Tải bản đầy đủ (.docx) (25 trang)

TIỂU LUẬN đường lối đối ngoại và hội nhập quốc tế của đảng và nhà nước ta hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (134.17 KB, 25 trang )

MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU
NỘI DUNG
MỞ RỘNG QUAN HỆ ĐỐI NGOẠI VÀ CHỦ ĐỘNG
I.

HỘI NHẬP QUỐC TẾ LÀ ĐÒI HỎI KHÁCH QUAN
CỦA ĐẤT NƯỚC

1.1.
1.2.
1.3.
II.
2.1.
2.2.

1
2

2

Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về vai trị
của chính sách đối ngoại và hội hập quốc tế
Thực trạng đối ngoại của Đảng, Nhà nước trước đổi mới
Sự cần thiết và quá trình hội nhập quốc tế của nước ta trong

2
3

giai đoạn cách mạng hiện nay


ĐƯỜNG LỐI ĐỐI NGOẠI VÀ HỘI NHẬP QUỐC TẾ

6

CỦA ĐẢNG VÀ NHÀ NƯỚC TA HIỆN NAY
Đặc điểm tình hình tác động tới đường lối đối ngoại và hội
nhập quốc tế của Đảng ta
Đường lối đối ngoại và hội nhập quốc tế của Đảng và Nhà

nước ta hiện nay
KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

9
9
12
23
24


MỞ ĐẦU
Vào thập kỷ cuối cùng của thế kỷ XX, hệ thống xã hội chủ nghĩa lâm vào
khủng hoảng “toàn diện và nghiêm trọng”, cuối cùng đi đến sụp đổ trên một bộ
phận lớn đã làm thay đổi cơ bản quan hệ chính trị thế giới. Bên cạnh đó cuộc
cách mạng khoa học - công nghệ hiện đại đã và đang tác động đến tất cả các
quốc gia dân tộc với mức độ khác nhau. Chủ nghĩa tư bản sử dụng những thành
tựu của cách mạng khoa học - công nghệ nên thích nghi và tiếp tục phát triển.
Các quốc gia trong cộng đồng thế giới đều điều chỉnh chính sách đối ngoại để
phù hợp với tình hình mới.
Trong bối cảnh quốc tế như vậy, quan hệ quốc tế dường như đã chuyển từ

đối đầu sang đối thoại, thế hai cực bị phá vỡ, từ đó làm nảy sinh xu hướng đa
dạng hố, đa phương hố trong tiến trình tồn cầu hố, phát triển và phụ thuộc
lẫn nhau. Tồn cầu hố về kinh tế chiếm vị trí quan trọng trong quan hệ quốc tế,
được ưu tiên phát triển và trở thành vấn đề chính trong quan hệ quốc tế hiện nay.
Việt Nam nằm trong khu vực Châu Á - Thái Bình Dương và ASEAN là khu vực
phát triển kinh tế năng động với tốc độ cao, chính trị tương đối ổn định, đang trở
thành trung tâm kinh tế. Tiến hành đổi mới toàn diện đất nước bắt đầu từ năm
1986, Việt Nam đã thu được nhiều thắng lợi. Là một bộ phận hợp thành đường
lối đổi mới của Đảng, đường lối và chính sách đối ngoại đúng đắn của Đảng và
Nhà nước Việt Nam đã cho phép khai thác có hiệu quả các nhân tố quốc tế, kết
hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, chống chiến lược “diễn biến hồ
bình” của các thế lực thù địch, hịng phá hoại thành quả cách mạng Việt Nam
bảo vệ vững chắc tổ quốc và đưa cách mạng Việt Nam tiếp tục tiến lên. Xuất
phát từ lý do đó, nghiên cứu vấn đề “Đường lối đối ngoại và hội nhập quốc tế
của Đảng và Nhà nước ta hiện nay” làm đề tài tiểu luận có ý nghĩa lý luận và
thực tiễn sâu sắc.

2


NỘI DUNG
I. MỞ RỘNG QUAN HỆ ĐỐI NGOẠI VÀ CHỦ ĐỘNG HỘI NHẬP
QUỐC TẾ LÀ ĐÒI HỎI KHÁCH QUAN CỦA ĐẤT NƯỚC
1.1. Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về vai trị của
chính sách đối ngoại và hội hập quốc tế
Chủ nghĩa Mác - Lênin chỉ rõ chính sách đối ngoại là sự tiếp nối chính
sách đối nội, là bộ phận quan trọng trong đường lối chính trị và chính sách của
mọi quốc gia, dân tộc. Mục tiêu của học thuyết là “Vơ sản tồn thế giới và các
dân tộc bị áp bức đoàn kết lại”, giải phóng giai cấp, giải phóng xã hội và giải
phóng con người. Sự nghiệp của giai cấp công nhân là sự nghiệp quốc tế. Giai

cấp công nhân sẽ không tự giải phóng mình nếu khơng giải phóng tồn xã hội.
Chính sách đối ngoại là một bộ phận của đấu tranh chính trị Lênin dạy
rằng đường lối đối ngoại của các nước xã hội chủ nghĩa phải nhằm “thiết lập
những quan hệ giúp cho tất cả các dân tộc bị áp bức có thể gạt bỏ được các đế
quốc chủ nghĩa” và tập hợp được những điều kiện thuận lợi nhất cho “việc phát
triển và củng cố cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa” [8, tr.198].
Quan điểm của các nhà kinh điển chỉ ra rằng một quốc gia, một dân tộc
thì tất yếu phải thực hiện chính sách đối ngoại để tập hợp bạn bè quốc tế, tranh
thủ những điều kiện thuận lợi và sự giúp đỡ của các nước nhằm xây dựng thực
lực của đất nước, giành thắng lợi cho cách mạng và góp phần giải quyết những
vấn đề quốc tế chung.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về đối ngoại là hệ thống quan điểm về quốc tế, về
chiến lược, sách lược của cách mạng Việt Nam trong quan hệ với thế giới. Hệ
thống quan điểm đó được thể hiện ở những nội dung. Mục tiêu đối ngoại, tập
hợp và mở rộng lực lượng, các phương châm đối ngoại, phương pháp và nghệ
thuật đấu tranh ngoại giao nhằm giành thắng lợi cho cách mạng Việt Nam.
Thứ nhất, mục tiêu đối ngoại: là nhằm đảm bảo lợi ích của quốc gia, dân
tộc, bao gồm các quyền dân tộc cơ bản như: độc lập dân tộc, chủ quyền quốc
gia, toàn vẹn lãnh thổ, thống nhất đất nước, tự do hạnh phúc cho nhân dân. Đièu
đó được khẳng định trong tun ngơn độc lập của Nhà nước Việt Nam mới:
3


“Nước Việt Nam có quyền được hưởng tự do độc lập, toàn thể dân tộc Việt Nam
quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cái để giữ vững quyền
tự do và độc lập ấy”. Thông qua Tun ngơn độc lập chủ tịch Hồ Chí Minh đã
khẳng định đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ của dân tộc Việt Nam trong quan
hệ chính trị quốc tế. Bởi vì, chỉ những quốc gia độc lập, tự do mới có quyền
quyết định đường lối đối ngoại của dân tộc mình.
Thứ hai, về mở rộng và tập hợp lực lượng. Xác định đối ngoại là một mặt

trận, Hồ Chí Minh chủ trương mở rộng quan hệ với tất cả các nước, tranh thủ
mọi lực lượng và hình thức đấu tranh nhằm đạt hiệu quả cao nhất về đối ngoại.
Người cho rằng, thắng lợi ngoại giao tuỳ thuộc vào sức mạnh của khối đại đoàn
kết toàn dân, sức mạnh về kinh tế, chính trị, qn sự và văn hố của đất nước.
Với bên ngồi, Hồ Chí Minh chủ trương mở rộng các lực lượng theo phương
châm “thêm bầu bạn, bớt kẻ thù”, tránh đối đầu “khơng gây thù ốn” với bất cứ
nước nào; khai thác những điểm tương đồng và mọi khả năng có thể nhắp tập
hợp lực lượng, hình thành mặt trận đồn kết ủng hộ Việt Nam một cách rộng rãi
và sâu sắc nhất [6, tr.90].
Thứ ba, về phương châm đối ngoại và phương pháp đấu tranh ngoại giao.
Nhấn mạnh quan điểm độc lập tự chủ, tự lực, tự cường, Người nói: “Độc lập
nghĩa là chúng tơi điều khiển lấy mọi công việc cảu chúng tôi, không có sự can
thiệp ở ngồi vào”. Điều đó có nghĩa là dân tộc Việt Nam phải tự mình vạch ra
đường lối, chính sách đối ngoại độc lập, tự chủ trên cơ sở lợi ích quốc gia và
phù hợp với chuẩn mực quốc tế, thích ứng với xu thế của thời đại.
1.2. Thực trạng đối ngoại của Đảng, Nhà nước trước đổi mới
Trên cơ sở đó xuất phát từ tình hình quốc tế, Đảng ta đã đề ra mục tiêu
của chính sách đối ngoại là: “Trong thời gian tới công tác đối ngoại phải ra sức
tranh thủ những điều kiện quốc tế thuận lợi, tranh thủ sự giúp đỡ quốc tế to lớn
và nhiều mặt cho công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước góp phần bảo đảm
thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ lịch sử do Đại hội lần này đề ra” [2, tr.56]].
Nổi bật trong quan hệ đối ngoại trong giai đoạn này là quan hệ Việt Nam
-Trung Quốc đang chịu ảnh hưởng của cuộc chiến tranh biên giới phía Bắc
4


(17/2/1979). Quan hệ Việt Nam - Liên Xô được coi hịn đá tảng trong chính sách
đối ngoại của Việt Nam. Việt Nam đã coi việc: “Đoàn kết và hợp tác tồn diện
với Liên Xơ ln ln là hịn đá tảng của chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà
nước ta”.

Quan hệ Việt Nam - Lào - Campuchia được đánh giá cao, được coi là:
“Một quy luật phát triển giữa ba nước, là điều có ý nghĩa sống cịn đối với vận
mệnh của ba dân tộc”.
Đối với các nước khác trong cộng đồng xã hội chủ nghĩa được coi trọng
hợp tác và phát triển, nhất là các nước trong Hội đồng tương trợ kinh tế. Chúng
ta ủng hộ cuộc đấu tranh của nhân dân các nước Á, Phi, Mỹ La Tinh, hợp tác với
các nước thành viên trong phong trào các nước không liên kết, quan tâm tới
phong trào các nước không liên kết, quan tâm tới phong trào đấu tranh của nhân
dân các nước tư bản chủ nghĩa với các nước trong ASEAN: “Nhân dân Việt
Nam chủ trương thiết lập những quan hệ láng giềng tốt với các nước ASEAN,
luôn luôn sẵn sàng phối hợp cố gắng để xây dựng Đơng Nam Á thành một khu
vực hịa bình và ổn định”. Nhưng quan hệ đó đang bị Mỹ và Trung Quốc ngáng
trở. Tựu trung lại lúc này Việt Nam muốn: “Thiết lập và mở rộng quan hệ bình
thường về một nhà nước, về kinh tế, văn hóa và khoa học, kỹ thuật với tất cả các
nước không phân biệt chế độ chính trị, xã hội trên cơ sở tơn trọng độc lập, chủ
quyền, bình đẳng và cùng có lợi”.
Trước hết là cuộc khủng hoảng kinh tế xã hội nghiêm trọng, khó khăn.
Hậu quả hơn 30 năm chiến tranh tàn phá nặng nề, 3 năm bị thiên tai bão lụt
nghiêm trọng (từ 1976 đến 1978) do Mỹ tăng cường xiết chặt cấm vận, do
những sai lầm nghiêm trọng kéo dài trên 10 năm về lãnh đạo kinh tế của Đảng
và Nhà nước (chủ quan, nóng vội duy ý chí, giản đơn, cơ chế tập trung quan liêu
bao cấp), do cuộc chiến tranh biên giới phía Nam của Pơnpốt và chiến tranh biên
giới phía Bắc của Trung Quốc chống Việt Nam và do Việt Nam sử dụng quyền
tự vệ đánh trả Pônpốt, đóng quân ở campuchia trong 10 năm.
Trên thế giới xu thế đối đầu chuyển dần sang xu thế đối thoại với việc
Liên Xô và Mỹ chuyển từ chạy đua vũ trang sang chạy đua về kinh tế. Các nước
5


Đơng Nam Á từng bước đi vào xu hướng hịa bình, độc lập và trung lập. Các

nước trên thế giới ra sức cải tổ nền kinh tế để đưa cuộc cách mạng công nghiệp
mới làm động lực cho việc phát triển kinh tế. Châu Á -Thái Bình Dương đang
trở thành khu vực phát triển kinh tế năng động nhất thế giới.
Ngoại giao Việt Nam đặc biệt là trong thời kỳ đổi mới từng phần (1979 1986) đã đạt được một số thành tựu sau:
Đã tiếp tục kế thừa bài học truyền thống của ngoại giao Đại Việt như kiên
quyết giữ vững độc lập trong mọi tình huống, đặt lợi ích dân tộc lên trên hết; giữ
vững nguyên tắc nhưng có sách lược thích hợp; kết hợp quân sự với ngoại
giao… được nâng lên tầm cao mới phong cách ngoại giao Hồ Chí Minh. Là một
bộ phận quan trọng trong trường phái ngoại giao Việt Nam hiện đại, ngoại giao
Hồ Chí Minh tiếp tục thực hiện giữ vững độc lập chủ quyền trong mọi tình
huống thấm nhuần tinh thần độc lập tự chủ; gắn dân tộc với quốc tế, kết hợp sức
mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, tạo thành sức mạnh tổng hợp để có thể lấy
yếu thắng mạnh, lấy ít thắng nhiều, lấy nhỏ thắng lớn phát huy truyền thống hịa
hiếu của dân tộc, ln nắm vững và giương cao ngọn cờ hịa bình, thực hiện
chính sách đối ngoại, hịa bình, hữu nghị, quan hệ tốt đẹp với các nước trong
cộng đồng quốc tế “khơng thù ốn với ai” đặt Việt Nam trong tồn cục thế giới".
“Biết mình biết người”, kiên trì nguyên tắc chiến lược với vận dụng linh hoạt
sách lược “dĩ bất biến, ứng vạn biến” [3, tr.278].
Tuy nhiên, ngoại giao cịn có hạn chế là chưa gắn chặt chẽ ngoại giao về
chính trị với ngoại giao về kinh tế, phát triển kinh tế đối ngoại. Việt Nam lúc này
chưa thay đổi tư duy, chưa nắm bắt được kịp thời các biến động trong cục diện
quốc tế, thiếu sót trong việc nghiên cứu và dự báo chiến lược.
Tư duy chiến tranh lạnh vẫn bao trùm trong chính sách đối ngoại nên ta
đã để mất thời cơ, từ thuận lợi chuyển sang khó khăn, bị bao vây, cơ lập về
chính trị, cấm vận về kinh tế chúng ta cịn ít bạn bè. Một số nước xa lánh ta. Đây
là thời kỳ mà ngoại giao phải lo chống đỡ, góp phần phá thế cơ lập và bao vây.
Mặt khác, việc xử lý quan hệ với các nước lớn lúc này vẫn theo quan
niệm cũ. Quan hệ ngả hẳn về Liên Xơ, căng thẳng với Trung Quốc. Trước tình
6



hình như vậy, chính sách đối ngoại với Trung Quốc được khẳng định: Đặc biệt
công tác đối ngoại phải trở thành một mặt trận chủ động, tích cực trong cuộc đấu
tranh nhằm làm thất bại chính sách của bọn bành trướng và bá quyền nước lớn
Trung Quốc câu kết với thế lực hiếu chiến Mỹ, mưu toan làm suy yếu và thơn
tính nước ta.
Những thành tựu đạt được trong việc thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược,
sự tăng cường quan hệ đoàn kết và hợp tác toàn diện với Liên Xô, Lào,
Campuchia với các nước anh em khác trong cộng đồng các nước xã hội chủ
nghĩa, việc phát triển quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước độc lập dân tộc,
các lực lượng tiến bộ và hồ bình đã tạo cho sự nghiệp cách mạng nước ta
những nhân tố mới để tiếp tục tiến lên.
Đó là những thành tựu và hạn chế về đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta
trước khi bước vào thời kỳ đổi mới toàn diện đất nước từ Đại hội đại biểu toàn
quốc Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ VI (15/12/1986) với sự chuyển đổi chính
sách đối ngoại theo đường lối đổi mới. Mở rộng quan hệ đối ngoại và chủ động
hội nhập quốc tế là địi hỏi khách quan của tình hình thế giới và trong nước.
1.3. Sự cần thiết và quá trình hội nhập quốc tế của nước ta trong giai
đoạn cách mạng hiện nay
Hội nhập kinh tế quốc tế là một quá trình lâu dài và bao quát tổng thể mọi
lĩnh vực trên phạm vi toàn cầu, với sự tham gia của hầu hết các quốc gia trên thế
giới, từ các nước công nghiệp phát triển, đến các nước đang phát triển. Để thích
ứng với q trình này, các nước cần có đường lối chiến lược cùng hệ thống giải
pháp đông bộ, phù hợp với đặc điểm kinh tế - xã hội nhằm chủ động nắm bắt,
đón nhận các xu hướng mới, tuân thủ nội dung cam kết của hệ thống quốc tế về
hội nhập kinh tế thế giới. Trong bối cảnh tồn cầu hố, mà đặc biệt là tồn cầu
hố kinh tế thế giới hiện nay, việc nước ta tham gia hội nhập kinh tế thế giới và
khu vực là một vấn đề mang tính cần thiết.
Tồn cầu hoá kinh tế đang là một xu thế khách quan, bắt nguồn từ sự phát
triển của lực lượng sản xuất mang tính chất xã hội hố ngày càng cao, dưới tác

động của khoa học và công nghệ hiện đại. Mặc dù q trình tồn cầu hố kinh tế
7


đang bị một số nước phát triển và các tập đoàn kinh tế tư bản xuyên quốc gia chi
phối, nên có nhiều mặt hạn chế, tiêu cực như: đe doạ độc lập chủ quyền của các
quốc gia dân tộc đang phát triển; gây sức ép buộc các nước phải lệ thuộc vào
chủ nghĩa tư bản ...song nó cũng có những tác động tích cực lơi cuốn tất cả các
nước trên thế giới vào vịng xốy của nó. Những tác động tích cực đó là: tạo
điều kiện thuận lợi cho các nước đang phát triển mở rộng kinh doanh, khai thác
các nguồn lực về vốn đầu tư, kinh nghiệm quản lý, công nghệ, thị trường, của
thế giới để phát triển sản xuất trong nước, cải thiện cơ cấu kinh tế và nâng cao
đồi sống của nhân dân. Tham gia vào các quan hệ kinh tế toàn cầu, các nước
đang phát triển có điều kiện thực hiện sự đan cài lợi ích, tạo nên thế và lực mới
trong bảo vệ nền kinh tế độc lập tự chủ của mình; đồng thời mỗi nước cịn tạo
được cho mình một vị trí xứng đáng để tránh phân biệt đối xử, và có thể sử dụng
cơ chế giải quyết tranh chấp quốc tế để bảo vệ lợi ích của mình, vừa tăng thêm
độ tinh cậy cho các đối tác. vì thế mà hầu hết các nước trên thế giới đều đã và
đang tham gia hội nhập kinh tế thế giới. Nước ta cũng không nằm ngoại lệ, do
vậy tham gia hội nhập kinh tế thế giới và khu vực ở nước ta hiện nay là một vấn
đề tất yếu khách quan, nếu khơng muốn mình bị cô lập về kinh tế.
Mặt khác hội nhập kinh tế quốc tế và xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ
không mâu thuẫn với nhau, mà ngược lại nó cịn hổ trợ cho nhau. Nếu đóng cửa,
từ chối hội nhập kinh tế quốc tế thì sớm hay muộn sẽ đưa đất nước đi đến chổ
tụt hậu xa hơn so với các nước trên thế giới, và kết cục sẽ rơi vào trạng thái phụ
thuộc, dẫn tới những bất ổn về chính trị - xã hội. Vì vậy xây dựng nền kinh tế
độc lập tự chủ hiện nay phải trên cơ sở tư duy mới, mà trước hết là độc lập tự
chủ về việc lựa chọn mơ hình phát triển kinh tế, cùng đường lối phát triển kinh
tế - xã hội, tạo lập cho đất nước có một tiềm lực kinh tế, cơ sở vật chất kỷ thuật,
khoa học, công nghệ đủ mạnh; xây dựng cơ cấu kinh tế hợp lý, có hiệu quả, có

sức cạnh tranh cao, có mức tích luỹ khá từ nội bộ nền kinh tế, đảm bảo cho nền
kinh tế phát triển đúng hướng, mang tính vững chắc. Thực hiện tốt điều đó địi
hỏi nước ta phải chủ động hội nhập kinh tế thế giới và khu vực.
8


Trong điều kiện nước ta quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư
bản chủ nghĩa, từ một nước thuộc địa nữa phong kiến, nền sản xuất nhỏ là chủ
yếu, lại trải qua nhiều năm chiến tranh bị tàn phá nặng nề, nền kinh tế còn nhỏ
lẽ, sức cạnh tranh thấp. Thực hiện chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của
Đảng là: phấn đấu nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng
hiện đại. Để thực hiện được mục tiêu chiến lược đó, đi đơi với chính sách phát
triển kinh tế - xã hội trong nước, chúng ta phải chú trọng đến quan hệ giữa nước
ta với các nước trên thế giới và khu vực. Thơng qua đó giải quyết hợp lý mối
quan hệ hợp tác và phát triển giữa các nước, các lực lượng để giữ ưu thế có lợi
cho phát triển kinh tế đất nước. Dưới tác động của tồn cầu hố kinh tế, các
nước ngày càng quan hệ chặt chẽ với nhau, và khơng một nước nào có thể tồn
tại, phát triển một cách biệt lập được.
Hạn chế lớn nhất của nước ta từ thời bao cấp đến nay là sự hoạch định
phát triển kinh tế của ta không đặt trong khuôn khổ chung của nền kinh tế thế
giới, do đó về mặt này chúng ta chưa phát huy được sức mạnh của dân tộc với
sức mạnh của thời đại, không phát huy được ưu thế của ta trên trường quốc tế
dẫn đến nhiều mặt hàng của chúng ta cịn nhiều hạn chế, sứ cạnh tranh thấp,
khơng cịn phù hợp với sự phát triển năng động của tình hình kinh tế thế giới.
Chỉ có thơng qua giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa xây dựng nền kinh tế
độc lập tự chủ với chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, chúng ta mới thấy hết
được những điểm mạnh, điểm yếu của nền kinh tế, và tìm ra cho mình một sự
phân cơng lao động quốc tế phù hợp, để đẩy mạnh sự nghiệp cơng nghiệp hố,
hiện đại hố đất nước. Vì vậy để hồn thành tốt sự nghiệp đổi mới đất nước do
Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo, một vấn đề mang tính cấp thiết, khách quan là

phải chủ động tham gia hội nhập kinh tế thế giới và khu vực.
Quá trình hội nhập kinh tế thế giới giúp chúng ta tiếp thu được khoa học cơng nghệ, kỹ năng quản lý, góp phần đào tạo đội ngũ cán bộ quản lý và kinh
doanh. Từng bước đưa hoạt động của các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần
kinh tế và cả nền kinh tế vào môi trường cạnh tranh, tạo ra tư duy làm ăn mới,
thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế và cơ cấu lao động, nâng cao hiệu quả sản
9


xuất kinh doanh. Kết hợp tốt nội lực với ngoại lực, hình thành sức mạnh tổng hợp
tạo nên những thành tựu to lớn, giữ vững được độc lập tự chủ, an ninh quốc gia,
thực hiện tốt định hướng xã hội chủ nghĩa và giữ vững bản sắc văn hoá dân tộc.
Tuy nhiên quá trình tham gia hội nhập kinh tế thế giới và khu vực chúng
ta còn nhiều mặt yếu kém, bất cập cần phải khắc phục đó là: Chưa làm tốt công
tác chuẩn bị cho hội nhập, tuy chủ trương đã được khẳng định trong nhiều Nghị
quyết và đã được thực hiện từng bước, nhưng nhận thức hội nhập chưa đạt được
sự nhất trí cao, điều đó làm ảnh hưởng đến q trình đề xuất chính sách và triển
khai thực hiện. Cơng tác nghiên cứu triển khai cịn chậm, chủ yếu tập trung ở
cấp Trung Ương, còn các cấp các ngành tuy có đặt ra nhưng cịn yếu và không
đồng bộ, làm hạn chế sức mạnh của chúng ta trong q trình hội nhập. Luật
pháp, chính sách quản ký kinh tế, thương mại cịn chưa hồn chỉnh. Các doanh
nghiệp Việt Nam còn yếu cả về sản xuất, quản lý và khả năng cạnh tranh, quy
mô sản xuất nhỏ, yếu cả về công nghệ và quản lý; chưa bỏ được thói quen bao
cấp. Nhà nước chưa có cơ chế hiệu lực nhằm kích thích các doanh nghiệp, gắn
sự tồn tại và phát triển của mình với khả năng cạnh tranh trên thương trường
quốc tế. Đội ngũ cán bộ còn yếu, cơng tác tổ chức chỉ đạo chưa thích hợp, đặc
biệt là đội ngũ cán bộ làm công tác hợp tác quốc tế [1, tr.78].
II. ĐƯỜNG LỐI ĐỐI NGOẠI VÀ HỘI NHẬP QUỐC TẾ CỦA
ĐẢNG VÀ NHÀ NƯỚC TA HIỆN NAY
2.1. Đặc điểm tình hình tác động tới đường lối đối ngoại và hội nhập
quốc tế của Đảng ta

* Đặc điểm tình hình thế giới
Trong những năm qua tình hình thế giới tiếp tục diễn biến nhanh chóng,
phức tạp và chứa đựng những yếu tố khó lường: Trước tiên phải kể đến đó là
Chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu sụp đổ khiến cho chủ nghĩa xã
hội thế giới tạm thời lâm vào thoái trào, song điều đó khơng làm thay đổi tính
chất của thời đại, loài người vẫn đang trong thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản
lên chủ nghĩa xã hội.
10


Hai là, nguy có chiến tranh thế giới hủy diệt bị đẩy lùi, nhưng xung đột vũ
trang, chiến tranh cục bộ, xung đột về dân tộc, sắc tộc và tôn giáo, chạy đua vũ
trang, hoạt động can thiệp lật đổ, khủng bố vẫn xảy ra ở nhiều nơi.
Ba là, cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật và công nghệ tiếp tục phát triển
với trình độ ngày càng cao, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế thế giới, tạo ra
xu thế quốc tế hóa nền kinh tế tồn cầu. Nó vừa tạo ra những thời cơ nhưng
cũng vừa tạo ra những thách thức đối với các nước chậm phát triển. Thời cơ do
sự phát triển của cách mạng khoa học và cơng nghệ tạo ra là nó đã tác động đến
nền tảng kinh tế của tất cả các quốc gia, tạo ra xu thế đổi mới, cải cách cả về
kinh tế và chính trị xã hội. Nó đã tạo ra những điều kiện để phân loại phát triển
mạnh mẽ lực lượng sản xuất mà các nước nghèo và chậm phát triển có thể tranh
thủ ngay những thành tựu và điều kiện đó để phát triển đất nước. Thách thức do
cuộc cách mạng khoa học và công nghệ tạo ra là vì những thành tựu của nó một
phần đã bị con người sử dụng vào mục đích chiến tranh để sản xuất ra những
loại vũ khí giết người hàng loạt có thể hủy diệt nền văn minh nhân loại. Mặt
khác nó cũng còn tạo ra những thách thức về khoảng cách giàu nghèo và về vận
tốc phát triển đối với các nước nghèo và chậm phát triển về kinh tế.
Bốn là, cộng đồng thế giới đang đứng trước nhiều vấn đề có tính chất tồn
cầu (bảo vệ mơi trường; hạn chế sự bùng nổ dân số; phòng ngừa và đẩy lùi
những bệnh tật hiểm nghèo…) không một quốc gia riêng lẻ nào có thể tự giải

quyết được, mà cầm có sự hợp tác đa phương. Năm là, khu vực Châu Á Thái
Bình Dương, phát triển năng động và tiếp tục phát triển với tốc độ cao. Đồng
thời cũng tiềm ẩn một số nhân tố có thể gây mất ổn định [4, tr.45].
* Đặc điểm tình hình trong nước
Ở trong nước, sau năm 1975, đất nước thống nhất cả nước đi vào xây
dựng chủ nghĩa xã hội, bên cạnh những thành tựu đạt được thì chúng ta cũng
đứng trước nhiều khó khăn, thách thức mới. Đặc biệt là tư tưởng chủ quan, say
sưa với thắng lợi, nơn nóng nuốn tiến nhanh lên chủ nghĩa xã hội trong một thời
gian ngắn đã dẫn đến bố trí sai cơ cấu kinh tế, cộng với những khuyết điểm của
mơ hình kinh tế tập trung quan liêu bao cấp ngày càng bộc lộ rõ làm cho tình
11


hình kinh tế - xã hội rơi vào trì trệ, khủng hoảng, cùng với hậu quả của hai cuộc
chiến tranh biên giới, rồi chính sách bao vây cấm vận đã đẩy Việt Nam vào tình
thế vơ cùng khó khăn. Tất cả những điều đó đặt ra cho chúng ta một yêu cầu
phải đổi mới, chính thức đường lối đổi mới ở Việt Nam bắt đầu từ Đại
hội VI (12/1986). Đây là một bước đột phá có tính chất cách mạng
xoay chuyển hẳn tình hình tạo ra bước ngoặt mới trên con đường
phát triển của cách mạng nước ta, trong đó vấn đề đối ngoại là một
trong những vấn đề quan trọng được Đảng ta thực hiện trong tiến
trình đổi mới đất nước.
Đảng ta đã nhận định những xu thế trong quan hệ quốc tế trong giai đoạn
hiện nay là: Hòa bình ổn định và hợp tác để phát triển là xu thế chủ đạo trong
quan hệ quốc tế hiện nay. Vì hịa bình, ổn định và hợp tác để phát triển ngày
càng trở thành đòi hỏi bức xúc của các dân tộc và các quốc gia trên thế giới;
Các quốc gia lớn, nhỏ tham gia ngày càng nhiều vào quá trình hợp tác liên kết
khu vực và quốc tế. Hợp tác, liên kết ngày càng tăng nhưng cạnh tranh cũng rất
gay gắt; Các dân tộc nâng cao ý thức độc lập tự chủ, tự lực tự cường, đấu tranh
chống lại sự áp đặt và can thiệp của nước ngoài, bảo vệ độc lập chủ quyền và

nền văn hóa dân tộc; Các nước xã hội chủ nghĩa, các Đảng cộng sản và công
nhân, các lực lượng cách mạng tiến bộ trên thế giới vẫn kiên trì đấu tranh vì hịa
bình, độc lập dân tộc, dân chủ và toàn bộ xã hội; Các nước có chế độ chính trị xã
hội khác nhau, vừa hợp tác, vừa đấu tranh trong cùng tồn tại hịa bình. Đây là xu
thế rất mới, thể hiện rõ tính chất gay go, phức tạp của cuộc đấu tranh giai cấp
không phân tuyến trong giai đoạn hiện nay.
Các đại diện tình hình thế giới và những xu thế trong quan hệ quốc tế nêu
trên đã tác động đến việc hình thành đường lối, chính sách đối nội và đối ngoại
của mỗi nước và làm nảy sinh tính đa phương, đa dạng trong quan hệ quốc tế
hiện nay. Trong bối cảnh thế giới và trong nước hết sức khó khăn và phức tạp.
Song với tinh thần luôn độc lập, tự chủ, sáng tạo Đảng ta đã thể hiện rõ bản lĩnh
và trí tuệ của mình trong việc hoạch định chủ trương và chính sách đối ngoại
sánh vai với các cường quốc trên thế giới.
12


2.2. Đường lối đối ngoại và hội nhập quốc tế của Đảng và Nhà nước ta
hiện nay
Đường lối đối ngoại và hội nhập quốc tế của Đảng và Nhà nước ta hiện nay
là một quá trình, bắt đầu từ khi Đảng ta ra đời đến nay nhưng rõ nhất là bắt đầu
từ Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VI (12/1986) của Đảng.
Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng. Về hoàn cảnh quốc tế,
đến thời điểm của đại hội VI của Đảng có một đặc điểm nổi bật đó là chủ nghĩa
xã hội hiện thực thế giới đã bộc lộ sự trì trệ cả về kinh tế và chính trị xã hội. Về
tình hình trong nước, ngồi những khó khăn chung của như các nước khác, nước
ta cịn ba khó khăn lớn chưa được giải quyết đó là: Vấn đề Campuchia; vấn đề
Mỹ cấm vận và vấn đề quan hệ với Trung Quốc. Trong hoàn cảnh như vậy đại
hội VI của Đảng đã xác định các chủ trương lớn trong quan hệ quốc tế đó là: chủ
trương thêm bạn bớt thù; tiến tới bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc và
tiến tới bình thường hóa quan hệ với Mỹ. Có thể nói đại hội VI, ngồi việc khởi

xướng cơng cuộc đổi mới đất nước còn là đại hội chuyển hướng và mở cửa cho
quan hệ ngoại giao của Việt Nam.
Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng. Đến thời điểm đại hội
VII của Đảng, chủ nghĩa xã hội ở Đông Âu đã tan rã, cịn chủ nghĩa xã hội ở
Liên Xơ sau 6 năm cải tổ đã gặp rất nhiều khó khăn cả về kinh tế và chính trị xã
hội. Về tình hình trong nước, sau 6 năm (1986-1991) đổi mới chúng ta vẫn giữ
được sự ổn định vững chắc về chính trị xã hội và đạt được những kết quả bước
đầu đáng kể và rất quan trọng về mặt kinh tế của đất nước.
Đại hội VII của Đảng đã nêu rõ đường lối đối ngoại đổi mới của việt nam
là độc lập, tự chủ, đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ quốc tế đối ngoại và
tuyên bố: “Việt Nam sẵn sàng là bạn với tất cả các nước trong cộng đồng quốc
tế, phấn đấu và hịa bình, độc lập và phát triển. Đại hội VII cũng chỉ rõ nhiệm vụ
của cơng tác đối ngoại là: “Giữ vững hịa bình, mở rộng quan hệ hữu nghị và
hợp tác tạo điều kiện quốc tế thuận lợi cho công cuộc xây dựng và bảo vệ tổ
quốc. Góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì hịa
bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.
13


Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng. Về thành tựu của
công tác đối ngoại: Đại hội VIII đánh giá kết quả của công tác đối ngoại sau 10
năm đổi mới và sau 5 năm thực hiện Nghị quyết đại hội Đảng lần thứ VII là
“phát triển mạnh mẽ quan hệ đối ngoại, phá thế bao vây cấm vận, tham gia tích
cực vào đời sống cộng đồng quốc tế”. Chúng ta đã từng bước thực hiện bình
thường hóa quan hệ với Trung Quốc; Đẩy lùi âm mưu bao vây cấm vận và bình
thường hóa quan hệ với Mỹ; đã khai thông quan hệ với Đông Nam Á, với Tây
Âu và Bắc Âu; tiếp tục duy trì quan hệ với các nước Đông Âu; xác lập quan hệ
với các nước cộng hịa thuộc Liên Xơ cũ và mở rộng quan hệ với nhiều nước
trên thế giới. Thành tựu của công tác đối ngoại đã tạo điều kiện cho bước
chuyển đầu tiên rất quan trọng và những điều kiện thuận lợi cho sự phát triển

tiếp theo của đất nước.
Về đường lối chính sách đối ngoại hiện nay: Trên cơ sở những thành tựu
của công cuộc đổi mới và những thắng lợi của công tác đối ngoại Đại hội VIII
của Đảng đã nêu rõ một số nội dung của đường lối chính sách đối ngoại trong
giai đoạn hiện nay.
Về mục tiêu của công tác đối ngoại năm 2000 và đến năm 2020 Đại hội
Đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng xác định là: Mở rộng quan hệ đối
ngoại, chủ động tham gia tổ chức quốc tế và khu vực, củng cố và nâng cao vị thế
của nước ta trên trường quốc tế.
Nhiệm vụ của công tác đối ngoại trong thời gian tới là: “củng cố mơi trường
hịa bình và tạo điều kiện quốc tế thuận lợi hơn nữa để đẩy mạnh phát triển kinh tế xã hội, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, phục vụ cho sự nghiệp xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc. Góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế giới
vì hịa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội” [5, tr.256].
Về phương hướng của công tác đối ngoại: “tiếp tục thực hiện động lực đối
ngoại độc lập tự chủ, mở rộng, đa phương hóa và đa dạng hóa các quan hệ đối
ngoại với tinh thần Việt Nam muốn là bạn của tất cả các nước trong cộng đồng
thế giới, phấn đấu vì hịa bình, độc lập và phát triển”.
14


Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng. Đại hội Đại biểu toàn
quốc lần thứ IX của Đảng đề ra đường lối của công tác đối ngoại là: “Thực hiện
nhất quán đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, rộng mở, đa phương hóa, đa dạng
hóa các quan hệ quốc tế. Việt Nam sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy của các
nước trong cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì hịa bình độc lập và phát triển.
Về nhiệm vụ đối ngoại Đại hội IX xác định là tiếp tục giữ vững mơi trường
hịa bình và tạo các điều kiện quốc tế thuận lợi để đẩy mạnh phát triển kinh tế ax hội, cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc bảo
đảm độc lập và chủ quyền quốc gia, đồng thời góp phần tích cực vào cuộc đấu
tranh chung của nhân dân thế giới vì hịa bình độc lập dân tộc dân chủ và tiến bộ
xã hội. Mở rộng quan hệ nhiều mặt, song phương và đa phương với các nước và

vùng lãnh thổ, các trung tâm kinh tế - chính trị quốc tế lớn, các tổ chức quốc tế
và khu vực theo nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền và tồn vẹn lãnh thỗ,
khơng can thiệp vào nội bộ của nhau, không dùng vũ lực hoặc đe dọa dùng vũ
lực; bình đẳng và cùng có lợi, giải quyết các bất đồng và tranh chấp bằng thương
lượng hòa bình; làm thất bại mọi âm mưu và hành động gây sức ép, áp đặt và
cường quyền. Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực…”.
Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng. Đại hội Đại biểu toàn
quốc lần thứ X (4/2006) tiếp tục thực hiện quan điểm Đại hội IX đồng thời đề ra
chủ trương: Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế trong việc quyết định đường lối
chính sách lường trước những khó khăn, thử thách cũng như tận dụng thuận lợi;
tích cực hội nhập kinh tế quốc tế là khẩn trương chuẩn bị điều chỉnh đổi mới bên
trong sao cho phù hợp với nhiệm vụ và tình hình mới.
Đại hội XII tiếp tục khẳng định quan điểm: “Thực hiện nhất quán đường lối
đối ngoại độc lập, tự chủ, hịa bình, hợp tác và phát triển; đa phương hóa, đa dạng
hóa quan hệ, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế; nâng cao vị thế của đất nước;
vì lợi ích quốc gia, dân tộc, vì một nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa giàu mạnh; là
bạn, đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế, góp phần
vào sự nghiệp hịa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới”
Phương châm: chủ động và tích cực hội nhập quốc tế thể hiện sự toàn diện
15


theo tinh thần phát huy tối đa nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, bảo
đảm độc lập, tự chủ và định hướng xã hội chủ nghãi, bảo vệ lợi ích dân tộc, an
ninh quốc gia, giữ gìn bản sắc văn hố dân tộc, bảo vệ mơi trường... Đó là q
trình vừa hợp tác, vừa đấu tranh và cạnh tranh, vừa có nhiều cơ hội vừa khơng
ít thách thức, do đó phải kiên định về nguyên tắc, mềm dẻo về sách lược, vận
dụng sáng tạo phương lược ngoại giao Hồ Chí Minh “thêm bạn bớt thù”, “dĩ
bất biến, ứng vạn biến” trên cơ sở quan hệ đôi bên cùng có lợi, cùng phát triển.
Việt Nam trong quan hệ quốc tế cũng là một chủ thể bình đẳng, cũng có

vai trị, lợi ích nhất định trong cộng đồng các quốc gia dân tộc trên thế giới và
khu vực và nhất là Việt nam lại là thành viên của Hiệp hội các Quốc gia Đơng
Nam Á (ASEAN). Thực hiện chính sách đối ngoại rộng mở, đa phương hóa, đa
dạng hóa các quan hệ quốc tế, Việt nam đã đạt được nhiều thành tựu trong hoạt
động đối ngoại (biểu hiện rõ nhất là những thành tựu trong tiến trình hội nhập
kinh tế quốc tế) nhờ đó vai trị của Việt Nam được nâng cao trên trường quốc tế
và khu vực [7, tr.193].
Về quan hệ hợp tác song phương, đã thiết lập quan hệ ngoại giao với hơn
170 quốc gia trên thế giới, mở rộng quan hệ thương mại, xuất khẩu hàng hoá tới
trên 230 thị trường của các nước và vùng lãnh thổ, ký kết trên 90 Hiệp định
thương mại song phương, gần 60 Hiệp định khuyến khích và bảo hộ đầu tư, 54
Hiệp định chống đánh thuế hai lần và nhiều Hiệp định hợp tác về văn hoá song
phương với các nước, các tổ chức quốc tế.
Việt Nam đã thiết lập quan hệ tốt với tất cả các nước lớn, trong đó có 5
nước thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc (P5), các nước trong nhóm
G8; nâng quan hệ đối tác chiến lược với Trung Quốc trở thành đối tác chiến lược
toàn diện, gia tăng nội hàm của quan hệ đối tác chiến lược với Nga, thiết lập
quan hệ đối tác chiến lược với Nhật Bản, Ấn Độ, Hàn Quốc, Anh, Tây Ban Nha.
Số lượng các cơ quan đại diện của ta ở nước ngoài cũng tăng lên (91 cơ quan)
với 65 đại sứ quán, 20 tổng lãnh sự quán, 4 phái đoàn thường trực bên cạnh các
tổ chức quốc tế, 1 văn phịng kinh tế văn hóa.
16


Đặc biệt, tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam đã có một bước
đi quan trọng khi Việt Nam chính thức trở thành thành viên của Tổ chức thương
mại thế giới (WTO) vào ngày 11 tháng 01 năm 2007 sau 11 năm đàm phán gia
nhập Tổ chức này.
Tăng cường củng cố và phát triển tình hữu nghị truyền thống, tình đồn
kết đặc biệt với Cộng hồ dân chủ nhân dân Lào, phù hợp với lợi ích nhân dân

hai nước và những biến đổi mới trong khu vực và thế giới, trên cơ sở tôn trọng
độc lập chủ quyền của nhau, bình đẳng cùng có lợi.
Xây dựng quan hệ láng giềng hữu nghị với Vương quốc Căm-pu-chia.
Việt Nam mong muốn Căm-pu-chia là một nước hồ bình, ổn định, độc lập, tập
trung, không liên kết và ngày càng phát triển thịnh vượng, có quan hệ hữu nghị
với tất cả các nước nhất là với các nước láng giềng. Việt Nam tích cực ủng hộ
Căm-pu-chia mở rộng quan hệ hợp tác về nhiều mặt với ASEAN và các nước
khác trên thế giới. Việt Nam chủ trương xây dựng quan hệ với Căm-pu-chia trên
cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền, thống nhất và tồn vẹn lãnh thổ; khơng can
thiệp vào cơng việc nội bộ của nhau; hợp tác bình đẳng, hai bên cùng có lợi và
cùng tồn tại hồ bình; giải quyết các vấn đề liên quan tới quan hệ hai nước thông
qua thương lượng.
Đảng, Nhà nước và nhân dân Việt Nam đánh giá cao và cảm ơn sự giúp
đỡ to lớn của Đảng, Chính phủ và nhân dân Trung Quốc anh em đối với Việt
Nam trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc và xây dựng đất nước. Việt Nam
coi việc mở rộng quan hệ hữu nghị truyền thống và hợp tác toàn diện với Trung
Quốc là vấn đề chiến lược phù hợp với nguyện vọng và lợi ích của nhân dân hai
nước, phù hợp với xu thế hoà bình và ổn định ở khu vực và thế giới. Nhân dân ta
ủng hộ quan điểm “một nước Trung Quốc” coi trọng tăng cường quan hệ trao
đổi kinh nghiệm trong quá trình cải cách, mở cửa và đổi mới của hai nước, chủ
trương đẩy mạnh quan hệ hợp tác chiến lược giữa hai nước cả về bề rộng và
chiều sâu. Chúng ta ghi nhận và đánh giá cao việc hai nhà nước đã ký kết “Hiệp
ước biên giới trên đất liền”ngày 30/12/1999; hoàn thành việc cắm mốc phân
định biên giới trên bộ năm 2009; tiếp tục xúc tiến đàm phán tiến tới ký kết
17


“Hiệp định về phân định Vịnh Bắc Bộ” và đàm phán giải quyết những vấn đề
liên quan đến hai nước trên cơ sở tộn trọng độc lập, chủ quyền, thống nhất, tồn
vẹn lãnh thổ, bình đẳng, cùng có lợi...

Trong quan hệ với Trung Quốc, Đảng, Chính phủ và nhân dân Việt Nam
thực hiện khuôn khổ quan hệ Việt- Trung tiến tới thế kỷ XXI với tinh thần “Láng
giềng thân thiện, hợp tác toàn diện, ổn định lâu dài, hướng tới tương lai” đã được
lãnh đạo hai nước xác định trong chuyến thăm hữu nghị chính thức Trung Quốc
của Tổng bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam Lê Khả Phiêu tháng 2/1999.
Trong quan hệ với các nước Đông Nam Á và ASEAN, Đảng Nhà nước ta
chủ trương tiếp tục đẩy mạnh và nâng lên tầm cao mới quan hệ hợp tác đa phương
và song phương với ASEAN và mỗi nước thành viên. Đẩy mạnh quá trình tham
gia đầy đủ vào ASEAN, tham gia AFTA theo đúng lộ trình cùng với việc bảo đảm
sự phát triển thuận lợi nền kinh tế đất nước, Việt Nam mong muốn và cố gắng
cùng các nước ASEAN xây dựng Đơng Nam Á là khu vực hồ bình, ổn định, hợp
tác và phát triển, nâng cao vị thế chính trị, kinh tế... của ASEAN trong khu vực
Châu á- Thái Bình Dương, trong các quan hệ với các đối tác khác trên thế giới và
diễn đàn quốc tế, hướng tới hình thành cộng đồng ASEAN vào năm 2015. Trong
quan hệ với các nước thành viên và hiệp hội, Việt Nam tuân thủ các nguyên tắc
quan hệ cùng tồn tại hồ bình và ngun tắc điều phối quan hệ của ASEAN; thực
hiện đầy đủ nghĩa vụ và quyền lợi của một nước thành viên.
Từ khi trở thành thành viên của diễn đàn kinh tế Châu á - Thái Bình
Dương (APEC) tháng 11/1998, nước ta có điều kiện mở rộng quan hệ với các
nước thành viên APEC. Trong những năm tới, Việt Nam tiếp tục coi trọng phát
triển quan hệ với các nước Châu Á- Thái Bình Dương, tranh thủ những tiến bộ
khoa học công nghệ mở rộng khuôn khổ hợp tác theo chương trình của APEC
nhất là quan hệ kinh tế, thương mại, đầu tư, chuyển giao công nghệ... trên cơ sở
giữ vững độc lập, tự chủ, các bên đều có lợi chống can thiệp và áp đặt.
Đảng, Nhà nước và nhân dân ta tăng cường tình đồn kết chiến đấu, sự
hợp tác toàn diện với nhân dân Cu Ba anh em. Kiên quyết lên án âm mưu và
hành động thù địch của đế quốc Mỹ đối với Cu Ba, địi Mỹ phải xố bỏ cấm vận
chống Cu Ba, tôn trọng độc lập chủ quyền, quyền dân tộc tự quyết của nhân dân
18



Cu Ba; tích cực phối hợp hoạt động với Cộng hoà Cu Ba trong các diễn đàn
quốc tế, trong phong trào không liên kết và các nước đang phát triển.
Thúc đẩy hơn nữa quan hệ với Cộng hoà dân chủ nhân dân Triều Tiên,
ủng hộ sự nghiệp xây dựng đất nước, củng cố độc lập tự chủ, đấu tranh bảo vệ
hồ bình và thống nhất đất nước của nhân dân Triều Tiên anh em. Tiếp tục mở
rộng và nâng cao hiệu quả hợp tác nhiều mặt với Cộng hoà ấn Độ và các nước
bạn bè trên thế giới.
Đảng và Nhà nước ta quan tâm khôi phục và đẩy mạnh quan hệ hữu nghị
hợp tác nhiều mặt với Liên bang Nga và SNG, các nước Đông Âu, coi đây là
những đối tác quan trọng, thị trường rộng lớn và nhiều tiềm năng, có điều kiện
và khả năng mở rộng hợp tác và trao đổi trong thời gian tới, thúc đẩy nền kinh tế
đất nước phát triển thuận lợi.
Đảng và Nhà nước ta coi trọng mở rộng quan hệ với các nước phát triển,
các trung tâm kinh tế- chính trị thế giới. Mở rộng và tăng cường hợp tác trên
các lĩnh vực kinh tế, thương mại và các lĩnh vực khác, thực hiện Hiệp ước
thương mại với Hoa Kỳ trên cơ sở bảo đảm lợi ích dân tộc, có tính khả thi,
bình đẳng và hai bên cùng có lợi. Tiếp tục hợp tác giải quyết các vấn đề hậu
quả chiến tranh với tinh thần nhân đạo và hiểu biết lẫn nhau.
Trong quan hệ với Hoa Kỳ, chúng ta đòi nhà cầm quyền Hoa Kỳ phải tơn
trọng độc lập, chủ quyền, tồn vẹn lãnh thổ, tơn trọng lợi ích, khơng can thiệp
vào cơng việc nội bộ, bình đẳng cùng có lợi. Kiên quyết chống lại âm mưu, hành
động của các thế lực thù địch lợi dụng hợp tác để thực hiện diễn biến hồ bình,
chống phá sự nghiệp cách mạng của nhân dân Việt Nam.
Việt Nam coi trọng quan hệ với EU, các nước phát triển ở Châu Âu vì đây
là những nước có tiềm lực kinh tế lớn, trình độ khoa học - công nghệ cao, thị
trường rộng lớn, nhiều khả năng tranh thủ. Nhiều nước Châu Âu từ lâu đã có
quan hệ thân thiện với Việt Nam. Những năm qua mối quan hệ Việt Nam - EU
ngày càng mở rộng trên nhiều lĩnh vực nhất là thương mại, đầu tư, tài chính, tiền
tệ, bảo vệ mơi trường. Trong những năm tới, Đảng và Nhà nước chủ trương thúc

đẩy hơn nữa các mối quan hệ với EU và các nước Châu Âu nhằm nâng cao hơn
nữa hiệu quả hợp tác, tạo cơ hội cho hàng hoá Việt Nam thâm nhập, chiếm lĩnh
19


thị trường EU nhất là hàng dệt may, giày dép, nông sản nhiệt đới, thủ công mỹ
nghệ; thu hút đầu tư viện trợ ODA, sự hỗ trợ của EU về tài chính, đào tạo chun
gia, đổi mới cơng nghệ, tài trợ cho các dự án, chương trình xã hội; mơi trường,
nước sạch, xây dựng kết cấu hạ tầng, xố đói, giảm nghèo, tạo việc làm...
Quan hệ với Nhật Bản: Nhà nước ta coi Nhật là đối tác và bạn hàng quan
trọng của Việt Nam. Hiện nay và những năm tới, Nhật Bản vẫn là nguồn cung
cấp ODA lớn nhất cho Việt Nam, là đối tác đầu tư lớn; Nhật Bản lại là cường
quốc kinh tế thế giới và khu vực Châu Á - Thái Bình Dương, trình độ khoa họccơng nghệ cao, có quan hệ nhiều mặt từ lâu với nước ta, đồng thời có nhiều nét
tương đồng về văn hoá với ta.
Mở rộng quan hệ đối tác chiến lược với Nhật Bản, tạo cho Việt Nam có
thuận lợi hơn trong quan hệ với các trung tâm kinh tế- chính trị, các trung tâm
tài chính thế giới. Trong quan hệ với Nhật, chúng ta chủ trương tăng cường hơn
nữa hợp tác kinh tế, thu hút các nhà đầu tư Nhật vào Việt Nam, chuyển giao
công nghệ hiện đại, tranh thủ vốn, mở rộng thị trường và danh mục các loại
hàng hoá Việt Nam tại Nhật Bản, tạo điều kiện thuận lợi cho các quan hệ giao
lưu hữu nghị giữa các tổ chức đồn thể xã hội, nghề nghiệp, văn hố, giữa các
tầng lớp nhân dân hai nước.
Đảng, Nhà nước và nhân dân ta cũng hết sức quan tâm và cải thiện thúc
đẩy quan hệ với các nước phát triển như Ôxtrâylia, Canađa, Niuzilân, các nước
công nghiệp mới trên thế giới nhằm tranh thủ vốn, công nghệ cao... cho việc
phát triển kinh tế - xã hội, đẩy mạnh cơng nghiệp hố- hiện đại hoá.
Việt Nam trước sau như một, tăng cường tình đồn kết với các nước đang
phát triển ở Châu á, Châu Phi và Châu Mỹ la tinh, với phong trào không liên
kết; ra sức phối hợp hành động trong khuôn khổ hợp tác giữa các nước đang
phát triển, trong phong trào không liên kết, trên các diễn đàn quốc tế... đấu tranh

cho việc thiết lập trật tự thế giới mới: hồ bình, cơng bằng, dân chủ và tiến bộ,
chống lại mọi chính sách chà đạp độc lập, chủ quyền, lợi ích các dân tộc.
Nước ta tiếp tục củng cố và tăng cường quan hệ với các Đảng cộng sản
công nhân, các đảng cánh tả, các phong trào độc lập dân tộc, các lực lượng cách
mạng và tiến bộ trên thế giới. Đoàn kết với nhân dân yêu chuộng hoà bình và
20


cơng lý, phong trào hồ bình trên thế giới trong cuộc đấu tranh vì hồ bình, độc
lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội. Tiếp tục mở rộng quan hệ với các đảng
cầm quyền.
Tích cực đóng góp vào hoạt động ở các diễn đàn thế giới, tham gia giải
quyết các vấn đề toàn cầu; ủng hộ cuộc đấu tranh bảo vệ hồ bình, loại trừ vũ
khí hạt nhân và các phương tiện giết người hàng loạt khác. Chủ động tham gia
vào cuộc đấu tranh chung vì quyền con người. Sẵn sàng đối thoại với các tổ
chức quốc tế và khu vực có liên quan về vấn đề nhân quyền. Kiên quyết làm thất
bạ các âm mưu, hành động xuyên tạc và lợi dụng các vấn đề “dân chủ”, “nhân
quyền”, “dân tộc”, “tơn giáo” hịng can thiệp vào cơng việc nội bộ, xâm phạm
vào độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, an ninh và ổn định chính trị.Tranh thủ
đồng tình và ủng hộ rộng rãi của nhân dân thế giới, góp phần thúc đẩy xu thế
hồ bình, hợp tác và phát triển.
Phát triển công tác đối ngoại nhân dân theo phương châm “chủ động, linh
hoạt, sáng tạo và hiệu quả” tích cực tham gia các diễn đàn và hoạt động của
nhân dân thế giới. Nâng cao hiệu quả hợp tác với các tở chức phi chính phủ
nước ngồi để phát triển kinh tế - xã hội. Đẩy mạnh hoạt động kinh tế đối ngoại,
hội nhập sâu hơn và đầy đủ hơn với các thể chế kinh tế toàn cầu, khu vực và
song phương, lấy phục vụ lợi ích đất nước làm mục tiêu cao nhất. Làm tốt công
tác vận động cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài, phát huy tinh thần yêu
nước, đoàn kết, nhân ái các dân tộc, tập hợp, động viên đồng bào vào xây dựng
khối đại đồn kết tồn dân tộc, tích cực đóng góp vào sự nghiệp xây dựng và

bảo vệ Tổ quốc
Đặc biệt trong thời gian qua, Việt Nam vừa hoàn thành năm làm chủ tịch
ASEAN với nhiều thành công lớn. Cộng đồng quốc tế đánh giá rất cao. Hội nghị
cấp cao ASEAN 17 vừa qua đã ghi dấu ấn của Việt Nam trên bước đường liên
kết ASEAN, đưa quan hệ giữa ASEAN với các đối tác chuyển sang thời kỳ hành
động cụ thể, lên tầm cao mới, theo hướng toàn diện và thực chất hơn. Việt Nam
đã góp phần thúc đẩy một cách thực chất việc kết nối ASEAN, tiến tới hình
thành cộng đồng Kinh tế, một trong ba trụ cột của Cộng đồng ASEAN vào 2015.
21


Chính sự chủ động, dẫn dắt khéo léo của Việt Nam đã tạo nên sự đồng thuận cao
trong nội khối ASEAN, và với các đối tác. …Gần đây nhất là Việt Nam được
mời tham dự hội nghị thượng đỉnh G20 tại Hàn Quốc và hội nghị cấp cao APEC
18 tại Nhật Bản.
Mặc dù diễn biến chính trị tại khu vực châu Á - Thái Bình Dương ln
phức tạp, khủng hoảng tài chính và suy thối kinh tế ở vùng này cũng đang có
nhiều yếu tố khơng rõ rang nhưng nước ta luôn giữ được ổn định, giữ được đà
tăng trưởng kinh tế cao, đồng thời cũng là một trong những nước đạt được nhiều
mục tiêu thiên niên kỷ nhất (MDGs), như đánh giá của Tổng thư ký Liên hiệp
quốc Ban Ki Moon.
Do đó, sự hiện diện của Việt Nam ở các diễn đàn lớn của thế giới thể hiện
sự tin cậy, kính trọng của các nhà lãnh đạo cao cấp của các nước đối tác với Việt
Nam. Họ đều đánh giá cao và mong muốn Việt Nam ngày càng đóng vai trị to
lớn hơn trong đời sống chính trị - kinh tế của khu vực và thế giới. Việt Nam luôn
ủng hộ thúc đẩy tự do thương mại và nghiêm túc thực hiện những cam kết của
mình với tư cách là thành viên của WTO. Chính quan điểm này đã giúp Việt
Nam thành công trong suốt năm qua, đặc biệt với vai trò chủ tịch ASEAN, đã
chủ động thúc đẩy các nước thành viên và các đối tác đạt được đồng thuận, cam
kết cao.

Một điểm đáng chú ý nữa là Việt Nam vừa tuyên bố tham gia đàm phán
hiệp định đối tác kinh tế chiến lược xuyên Thái Bình Dương (TTP) với tư cách
thành viên chính thức, sau một thời gian dài chuẩn bị. Các thành viên TTP đang
đàm phán về các cơ chế tự do thương mại ở tầm rất mở, còn mở hơn cả APEC
và WTO. Trong khi đó, thương mại đang là một trụ cột quan trọng trong thực
hiện chiến lược phát triển giai đoạn 2011 -2020 của Việt Nam, sẽ tạo điều kiện
mở ra thị trường rộng lớn cho hàng hoá xuất khẩu của Việt Nam, cũng như mở
ra hợp tác kinh tế nhiều mặt với các nước khác.
Tuy nhiên, cũng cần lưu ý đây là thách thức cạnh tranh ngày càng lớn với
hàng hoá của Việt Nam, với doanh nghiệp và với cả nền kinh tế. những kết quả
to lớn đạt được từ năm nay sẽ là nền tảng rất cơ bản và vững chắc giúp Việt
Nam đối phó tốt hơn với những khó khăn thách thức, vận dụng tốt hơn những cơ
22


hội mới. Nhất là khi chúng ta nằm trong một khu vực vẫn đang phát triển năng
động, các nước lớn đều cam kết đẩy mạnh hợp tác, tích cực góp phần củng cố
mơi trường hồ bình, ổn định và hợp tác hữu nghị, các bên đều có lợi.

23


KẾT LUẬN
Trong bối cảnh chung tồn thế giới có những diễn biến phức tạp, khó
lường. Vấn đề xung đột vũ trang, sắc tộc, tôn giáo, nhân quyền là vấn đề nhạy
cảm. Đặc biệt là sự kiện biển đông trong suốt thời gian qua đã đặt ra nhiều tình
huống và ln được Đảng và Nhà nước ta quan tâm xác định đó là nhiệm vụ
chiến lược. Với tinh thần đó việc hoạch định đường lối đối ngoại và hội nhập
quốc tế của Đảng và Nhà nước là vấn đề có ý nghĩa hết sức quan trọng trong
nhiệm vụ bảo về Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Vì vậy, địi hỏi mỗi chúng

ta cần có những nhận thức đúng đắn về đối tượng, đối tác trong công tác ngoại
giao. Đồng thời nêu cao tinh thần trách nhiệm và có bản lĩnh chính trị vững vàng
trong cơng tác, tin tưởng tuyệt đối vào đường lối đối ngoại của Đảng và chính
sách đối ngoại của Nhà nước. Kiên quyết chống mọi biểu hiện sai trái của các
thế lực thù địch hòng phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng, sự quản lý điều hành
của nhà nước.
Với truyền thống vẻ vang của dân tộc Việt Nam, cùng với đường lối chính
sách đối ngoại và hợp tác quốc tế đúng đắn dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản
Việt Nam, nhất định chúng ta sẽ vượt qua mọi khó khăn, thử thách, thực hiện
thắng lợi nhiệm vụ đối ngoại và hợp tác quốc tế trong giai đoạn mới, góp phần
tăng cường, củng cố hơn nữa vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế, phục vụ
thiết thực và có hiệu quả sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt
Nam xã hội chủ nghĩa.

24


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ ngoại giao (2002), Vụ hợp tác kinh tế đa phương, Việt Nam hội
nhập kinh tế trong xu thế tồn cầu hố - vấn đề và giải pháp, Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội.
2. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu tồn quốc
lần thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
3. Học Viện Quan Hệ Quốc Tế - Bộ Ngoại Giao (1997), Hỏi đáp về tình
hình thế giới và chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta, Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội.
4. Vũ Khoan (2005), Đổi mới về đối ngoại, Tạp chí Cộng sản, số 16/8.
5. Đinh Xuân Lý (2016), Quá trình Việt Nam hội nhập khu vực châu á - Thái
Bình Dương theo đường lối đổi mới của Đảng, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
6. Nguyễn Dy Niên (2018), Tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh, Nxb

Chính trị quốc gia, Hà Nội.
7. Đinh văn Thắng (2017), Tiến trình hội nhập Việt Nam - ASEAN, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
8. V.I Lênin, toàn tập, tập 31, Nxb Sự Thật, Hà Nội, 1969.

25


×