên hết, là nguyên tắc
tối cao trong quan hệ với bên ngoài.
Bài học thứ 2, kết hợp chặt chẽ đấu tranh ngoại giao với đấu tranh quân
sự và trên các lĩnh vực khác.
Sự kết hợp đó là một đặc điểm nổi bật trong lịch sử ngoại giao của dân tộc.
Kết hợp đấu tranh ngoại giao với đấu tranh quân sự một cách mưu trí, sáng tạo
được thể hiện với nhiều nội dung và hình thức phong phú. Đó là:
Kết hợp giữa "giao" và "cơng". Nghĩa là, vừa duy trì quan hệ bang giao hồ
hỗn vừa thường xun cảnh giác, tích cực chuẩn bị đối phó, sẵn sàng chiến
đấu, khơng để bất ngờ, kịp thời đánh trả khi bị tiến công và kiên quyết tiến
công địch với tinh thần quyết thắng.
Kết hợp giữa "đánh" và "đàm". Trong khi tiến hành các hoạt động quân sự,
sử dụng các đòn quân sự tiêu diệt, tiêu hao địch trên chiến trường vẫn tranh thủ
các điều kiện, thời cơ để dùng ngơn luận chính nghĩa đấu tranh với đối phương
ở bàn hội nghị, nhằm thực hiện thắng lợi mục tiêu giữ nước, cứu nước. Phối
hợp đánh địch trên chiến trường với đánh địch trên bàn hội nghị, tạo nên sức
mạnh tiến công tổng hợp, hỗ trợ, thúc đẩy lẫn nhau đẩy địch lầm vào thế bị


7
động, suy yếu cả về thế và lực, đánh tan ý chí xâm lược của địch. Kết hợp giữa
"đánh" và "đàm" còn là dịp để vạch trần tội ác của địch, gương cao ngọn cờ
chính nghĩa của ta, chỉ rõ thất bại tất yếu của chúng; đánh vào tinh thần tư
tưởng của địch, hoặc phân hoá, lợi dụng mâu thuẫn trong hàng ngũ kẻ thù. Kết
hợp giữa "đánh" và "đàm" cịn được ơng cha ta chủ động kết thúc chiến tranh
một cách có lợi nhất cho ta và mở ra cục diện mới trong quan hệ giữa hai bên
sau chiến tranh, giải quyết các vấn đề hậu quả sau chiến tranh.
Kết hợp giữa "lễ" với "binh", Trong quan hệ giữa nhà nước phong kiến

trước đây, lễ nghi, lễ nghĩa thường được các bên coi trọng. Trong tiếp xúc
ngoại giao, ông cha ta tiếp đón sứ thần đối phương rất trịnh trọng, đúng nghi lễ
cần có, cả lúc trước, sau và trong chiến tranh. Ta cũng đòi hỏi đối phương khi
tiếp xúc ngoại giao với ta cũng phải đúng lễ nghĩa và trân trọng . Ơng cha ta
trong tiếp đón, đàm phán với địch đúng nghi lễ nhưng cũng dùng binh thị uy,
phô trương thanh thế, khuyếch trương lực lượng răn đe chúng, làm chúng khiếp
sợ. Hoặc dùng binh rất kiên quyết, đánh địch rất đau nhưng lại khôn khéo dùng
lời lẽ nhún nhường của nước nhỏ ra vẻ thần phục nước lớn, làm dịu tự ái của
chúng, đẩy chúng vào thế "ngậm bồ hịn mà khen ngọt".
Trong q trình kết hợp hoạt động ngoại giao với các hoạt động chính trị,
kinh tế, văn hoá - xã hội khác, cần phải chăm lo xây dựng tiềm lực sức mạnh
của dân tộc, coi đó là nền tảng bảo đảm quyết định cho thắng lợi của đấu tranh
ngoại giao. Tiềm lực yếu, thế nước suy thì ngoại giao bị động, khó khăn, bị
thua thiệt: trái lại, kinh tế phát triển, chính trị sáng tỏ, quân sự hùng cường, xã
hội ổn định, nhân dân phấn khởi thì hoạt động ngoại giao có đầy đủ tư thế và
sức mạnh, đem lại và bảo vệ được danh dự dân tộc, gây được uy tín với thế
giới.
Bài học thứ ba, luôn luôn kiên định mục tiêu chiến lược, giữ vững nguyên
tắc song mềm dẻo khôn khéo về sách lược.
Trong đấu tranh ngoại giao, phương châm xử lý của ông cha ta là luôn
quán triệt sâu sắc tinh thần "dĩ bất biến, ứng vạn biến". Không bao giờ từ bỏ,
nhân nhượng những vấn đề về chiến lược, quan hệ đến lợi ích cơ bản, thống
nhất và tồn vẹn lãnh thổ quốc gia và danh dự dân tộc.
Đấu tranh ngoại giao rất khó khăn, phức tạp và căng thẳng. Đây thực sự là
vấn đề mưu lược, đấu trí, đấu tài, địi hỏi sự thơng tuệ, sáng suốt, bản lĩnh và
cả sự khơn khéo, mềm dẻo, tính kiên trì theo đuổi mục tiêu. Ông cho ta đã cung
cấp cho chúng ta nhiều kinh nghiệm phong phú về nghệ thuật đàm phán và


8

hoạt động ngoại giao. Trên cơ sở đặt quyền lợi tối cao của dân tộc lên trên hết,
nhất quán với mục tiêu đã xác định, song biết thắng từng bước, từng phần, biết
cái gì, khi nào có thể nhân nhượng, cái gì khơng thể nhân nhượng, dùng lời lẽ
sắc sảo, nhún nhường nhưng không quỵ luỵ. Đặc biệt bằng thực tiễn lịch sử, tổ
tiên ta cho thấy trong quan hệ với kẻ thù, không bao giờ được lơ là mất cảnh
giác, ảo tưởng mơ hồ bản chất, âm mưu của chúng. Trái lại, bằng ý thức cảnh
giác cao, kịp thời nắm bắt mọi diễn biến và động thái của đối phương, nhận rõ
ý đồ, thủ đoạn của địch và sự vận động biến đổi của tình hình để đạt được mục
tiêu của dân tộc. Kiên định mục tiêu chiến lược, ngun tắc, lợi ích cơ bản của
dân tộc nhưng khơng cứng nhắc mà uyển chuyển, sử dụng tài tình, mau lẹ các
hình thức, biện pháp đấu tranh để đạt được kết quả cao nhất, nhờ đó ta thắng
địch về ngoại giao góp phần to lớn về thắng lợi chung của dân tộc.
Bài học thứ tư, trong đấu tranh ngoại giao cũng như đấu tranh trên các
lĩnh vực khác luôn luôn nắm chắc đặc điểm, tình hình đối phương, tình hình
thực lực và chính sách đối nội của ta trong mỗi giai đoạn lịch sử để đề ra chủ
trương, biện pháp đấu tranh phù hợp, đem lại hiệu quả cao nhất.
Cha ông ta thường nói "Biết địch, biết ta, trăm trận trăm thắng". Điều đó
khơng chỉ đúng trong đấu tranh qn sự mà cũng đũng cả trong đấu tranh
ngoại giao. Mặt khác, hoạt động đối ngoại bao giờ cũng bị chi phối bởi sự tác
động của các đặc điểm tình hình cá nước liên quan, của thời, thế và tương quan
so sánh lực lượng.
Bởi vậy, việc nắm bắt đúng tình hình cả điều kiện khách quan và nhân tố
chủ quan, phân tích một cách đúng đắn bối cảnh trong nước và ngồi nước, tìm
ra điểm mạnh, điểm yếu của ta và của đối phương là vấn đề cực kỳ quan trọng
trong việc đề ra các chủ trương và hoạt động đối ngoại đúng đắn. Trong lịch sử,
ông cha ta đã từng lợi dụng thời gian hồ hỗn, quan hệ bang giao để nắm chắc
nội tình đối phương, ý đồ và khả năng của chúng, chủ động tiến công ngăn
chặn địch từ trước như Lý Thường Kiệt đã dùng chiến lược "tiên phát chế
nhân". Vua Trần đã chủ động đưa phái bộ sang đàm phán với Ngun Mơng để
nắm tình hình qn sự của chúng, vận dụng phương lược cương, nhu tuỳ lúc,

tuỳ thời. Lê Lợi - Nguyễn Trãi trong lúc vây hãm Đông Quan và đánh viện
binh địch đã hiểu rõ tình hình khốn quẫn, tâm trạng hoang mang, dao động của
chúng, sử dụng địn tiến cơng tâm lý làm cho quân trong thành hoàn toàn suy
sụp tinh thần chiến đấu: quân cứu viện của Mộc Thạnh do dự, dừng chân; quân
Liễu Thăng hung hăng, kiêu ngạo, đưa chúng vào thế trận ta bày sẵn để tiêu
diệt, làm Vương Thông không còn hy vọng phải đầu hàng. Quang Trung,


9
Nguyễn Huệ cũng do nắm chắc tình hình địch, qua hoạt động ngoại giao, kích
thích thói ngạo mạn, chủ quan của Tôn Sĩ Nghị, chủ động xuất quân vào lúc
bất ngờ nhất, làm địch không kịp trở tay và bị tiêu diệt. Sau đó cũng bằng hoạt
động ngoại giao, Quang Trung nắm bắt được nội tình nhà Thanh, chủ trương
bình thường hoá quan hệ với nhà Thanh, tranh thủ thời gian phát triển kinh tế,
ổn định đời sống nhân dân, xây dựng chính quyền, chuẩn bị lực lượng tiêu diệt
quân Nguyễn Ánh ở Gia Định và quân Xiêm ở Rạch Gầm - Xoài Mút.
Bài học thứ năm, chú trọng việc lựa chọn, đào tạo, bồi dưỡng các nhà
ngoại giao có đủ phẩm chất và năng lực hoàn thành xuất sắc chủ trương,
nhiệm vụ đối ngoại trong bất cứ hoàn cảnh nào.
Thắng lợi của hoạt động ngoại giao trong quá trình lịch sử của dân tộc ta
bắt nguồn từ chủ nghĩa yêu nước truyền thống của dân tộc, tinh thần độc lập tự
chủ, tự cường, tài trí thơng minh của nhân dân ta, tính chính nghĩa của sự
nghiệp giữ nước và cứu nước, đường lối chính trị đúng đắn trong giai đoạn lịch
sử của cha ông ta. Đồng thời, thành bại trong hoạt động ngoại giao tuỳ thuộc
một phần rất quan trọng vào phẩm chất và năng lực của đội ngũ các nhà ngoại
giao. Trong lịch sử dân tộc, các nhà ngoại giao kiệt xuất thường đồng đồng là
nhà chính trị, nhà quân sự, nhà văn hoá lớn. Nhiều nhân vật lãnh đạo đất nước
trong lịch sử phải trực tiếp đảm đương cơng việc đối ngoại như Lê Hồn, Lý
Thường Kiệt... Các nhà ngoại giao đều là những người có học vấn cao, thơng
minh, tài trí, sắc sảo, bản lĩnh... hơn người. Họ được các vua chúa, lãnh tụ

phong trào lựa chọn, tin tưởng giao cho trọng trách đấu trí, đấu gan với đối
phương để bảo vệ lợi ích và chủ quyền, bản sắc văn hố dân tộc. Thời Lý có
trạng nguyên Lê Văn Thịnh, thời Trần có Lưỡng quốc trạng nguyên Mạc Đĩnh
Chi, thời Lê có Nguyễn Trãi: nhà chiến lược, nhà quân sự, nhà văn, nhà thơ,
nhà sử học, nhà địa lý học. Ông đặc biệt tài giỏi ở nghệ thuật đánh vào lịng
người. Qua ngoại giao, ơng hàng phục được hàng loạt tướng tá quân Minh, làm
cho hàng chục thành trì của chúng khơng đánh mà tan. Cuối thế kỷ XVII đầu
thế kỷ XVIII có trạng nguyên Phùng Khắc Khoan cũng là một nhà ngoại giao
tài giỏi. Thế kỷ XVIII có nhà bác học Lê Q Đơn, khi đi sứ Thanh, ông làm
cho vua quan nhà Thanh phải kính nể. Thời Tây Sơn có Ngơ Thì Nhậm, ơng
cũng

một
nhà
văn
hố,
nhà
ngoại
giao
xuất chúng.
Nhà ngoại giao kiệt xuất không chỉ là những người có trình độ văn hố cao
mà cịn là những người có tài ứng đối.


10
Nhà ngoại giao tài giỏi là những người nhạy bén về chính trị. Họ có khả
năng nắm bắt nhanh chóng các xu thế, quy luật vận động của tình hình qua
những sự kiện đơn lẻ.
Nhà ngoại giao là những người có ý chí kiên cường dũng cảm, bản lĩnh
vững vàng, tinh thần chịu đựng khó khăn nguy hiểm, đồng thời có tinh thần lạc

quan.
Đặc biệt, nhà ngoại giao phải là những con người tuyệt đối trung thành với
đất nước. Đây là phẩm chất quan trọng nhất và là tư cách tiêu biểu của các nhà
ngoại giao kiệt xuất trong lịch sử dân tộc ta. Không trung thành với đất nước,
với lợi ích dân tộc thì dù tài giỏi đến đâu, nhà ngoại giao cũng chẳng có ích gì
cho đất nước.
Một nhà ngoại giao kiệt xuất còn là người am hiểu đối phương. Họ khơng
chỉ hiểu biệt tình hình mọi mặt của đối phương, mà còn phải hiểu biết thấu đáo
người đối thoại với mình cả về phẩm chất, năng lực, sở trưởng, sở đoản của họ.
Trên cơ sở những yếu tố cơ bản đó, nhà ngoại giao qua những hoạt động
đối ngoại cụ thể phải "dĩ bất biến, ứng vạn biến" để đấu tranh ngoại giao giành
được thắng lợi với hiệu quả cao nhất.
Những bài học lịch sử chủ yếu trong lĩnh vực ngoại giao trên đây của dân
tộc, hiện nay vẫn là những giá trị quý báu, bổ ích, đã, đang và sẽ được Đảng,
Nhà nước và nhân dân ta nghiên cứu, kế thừa và phát huy trong đấu tranh
ngoại giao trong điều kiện lịch sử mới. Đây là một trong những cơ sở quan
trọng để toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta đề ra và thực hiện thắng lợi quan
điểm, chính sách và các hoạt động đối ngoại của thời kỳ cơng nghiệp hố, hiện
đại hố đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, phấn đấu cho
mục tiêu "dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh".
3. Thành tựu và kinh nghiệm của nền ngoại giao cách mạng Việt Nam
Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, trong mấy chục năm qua,
cùng với thắng lợi chung của sự nghiệp cách mạng, nền ngoại giao cách mạng
Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu to lớn và cung cấp những bài học quý
báu.
Thành tựu:
Ngoại giao cách mạng đã góp phần tích cực vào việc thiết lập và mở rộng
quan hệ quốc tế của Đảng và Nhà nước ta với các Đảng cộng sản anh em trong



11
phong trào cộng sản, công nhân quốc tế, các nước anh em, bè bạn và các lực
lượng chính trị - xã hội trên thế giới.
Trên cơ sở nắm vững quan điểm, đường lối, chính sách đối nội và đối
ngoại của Đảng trong các giai đoạn, thời kỳ cách mạng, thông qua những hoạt
động ngoại giao chủ động, tích cực, phong phú và đa dạng về nội dung và hình
thức, ngoại giao cách mạng Việt Nam đã tranh thủ được sự đồng tình ủng hộ,
giúp đỡ của các nước xã hội chủ nghĩa anh em và bè bạn, của các lực lượng
cách mạng, của các lực lượng dân chủ và hoà bình, tiến bộ trên thế giới đối với
sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc trước đây và xây dựng bảo vệ Tổ quốc
hiện nay. Đặc biệt, trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc
Mỹ, ngoại giao đã tích cực góp phần gương cao ngọn cờ chính nghĩa của dân
tộc, vạch trần, lên án âm mưu, thủ đoạn của chủ nghĩa đế quốc trước toàn thế
giới, tố cáo tội ác tàn bạo của chúng, kêu gọi sự ủng hộ của tất cả những người
có lương tri trên thế giới đối với nhân dân ta. Vì vậy, đã hình thành trên thực tế
mặt trận nhân dân thế giới đoàn kết và ủng hộ cách mạng Việt Nam chống xâm
lược.
Ngoại giao cách mạng Việt Nam đã đóng góp xứng đáng vào việc củng cố
và tăng cường tình đồn kết, quan hệ hữu nghị, hợp tác giữa nhân dân ta với
các lực lượng cách mạng, tiến bộ trên thế giới, giữa các Đảng cộng sản và các
nước xã hội chủ nghĩa, phấn đấu vì hồ bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến
bộ
xã hội.
Ngoại giao cách mạng Việt Nam đã được trực tiếp nâng cao vai trò, vị thế
của Đảng, Nhà nước và dân tộc ta trên trường quốc tế; đẩy mạnh quá trình
tham gia của Việt Nam vào các tổ chức quốc tế và khu vực, các quan hệ với
các tổ chức chính phủ và phi chính phủ; các quan hệ ngoại giao nhân dân; tăng
cường sự hiểu biết lẫn nhau giữa dân tộc ta với các dân tộc khác trên thế giới.
Thúc đầy quan hệ hợp tác kinh tế, khoa học cơng nghệ, văn hố... của nước
ta với các nước khác trên thế giới, tranh thủ mọi điều kiện quốc tế thuận lợi,

phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, đẩy mạnh phát triển kinh tế xã hội, thu hút đầu tư nước ngoài.
Đấu tranh bảo vệ quyền lợi của nước ta trong quan hệ với các quốc gia và
tổ chức quốc tế, giải quyết các vấn đề kinh tế, chính trị, quốc phòng - an ninh
như vấn đề biên giới lãnh thổ; Việt kiều, buôn bán, thương mại...


12
Trong thời kỳ đổi mới hiện nay, cùng với những thành tựu bước đầu trên
các lĩnh vực đời sống xã hội, ngoại giao Việt Nam cũng đạt được những thành
tựu to lớn phát triển mạnh mẽ quan hệ đối ngoại, phá thế bị bao vây, cấm vận,
tham gia tích cực vào đời sống cộng đồng quốc tế.
+ Triển khai tích cực và năng động đường lối độc lập - tự chủ, đa dạng hoá,
đa phương hoá trong quan hệ quốc tế; thực hiện bình thường hố và mở rộng
quan hệ hợp tác toàn diện với Trung Quốc.
+ Tăng cường quan hệ hữu nghị đặc biệt Việt - Lào, xây dựng quan hệ láng
giềng tốt với Căm-pu-chi-a.
+ Mở rộng quan hệ hợp tác với các nước trong khu vực Đông Nam Á, trở
thành thành viên chính thức của ASEAN.
+ Khơi phục quan hệ hợp tác truyền thống với các nước SNG, Đơng Âu.
+ Bình thường hố quan hệ với Mỹ, mở rộng quan hệ hợp tác nhiều mặt
với EU, Nhật, các nước tư bản phát triển , các nước châu Á - Thái Bình
Dương, các nước khác trên thế giới.
+ Tăng cường quan hệ phối hợp hành động với phong trào Không liên kết,
với các nước đang phát triển trong cuộc đấu tranh cho trật tự kinh tế thế giới
mới và trong diễn đàn Liên hợp quốc.
+ Tham gia hoặc phối hợp hoạt động với các tổ chức quốc tế và khu vực;
APEC, ASEAN, các uỷ ban Liên hợp quốc, IMF, ngân hàng thế giới WB.
+ Tích cực tham gia vào việc giải quyết các vấn đề toàn cầu.
+ Đảng ta tiếp tục duy trì và phát triển quan hệ đồn kết, hữu nghị với các
Đảng cộng sản và công nhân, phong trào độc lập dân tộc, các tổ chức chính trị xã hội và phong trào tiến bộ thế giới, thiết lập quan hệ với một số đảng cầm

quyền trên thế giới, các đảng xã hội - dân chủ; mở rộng hoạt động đối ngoại
của các đoàn thể, các tổ chức xã hội, nghề nghiệp, các tổ chức phi chính phủ,
các tổ chức kinh tế...
Đến nay, nước ta đã có quan hệ ngoại giao với 167 nước, quan hệ buôn bán
với hơn 140 nước và vùng lãnh thổ, hơn 70 nước và vùng lãnh thổ đầu tư vào
Việt Nam với hàng ngàn dự án, hàng chục tỉ USD. Hàng năm nước ta được các
quỹ quốc tế cam kết tài trợ vài tỉ USD, cung cấp viện trợ ODA hàng chục triệu
USD. Đánh giá thành tựu chính sách đối ngoại vừa qua, Đại hội VIII Đảng ta
khẳng định: "Thành tựu trên lĩnh vực đối ngoại là một nhân tố quan trọng góp
phần giữ vững hồ bình, phá thế bị bao vây, cấm vận, cải thiện và nâng cao vị


13
thế của nước ta trên thế giới, tạo môi trường thuận lợi cho công cuộc xây dựng
và bảo vệ đất nước. Đó cũng là sự đóng góp tích cực của nhân dân ta vào sự
nghiệp chung của nhân dân thế giới vì hồ bình, độc lập dân tộc, dân chủ và
tiến bộ xã hội" 1.
Những bài học kinh nghiệm của ngoại giao cách mạng:
Nền ngoại giao cách mạng Việt Nam từ khi có Đảng là sự kế thừa và phát
huy lên ở trình độ mới truyền thống ngoại giao, đã vận dụng sáng tạo các bài
học kinh nghiệm quý báu của tổ tiên ta. Đồng thời, qua thực tiễn ngoại giao
cách mạng đã rút ra nhiều bài học kinh nghiệm sâu sắc:
Bài học thứ nhất, nền tảng ngoại giao của Đảng và Nhà nước ta đó là nền
ngoại giao cách mạng, u chuộng hồ bình, đề cao ngọn cờ chính nghĩa.
Bài học thứ hai, tư tưởng xuyên suốt của ngoại giao cách mạng Việt Nam
là xây dựng và tăng cường tình đồn kết chiến đấu, tình hữu nghị và quan hệ
hợp tác với các lực lượng cách mạng, tiến bộ, các dân tộc u chuộng hồ bình
cơng lý trên thế giới phấn đấu vì hồ bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ
xã hội.
Bài học thứ ba, nguyên tắc cơ bản của nền ngoại giao cách mạng Việt Nam

là kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Nắm vững lợi ích
dân tộc, kiên quyết thực hiện đường lối đối ngoại độc lập tự chủ và đoàn kết
quốc tế; kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại; kết hợp các mặt trận
quốc tế, quân sự, kinh tế, văn hoá, ngoại giao, ngoại giao nhà nước và ngoại
giao nhân dân để tạo thành sức mạnh tổng hợp.
Bài học thứ tư, đường lối, chiến lược, đối ngoại, phải phù hợp và đáp ứng
yêu cầu nhiệm vụ cách mạng trong từng giai đoạn, thời kỳ cách mạng với đặc
điểm tình hình thế giới và xu thế quan hệ quốc tế.
Bài học thứ năm, quan tâm hàng đầu đến mối quan hệ với các nước láng
giềng và các nước trong khu vực tạo ra môi trường hồ bình, ổn định, thân
thiện và hợp tác.
Bài học thứ sáu, coi trọng quan hệ với các nước lớn, các trung tâm kinh tế,
chính trị trên thế giới.
Bài học thứ bảy, thường xuyên xây dựng đội ngũ cán bộ, nâng cao chất
lượng, hiệu quả hoạt động ngoại giao, nghệ thuật đấu tranh ngoại giao.
1

Văn kiện Đại hội VIII ĐCSVN, Nxb ST, H. 1996, tr. 63.


14
4. Mục tiêu, nhiệm vụ cách mạng:
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH đã xác định:
"Mục tiêu tổng quát phải đạt tới khi kết thúc thời kỳ quá độ là xây dựng về cơ
bản những cơ sở kinh tế của CNXH với kiến trúc thượng tầng về chính trị và tư
tưởng, văn hố phù hợp, làm cho nước ta trở thành một nước XHCN phồn vinh"
1
.
Cương lĩnh cũng xác định mục tiêu chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà
nước ta là: "Tạo điều kiện quốc tế thuận lợi cho công cuộc xây dựng và bảo

vệ Tổ quốc đi lên CNXH, góp phần vào sự nghiệp đấu tranh chung của nhân
dân thế giới vì hồ bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội". 2.
Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng ta và tiếp đó
là các nghị quyết Trung ương (khoá VIII), Nghị quyết Đại hội IX đề ra và
từng bước cụ thể hoá mục tiêu cơ bản đã được xác định trong cương lĩnh, đề
ra nhiệm vụ cơng nghiệp hố, hiện đại hố đất nước đến năm 2020.
Đại hội VIII xác định: "Tiếp tục nắm vững hai nhiệm vụ chiến lược, xây
dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc, đẩy mạnh công nghiệp hố, hiện
đại hố. Mục tiêu của cơng nghiệp hố, hiện đại hoá là xây dựng nước ta
thành một nước cơng nghiệp có cơ sở vật chất hiện đại, cơ cấu kinh tế hợp lý,
quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp với trình độ của lực lượng sản xuất, đời
sống vật chất và tinh thần cao, quốc phòng an ninh vững chắc, dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng văn minh. Từ nay đến năm 2020, ra sức phấn đấu
đưa nước ta cơ bản thành một nước công nghiệp".
Đại hội IX chỉ rõ: "Đẩy mạnh CNH, HĐH, xây dựng nền kinh tế độc lập
tự chủ, đưa nước ta trở thành một nước công nghiệp; ưu tiên phát triển lực
lượng sản xuất, đồng thời xây dựng QHSX phù hợp theo định hướng XHCN;
phát huy cao độ nội lực, đồng thời tranh thủ nguồn lực bên ngoài và chủ động
hội nhập kinh tế quốc tế để phát triển nhanh, có hiệu quả và bền vững; tăng
trưởng kinh tế đi liền với phát triển văn hoá, từng bước cải thiện đời sống vật
chất và tinh thần của nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ
và cải thiện môi trường; kết hợp phát triển kinh tế xã hội với tăng cường quốc
phòng - an ninh" 3

1
2
3

Cương lĩnh xây dựng đất nước... tr. 11.
SĐD, tr 18.

ĐCSVN, Văn kiện ĐHĐB toàn quốc lần thứ IX, Nxb CTQG, H. 2001, tr. 89.


15
Đây là những cơ sở quan trọng định hướng cho việc đề ra và thực hiện
chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta trong những thập niên đầu thế
kỷ XXI.
5. Đặc điểm tình hình thế giới những năm đầu thế kỷ XXI
Thế kỷ XX, loài người đã chứng kiến sự ra đời của một chế độ xã hội mới
- chế độ xã hội chủ nghĩa ở một loạt nước; chứng kiến những thắng lợi vang
dội của phong trào giải phóng dân tộc và độc lập dân tộc; sự sụp đổ hoàn toàn
của hệ thống thuộc địa của chủ nghĩa đế quốc, sự phá sản chủ nghĩa thực dân
cũ và đang phá sản của chủ nghĩa thực dân mới.
Cuối thập niên 80, đầu thập niên 90, loài người cũng phải nhìn thấy một
thực tế phũ phàng: chế độ xã hội chủ nghĩa sụp đổ ở Liên Xô và Đông Âu sau
mấy chục năm tồn tại và phát triển.
Hiện nay, loài người đang bước vào thế kỷ mới, thiên niên kỷ mới. Vào
những năm tháng này, tình hình thế giới tiếp tục biến đổi mau chóng, phức
tạp và chứa đầy những nhân tố khó lường.
Đặc điểm cơ bản của thế giới hiện nay, đó là cuộc đấu tranh giai cấp và
đấu tranh dân tộc gay go, quyết liệt và phức tạp của các lực lượng cách mạng,
tiến bộ trên thế giới vì hồ bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.
Cuộc đấu tranh đó phản ánh nội dung, tính chất của thời đại hiện nay: thời đại
quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới mở
đầu bằng cách mạng xã hội chủ nghĩa tháng Mười Nga năm 1917. Các mâu
thuẫn cơ bản của thời đại vẫn tồn tại và phát triển sâu sắc với những biểu hiện
mới về nội dung và hình thức.
Chủ nghĩa xã hội hiện thực và phong trào cộng sản quốc tế sau sự sụp đổ
của Liên Xô và Đông Âu, mặc dù vẫn đang tạm lâm vào thoái trào, phải
đương đầu với những khó khăn to lớn, song vẫn đang có những bước phát

triển mới. Ở một số nước xã hội chủ nghĩa công cuộc đổi mới, cải cách đã đạt
được những thành tựu bước đầu rất quan trọng, khẳng định sức sống và tương
lai của chủ nghĩa xã hội: phong trào cộng sản có bước phục hồi và củng cố,
tìm tịi con đường biện pháp, đấu tranh phù hợp với điều kiện mới, báo hiệu
sự phát triển của nó trong tương lai.
Chủ nghĩa đế quốc không hề thay đổi bản chất và mục tiêu bóc lột, áp bức
nhân dân các dân tộc trên thế giới, đang có sự điều chỉnh, tìm phương cách
mới để tồn tại và phát triển. Nhờ ưu thế về vốn, khoa học - công nghệ... chủ


16
nghĩa đế quốc đang ra sức lợi dụng quá trình tồn cầu kinh tế hố để áp đặt sự
nơ dịch và bóc lột mới đối với các dân tộc một cách tinh vi, tìm cách duy trì
quan hệ bất bình đẳng về kinh tế, chính trị, áp đặt về văn hoá với các nước
đang phát triển: âm mưu xoá bỏ các nước xã hội chủ nghĩa bằng diễn biến
hồ bình kết hợp bạo loạn lật đổ... chiến tranh xâm lược; thực hiện chính sách
ngoại giao cường quyền, can thiệp, chiến tranh xâm lược nhân danh chống
khủng bố đối với các quốc gia chống lại chúng. Chủ nghĩa đế quốc, chủ nghĩa
tư bản hiện đại mặc dù đang có nhiều lợi thế, song vẫn khơng xố bỏ được
các mâu thuẫn vốn có của nó và khơng khắc phục được những khuyết tật,
những hậu quả xã hội do bản chất của nó gây ra.
Cuộc cách mạng khoa học - công nghệ tiếp tục phát triển như vũ bão làm
tăng nhanh lực lượng sản xuất, đẩy nhanh q trình quốc tế hố, tồn cầu hoá
và cả khu vực hoá, tạo ra cho các quốc gia cả những thời cơ và cả nguy cơ,
thuận lợi và thách thức to lớn. Khoảng cách giàu nghèo giữa các nước phát
triển và đang phát triển, chậm phát triển càng chênh lệch lớn.
Các cuộc xung đột vũ trang, xung đột dân tộc, sắc tộc và tôn giáo, chạy
đua vũ trang, chiến tranh cục bộ, can thiệp lật đổ, khủng bố... vẫn diễn biến
phức tạp, kéo dài và tiềm ẩn ở nhiều nơi trên thế giới.
Cuộc đấu tranh cho một trật tự thế giới mới ngày càng quyết liệt và phức

tạp. Sau khi Liên Xô và Đông Âu sụp đổ, Mỹ càng có tham vọng thiết lập trật
tự thế giới một cực do Mỹ điều khiển: các nước phát triển và các nước lớn
khác đang tìm cách tăng cường thế lực cạnh tranh, chống lại Mỹ để thực hiện
thế giới đa cực. Các nước đang phát triển, các dân tộc khác đang ra sức đấu
tranh đòi thiết lập một trật tự thế giới mới hồ bình, cơng bằng, dân chủ và
tiến bộ.
Cộng đồng thế giới đang đứng trên nhiều vấn đề tồn cầu nghiêm trọng: ơ
nhiễm mơi trường sinh thái, bùng nổ dân số, đói nghèo, bệnh tật, an ninh thế
giới... mà không một quốc gia riêng lẻ nào có thể tự giải quyết, địi hỏi sự hợp
tác đa phương.
Khu vực Đơng Nam Á, Châu Á - Thái Bình Dương sau khủng hoảng tài
chính - kinh tế có khả năng phát triển năng động nhưng vẫn tiềm ẩn những
nhân tó gây mất mổn định.
Trong đặc điểm tình hình quốc tế như trên, đang nổi lên những xu thế
quan hệ quốc tế:


17
- Hồ bình ổn định và hợp tác để phát triển ngày càng trở nên cấp thiết và
là đòi hỏi bức xúc của các dân tộc.
Các nước xã hội chủ nghĩa đang điều chỉnh sách lược để tồn tại và phát
triển; các nước chậm phát triển và đang phát triển cần thời gian để xây dựng;
các nước lớn và các nước phát triển cũng cần sự ổn định để tăng cường thế
lực,
ảnh hưởng.
- Quốc tế hố, tồn cầu hố và khu vực hoá là một xu thế ngày càng rõ
nét trong đời sống quốc tế. Do sự phát triển của cách mạng khoa học - công
nghệ hiện đại của lực lượng sản xuất, sự bùng nổ của thông tin, sự ra đời của
Intert... sự giao lưu về kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội... cũng như do nhu
cầu động cơ, mục tiêu lợi ích khác nhau của các chủ thể quan hệ quốc tế, làm

cho quá trình quốc tế hố, tồn cầu hố, khu vực hố ngày càng tăng lên, chi
phối đến đời sống quốc tế.
Tồn cầu hố tuy là một xu thế nhưng nó lại được các chủ thể lợi dụng
với động cơ mục đích khác nhau. Thực tế quan hệ quốc tế đang chứng tỏ,
tồn cầu hố thực chất là tồn cầu hố tư bản chủ nghĩa. Chủ nghĩa đế quốc
đang lợi dụng và sử dụng quá trình này để giành giật được nhiều thuận lợi nhất,
chúng thúc đẩy tự do hoá thương mại, dịch vụ, đầu tư toàn cầu... với những lợi
thế áp đảo.
Tuy nhiên, các nước đang phát triển, chậm phát triển cũng muốn lợi dụng
cơ hội này để tiếp thu khoa học, công nghệ cao, vốn đầu tư, kinh nghiệm quản
lý, đội ngũ công nhân lành nghề. Vì vậy, trên thế giới, các nước lớn nhỏ, phát
triển đang phát triển ngày càng tham gia rộng rãi vào quá trình hợp tác, liên
kết khu vực, liên kết quốc tế về kinh tế, thương mại... hợp tác và đấu tranh,
liên kết và cạnh tranh trong cùng tồn tại hồ bình đan xen, đi liền với nhau và
diễn biến rất quyết liệt. Đặc biệt, nó đặt ra cho các nước đang phát triển,
chậm phát triển những thách thức cực kỳ to lớn có ý nghĩa sống cịn đối với
độc lập, chủ quyền và khả năng phát triển.
- Các dân tộc nâng cao ý thức độc lập tự chủ, tự lực tự cường, đấu tranh
chống lại sự áp đặt và can thiệp của nước ngoài, bao vệ độc lập chủ quyền và
nền văn hoá dân tộc.
Hiện nay, chủ nghĩa tư bản, các thế lực xâm lược, hiếu chiến, bá quyền,
vẫn không từ bỏ tham vọng nô dịch các dân tộc. Họ sử dụng sức mạnh kinh
tế, các thủ đoạn chính trị xảo quyệt để áp đặt tư tưởng chính trị, áp đặt các


18
giá trị; can thiệp vào công việc nội bộ, thậm chí khơng từ bỏ dùng sức mạnh
bạo lực tàn bạo để đạt mục tiêu. Hành động đó đi ngược lại lợi ích chính đáng
của các dân tộc. Mặt khác, các dân tộc ngày cang thức tỉnh về chủ quyền và
sức mạnh của mình, khơng dễ dàng chấp nhận sự áp đặt, can thiệp từ bên

ngoài. Bởi vậy, nâng cao ý thức độc lập tự chủ, bảo vệ chủ quyền, bản sắc
văn hoá dân tộc là một xu thế trong quan hệ quốc tế hiện nay không chỉ với
các nước đang phát triển mà cả một số nước phát triển.
- Các nước xã hội chủ nghĩa, các Đảng cộng sản và công nhân, các lực
lượng cách mạng và tiến bộ trên thế giới đang kiên trì đấu tranh vì hồ bình,
độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.
Mặc dù đang ở trong tình thế khó khăn, song các nước xã hội chủ nghĩa
vẫn giữ vững ổn định chính trị, phát triển kinh tế - xã hội, sự nghiệp xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc, đổi mới và cải cách vẫn đang tiếp tục được đẩy mạnh theo
định hướng XHCN, lòng tin của nhân dân với Đảng cộng sản và chế độ xã hội
chủ nghĩa ngày càng cao.
Phong trào độc lập dân tộc, các nước không liên kết càng tăng cường
đoàn kết, đấu tranh bảo vệ quyền lợi chủ quyền dân tộc, tăng cường hợp tác
quốc tế, tìm tịi con đường phát triển đất nước, tích cực đấu tranh vì một trật
tự thế giới mới về kinh tế, chính trị, vì hồ bình, độc lập dân tộc, dân chủ và
tiến bộ xã hội.
Phong trào công nhân, các Đảng cộng sản ở nhiều nước trên thế giới đang
phục hồi, củng cố, giành được nhiều thắng lợi mới trong cuộc đấu tranh vì
hịa bình, dân sinh, dân chủ và tiến bộ xã hội. Các phong trào hồ bình, dân
chủ trên thế giới cũng ngày càng trở thành lực lượng to lớn. Như vậy, thực tế
cho thấy, xu thế này ngày càng tỏ rõ sự chuyển biến mạnh mẽ, biểu hiện
chiều hướng phát triển tốt hơn của các lực lượng cách mạng và tiến bộ trong
những thập niên đầu thế kỷ XXI.
Các đặc điểm và xu thế trên đây, tạo ra và thúc đẩy tính đa phương, đa
dạng trong quan hệ quốc tế và chính sách đối ngoại của các nước.
II - QUAN ĐIỂM, CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI CỦA ĐẢNG VÀ NHÀ NƯỚC TA GIAI
ĐOẠN HIỆN NAY

1. Nhiệm vụ của công tác đối ngoại
Nghị quyết Đại hội IX của Đảng cũng đã chỉ ra nhiệm vụ đối ngoại là:

Tiếp tục giữ vững mơi trường hồ bình và tạo các điều kiện thuận lợi để đẩy
mạnh phát triển kinh tế xã hội, công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước, xây


19
dựng và bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ độc lập và chủ quyền quốc gia, đồng thời góp
phần tích cực vào cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì hồ bình,
độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội" 1.
Những quan điểm cơ bản:
Để thực hiện nhiệm vụ trên, công tác đối ngoại quán triệt một số quan
điểm cơ bản sau:
- Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, rộng mở đa
phương hoá, đa dạng hoá các quan hệ quốc tế. Việt Nam sẵn sàng là bạn, là
đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng thế giới, phấn đấu vì hồ bình,
độc lập và phát triển.
- Mở rộng quan hệ nhiều mặt, song phương và đa phương với các nước,
các tổ chức quốc tế và khu vực theo các nguyên tắc tôn trọng lẫn nhau, tôn
trọng độc lập, chủ quyền và tồn vẹn lãnh thổ của nhau, khơng can thiệp vào
công việc nội bộ của nhau không dùng vũ lực hoặc đe doạ dùng vũ lực; bình
đẳng và cùng có lợi, giải quyết các vấn đề tồn tại và các tranh chấp bằng
thương lượng hồ bình; chống mọi hành động gây sức ép, áp đặt và cường
quyền.
Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực theo tinh thần phát huy tối
đa nội lực nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, bảo đảm độc lập, tự chủ và định
hướng xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích dân tộc, giữ vững an ninh quốc gia, giữ
gìn bản sắc văn hố dân tộc, bảo vệ mơi trường.
- Tư tưởng chỉ đạo chính sách đối ngoại là: giữ vững nguyên tắc vì độc
lập, thống nhất, chủ nghĩa xã hội, đồng thời phải rất sáng tạo, năng động linh
hoạt, phù hợp với vị trí, điều kiện và hồn cảnh nước ta cũng như diễn biến
của tình hình thế giới và khu vực với đặc điểm từng đối tượng quan hệ.

Phương châm xử lý các mối quan hệ đối ngoại:
+ Bảo đảm lợi ích dân tộc chân chính, kết hợp nhuần nhuyễn chủ nghĩa
yêu nước với chủ nghĩa quốc tế của giai cấp cơng nhân. Trong quan hệ quốc
tế, lợi ích dân tộc là tối cao. Lợi ích chân chính của dân tộc ta là độc lập dân
tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội; là thực hiện thắng lợi công cuộc đổi mới,
cơng nghiệp hố - hiện đại hố, phấn đấu vì dân giàu nước mạnh, xã hội cơng
bằng, dân chủ, văn minh. Là một bộ phận trong đường lối, chính sách của
Đảng và Nhà nước, chính sách đối ngoại phải phấn đấu vì lợi ích đó của dân
1

Văn kiện Đại hội IX, Nxb CTQG, H. 2001, tr. 42.


20
tộc. Lợi ích đó cũng phù hợp với lợi ích chung của các lực lượng cách mạng
và tiến bộ, với lợi ích của các dân tộc u chuộng hồ bình và cơng lý. Thực
hiện tốt lợi ích dân tộc cũng là góp phần vào cuộc đấu tranh chung của các
lực lượng cách mạng, tiến bộ trên thế giới; đó cũng là thiết thực thực hiện
nghĩa vụ quốc tế của dân tộc ta.
Chủ nghĩa u nước chân chính khơng mâu thuẫn, không đối lập với chủ
nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân. Trái lại sự kết hợp chủ nghĩa yêu nước
với chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân là thuộc về bản chất của cuộc
cách mạng xã hội chủ nghĩa, là điều kiện bảo đảm thắng lợi cho cuộc đấu
tranh chung của các lực lượng cách mạng và tiến bộ trên thế giới, nhờ đó phát
huy và kết hợp được sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, sức mạnh trong
nước và sức mạnh quốc tế, tạo thành sức mạnh tổng hợp của dân tộc ta xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc.
+ Giữ vững độc lập tự chủ, tự lực, tự cường, đẩy mạnh đa dạng hoá, đa
phương hoá quan hệ đối ngoại.
Đây là sự phản ánh xu thế khách quan của quan hệ quốc tế hiện nay.

Đồng thời đây cũng là điều kiện, là yêu cầu tất yếu của hoạt động đối ngoại,
của công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Giữ vững độc lập tự chủ, tự lực
tự cường là truyền thống quý báu của dân tộc ta và là nhân tố cơ bản đảm bảo
cho hoạt động đối ngoại đúng đắn, sáng tạo. Chỉ có phát huy nội lực dân tộc
mới có điều kiện mở rộng quan hệ quốc tế. Mở rộng quan hệ quốc tế đa dạng
hoá, đa phương hoá mới tranh thủ được những điều kiện thuận lợi để phát
triển và nâng cao uy tín của dân tộc trên trường quốc tế. Song mở rộng quan
hệ đa dạng hoá, đa phương hóa phải ln ln đề cao cảnh giác cách mạng,
bảo vệ độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của đất nước, bản sắc văn hố
dân tộc; đồng thời tơn trọng độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, hợp tác
cùng có lợi với các đối tác quan hệ.
+ Nắm vững hai mặt vừa hợp tác, vừa đấu tranh.
Hợp tác và đấu tranh là hai mặt của quan hệ đối ngoại là đặc điểm thế
giới và xu thế quan hệ quốc tế hiện nay. Đây là phản ánh tính phức tạp, vừa
thống nhất, vừa mâu thuẫn của các nhân tố quan hệ quốc tế; các lực lượng có
lợi ích khác nhau, song có mối liên hệ phụ thuộc vào nhau, ảnh hưởng và chi
phối lẫn nhau, bổ sung cho nhau trong quá trình tồn tại và phát triển.
Phải chống khuynh hướng chỉ nhấn mạnh một chiều, hợp tác hoặc đấu
tranh; hoặc tách rời, đối lập; hoặc quan điểm mơ hồ, chỉ thấy hợp tác mà


21
khơng thấy đấu tranh. Tóm lại, trong hợp tác phải có đấu tranh, đấu tranh để
mở rộng và tăng cường hợp tác có hiệu quả hơn; đồng thời để bảo đảm lợi ích
dân tộc, thiết lập quan hệ bình đẳng, hai bên cùng có lợi, cùng tồn tại hồ
bình.
+ Ưu tiên quan hệ hợp tác với các nước láng giềng và khu vực; đồng thời,
chú trọng mở rộng quan hệ với tất cả các nước đặc biệt là các nước lớn, các
trung tâm kinh tế - chính trị thế giới.
Chúng ta phải chủ trương hợp tác đa dạng, đa phương, với tinh thần muốn

là bạn của tất cả các nước, các tổ chức quốc tế trên cơ sở tôn trọng chủ
quyền, cùng có lợi.
Tuy nhiên, do vị trí, vai trị của các chủ thể quan hệ với ta không ngang
bằng nhau, vì vậy, trong hợp tác tồn diện, chúng ta cũng cần xác định những
chính sách cụ thể với từng đối tác cho phù hợp. Trong đó, đặc biệt chú ý tới
các đối tác quan hệ là các nước láng giềng, các nước trong khu vực, các bạn
bè truyền thống, các trung tâm kinh tế - chính trị lớn có quan hệ sâu rộng với
nước ta. Việc xác định chính sách đối ngoại cụ thể này nhằm làm cho quan hệ
hợp tác có hiệu quả, đem lại những lợi ích thiết thực nhằm thực hiện tốt mục
tiêu, nhiệm vụ công nghiệp hoá - hiện đại hoá, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã
hội chủ nghĩa.
Trong quá trình mở rộng hợp tác và chủ động hội nhập tế khu vực và thế
giới cần quán triệt 3 nguyên tắc cơ bản sau:
- Hợp tác, liên kết và mở rộng các quan hệ quốc tế phải giữ vững độc lập
tự chủ, tự lực tự cường, bảo đảm an ninh quốc gia, phát huy bản sắc văn hoá
dân tộc, giữ vững định hướng XHCN, bảo vệ môi trường.
- Tham gia, hợp tác và liên kết kinh tế phải chủ động tiến hành từng bước
vững chắc, có lộ trình hợp lý, nội dung khả thi nhằm khai thác thuận lợi, vượt
qua thử thách đạt hiệu quả cao.
- Hợp tác liên kết quốc tế và khu vực cần đặt trọng tâm vào lĩnh vực kinh
tế - thương mại, đồng thời quan tâm đúng mức mở rộng quan hệ các lĩnh vực
khác một cách hợp lý.
2. Chính sách đối ngoại với một số chủ thể quan hệ quốc tế.
Quan hệ với các nước láng giềng và khu vực:
Tăng cường củng cố và phát triển tình hữu nghị truyền thống, tình đồn
kết đặc biệt với Cộng hồ dân chủ nhân dân Lào, phù hợp với lợi ích nhân


22
dân hai nước và những biến đổi mới trong khu vực và thế giới, trên cơ sở tôn

trọng độc lập chủ quyền của nhau, bình đẳng cùng có lợi.
Xây dựng quan hệ láng giềng hữu nghị với Vương quốc Căm-pu-chi-a.
Việt Nam mong muốn Căm-pu-chi-a là một nước hồ bình, ổn định, độc lập,
tập trung, không liên kết và ngày càng phát triển thịnh vượng, có quan hệ hữu
nghị với tất cả các nước nhất là với các nước láng giềng. Việt Nam tích cực
ủng hộ Căm-pu-chi-a mở rộng quan hệ hợp tác về nhiều mặt với ASEAN và
các nước khác trên thế giới. Việt Nam chủ trương xây dưng quan hệ với Cămpu-chi-a trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền, thống nhất và tồn vẹn lãnh
thổ; khơng can thiệp vào công việc nội bộ của nhau; hợp tác bình đẳng, hai
bên cùng có lợi và cùng tồn tại hồ bình; giải quyết các vấn đề liên quan tới
quan hệ hai nước thông qua thương lượng.
Đảng, Nhà nước và nhân dân Việt Nam đánh giá cao và cảm ơn sự giúp
đỡ to lớn của Đảng, Chính phủ và nhân dân Trung Quốc anh em đối với Việt
Nam trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc và xây dựng đất nước. Việt
Nam coi việc mở rộng quan hệ hữu nghị truyền thống và hợp tác toàn diện
với Trung Quốc là vấn đề chiến lược phù hợp với nguyện vọng và lợi ích của
nhân dân hai nước, phù hợp với xu thế hồ bình và ổn định ở khu vực và thế
giới. Nhân dân ta ủng hộ quan điểm "một nước Trung Quốc" của Đảng, Nhà
nước và nhân dân Trung Quốc; hoan nghênh việc Trung Quốc thu hồi và quản
lý Hồng Kông, Ma Cao; Đảng, Nhà nước Việt Nam coi việc tăng cường quan
hệ trao đổi lẫnh nhau kinh nghiệm trong quá trình cải cách, mở cửa và đổi
mới của hai nước có ý nghĩa tích cực và bổ ích đối với công cuộc xây dựng
chủ
nghiã

hội

mỗi nước.
Chúng ta chủ trương tiếp tục đẩy mạnh quan hệ hợp tác nhiều mặt giữa
hai nước cả về bề rộng và chiều sâu. Chúng ta ghi nhận và đánh giá cao việc
hai nhà nước đã ký kết "Hiệp ước biên giới trên đất liền" ngày 30/12/1999;

tiếp tục xúc tiến đàm phán tiến tới ký kết "Hiệp định về phân định Vịnh Bắc
Bộ" và đàm phán giải quyết những vấn đề liên quan đến hai nước trên cơ sở
tộn trọng độc lập, chủ quyền, thống nhất, tồn vẹn lãnh thổ, bình đẳng, cùng
có lợi...
Trong quan hệ với Trung Quốc, Đảng, Chính phủ và nhân dân Việt Nam
thực hiện khuôn khổ quan hệ Việt - Trung tiến tới thế kỷ XXI với tinh thần
"Láng giềng thân thiện, hợp tác toàn diện, ổn định lâu dài, hướng tới tương


23
lai" đã được lãnh đạo hai nước xác định trong chuyến thăm hữu nghị chính
thức Trung Quốc của Tổng bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam Lê Khả Phiêu
tháng 2/1999.
Trong quan hệ với các nước Đông Nam Á và ASEAN, Đảng Nhà nước ta
chủ trương tiếp tục đẩy mạnh và nâng lên tầm cao mới quan hệ hợp tác đa
phương và song phương với ASEAN và mỗi nước thành viên. Đẩy mạnh quá
trình tham gia đầy đủ vào ASEAN, tham gia AFTA theo đúng lộ trình cùng
với việc bảo đảm sự phát triển thuận lợi nền kinh tế đất nước, Việt Nam mong
muốn và cố gắng cùng các nước ASEAN xây dựng Đơng Nam Á là khu vực
hồ bình, ổn định, hợp tác và phát triển, nâng cao vị thế chính trị, kinh tế...
của ASEAN trong khu vực Châu Á - Thái Bình Dương, trong các quan hệ với
các đối tác khác trên thế giới và diễn đàn quốc tế. Trong quan hệ với các nước
thành viên và hiệp hội. Việt Nam tuân thủ các nguyên tắc quan hệ cùng tồn tại
hồ bình và ngun tắc điều phối quan hệ của ASEAN; thực hiện đầy đủ
nghĩa vụ và quyền lợi của một nước thành viên.
Từ khi trở thành thành viên của diễn đàn kinh tế Châu Á - Thái Bình
Dương (APEC) tháng 11/1998, nước ta có điều kiện mở rộng quan hệ với các
nước thành viên APEC. Trong những năm tới, Việt Nam tiếp tục coi trọng
phát triển quan hệ với các nước Châu Á - Thái Bình Dương, tranh thủ những
tiến bộ khoa học công nghệ mở rộng khuôn khổ hợp tác theo chương trình của

APEC nhất là quan hệ kinh tế, thương mại, đầu tư, chuyển giao công nghệ...
trên cơ sở giữ vững độc lập, tự chủ, các bên đều có lợi chống can thiệp và áp
đặt.
Quan hệ với các nước anh em, bè bạn truyền thống khác.
Đảng, Nhà nước và nhân dân ta tăng cường tình đồn kết chiến đấu, sự
hợp tác toàn diện với nhân dân Cu Ba anh em. Kiên quyết lên án âm mưu và
hành động thù địch của đế quốc Mỹ đối với Cu Ba, địi Mỹ phải xố bỏ cấm
vận chống Cu Ba, tôn trọng độc lập chủ quyền, quyền dân tộc tự quyết của
nhân dân Cu Ba; tích cực phối hợp hoạt động với Cộng hoà Cu Ba trong các
diễn đàn quốc tế, trong phong trào không liên kết và các nước đang phát triển.
Thúc đẩy hơn nữa quan hệ với Cộng hoà dân chủ nhân dân Triều Tiên,
ủng hộ sự nghiệp xây dựng đất nước, củng cố độc lập tự chủ, đấu tranh bảo
vệ hồ bình và thống nhất đất nước của nhân dân Triều Tiên anh em. Tiếp tục
mở rộng và nâng cao hiệu quả hợp tác nhiều mặt với Cộng hoà Ấn Độ và các
nước bạn bè trên thế giới.


24
Đảng và Nhà nước ta quan tâm khôi phục và đẩy mạnh quan hệ hữu nghị
hợp tác nhiều mặt với Liên bang Nga và SNG, các nước Đông Âu, coi đây là
những đối tác quan trọng, thị trường rộng lớn và nhiều tiềm năng, có điều
kiện và khả năng mở rộng hợp tác và trao đổi trong thời gian tới, thúc đẩy nền
kinh tế đất nước phát triển thuận lợi.
Quan hệ với các nước phát triển, các trung tâm kinh tế - chính trị trên thế
giới.
Đảng và Nhà nước ta coi trọng mở rộng quan hệ với các nước phát triển,
các trung tâm kinh tế - chính trị thế giới.
- Đối với Hoa Kỳ: Tiếp tục thúc đẩy quá trình bình thường hố quan hệ
giữa hai nước, mở rộng hợp tác trên các lĩnh vực kinh tế, thương mại và
các lĩnh vực khác. Thực hiện Hiệp ước thương mại với Hoa Kỳ trên cơ sở

bảo đảm lợi ích dân tộc, có tính khả thi, bình đẳng và hai bên cùng có lợi.
Tiếp tục hợp tác giải quyết các vấn đề hậu quả chiến tranh với tinh thần
nhân đạo và hiểu biết lẫn nhau.
Trong quan hệ với Hoa Kỳ, chúng ta địi nhà cầm quyền Hoa Kỳ phải tơn
trọng độc lập, chủ quyền, tồn vẹn lãnh thổ, tơn trọng lợi ích, khơng can thiệp
vào cơng việc nội bộ, bình đẳng cùng có lợi. Kiên quyết chống lại âm mưu,
hành động của các thế lực thù địch lợi dụng hợp tác để thực hiện diễn biến
hồ bình, chống phá sự nghiệp cách mạng của nhân dân Việt Nam.
- Đối với EU: Việt Nam coi trọng quan hệ với EU, các nước phát triển ở
Châu Âu vì đây là những nước có tiềm lực kinh tế lớn, trình độ khoa học cơng nghệ cao, thị trường rộng lớn, nhiều khả năng tranh thủ. Nhiều nước
Châu Âu từ lâu đã có quan hệ thân thiện với Việt Nam. Những năm qua mối
quan hệ Việt Nam - EU ngày càng mở rộng trên nhiều lĩnh vực nhất là thương
mại, đầu tư, tài chính, tiền tệ, bảo vệ môi trường. Trong những năm tới, Đảng
và Nhà nước chủ trương thúc đẩy hơn nữa các mối quan hệ với EU và các
nước Châu Âu nhằm nâng cao hơn nữa hiệu quả hợp tác, tạo cơ hội cho hàng
hoá Việt Nam thâm nhập, chiếm lĩnh thị trường EU nhất là hàng dệt may, giày
dép, nông sản nhiệt đới, thủ công mỹ nghệ; thu hút đầu tư viện trợ ODA, sự
hỗ trợ của EU về tài chính, đào tạo chuyên gia, đổi mới công nghệ, tài trợ cho
các dự án, chương trình xã hội; mơi trường, nước sạch, xây dựng kết cấu hạ
tầng, xố đói, giảm nghèo, tạo việc làm...


×