Tải bản đầy đủ (.docx) (115 trang)

LUẬN văn THẠC sĩ quản lý nhà nước về văn hóa ở huyện bắc tân uyên, tỉnh bình dương hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (423.99 KB, 115 trang )

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT VÀ KÝ HIỆU
Chữ viết tắt
BCH
CLB
HĐND
TDTT
UBND
VH,TT&DL
VH&TT
VHVN

Chữ viết đầy đủ
Ban chấp hành
Câu lạc bộ
Hội đồng nhân dân
Thể dục thể thao
Ủy ban nhân dân
Văn hóa, Thể thao và Du lịch
Văn hóa và Thơng tin
Văn hóa văn nghệ


MỤC LỤC


3

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Ngày nay điều phân biệt giữa quốc gia này với quốc gia khác không chỉ
cịn là đường biên giới, mà đó chính là nền văn hóa mang đậm tính dân tộc


với những sắc ấn riêng biệt. Để bắt nhịp vào quá trình phát triển chung của
tồn cầu, để hịa nhập mà khơng bị hịa tan vào cộng đồng chung đó địi hỏi
những nét văn hóa đặc sắc tiêu biểu của dân tộc Việt Nam phải ln được giữ
gìn và khơng ngừng phát huy để tạo dấu ấn, bản sắc riêng trong thời đại mới.
Nghị quyết Hội nghị lần thứ 5 BCH Trung ương Đảng (Khóa VIII) về “xây
dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc”
(ngày 16/7/1998) đã đề cập đến văn hóa theo nghĩa rộng và bao quát đồng
thời chỉ ra các lĩnh vực cụ thể của văn hóa trong đời sống xã hội. Trong đó,
Nghị quyết đã nhấn mạnh một phương hướng rất quan trọng trong quá trình
xây dựng và phát triển đất nước:
“Làm cho văn hóa thấm sâu vào từng hoạt động của đời sống xã hội,
vào từng người, từng gia đình, từng tập thể, từng địa bàn dân cư, vào mọi
lĩnh vực sinh hoạt và quan hệ con người, tạo ra trên đất nước ta tinh thần cao
đẹp, trình độ dân trí cao, khoa học phát triển, phục vụ đắc lực sự nghiệp cơng
nghiệp hóa, hiện đại hóa” [59, tr.27].
Bắc Tân Un là một huyện được chia tách từ huyện Tân Uyên, thành
lập và đi vào hoạt động từ năm 2014. Từ ngày thành lập đến nay, công tác
quản lý nhà nước về văn hóa trên địa bàn huyện Bắc Tân Uyên đạt nhiều kết
quả quan trọng, có vai trị to lớn, có ý nghĩa sâu sắc đối với định hướng phát
triển văn hóa, nhu cầu hưởng thụ văn hóa của nhân dân ngày càng được đáp
ứng, mức hưởng thụ văn hóa của nhân dân ngày càng được nâng lên, công tác
quản lý đã đi vào nền nếp. Nhiều văn bản được ban hành về lĩnh vực văn hóa
được áp dụng có hiệu quả vào công tác quản lý nhà nước. Tuy nhiên trên địa


4

bàn huyện Bắc Tân Uyên, công tác quản lý nhà nước về văn hóa vẫn cịn
nhiều bất cập so với nhu cầu thực tiễn, địi hỏi cơng tác quản lý cần có sự đổi
mới. Những hạn chế trong cơng tác quản lý là một trong những nguyên nhân

dẫn đến môi trường văn hóa bị ơ nhiễm bởi các sản phẩm, dịch vụ văn hóa
độc hại, thấp kém lai căng phần nào làm giảm sút, hạ thấp các chức năng văn
hóa. Trong hoạt động kinh tế chưa chú ý đến các yếu tố văn hoá, các yêu cầu
phát triển văn hoá tương ứng. Mức đầu tư ngân sách cho văn hoá cịn thấp.
Chính sách đào tạo bồi dưỡng, sử dụng, đãi ngộ cán bộ làm cơng tác văn hố
cịn nhiều bất hợp lý. Vì vậy cần nghiên cứu, tìm ra những giải pháp phù hợp
để nâng cao vai trò quản lý nhà nước về văn hóa ở huyện Bắc Tân Uyên góp
phần đáp ứng nhu cầu sáng tạo và hưởng thụ văn hóa của người dân.
Đó là lý do tác giả chọn đề tài “Quản lý nhà nước về văn hóa ở huyện
Bắc Tân Uyên, tỉnh Bình Dương hiện nay” làm luận văn tốt nghiệp ngành
Xây dựng Đảng và Chính quyền nhà nước.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Quản lý nhà nước về văn hóa là đề tài thu hút nhiều cơ quan nghiên cứu
khoa học và các nhà khoa học nghiên cứu, thể hiện ở nhiều cuốn sách, đề tài
khoa học, luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ và các bài viết trên các tạp chí.
Dưới đây là những cơng trình khoa học tiêu biểu liên quan đến đề tài luận
văn:
* Đề tài khoa học và sách:
Nguyễn Danh Ngà đã cơng bố cơng trình “Đổi mới cơ chế quản lý
doanh nghiệp cơng ích ngành văn hóa thông tin trong nền kinh tế - thị trường
ở Việt Nam” (1997). Cơng trình này đề cập đến việc đổi mới cơ chế doanh
nghiệp cơng ích ngành văn hóa thơng tin trong nền kinh tế thị trường ở nước
ta hiện nay. Đây là vấn đề có ý nghĩa quan trọng đối với việc xây dựng nền
văn hóa Việt Nam trong thời kỳ hội nhập quốc tế.


5

Hồng Sơn Cường (1998), “Lược sử quản lý văn hóa ở Việt Nam”, (tập
bài giảng, trường đại học văn hóa Hà Nội) NXB Văn hóa - Thơng tin, Hà Nội.

Đây là cơng trình đề cập đến lịch sử của cơng tác quản lý văn hóa ở nước ta.
GS. Hồng Văn Vinh (chủ nhiệm) (2000), đề tài cấp bộ “Thể chế xã
hội trong lĩnh vực văn hóa, văn nghệ ở nước ta”. Tác giả bàn về những vấn đề
thể chế văn hóa, văn nghệ trong đời sống xã hội Việt Nam hiện nay như:
Quản lý nhà nước về văn hóa, Đảng lãnh đạo văn hóa, Di sản văn hóa dân tộc,
xây dựng đời sống văn hóa cộng đồng, hoạt động vui chơi giải trí và vai trị
của nó trong xã hội, cội nguồn của văn hóa và đạo đức ...
Hồ Sỹ Quý (chủ nhiệm) (2005), đề tài cấp nhà nước “Cơ sở phương
pháp luận của việc nghiên cứu và phát triển văn hóa,con người và nguồn
nhân lực trong điều kiện kinh tế thị trường, tồn cầu hóa và hội nhập kinh tế”.
Cơng trình nghiên cứu trên, tác giả làm rõ những vấn đề trên
phương diện lý luận của công tác quản lý văn hóa, như: Mối quan hệ giữa
văn hóa và kinh tế, đại cương về quản lý hoạt động văn hóa, chính sách
quản lý hoạt động văn hóa, nội dung quản lý hoạt động văn hóa, quản lý
xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở hiện nay.
Phan Hồng Giang (2011), đề tài cấp bộ “Quản lý văn hóa Việt nam
trong tiến trình đổi mới và hội nhập quốc tế”. Tác giả đã nghiên cứu về mối
quan hệ giữa phát triển văn hóa và kinh tế thị trường trong điều kiện hiện nay
của đất nước, góp phần làm sáng tỏ về phương diện lý luận của quản lý nhà
nước trên lĩnh vực văn hóa, về quản lý nhà nước trên một số lĩnh vực cụ thể
của văn hóa, bước đầu nghiên cứu, khảo sát thực trạng quản lý nhà nước về
văn hóa cấp cơ sở ở một số địa phương.
Cuốn sách “ Văn hóa Việt Nam một số vấn đề lý luận và thực tiễn”
(2014), tác giả Trần Thị Kim Cúc đề cập đến quan điểm của chủ nghĩa Mác Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về


6

xây dựng và phát triển văn hóa; cơ sở lý luận về phát triển văn hóa cộng
đồng; vấn đề xây dựng và phát triển văn hóa ở Việt Nam.

Cuốn “Quản lý nhà nước trong các lĩnh vực trọng yếu” (2014), Giáo
trình nội bộ cao học của Khoa Xây dựng Đảng, Học viện Báo chí và Tuyên
truyền, do PGS, TS Trần Thị Anh Đào là chủ nhiệm đề tài. Đây là tài liệu đề
cập đến công tác QLNN về các lĩnh vực trọng yếu của đời sống xã hội. Trong
đó, đã đề cập đến những vấn đề cơ bản của công tác quản lý nhà nước về văn
hóa như đặc điểm, nguyên tắc, phương pháp và công tác quản lý văn hóa.
* Các bài tạp chí:
Có khá nhiều các bài viết về đề tài văn hóa được đăng trên các tạp chí
như: Lưu Trần Tiêu (2001), “Bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa dân tộc”.
Tạp chí Văn hóa Nghệ thuật xuất bản, Hà Nội; Trần Ngọc Hiên (2006),”Cơ
sở khoa học, thực tiễn của chính sách văn hóa trong kinh tế”, tạp chí Cộng
sản, số 20/2006; PGS.TS. Tơ Huy Rứa (2006), “Phát huy vai trị động lực
của văn hóa đối với sự phát triển kinh tế xã hội”, tạp chí Cộng sản số
15/2006; Lê Doãn Hợp (2007), “Đẩy mạnh xây dựng và nâng cao chất lượng
đời sống văn hóa cơ sở”, tạp chí Cộng sản, số 773/2007; Lễ Quốc Hùng
(2007),”Về vấn đề hoàn thiện hành lang pháp lý để tăng cường sự tham gia
của nhân dân trong quản lý nhà nước và xã hội”, tạp chí Cộng sản, số
778/2007; Nguyễn Văn Tình (2007), “Một số quan niệm về chính sách văn
hóa”. Tạp chí Văn hóa Nghệ thuật số 8/2007; Nguyễn Đức Mạnh (2008),
“Chính quyền địa phương với việc xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở” , tạp
chí Cộng sản chuyên đề cơ sở, số 4/2008; Nguyễn Đức Bình (2008), “Để văn
hóa thực sự là nền tảng phát triển”, tạp chí Xây dựng đời sống văn hóa” ,số
7/2008; Nguyễn Thu Hiền (2008) “Giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc
trong hội nhập kinh tế thế giới”, tạp chí Xây dựng đời sống văn hóa, số
68/2008; Trần Ngọc Hiên (2016), “Văn hóa và phát triển - vấn đề chiến lược


7

cấp bách ở nước ta hiện nay” , tạp chí cộng sản ngày 09/8/2016; Nguyễn Đức

Mạnh (2016) “Xây dựng văn hóa gia đình - cái gốc của việc xây dựng con
người và xây dựng xã hội văn hóa, đạo đức, văn minh”, tạp chí cộng sản ngày
07/12/2016…
*Các luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ:
Các luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ nghiên cứu về đề tài văn hóa tiêu
biểu là: Nguyễn Thu Linh (1987), luận án Tiến sĩ triết học “Tính kế thừa trong
sự phát triển văn hóa Việt Nam ở thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội”; Đỗ
Văn Vịnh (1994), luận án Phó tiến sỹ “Lãnh đạo và quản lý văn hóa nghệ
thuật trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”;
Nguyễn Thị Thu Hương (2013), luận văn thạc sĩ “Quản lý nhà nước về văn
hóa huyện Yên Thế, tỉnh Bắc Giang”; Đinh Công Bằng (2014), luận văn thạc
sĩ “Quản lý nhà nước về văn hóa trên địa bàn Hà Nội hiện nay”; Nguyễn Lư
Duy Hoàng (2017), luận văn thạc sĩ “Quản lý nhà nước về văn hóa, ở huyện
Nhà Bè, thành phố Hồ Chí Minh hiện nay”;
Các cơng trình nêu trên đã cung cấp những lý luận và thực tiễn liên
quan đến văn hóa và phát triển văn hóa, thực trạng của công tác quản lý nhà
nước trong lĩnh vực này, đồng thời đề ra một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu
quả hoạt động quản lý trên địa bàn huyện Bắc Tân Uyên, tỉnh Bình Dương.
Tuy nhiên, đề tài Quản lý nhà nước về văn hóa tại huyện Bắc Tân Un - tỉnh
Bình Dương hiện nay chưa có cơng trình nghiên cứu trực tiếp và tồn diện.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Luận văn làm rõ một số vấn đề lý luận và thực tiễn quản lý nhà nước về
văn hóa ở huyện Bắc Tân Un, tỉnh Bình Dương hiện nay, từ đó đề xuất
phương hướng và giải pháp tăng cường quản lý nhà nước về văn hóa tại
huyện Bắc Tân Un, tỉnh Bình Dương trong thời gian tới.


8


3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận quản lý nhà nước về văn hóa ở
cấp huyện.
- Đánh giá thực trạng và chỉ ra nguyên nhân quản lý nhà nước về văn
hóa ở huyện Bắc Tân Un, tỉnh Bình Dương. Từ đó, rút ra một số kinh
nghiệm quản lý nhà nước về văn hóa tại huyện Bắc Tân Uyên, tỉnh Bình
Dương.
- Xác định phương hướng và đề xuất các giải pháp tăng cường quản lý
nhà nước về văn hóa tại huyện Bắc Tân Uyên, tỉnh Bình Dương trong thời
gian tới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu của đề tài là quản lý nhà nước về văn hóa ở
huyện Bắc Tân Uyên, tỉnh Bình Dương.
- Phạm vi nghiên cứu: từ năm 2014 đến nay.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
- Cơ sở lý luận của luận văn là chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ
Chí Minh, đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam, các văn bản pháp luật nhà
nước đối với công tác văn hóa.
- Phương pháp nghiên cứu: Trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa
duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, luận văn sử dụng các phương pháp cụ
thể như: lơgic và lịch sử, phân tích và tổng hợp, thống kê, so sánh, tổng kết
thực tiễn.
6. Đóng góp mới của luận văn
- Rút ra một số kinh nghiệm có giá trị tham khảo cho việc quản lý nhà
nước về văn hóa tại huyện Bắc Tân Un, tỉnh Bình Dương hiện nay.
- Đề xuất các giải pháp có tính khả thi để tăng cường quản lý nhà nước
về văn hóa tại huyện Bắc Tân Uyên, tỉnh Bình Dương trong thời gian tới.


9


7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài
- Ý nghĩa lý luận: Kết quả nghiên cứu luận văn đã làm bổ sung và làm
phong phú thêm lý luận về quản lý của nhà nước đối với lĩnh vực văn hóa;
thực tiễn kinh nghiệm quản lý văn hóa ở huyện Bắc Tân Uyên, tỉnh Bình
Dương.
- Ý nghĩa thực tiễn: Luận văn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo
trong công tác lãnh đạo thực tiễn của huyện và cơ sở đối với lĩnh vực văn hóa;
đồng thời có thể sử dụng làm tài liệu nghiên cứu, giảng dạy trong trường
chính trị tỉnh, các trung tâm bồi dưỡng chính trị huyện, thị xã.
8. Kết cấu luận văn
Ngồi phần mở đầu, kết luận,danh mục tham khảo và phụ lục, luận văn
gồm 3 chương, 7 tiết.


10

Chương 1
QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ VĂN HÓA Ở CẤP HUYỆN MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN
1.1. Văn hóa ở cấp huyện - khái niệm, đặc điểm và vai trò
1.1.1.

Văn hóa và văn hóa ở cấp huyện
1.1.1.1. Khái niệm văn hóa
Văn hóa ra đời cùng với lịch sử tồn tại của xã hội lồi người với nhiều
hình thức khác nhau. Cũng vì vậy, văn hóa có nhiều góc độ tiếp cận.
C.Mác và Ph.Ănghen đã nhìn nhận văn hóa như là một sản phẩm của
lịch sử, là sản phẩm của quá trình lao động cải tạo tự nhiên của các thế hệ
người. C.Mác còn đưa ra quan điểm duy vật về văn hóa và đi đến kết luận
quan trọng về vai trị cơ sở, nền tảng tinh thần của văn hóa đối với sự tồn tại,

vận động và phát triển của xã hội, của lịch sử nhân loại.
C.Mác coi ”văn hóa là toàn bộ những thành quả được tạo ra nhờ hoạt
động lao động sáng tạo của con người - hoạt động sản xuất vật chất và tái sản
xuất ra đời sống hiện thực của con người” [11, tr.136-137]. Khi coi “giới tự
nhiên thứ hai” với tư cách là “tác phẩm”, “thực tại” của con người - giới tự
nhiên được con người cải biến, nhân hóa, mang ý nghĩa và nội dung con
người là văn hóa, C.Mác đã đồng nhất văn hóa với phương thức hoạt động
sống đặc thù, phương thức hoạt động sống riêng có của con người. Đó là
phương thức mà con người sử dụng lao động sáng tạo của mình để biến đổi
và cải tạo giới tự nhiên, “vận dụng bản chất cố hữu của mình” để cải tạo hiện
thực khách quan, “nhào nặn”, “xây dựng” thực tại khách quan cho chính mình
“theo các quy luật của cái đẹp” [11, tr.136-137].
Quan niệm của V.I.Lênin về văn hóa khá rộng và bao quát, kế thừa quan
điểm của C.Mác về văn hóa, từ cách tiếp cận hình thái kinh tế - xã hội.
V.I.Lênin cho rằng: Sự phát triển của văn hóa gắn liền với sự phát triển của


11

các hình thái kinh tế - xã hội, mỗi một hình thái kinh tế - xã hội có một nền
văn hóa tinh thần đặc trưng (như một giá trị lịch sử), khi hình thái kinh tế - xã
hội thay đổi, thì nền văn hóa tương ứng với nó cũng có sự thay đổi nhất định.
Theo V.I.Lênin, nền văn hóa vơ sản có khả năng phát triển tồn diện
năng lực bản chất của con người cho nên nó phải là sự kế thừa có phê phán
các giá trị văn hóa của dân tộc và nhân loại để phát triển lên một tầm cao mới,
mang đậm chất liệu văn hóa bản chất người. V.I.Lênin viết:
“Nền văn hóa vơ sản khơng phải từ trên trời rơi xuống, nó khơng phải do
những người tự cho mình là chun gia về văn hóa vơ sản bịa đặt ra...
văn hóa vơ sản phải là sự phát triển hợp quy luật của vốn kiến thức mà
loài người đã tạo ra dưới ách áp bức của xã hội tư bản, địa chủ và của xã

hội quan liêu” [63, tr.428].
Kế thừa những tư tưởng, quan niệm về văn hóa của nhân loại, đặc biệt là
quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về văn hóa, Hồ Chí Minh đã đưa ra
quan niệm về văn hóa như sau:
“Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích sống, lồi người mới sáng tạo và phát
minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tơn giáo, văn
hóa, nghệ thuật những công cụ cho sinh hoạt hằng ngày về mặc, ăn, ở và
các phương thức sử dụng. Toàn bộ những phát minh đó tức là văn hóa.
Văn hóa là tổng hợp mọi phương thức sinh hoạt cùng với biểu hiện của
nó mà lồi người đã sản sinh ra nhằm thích ứng những nhu cầu đời sống
và đòi hỏi của sự sinh tồn” [28, tr.458].
Hội nghị Thế giới về Chính sách văn hóa của UNESCO tổ chức tại
Mêhicơ năm 1982 đã nêu ra định nghĩa văn hóa:
“Văn hóa hơm nay có thể coi là tổng thể những nét riêng biệt tinh thần và
vật chất, chính trị và xúc cảm quyết định tính cách của một xã hội hay
của một nhóm người trong xã hội. Văn hóa bao gồm nghệ thuật và văn


12

chương, những lối sống, những quyền căn bản của con người, những hệ
thống các giá trị, những tập tục và tín ngưỡng” [57, tr.23-24].
Văn hóa được hiểu theo nghĩa rộng là tổng thể những giá trị vật chất và
tinh thần do con người sáng tạo ra trong quá trình lịch sử của mình. Cịn theo
nghĩa hẹp được hiểu là sự thể hiện toàn bộ hoạt động sống của con người, từ
hoạt động sản xuất vật chất đến hoạt động tinh thần, phản ánh kiểu lựa chọn
sáng tạo của cá nhân và cộng đồng.
Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII của Đảng Cộng sản Việt Nam quan
niệm:
“Văn hóa Việt Nam là thành quả hàng nghìn năm lao động sáng tạo, đấu

tranh kiên cường dựng nước và giữ nước của cộng đồng các dân tộc Việt
Nam, là kết quả giao lưu và tiếp thụ tinh hoa của nhiều nền văn minh thế
giới để khơng ngừng hồn thiện mình. Văn hóa Việt Nam đã hun đúc
nên tâm hồn, khí phách, bản lĩnh Việt Nam, làm rạng rỡ lịch sử vẻ vang
của dân tộc” [59, tr.40].
Như vậy, văn hóa gắn với tồn bộ hoạt động sống của con người, là
“thiên nhiên thứ hai” với tư cách là sản phẩm mang tính tộc loại của con
người. Văn hóa, về bản chất thường hướng tới mục tiêu “nhân đạo hóa” con
người, hướng tới sự phát triển và giải phóng những năng lực bản chất của con
người, nhằm phát triển toàn diện con người, hoàn thiện xã hội loài người,
hướng con người đến với giá trị chân - thiện - mỹ. Cho nên, trong quá trình
phát triển của lịch sử, bên cạnh sự hội nhập, cố gắng phấn đấu để có thể
ngang bằng nhau về kinh tế, mức sống, kỹ thuật, văn minh… thì vấn đề giữ
gìn, tơn vinh và phát huy những tinh hoa văn hóa sẽ làm nên sự khác biệt, độc
đáo giữa các dân tộc về lối sống, phương thức sống và giá trị cuộc sống.
Kế thừa những quan điểm nêu trên, văn hóa được quan niệm như sau:


13

Văn hóa là tồn bộ những giá trị vật chất và tinh thần do loài người
sáng tạo ra qua hoạt động thực tiễn trong quá trình lịch sử hướng đến các
giá trị chân - thiện - mỹ và sự phát triển an toàn, bền vững cho cộng đồng và
nhân loại.
1.1.1.2. Khái niệm văn hóa ở cấp huyện
Văn hóa ở cấp huyện là toàn bộ những giá trị vật chất và tinh thần được
con người tạo dựng cùng với bề dày lịch sử, văn hóa ở cấp huyện là một khái
niệm rộng, liên quan đến mọi lĩnh vực trong đời sống xã hội của mỗi con
người tại một địa phương nhất định. Do vậy, khi nhắc đến văn hóa ở cấp
huyện là nhắc đến nhiều khía cạnh như ngơn ngữ, tiếng nói, tư tưởng, tơn

giáo, các hoạt động văn hóa, nghệ thuật, chất lượng công tác thông tin tuyên
truyền, công tác quản lý, kiểm tra, giám sát hoạt động quảng cáo và các hoạt
động kinh doanh dịch vụ văn hóa, cơng tác quản lý di sản văn hóa, cơng tác
quản lý các hoạt động văn hóa, cơng tác xã hội hóa, huy động nguồn lực đầu
tư cho văn hóa, cơng tác thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm trong hoạt động
quản lý văn hóa… của một huyện. Ngồi ra văn hóa ở cấp huyện cịn được
thể hiện thơng qua những di tích lịch sử, danh lam thắng cảnh ghi đậm dấu ấn
của nhân dân trên địa bàn.
Như vậy, có thể hiểu: văn hóa ở cấp huyện là những giá trị chân - thiện
- mỹ do cộng đồng người sống ở quận, huyện, thị xã, thành phố (thuộc tỉnh)
sáng tạo ra nhằm phục vụ nhu cầu văn hóa và sự phát triển an tồn, bền
vững của địa phương mình.
Văn hóa ở cấp huyện mang những đặc trưng riêng có bên cạnh những
nét chung của văn hóa dân tộc. Văn hóa đó bao gồm những giá trị đã được
hình thành và duy trì trong một khoảng thời gian rất dài, có tính kế thừa từ thế
hệ này sang hế hệ khác.


14

Các lĩnh vực văn hóa ở cấp huyện bao gồm các hoạt động văn hóa như:
xây dựng đời sống văn hoá cơ sở, các hoạt động kinh doanh và dịch vụ văn
hóa, hoạt động lễ hội, di tích…
1.1.2.

Đặc điểm văn hóa ở cấp huyện

1.1.2.1. Văn hóa mang tính hệ thống
Văn hóa trước hết phải có tính hệ thống. Đặc trưng này cần để phân
biệt hệ thống với tập hợp nó giúp phát hiện những mối liên hệ mật thiết giữa

các hiện tượng, sự kiện thuộc một nền văn hóa; phát hiện các đặc trưng,
những quy luật hình thành và phát triển của nó.
Như có tính hệ thống mà văn hóa, với tư cách là một thực thể bao trùm
mọi hoạt động của xã hội, thực hiện được chức năng tổ chức xã hội. Chính
văn hóa thường xun làm tăng độ ổn định của xã hội, cung cấp cho xã hội
mọi phương tiện cần thiết để ứng phó với mơi trường tự nhiên và xã hội của
mình. Nó là nền tảng của xã hội - có lẽ chính vì vậy mà người Việt Nam ta
dùng từ chỉ loại “nền” để xác định khái niệm văn hóa (nền văn hóa).
1.1.2.2. Văn hóa mang tính nhân văn sâu sắc
Tính nhân văn cho phép phân biệt văn hóa như một hiện tượng xã hội
(do con người sáng tạo, nhân tạo) với các giá trị tự nhiên (thiên tạo). Văn hóa
là cái tự nhiên được biến đổi bởi con người. Sự tác động của con người vào tự
nhiên có thể mang tính vật chất (như việc luyện quặng, đẽo gỗ…) hoặc tinh
thần (như truyền thuyết về các cảnh quan tự nhiên).
Do mang tính nhân văn, văn hóa trở thành sợi dây nối liền con người với
con người, nó thực hiện chức năng giao tiếp và có tác dụng liên kết họ lại với
nhau. Nếu ngơn ngữ là hình thức của giao tiếp thì văn hóa là nội dung của nó.
1.1.2.3. Văn hóa mang tính giá trị của địa phương


15

Văn hóa theo nghĩa đen nghĩa là “trở thành đẹp, thành có giá trị”, tính
giá trị cần để phân biệt giá trị với phi giá trị. Nó là thước đo mức độ nhân bản
của xã hội và con người. Ở mỗi vùng địa phương khác nhau, văn hóa mang
những đặc trưng riêng có, gắn với lịch sử truyền thống vùng đất, gắn với con
người và điều kiện kinh tế - xã hội tại vùng đất đó. Do vậy, văn hóa ở cấp
huyện ngồi những giá trị chung cịn mang những nét đặc thù của địa phương.
Nhờ thường xuyên xem xét các giá trị mà văn hóa thực hiện được chức
năng quan trọng thứ hai là chức năng điều chỉnh xã hội tại địa phương, giúp

cho địa phương đó duy trì được trạng thái cân bằng động, khơng ngừng tự
hồn thiện và thích ứng với những biến đổi của mơi trường, giúp định hướng
các chuẩn mực, làm động lực cho sự phát triển chung của xã hội.
1.1.3. Vai trị văn hố ở cấp huyện
1.1.3.1. Đối với phát triển kinh tế
Văn hóa là cơ sở phát triển kinh tế: Toàn bộ các yếu tố văn hóa (tài sản
hữu hình và tài sản vơ hình) được biểu hiện trong lĩnh vực kinh tế là các cơ sở
vật chất dùng cho sản xuất kinh doanh và năng lực lao động của con người, là
cơ sở cho quá trình phát triển kinh tế, xã hội. Nền văn hóa phát triển cao đồng
nghĩa với người lao động có năng lực cao. Do vậy xây dựng, phát triển nền
văn hóa là nhiệm vụ của mỗi quốc gia.
Là cơ sở để xác lập các giá trị cốt lõi của mơ hình - con đường - thể chế
phát triển của một quốc gia - dân tộc, xác lập các giá trị cốt lõi của thể chế
chính trị thực sự “của dân, do dân và vì dân”. Xác lập mục tiêu bao trùm của
sự phát triển là vì con người; con người vừa là chủ thể vừa là mục tiêu của sự
phát triển. Các giá trị này thường được xác định, chế định trong cương lĩnh
của các Đảng cầm quyền, trong hiến pháp, pháp luật, chiến lược phát triển của
quốc gia…


16

Là cơ sở để xác lập các giá trị cốt lõi của thể chế kinh tế, triết lý và đạo
đức kinh doanh thúc đẩy phát triển năng động, hiệu quả, hài hòa và bền vững
cả về kinh tế, xã hội và môi trường; phát triển bao trùm, “không để ai tụt lại
phía sau”. Xác lập hệ giá trị phát triển chung của quốc gia trong định hướng
phát triển dài hạn và trong những giai đoạn cụ thể. Hệ giá trị phát triển đó
được cụ thể hóa thành các giá trị phát triển trong các lĩnh vực con người,
chính trị, kinh tế, xã hội, môi trường sinh thái.
Ngày nay, không ai có thể phủ nhận vai trị quan trọng của văn hóa với

tư cách là nhân tố trực tiếp tham gia vào quá trình phát triển kinh tế. Lịch sử
phát triển của loài người cho thấy, ở bất kỳ thời kỳ nào, với bất kỳ quốc gia
nào, con người cũng đều đóng vai trị quyết định với q trình sản xuất, mà
trước hết, họ là một thực thể văn hóa. Tố chất con người (tinh thần yêu nước,
trình độ khoa học cơng nghệ, tinh thần tổ chức xã hội, tính nhân văn...) có ý
nghĩa quyết định làm nên sức mạnh của văn hóa ở mỗi quốc gia - dân tộc. Và
do đó ở thời kỳ hiện đại, nói đến tiềm năng phát triển của mỗi quốc gia, người
ta khơng chỉ nói tới tài nguyên thiên nhiên, mà phải nói tới yếu tố quyết định
là văn hóa, được thể hiện qua năng lực sáng tạo, trí tuệ, tài năng, đạo đức của
con người ở quốc gia đó...
1.1.3.2. Đối với xây dựng và phát triển nền văn hóa tiên tiến, đậm đà
bản sắc dân tộc
Văn hóa hình thành nên các chuẩn giá trị xã hội, lành mạnh hóa các
quan hệ xã hội, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho nhân dân. Thể hiện
qua các giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp được bảo tồn và phát huy, bản sắc
văn hóa dân tộc khơng bị mai một, hịa tan trong q trình hội nhập và tồn
cầu hóa. Nhiều giá trị văn hóa mới, tiến bộ đã được xác lập, củng cố trên cơ
sở tiếp thu có chọn lọc những cái hay, cái đẹp của văn hóa nhân loại; ngày
càng ra đời nhiều trung tâm văn hố - thơng tin - thể thao, nhà hát, câu lạc bộ,


17

rạp chiếu phim, khu di tích lịch sử - văn hoá, bảo tàng, thư viện, nhà triển
lãm, cửa hàng sách, báo, khu vui chơi giải trí,… nhằm đáp ứng nhu cầu
hưởng thụ văn hóa ngày càng cao và đa dạng của người dân.
Cơ chế quản lý văn hóa đã bám sát thực tiễn đời sống văn hóa đất nước,
đáp ứng nhu cầu của người dân, khuyến khích được sức sáng tạo văn hóa,
nghệ thuật của các chủ thể văn hóa, tạo điều kiện gia tăng và đa dạng hóa các
sinh hoạt văn hóa và loại hình giải trí. Chính sách xã hội hóa trong văn hóa đã

khuyến khích được nhiều nguồn lực tham gia xây dựng và phát triển văn hóa
đất nước…
Trong nền kinh tế thị trường, một mặt văn hóa dựa vào chuẩn mực của
nó là chân, thiện, mỹ (cái đúng, cái tốt, cái đẹp) để hướng dẫn và thúc đẩy
người lao động không ngừng phát huy sáng kiến, cải tiến kỹ thuật, nâng cao tay
nghề, sản xuất hàng hóa với số lượng ngày càng nhiều với chất lượng ngày
càng cao, đáp ứng nhu cầu không ngừng tăng lên của xã hội; mặt khác, văn hóa
sử dụng sức mạnh của các giá trị truyền thống, của đạo lý, dân tộc để hạn chế
xu hướng sùng bái hàng hóa, sùng bái tiền tệ, nghĩa là hạn chế xu hướng tiêu
cực của hàng hóa và đồng tiền “xuất hiện với tính cách là lực lượng có khả
năng xuyên tạc bản chất con người, cũng như những mối liên hệ khác”. Hạn
chế những tiêu cực này chỉ có thể là văn hóa và chủ yếu bằng văn hóa. Do vậy,
xây dựng và phát triển nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
1.1.3.3. Đối với sự phát triển con người mới phát triển tồn diện
Văn hóa đối với sự phát triển con người mới phát triển tồn diện: Văn
hóa là cơ sở hình thành nhân cách cá nhân. Các cá nhân tiếp nhận nên văn hóa
và trở thành con ng xã hội. Con người ngày càng hiểu biết được đầy đủ quy
luật vận động của tự nhiên, xã hội và bản thân. Từ đó họ ln làm chủ mình
trong mọi tình huống.


18

Văn hóa góp phần làm ổn định tình trạng xã hội, bởi nó là những thứ đã
tồn tại trong một thời gian dài, đi sâu vào trong nhận thức của từng người dân,
do vậy mọi hành vi của người dân đều chịu sự điều chỉnh bởi một khuôn khổ
tập quán, đạo đức của dân tộc.
Văn hóa đã góp phần làm cải thiện các mối quan hệ trong xã hội, đem
lại chất lượng sống tốt hơn cho người dân về cả mặt vật chất và tinh thần. Văn
hóa một trong những tư liệu để minh chứng cho lịch sử huy hoàng, đầy uy

quyền của dân tộc. Bởi văn hóa được phát triển trong q trình hình thành dài,
chứa đựng tồn bộ những thăng trầm của cả một đất nước nên thông qua
những nét văn hóa đó mà thế hệ sau có thể cảm nhận được những truyền
thống văn hóa của ơng cha ta. Văn hóa thực hiện chức năng giao tiếp và thể
hiện được là cầu nối gắn kết giữa con người với con người, gắn kết thế hệ
trước với thế hệ sau. Văn hóa cịn có chức năng giáo dục, giúp cho thế hệ sau
thấu hiểu về lịch sử dân tộc, đảm bảo được sự lưu giữ và ngày càng phát triển.
Với chức năng định hướng, đào tạo con người theo các giá trị chân thiện - mỹ, văn hóa có khả năng xây dựng, làm hình thành trong phẩm chất
của mọi thành viên xã hội ý thức phát huy các tiềm năng về thể lực, trí lực và
nhân cách để đóng góp vào sự nghiệp phát triển của dân tộc. Thời hiện đại, sự
phát triển của một số quốc gia ở Ðông Á, đã đưa tới một số bài học cần tham
khảo. Như Nhật Bản và Hàn Quốc chẳng hạn, một trong các yếu tố cơ bản
trực tiếp góp phần làm nên nhịp độ phát triển nhanh chóng của hai quốc gia
này là đã biết phát huy các đặc điểm ưu việt của nền văn hóa truyền thống vào
quá trình phát triển, thơng qua hệ thống giáo dục và hoạt động văn hóa có đầu
tư thích đáng về con người và phương tiện vật chất. Họ không để cho làn sóng
của văn minh hiện đại và giao lưu văn hóa ồ ạt lấn át các cơ sở văn hóa truyền
thống được xây dựng qua hàng nghìn năm lịch sử của dân tộc, như tinh thần
lao động có kỷ cương, tính hợp lý trong điều hành xã hội và mối quan hệ gia


19

đình, thân tộc,... Cho nên khơng ngẫu nhiên, UNESCO khẳng định rằng, nước
nào tự đặt cho mình mục tiêu phát triển kinh tế mà tách rời khỏi mơi trường
văn hóa thì nhất định sẽ xảy ra mất cân đối nghiêm trọng cả về kinh tế lẫn văn
hóa, và tiềm năng sáng tạo của những dân tộc ấy sẽ bị suy yếu rất nhiều. Do
vậy, văn hóa có vai trị quan trọng đối với sự phát triển con người mới phát
triển tồn diện.
1.2. Quản lý nhà nước về văn hóa ở cấp huyện - Quan niệm, nội

dung, nguyên tắc và phương pháp
1.2.1. Quan niệm quản lý nhà nước về văn hóa ở cấp huyện
1.2.1.1. Quản lý
Quản lý là hoạt động tất yếu khách quan của mọi quá trình hoạt động
xã hội.Trong hoạt động quản lý, phải có chủ thể quản lý, và ít nhất một đối
tượng quản lý, gián tiệp hay trực tiếp nhận sự tác động của chủ thể quản
lý.Hoạt động quản lý là một quá trình bao gồm nhiều hành động khác nhau,
có tính liên tục để đạt được kết quả mà chủ thể đặt ra mục tiêu cần hướng
tới. Để tồn tại và phát triển, quản lý cần thiết đối với mọi phạm vi hoạt động
của xã hội
Quản lý là một khái niệm có nội hàm rất rộng. Từ những góc độ nghiên
cứu khác nhau, ở mỗi lĩnh vực hoạt động người ta có thể đưa ra những khái
niệm khác nhau về quản lý.
Từ điển Hán Việt cho rằng: “Quản lý là sự trơng nom, coi sóc, quản
thúc, bó buộc ai đó theo một khn mẫu, quy định, nguyên tắc, luật
pháp đã đề ra” [1, tr.489].
Quản lý là sự kết hợp của ba phương diện: Thứ nhất, thông qua tập thể
để thúc đẩy tính tích cực của cá nhân; thứ hai điều hòa quan hệ giữa người
với người, giảm mâu thuẫn giữa hai bên; thứ ba, tăng cường hợp tác hỗ trợ
lẫn nhau, thông qua hỗ trợ để làm được những việc mà một cá nhân không


20

thể làm được, thông qua hợp tác tạo ra giá trị lớn hơn giá trị cá nhân - giá trị
tập thể.
Trong hoạt động quản lý, phải có ít nhất một chủ thể quản lý (cá nhân
hay cơ quan) và ít nhất một đối tượng quản lý (con người - một cá nhân hay
nhiều người hoặc một bộ phận của giới vô sinh hay sinh vật) gián tiếp hay
trực tiếp tiếp nhận sự tác động của chủ thể quản lý. Hoạt động quản lý bao

giờ cũng nhằm đạt được một mục đích nhất định. Các yếu tố khác tạo nên
mơi trường của hệ thống, chính là khách thể của hoạt động quản lý.
Tóm lại, chúng ta có thể hiểu khái niệm về hoạt động quản lý như sau:
Quản lý là sự tác động liên tục có tổ chức, có định hướng của chủ thể quản
lý đến đối tượng và khách thể quản lý bằng một hệ thống các luật lệ, các
chính sách, các nguyên tắc, các phương pháp và biện pháp cụ thể nhằm sử
dụng có hiệu quả nhất các nguồn lực, cơ hội của tổ chức để đạt được mục
tiêu đặt ra trong điều kiện môi trường luôn biến động.
Muốn “tác động liên tục, có tổ chức, có chủ đích”, người làm quản lý
phải thực hiện hoạt động quản lý gồm 4 khâu quan trọng là: Lập kế hoạch, tổ
chức, bố trí nhân lực cho phù hợp với thực tiễn; kiểm tra, kiểm soát, đánh giá
việc thực hiện kế hoạch. Hoạt động quản lý được thể hiện trong 5 thành tố
sau: Chủ thể quản lý, khách thể quản lý, mục đích quản lý, cơng cụ quản lý,
cách thức quản lý.
1.2.1.2. Quản lý nhà nước về văn hóa ở cấp huyện
Có nhiều cách diễn đạt khác nhau, nhưng thực chất của quản lý nhà
nước về văn hóa chính là sự định hướng, tạo điều kiện, tổ chức điều hành
của nhà nước, mục đích là làm cho văn hóa phát triển theo hướng vì sự phát
triển bền vững của con người và xã hội. Vậy có thể hiểu: Quản lý nhà nước
về văn hóa là sự quản lý của nhà nước đối với tồn bộ hoạt động văn hóa


21

của quốc gia bằng quyền lực của nhà nước thông qua hiến pháp, pháp luật
và cơ chế chính sách nhằm bảo đảm sự phát triển của nền văn hóa dân tộc.
Theo cuốn sách “Lược sử quản lý văn hóa ở Việt Nam” của tác giả
Hồng Sơn Cường thì “Quản lý văn hóa là sự định hướng, tạo điều kiện, tổ
chức điều hành cho văn hóa phát triển khơng ngừng theo hướng có ích cho
con người, giúp cho xã hội lồi người không ngừng đi lên” [18, tr.28].

Theo nghĩa rộng, quản lý nhà nước về văn hóa ở nước ta được thực
hiện thông qua ba cơ quan trong bộ máy nhà nước: Cơ quan lập pháp, cơ quan
tư pháp và cơ quan hành pháp. Theo nghĩa hẹp, quản lý nhà nước về văn hóa
được thể hiện trong hoạt động quản lý có tính chất nhà nước nhằm điều hành
các hoạt động văn hóa, được thể hiện bởi hệ thống bộ máy các cơ quan hành
pháp.
Hoạt động văn hóa là một dạng hoạt động xã hội quan trọng, tất yếu
phải có sự quản lý của nhà nước, chính vì thế quản lý nhà nước trên lĩnh vực
văn hóa là tất yếu khách quan. Do hoạt động văn hóa là một hoạt động sáng
tạo, là hoạt động tư tưởng và còn là hoạt động kinh tế, nên quản lý văn hóa là
hoạt động xã hội mang tính đặc thù. Bởi thứ nhất, hoạt động văn hóa là một
hoạt động sáng tạo, có thể làm ra các sản phẩm văn hóa mang giá trị lưu
truyền từ đời này sang đời khác, làm giàu đẹp thêm cho cuộc sống, con người.
Thứ hai, hoạt động văn hóa cịn là hoạtđộng tư tưởng, có khả năng gây “hiệu
ứng” (tốt hoặc xấu) trong xã hội. Thứ ba, hoạt động văn hóa cịn là hoạt động
kinh tế vừa là động lực, vừa là nguồn lực trực tiếp cho sự phát triển kinh tế.
Chính vì tính đa năng của hoạt động văn hóa, nên quản lý trên lĩnh vực văn
hóa mang tính đặc thù. Tính đặc thù của quản lý văn hóa khơng những thể hiện
trong từng lĩnh vực cụ thể của đời sống văn hóa, mà nó cịn thể hiện ở cơng tác
quản lý nhà nước về văn hóa ở các cấp, từ vĩ mô đến các đơn vị cơ sở.


22

Quản lý văn hóa nói chung và quản lý văn hóa cấp huyện nói riêng ln
cần phải xác định rõ đối tượng thuộc phạm vi văn hóa mà nhà nước cần phải
quản lý đó là tồn bộ đời sống văn hóa, hoạt động văn hóa ở cấp huyện. Các
cơ quan chức năng cấp huyện đảm nhận một phần quan trọng trực tiếp quản
lý những cơng trình văn hóa (cơng trình lịch sử văn hóa cũng như cơng trình
nghệ thuật) và những cơ sở trực tiếp phục vụ nhu cầu văn hóa của nhân dân

trên địa bàn huyện.
Cơ quan chức năng cấp huyện (ủy ban nhân dân, phịng văn hóa –
thơng tin) là người đại diện cho nhân dân để đảm bảo các quyền có trong hiến
pháp của cơng dân về văn hóa, điều tiết sự hài hịa của cơ cấu văn hóa, lợi ích
văn hóa của nhóm xã hội, các yêu cầu phát triển và thỏa mãn nhu cầu văn hóa
của nhân dân địa phương.
Con người là chủ thể sáng tạo văn hóa, là người hưởng thụ văn hóa.
Hoạt động văn hóa là một hoạt động phức tạp diễn ra trên bình diện rộng, trong
tất cả các hoạt động xã hội. Vì thế, quản lý nhà nước về văn hóa ở cấp huyện
thực chất là quản lý con người tham gia các hoạt động văn hóa để thực hiện
chức năng và nhiệm vụ đặt ra cho quá trình xây dựng và phát triển sự nghiệp
văn hóa.
Như vậy: Quản lý nhà nước về văn hóa ở cấp huyện là sự tác động
bằng nhiều nội dung, phương pháp của chủ thể quản lý (chủ yếu là ủy ban
nhân dân, phịng văn hóa – thông tin) đối với mọi hoạt động và đời sống văn
hóa ở cấp huyện nhằm làm cho văn hóa phát triển bền vững.
1.2.2. Nội dung cơ bản của quản lý nhà nước về văn hóa ở cấp huyện
1.2.2.1. Lập kế hoạch xây dựng và phát triển văn hóa
Lập kế hoạch xây dựng và phát triển văn hóa: Lập kế hoạch xây dựng
và phát triển văn hóa trong từng giai đoạn để thực hiện đường lối và định
hướng phát triển của Đảng đối với văn hóa. Thể chế văn hóa bao gồm hai loại


23

hệ thống chuẩn mực: Chuẩn mực luật pháp và chuẩn mực phong tục tập quán
[23, tr.15].
Ở Việt Nam, Điều 60 Hiến pháp sửa đổi năm 2013 quy định: Nhà nước,
xã hội chăm lo xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà
bản sắc dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại; Nhà nước, xã hội phát

triển văn học, nghệ thuật nhằm đáp ứng nhu cầu tinh thần đa dạng và lành
mạnh của Nhân dân; phát triển các phương tiện thông tin đại chúng nhằm đáp
ứng nhu cầu thông tin của Nhân dân, phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc; Nhà nước, xã hội tạo mơi trường xây dựng gia đình Việt Nam ấm
no, tiến bộ, hạnh phúc; xây dựng con người Việt Nam có sức khỏe, văn hóa,
giàu lịng u nước, có tinh thần đồn kết, ý thức làm chủ, trách nhiệm cơng
dân.
Căn cứ vào đặc điểm và tình hình phát triển văn hóa của huyện, cấp
huyện tiến hành lập kế hoạch xây dựng và phát triển văn hóa của địa phương.
1.2.2.2. Xây dựng và thực hiện chính sách văn hóa
Quản lý nhà nước về văn hóa ở cấp huyện tập trung chủ yếu vào xây
dựng và thực hiện chính sách văn hóa về các lĩnh vực hoạt động văn hóa sau:
- Các hoạt động thuộc lĩnh vực báo chí, xuất bản, internet, quảng cáo;
- Các hoạt động thuộc lĩnh vực thư viện, bảo tồn, bảo tàng;
- Các hoạt động thuộc lĩnh vực văn hóa thơng tin cơ sở;
- Các hoạt động thuộc lĩnh vực văn hóa các dân tộc thiểu số;
- Các hoạt động thuộc lĩnh vực xuất nhập khẩu văn hóa phẩm...
Các văn bản pháp luật tạo ra một hành lang pháp lý cho xây dựng các
chính sách các hoạt động văn hóa, đặc biệt có ý nghĩa khi chúng ta đang tiến
hành chủ trương xã hội hóa các hoạt động văn hóa trong nền kinh tế thị
trường.


24

Hướng dẫn việc triển khai kế hoạch và các hoạt động văn hóa, tổ chức
kiểm tra, giám sát các hoạt động văn hóa: Cùng với việc tăng cường kiểm tra,
giám sát của Nhà nước đối với các hoạt động văn hóa, là những nhiệm vụ
quan trọng của quản lý nhà nước đối với văn hóa. Đổi mới cơ chế, kiểm tra,
giám sát hoặt động văn hóa và các dịch vụ văn hóa theo 3 hướng: hồn thiện

và bổ sung các văn bản pháp quy; kiện toàn đội ngũ cán bộ thanh tra, giám sát
của ngành từ Trung ương tới cơ sở; tổ chức và sắp xếp lại các cơ quan quản lý
nhà nước cũng như các cơ quan sản xuất và cung ứng dịch vụ văn hóa, xác
định vai trị chủ đạo của doanh nghiệp nhà nước.
1.2.2.3. Hướng dẫn triển khai kế hoạch và các hoạt động văn hóa, tổ
chức hoạt động giám sát các hoạt động văn hóa
Chính quyền địa phương với cơ quan quản lý nhà nước chuyên ngành
về văn hóa thơng tin (Phịng VH&TT cấp huyện; Ban văn hóa cấp xã) có chức
năng quản lý sự nghiệp văn hóa trên địa bàn theo sự phân cấp quản lý ở địa
phương.
Phòng VH&TT cấp huyện là cơ quan chuyên môn thuộc UBND cấp
huyện (Quy định tại Nghị định 37/2014/NĐ-CP ngày 5 tháng 5 năm 2014 của
Chính phủ) có chức năng tham mưu, giúp UBND cấp Huyện quản lý nhà nước
về: văn hóa, gia đình, TDTT, du lịch, thơng tin truyền thông và các dịch vụ công
thuộc lĩnh vực văn hóa, gia đình, TDTT và du lịch trên địa bàn cấp huyện.
1.2.2.4. Xây dựng và sử dụng nguồn lực, kinh phí cho các hoạt động văn
hóa
Xây dựng và sử dụng nguồn lực, kinh phí cho các hoạt động văn hóa:
Đây là một nhiệm vụ cụ thể nhưng có vị trí vô cùng quan trọng trong chức
năng quản lý nhà nước. Tăng cường ngân sách cho phát triển văn hóa đang
là khuynh hướng chung của các nước trên thế giới. Việc đầu tư và sử dụng các
nguồn lực phải trên cơ sở các mơ hình hoạt động văn hóa cụ thể. Đồng thời,


25

kiện toàn tổ chức bộ máy quản lý nhà nước về văn hóa: Trên thế giới có nhiều
cách cấu tạo bộ máy quản lý văn hóa khác nhau và có những phân cấp quản lý
khác nhau. Do đối tượng của chính sách văn hóa khơng phải chỉ là những hoạt
động riêng của bộ mang tên “Văn hóa” nên có những mơ hình về bộ máy

quản lý văn hóa khơng giống nhau.
Đối với ngành văn hóa thơng tin ở nước ta hiện nay, hoạt động quản lý
văn hóa được tiến hành căn cứ vào các mảng cơ bản như: Lĩnh vực thuộc tổ
chức bộ máy quản lý văn hóa, quản lý nhà nước về văn hóa nghệ thuật, về văn
hóa thơng tin, về văn hóa xã hội, di sản văn hóa, xuất nhập khẩu văn hóa,
cơng tác thanh tra, kiểm tra, quản lý công tác đào tạo…
1.2.2.5. Tổ chức kiểm tra, giám sát và xử lý các vi phạm trong các hoạt
động văn hóa
Đây là một nhiệm vụ quan trọng của cơng tác quản lý nhà nước về văn
hóa. Trong lĩnh vực công tác này, hoạt động của cơ quan kiểm duyệt và thanh
tra có vai trị đặc biệt bởi vì văn hóa có mối quan hệ trực tiếp với chính trị
nó có tác động trực tiếp đến sự hình thành và phát triển nhân cách của con
người. Trong xu hướng xã hội hóa văn hóa, cơng tác kiểm tra, kiểm sốt
ngày càng phảo được thực hiện nghiêm túc, có kế hoạch phối hợp hoạt
động một cách chặt chẽ với các bộ, ngành khác, như vậy mới có khả năng
thực hiện chức năng và nhiệm vụ đặt ra.
1.2.3. Nguyên tắc quản lý nhà nước về văn hóa ở cấp huyện
Thứ nhất, nguyên tắc Đảng lãnh đạo, nhà nước quản lý, nhân dân làm
chủ
Nguyên tắc Đảng lãnh đạo, nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ.
Nguyên tắc này đòi hỏi hoạt động Nhà nước trước hết phải đảm bảo sự lãnh
đạo của Đảng, Nhà nước quản lý, phát huy quyền làm chủ của nhân dân lao
động, thực hiện phương châm: Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra.


×