Tải bản đầy đủ (.docx) (23 trang)

TIỂU LUẬN phân tích những điểm khác biệt của pháp luật quốc gia và pháp luật quốc tế liên hệ thực tiễn việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (128.91 KB, 23 trang )

TRƯỜNG…
KHOA …


TIỂU LUẬN
Chủ đề: Phân tích những điểm khác biệt của pháp luật quốc gia và
pháp luật quốc tế - Liên hệ thực tiễn Việt Nam

Họ tên học viên:…………………….
Lớp:…………….,
Vị trí công tác:………………………..
Đơn vị công tác:……………...............

Hà Nội – 2020


MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU
NỘI DUNG
1.
Pháp luật quốc gia
Pháp luật quốc tế
2.
3.

1
2
2
2


Những điểm khác biệt của pháp luật quốc gia và pháp

luật quốc tế
4.
Liên hệ thực tiễn Việt Nam
KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

10
15
20
21


MỞ ĐẦU
Hiến pháp hoặc các quy phạm có tính chất Hiến pháp của các nước
thường quy định mối quan hệ giữa pháp luật quốc tế và pháp luật quốc gia xuất
phát từ tầm quan trọng của nó. Tuy nhiên, các Hiến pháp khác nhau lại có những
quy định rất khác nhau. Sự khác biệt cơ bản đầu tiên xuất phát từ các quan điểm
khác biệt của hai trường phái:nhất nguyên và nhị nguyên.
Ở Việt Nam, vấn đề giải quyết mối quan hệ giữa luật quốc tế và pháp luật
quốc gia thông qua việc giải quyết mổi quan hệ giữa điều ước quốc tế hiện đang
có hiệu lực với Việt Nam và pháp luật Việt Nam cũng đang là vấn đề thời sự.
Trong bối cảnh của công cuộc cải cách, mở cửa tại Việt Nam, điều ước quốc tế
trở thành công cụ pháp lý chủ yếu, điều chỉnh hiệu quả quan hệ hợp tác quốc tế
toàn diện của Việt Nam với các quốc gia và các tổ chức quốc tế. Từ năm 1990
trở lại đây, số lượng các điều ước quốc tế mà Việt Nam ký kết hoặc gia nhập
ngày một nhiều, làm tăng lên đáng kể các cam kết quốc tế và các nghĩa vụ thành
viên điều ước quốc tế đối với Việt Nam. Việc thực hiện các quyền và nghĩa vụ
pháp lý quốc tế ghi nhận trong điều ước quốc tế hiện nay đòi hỏi sự hiện diện

một khung pháp luật quốc gia về điều ước quốc tế phù hợp, để tạo cơ sở cũng
như các đảm bảo thực tế cho việc thực thi các thoả thuận quốc tế của Việt Nam.
Trong các văn bản pháp luật hiện hành tại Việt Nam đều thể hiện quan điểm của
nhà nước Việt Nam trong việc nghiêm chỉnh tuân thủ và tôn trọng các nghĩa vụ
cũng như các cam kết quốc tế mà Việt Nam đã chính thức ràng buộc, trên cơ sở
của ngun tắc bình đẳng, có đi có lại, hợp tác phát triển.
Do vậy, nghiên cứu tìm ra những điểm khác biệt giữa pháp luật quốc gia
và pháp luật quốc tế để từ đó thấy được mối liên hệ với pháp luật Việt Nam có ý
nghĩa rất quan trọng. Đó là lý do mà em chọn đề tài “Phân tích những điểm
khác biệt của pháp luật quốc gia và pháp luật quốc tế - Liên hệ thực tiễn Việt
Nam” làm đề tài tiểu luận.

1


NỘI DUNG
1. Pháp luật quốc gia
Định nghĩa luật quốc gia (municipal law). Trong cách sử dụng thông
thường, cụ thể tại Mỹ, từ municipal nói đến một thành phố hay thị trấn. Tuy
nhiên, trong bối cảnh luật quốc tế (international law) thì từ municipal chỉ bất kì
thực thể có chủ quyền nào, bao gồm quốc gia, tiểu bang, hạt, tỉnh, thành phố và
thị trấn. Tóm lại, từ municipal law chỉ luật nội bộ của một chính quyền [4,
tr.189].
Luật quốc gia (hay luật nội địa) có hai hình thức chính. Đầu tiên là luật
dân sự được cấu thành từ luật thành văn và các quy định để thi hành luật thành
văn. Đạo luật được thông qua bởi cơ quan lập pháp của tiểu bang hoặc qua hình
thức bỏ phiếu phổ thơng. Luật quốc gia cũng được cấu thành bởi thông luật luật được tạo ra bởi các tòa án cấp thấp và cao của quốc gia.
Các hình thức phổ biến của luật quốc gia là đạo luật hình sự, luật giao
thơng, và quy định của chính phủ. Về cơ bản, luật quốc gia điều chỉnh mối quan
hệ của cơng dân với chính phủ.

Luật dân sự và thông luật được thi hành theo những cách rất khác nhau. Ví
dụ, các cơ quan hành pháp, từ cảnh sát địa phương đến cơ quan điều tra liên bang,
có thẩm quyền thi thành các đạo luật hình sự và dân sự. Ngược lại, thơng luật thường gọi là luật do thẩm phán tạo ra - chủ yếu được đề cập khi xét xử các vấn
đề pháp lý như luật hợp đồng hay tranh chấp giữa các doanh nghiệp nội địa.
Pháp luật quốc gia được xem là nguồn cơ bản của tư pháp quốc tế. Do đối
tượng điều chỉnh của tư pháp quốc tế là các quan hệ dân sự - kinh tế - thương
mại, lao động, hơn nhân và gia đình có yếu tố nước ngồi phần lớn phát sinh
giữa các thể nhân và pháp nhân nên các quy phạm pháp luật trong các văn bản
pháp luật quốc gia giữ vai trò quan trọng hàng đầu trong việc điều chỉnh các
quan hệ của tư pháp quốc tế.
2. Pháp luật quốc tế
Luật quốc tế, một thuật ngữ được nhà triết học Jeremy Bentham tạo ra vào
khoảng năm 1800, nói đến hệ thống các phán quyết, nguyên tắc và tập quán
2


nhằm điều chỉnh diễn ngơn giữa các quốc gia (ví dụ về nhân quyền, việc can
thiệp quân sự, và các quan ngại tồn cầu như biến đổi khí hậu). Ngược lại, luật
quốc gia điều chỉnh hành động của các cá nhân và pháp nhân trong phạm vi biên
giới của nhà nước có chủ quyền (ví dụ như bộ luật dân sự và đạo luật hình sự).
Khi những nghi vấn và xung đột nảy sinh trong mối quan hệ giữa các quốc gia
có chủ quyền, chúng sẽ được giải quyết theo nguyên tắc của công pháp quốc tế.
Hệ thống pháp luật này bao gồm các hiệp ước và phán quyết để diễn giải các
hiệp ước đó.
Luật quốc tế thừa nhận rằng tất cả các bên, các nhà nước có chủ quyền,
đều bình đẳng như nhau.
Xung đột nảy sinh theo cơng pháp quốc tế có thể được giải quyết thơng
qua thương lượng ngoại giao hoặc tại Tịa án Cơng lý Quốc tế. Đây là một tòa án
của Liên Hiệp Quốc. Mười lăm thẩm phán được bầu chọn bởi Đại Hội đồng
Liên Hiệp Quốc sử dụng tiền lệ pháp lý quốc tế để đưa ra quan điểm và giải

quyết tranh chấp pháp lý giữa các chính phủ.
Tịa án Cơng lý Quốc tế có thẩm quyền xét xử trong hai trường hợp: thứ
nhất, khi hai quốc gia đồng ý đưa vụ xung đột lên tòa án, thứ hai, khi hiệp ước
chỉ định tòa án là cơ quan có thẩm quyền đối với tranh chấp.
Khi cơng dân của các nhà nước khác nhau có tranh chấp pháp lý, người ta
thường đặt câu hỏi là luật nào sẽ được áp dụng. Câu hỏi về việc chọn luật áp
dụng trong các vấn đề dân sự, từ luật hợp đồng đến luật gia đình, đã được thảo
luận tại Hội nghị La Hay về tư pháp quốc tế.
Nói chung, đầu tiên tòa án sẽ xem xét các điều khoản hợp đồng để xác
định tịa án nào sẽ có thẩm quyền xét xử. Khi hợp đồng không xác định rõ ngơn
ngữ xét xử, tịa án sẽ xem xét bối cảnh tổng thể của hợp đồng, hành vi của các
bên khi lập hợp đồng (gọi là chứng cứ cam kết) và liệu rằng các bên có thể thỏa
thuận về khu vực tài phán hay không.
Luật tập quán quốc tế được biên soạn trong Công ước Viên về Luật Điều
ước quốc tế. Theo luật tập quán này, các quốc gia thống nhất thực hiện theo một
số thông lệ về nghĩa vụ pháp lý.
3


*Quá trình hình thành và phát triển của Luật quốc tế trong các giai đoạn
Song song với việc xem xét quá trình hình thành và phát triển của Luật
quốc tế, chúng ta có thể thấy vai trị của luật quốc tế đã ngày càng được mở rộng
hơn không chỉ nằm gói gọn trong những vấn đề thuộc về truyền thống như
quyền con người, vấn đề hịa bình an ninh… mà phạm vi của điều chỉnh của
Luật quốc tế đã vượt ra khỏi tính truyền thống đó như quy định thêm các vấn đề
về môi trường, kinh tế quốc tế, quốc tế nhân đạo… Đó cũng là tất u của q
trình lịch sử, bởi vạn vận luôn luôn thay đổi và Luật quốc tế cũng phải thay đổi
theo để phù hợp với xu hướng đó.
Luật quốc tế cổ đại. Hình thành trên nền tảng kinh tế thấp kém, quan hệ
giữa các quốc gia yếu ớt, rời rạc, lại bị cản trở bởi điều kiện tự nhiên và phát triển

xã hội rất hạn chế nên luật quốc tế thời kỳ này mang tính khu vực là chủ yếu và
hầu như chỉ được sử dụng để điều chỉnh các quan hệ về chiến tranh và ngoại giao.
Việc điều chỉnh các vấn đề này chủ yếu dựa vào các luật lệ và tập quán.
Luật quốc tế giai đoạn này đã đóng góp vào quá trình hồn thiện hệ thống
pháp luật quốc tế. Mặc dù pháp luật quốc tế thời kỳ này cịn bó hẹp trong phạm
vi của từng khu vực nhất định, tuy nhiên nội dung các quy phạm thời kỳ này đã
đặt nền móng cho sự ra đời của Luật Nhân đạo quốc tế sau này. Ngoài ra, do nhu
cầu là cơ sở cho các quyền ưu đãi miễn trừ ngoại giao sau này, thiết lập các quan
hệ bang giao giữa các quốc gia nên việc trao đổi các sứ thần bắt đầu hình thành.
Luật quốc tế trung đại. Thời kì này đánh dấu khoa học - kỹ thuật bắt đầu
phát triển, ranh giới giữa nhà nước và tư nhận bắt đầu bị xóa nhịa, sở hữu nhà
nước thuộc về những người đứng đầu nhà nước. Đồng thời sự xuất hiện của tôn
giáo có ảnh hưởng khơng nhỏ tới nhận thức của con người.
Luật quốc tế trong thời kỳ này đã có những bước phát triển nhất định. Do
nhu cầu phát triển kinh tế, khoa học-kỹ thuật nên tính khu vực trong thời kỳ này
dần bị phá vỡ và thay vào đó là các quan hệ có tính liên khu vực, liên quốc gia.
Cũng trong thời kỳ này, bên cạnh những vấn đề chiến tranh, sự hợp tác của các
quốc gia còn mở rộng sang một số lĩnh vực khác như: kinh tế, chính trị… Việc
4


điều chỉnh các quan hệ này dựa vào nguồn luật tập quán và bước đầu có sự xuất
hiện của điều ước quốc tế.
Với những thay đổi của mình, luật quốc tế giai đoạn này đã đóng góp vào
q trình hồn thiện hệ thống pháp luật quốc tế. Sang thời kỳ này, luật quốc tế
đã có những bước hồn thiện nhất định với sự xuất hiện của các quy phạm và
chế định về Luật Biển, về quyền ưu đãi miễn trừ ngoại giao và việc xuất hiện cơ
quan thường trực của quốc gia tại quốc gia khác (đầu tiên là vào năm 1455).
Đây là những tiền đề quan trọng cho quá trình phát triển luật quốc tế hiện đại
sau này.

Luật quốc tế Cận đại. Bước sang thời kì này các quan hệ quốc tế đã phát
triển trên nhiều lĩnh vực khác nhau và thời kỳ này luật quốc tế phát triển tương
đối rực rỡ.
Đây là thời kỳ các quốc gia tăng cường mối quan hệ hợp tác trên hầu hết
các lĩnh vực của đời sống quốc tế, là thời kỳ luật quốc tế được phát triển trên cả
hai phương diện luật thực định và khoa học pháp lý quốc tế. Nguồn luật điều
chỉnh vẫn là tập quán quốc tế và điều ước quốc tế.
Luật quốc tế thời kì này góp phần đóng góp vào q trình hồn thiện hệ
thống pháp luật quốc tế. Đây là thời kỳ ghi nhận sự hình thành các nguyên tắc
mới của luật quốc tế như: nguyên tắc bình đẳng về chủ quyền, khơng can thiệp
vào cơng việc nội bộ của nhau. Tuy nhiên, đóng góp quan trọng nhất là sự ra đời
của các tổ chức quốc tế đầu tiên đánh dấu sự liên kết và ràng buộc có tính cộng
đồng quốc tế của các quốcgia như: Liên minh điện tín quốc tế (1865), Liên minh
bưu chính thế giới (1879) [1, tr.278].
Luật quốc tế Hiện đại. Trên bình diện chung, hệ thống quốc tế được tạo
thành bởi nhiều yếu tố, như các quốc gia; các tổ chức quốc tế liên quốc gia; các
thực thể quốc tế khác (và các thiết chế quốc tế của những tổ chức này); luật quốc
tế và các quy phạm khác của hệ thống quốc tế. Giữa các yếu tố này có sự gắn
kết với nhau trong những mối quan hệ tương tác, tạo thành hệ thống quốc tế.
Đặc trưng tiêu biểu của hệ thống quốc tế được thể hiện qua yếu tố trung tâm là
quốc gia và những mối quan hệ, liên kết giữa quốc gia với yếu tố khác, thông
5


qua sự điều chỉnh của các loại quy phạm mang tính pháp lý - chính trị và với
những phương thức nhất định. Liên quan đến quốc gia và sự phát triển của hệ
thống quốc tế, luật quốc tế hiện đại giữ vai trung tâm, bởi được các quốc gia và
thực thể quốc tế khác sử dụng với tính chất là cơng cụ pháp lý để duy trì sự phát
triển của hệ thống này trong một trật tự pháp luật nhất định và có sự bao quát tới
hầu hết các lĩnh vực của đời sống quốc tế.

Hình thành và tồn tại trong hệ thông quốc tế như vậy, kết hợp với xu thế
phát triển của thời đại (xu thế quốc tế hóa mọi mặt của đời sống quốc tế ở cả hai
cấp độ, khu vực và toàn cầu, dựa trên cơ sở nền kinh tế trí thức), luật quốc tế
hiện đại trong những thập nguyên đầu của thế kỉ XXI là kết quả và là sự phản
ánh các quan hệ quốc tế trong điều kiện hợp tác, phát triển của cộng đồng thế
giới đang có những thay đổi to lớn về mọi phương diện, cấp độ, tuân theo quy
luật vận động khách quan ở từng quốc gia cũng như trên phạm vi toàn cầu.
* Cấu trúc hệ thống luật quốc tế
Xuất phát từ góc độ lý luận chung về pháp luật, có thể xem xét sự tồn tại
của luật quốc tế, bao gổm một tổng thể các quy phạm luật quốc tế, có mối quan
hệ nội tại thống nhất với nhau, được phân định thành các ngành và các chế định
cụ thể, thơng qua các hình thức pháp lý do các chủ thể luật quốc tế xây dựng,
theo trình tự, thủ tục và những phương thức nhất định. Sự tồn tại này gồm hai
mặt của một chỉnh thể có tính thống nhất.
Một là, hệ thống cấu trúc bên trong của luật quốc tế với các yếu tố sau:
Các nguyên tắc như hệ thống nguyên tắc cơ bản, nguyên tắc pháp luật
chung, nguyên tắc trong từng ngành hay từng chế định độc lập của luật quốc tế.
Các quy phạm luật quốc tế được phân biệt căn cứ vào giá trị hiệu lực, nội
dung hoặc hình thức thể hiện.
Các ngành và chế định độc lập, như Luật biển quốc tế, Luật điều ước quốc
tế, Luật hàng không quốc tế, Luật ngoại giao và lãnh sự,…
Hai là, hệ thống cấu trúc bên ngoài của luật quốc tế thể hiện sự tương
thích với đặc thù quá trình hình thành và phương thức viện dẫn, áp dụng các loại
6


nguổn của chủ thể quan hệ pháp luật quốc tế mà từ phương diện khoa học luật
quốc tế, có thể phân biệt thành các nguồn có chứa đựng quy phạm luật quốc tế
và những hình thức mang tính chất hỗ trợ cho việc xây dựng, áp dụng và thực
hiện có hiệu quả luật quốc tế.

Như vậy, nội dung và cấu trúc hệ thống của luật quốc tế đã phản ánh bản
chất pháp luật của quá trình thoả thuận vể ý chí giữa các quốc gia, trên cơ sở
tương quan lực lượng và tương quan về lợi ích trong quan hệ quốc tế, được biểu
hiện dưới dạng các nguyên tắc hoặc quy phạm luật quốc tế. Sự thoả thuận giữa
các chủ thể luật quốc tế là nền tảng và xuất phát điểm cho việc hình thành quy
phạm và thực hiện các quy phạm đó, vì lợi ích của mỗi quốc gia, cũng như vì lợi
ích của cộng đổng quốc tế.
* Những nguyên tắc cơ bản luật quốc tế
Trong quá trình hình thành và phát triển luật quốc tế của các nguyên tắc
cơ bản của luật quốc tế đóng một vai trị khá quan trọng. Các nguyên tắc của
luật quốc tế là nền tảng, nguồn góp phần trong việc xây dựng và hoàn thiện luật
quốc tế. Một trong những đặc trưng của Luật quốc tế thể hiện ở chỗ, trong hệ
thống pháp luật này có các quy phạm mang tính ngun tắc, được coi là nguyên
tắc cơ bản, có hiệu lực pháp lý tối cao trong quan hệ quốc tế. Các nguyên tắc
này đồng thời mang trong mình sức mạnh chính trị và đạo đức đặc biệt trong
mối giao lưu của cả cộng đồng, nên trong thực tiến ngoại giao còn gọi là những
nguyên tắc cơ bản của luật quốc tế.
Có thể nói rằng hầu hết các hành vi của các quốc gia trên phạm vi quốc tế,
các quan hệ quốc tế trong mọi lĩnh vực của đời sống quốc tế và cả một số hành
vi của các quốc gia trong mọi lĩnh vực của đời sống quốc tế và cả một số hành vi
của các quốc gia trong phạm vi lãnh thổ của mình, trong một chừng mực nhất
định đều được điều chỉnh bởi luật pháp quốc tế hoặc được thực hiện trên cơ sở
những nguyên tắc cơ bản của luật quốc tế. Đó là vì đa số các quốc gia, kể cả các
cường quốc, đều muốn sống trong một thế giới ổn định và có thể dự báo trước
một cách tương đối hành vi của các thành viên khác của cộng đồng quốc tế. Và
để đạt được điều đó thì việc xây dựng và phát triển Luật quốc tế luôn phải được
7


đặt lên hàng đầu và bắt buộc các quốc gia trên thế giới phải thực hiện. Yếu tố

trước tiên là phải đảm bảo đối với việc hình thành luật quốc tế, muốn đạt được
điều đó cần phải có sự tham gia điều chỉnh của các nguyên tắc cơ bản này.
Nguyên tắc bình đẳng về chủ quyền giữa các quốc gia là nền tảng của
quan hệ quốc tế hiện đại, Hiến chương Liên Hợp Quốc đã lấy nguyên tắc này
làm cơ sở cho hoạt động của mình. Liên hợp quốc được xây dựng trên nguyên
tắc bình đẳng chủ quyền của tất cả các thành viên (khoản 1, Điều 2). Nguyên tắc
này là nền tảng quan trọng nhất của toàn bộ hệ thống các nguyên tắc của luật
quốc tế hiện đại. Nó đã được ghi nhận trong điều lệ của các tổ chức thuộc hệ
thống Liên hợp quốc, của tuyệt đại đa số các tổ chức quốc tế phổ cập và tổ chức
khu vực, trong nhiều điều ước quốc tế song phương và đa phương và trong
nhiều văn bản quốc tế quan trọng của các hội nghị và tổ chức quốc tế. Qua đó,
các quy định của Luật quốc tế được xây dựng dựa trên nguyên tắc bình đẳng về
chủ quyền giữa các quốc gia vì trong quan hệ quốc tế việc xác định chủ quyền
quốc gia có vai trị rất quan trọng. Việc thực hiện chủ quyền quốc gia sẽ khẳng
định địa vị quốc tế của quốc gia được thể hiện qua quyền tự quyết về đối nội và
đối ngoại của quốc gia.
Hiện nay, trong q trình quốc tế hóa mọi mặt của đời sống quốc tế, sự ra
đời của các tổ chức quốc tế phổ cập và khu vực đang ngày càng giữ vị trí quan
trọng trong việc phối hợp hoạt động hợp tác của các quốc gia thành viên. Khi
tham gia tổ chức quốc tế, các quốc gia thành viên tự nguyện trao cho tổ chức
quốc tế một số thẩm quyền thuộc chủ quyền của mình. Sự trao quyền này khơng
có nghĩa là quốc gia bị hạn chế chủ quyền. Quốc gia khi tự nguyện tham gia tổ
chức quốc tế, thực hiện các quyền và nghĩa vụ của quốc gia thành viên, chịu sự
chi phối nhất định của tổ chức quốc tế các hoạt động này phải được hiểu là quốc
gia đang triển khai thực hiện chính chủ quyền của mình. Trong khơng gian quốc
tế hiện nay, việc tơn trọng nghiêm chỉnh nguyên tắc này là cơ sở quan trọng để
đưa trật tự thế giới phát triển theo xu hướng ngày càng ổn định, hội nhập và tiến
bộ hơn [6, tr.78].
8



Pháp luật quốc tế là phương tiện có nghĩa tạo lập mơi trường ổn định, hịa
bình, hữu nghị cùng phát triển, đó cũng chính là vai trị lớn nhất mà các nguyên
tắc cơ bản của Luật quốc tế mang lại. Các nguyên tắc cơ bản này đều là những
quy phạm mệnh lệnh có giá trị bắt buộc với mọi chủ thể khi tham gia quan hệ
quốc tế. Quy phạm này đóng vai trị làm nền tảng cho việc thiết lập và phát triển
quan hệ bền vững, lâu dài giữa các chủ thế. Mặt khác trên cơ sở các nguyên tắc
và quy phạm đó một trật tự sẽ được thiết lập trong đó quốc gia cũng như các chủ
thể khác của pháp luật quốc tế phải tôn trọng, thực hiện tất cả những cam kết
quốc tế của mình và phải chịu trách nhiệm về những hành vi vi phạm các kết
quốc tế đó. Chính điều này sẽ tạo sự tin tưởng và thúc đẩy quá trình giao lưu,
hợp tác giữa các quốc gia trên tất cả các lĩnh vực, cho dù các quốc gia này có
chế độ chính trị - xã hội và hệ thống pháp luật khác nhau.
Chính các nguyên tắc cơ bản và các quy phạm pháp luật quốc tế sẽ là
công cụ để các lực lượng tiến bộ đấu tranh xây dựng một trật tự thế giới mới
trong các lĩnh vực kinh tế, chính trị, pháp lý trên cơ sở bình đẳng về chủ quyền,
khơng can thiệp vào công việc nội bộ của nhau và các bên cùng có lợi. Cụ thể
hóa qua các điều ước, tuyên bố, định ước… trong khuôn khổ Liên hợp quốc.
Nguyên tắc cấm đe dọa dùng vũ lực, dùng vũ lự được quy định tại khoản 4,
Điều 2, Hiến chương Liên Hợp quốc. Nguyên tắc này đã cụ thể hóa một loạt các
văn bản quốc tế quan trọng như Tuyên bố về những nguyên tắc của luật quốc tế
điều chỉnh quan hệ hữu nghị và hợp tác giữa các quốc gia phù hợp với hiến
chương Liên Hợp quốc (do Đại hội đồng thông qua năm 1970), Định ước
Hexinki năm 1975.. Nguyên tắc không can thiệp vào công việc nội bộ của quốc
gia khác xuất hiện đầu tiên trong các hiến pháp của một số nước tư sản thời kỳ
cách mạng tư sản ở Châu Âu đã được ghi nhận trong Hiến chương Liên Hợp
quốc (theo khoản 7, Điều 2). Nguyên tắc này đã góp phần vào điều chỉnh mối
quan hệ quốc tế xây dựng nên quy định về quan hệ quốc tế giữa các quốc gia
trong Tuyên bố của Liên Hợp quốc về các nguyên tắc của luật quốc tế liên quan
đến quan hệ hữu nghị và hợp tác giữa các quốc gia năm 1970. Ngoài ra, nguyên

tắc này đã được ghi nhận trong nhiều văn bản quốc tế quan trọng như Tuyên bố
9


cuối cùng của Hội nghị các nước Á Phi năm 1975 tại Băng – đung, Hiệp định
Geneve… Các quy phạm Luật quốc tế do chính các chủ thể của Luật quốc tế xây
dựng không phải do một cơ quan quyền lực nào “sáng tạo” nên. Các quy phạm
đó được xây dựng dựa trên cơ sở bình đẳng chủ quyền và trên cơ sở thỏa hiệp và
nhân nhượng giữa các chủ thể của hệ thống pháp luật này. Tức là, trong quá
trình xây dựng các quy phạm pháp luật quốc tế các chủ thể phải cố gắng đạt
được sự thỏa hiệp tương ứng với các quy tắc xử sự và bên cạnh đó quan hệ với
nhau, các chủ thể đó cùng cơng nhận quy tắc xử sự đó là bắt buộc (nguyên tắc
tận tâm, thiện chí thực hiện cam kết quốc tế) [7, tr.367].
Các nguyên tắc cơ bản quy định cơ sở của sự tác động qua lại khi thực
hiện quyền và nghĩa vụ của mình. Mặc dù chỉ là sản phẩm của quan hệ giữa các
quốc gia, sau khi hình thành và phát triển, các nguyên tắc cơ bản của Luật quốc
tế tạo nên một khung pháp lý vững chắc và tác động trở lại đối với các quốc gia
và hành vi của các quốc gia trên cả bình diện quốc tế và trong phạm vi lãnh thổ
quốc gia. Bởi vì trong thực tiễn quan hệ quốc tế, nhiều khi do sự mâu thuẫn, trái
ngược về quan điểm và cả về lợi ích giữa các quốc gia mà dẫn tới một số quốc
gia vì lợi ích của riêng mình mà có những hành động theo những xu hướng khác
nhau. Tuy nhiên, các nguyên tắc cơ bản này là cơ sở để các quốc gia dựa vào
tính chất, chuẩn mực của nó mà thỏa thuận tiến tới hình thành các điều ước, thỏa
thuận quốc tế,… nhằm hướng tới quy chuẩn chung cho tất cả quốc gia phải tuân
thu để giải quyết các mâu thuẫn hiện tại.
3. Những điểm khác biệt của pháp luật quốc gia và pháp luật quốc tế
Điểm khác biệt của pháp luật quốc gia với pháp luật quốc tế xuất phát từ
quan điểm khác nhau của các trường phái. Mối quan hệ giữa luật quốc tế và luật
quốc gia tuy là vấn đề lý luận truyền thống của luật quốc tế nhưng vẫn đồng thời
mang tính thời sự sâu sắc đối với mỗi quốc gia trong quá trình xây dựng, hoàn

thiện và phát triển pháp luật. Trong khoa học pháp lý truyền thống dã có một số
học thuyết tiêu biểu xem xét về mối quan hệ này.
Thuyết nhất nguyên luận có xuất phát điểm từ nguyên lý của trường phái
“Pháp luật tự nhiên” về việc quan niệm pháp luật là hệ thống thống nhất, bao
10


gồm trong đó hai bộ phận là luật quốc tế và luật quốc gia. Những quy phạm của
hai bộ phận này được xếp theo thứ bậc trên, dưới. Học thuyết này chia thành hai
trường phái là trường phái ưu tiên luật quốc tế và ưu tiên luật quốc gia.
Thuyết nhị nguyên luận, quan niệm luật quốc tế và luật quốc gia là hai hệ
thống luật khác nhau, tồn tại độc lập và giữa chúng khơng có mối quan hệ qua lại.
Đây là những học thuyết thể hiện sự nhìn nhận, đánh giá về mối quan hệ
giữa hai hệ thống luật cịn phiến diện. Bởi vì, sự tiếp cận khoa học và hiện đại về
mối quan hệ giữa luật quốc tế và luật quốc gia phải bằng việc làm sáng tỏ cơ sở
lý luận, đồng thời chỉ ra được tính chất của sự tác động qua lại giữa hai hệ thống
luật với nhau.
Cơ sở lý luận của mối quan hệ giữa luật quốc tế và luật quốc gia được
hình thành từ sự thống nhất hai chức năng đối nội và đối ngoại trong hoạt động
của nhà nước; từ một số chức năng chung của hai hệ thống luật trong quá trình
điều chỉnh các quan hệ pháp luật mà quốc gia là chủ thể; từ việc tham gia vào
các quan hệ pháp luật có tính chất khác nhau của nhà nước nhằm phục vụ cho
lợi ích quốc gia, dân tộc, đồng thời vì lợi ích chung của cộng đồng quốc tế. Do
đó, khơng thể có sự tách biệt giữa hai hệ thống luật mà trái lại, trên thực tế đã tất
yếu hình thành giữa chúng mối quan hệ biện chứng, trong đó:
Luật quốc gia có ảnh hưởng mang tính quyết định đến sự hình thành và
phát triển của luật quốc tế [5, tr.62].
Bản chất quá trình xây dựng các quy phạm luật quốc tế mà các quốc gia
tiến hành thông qua phương thức thoả thuận chính là q trình đưa ý chí quốc
gia vào nội dung của luật quốc tế. Ý chí này phản ánh tương quan lực lượng và

tương quan lợi ích của các quốc gia, vì vậy, lợi ích quốc gia trở thành điều kiện
cơ bản cho nhu cầu hợp tác, phát triển luật quốc tế. Ngoài ra, trong lịch sử hình
thành và phát triển luật quốc tế, nhiều quy phạm của Luật nhân đạo quốc tế,
Luật ngoại giao, lãnh sự hay nhiều nguyên tắc của luật quốc tế có nguồn gốc
xuất phát từ quan điểm, quan niệm của luật quốc gia.
Luật quốc tế có tác dộng tích cực nhằm phát triển và hồn thiện luật quốc
gia. Tính chất tác đông của luật quốc tế đối với luật quốc gia được đánh giá bằng
11


thực tiễn thực thi nghĩa vụ thành viên điều ước quốc tế, tổ chức quốc tế của quốc
gia, thể hiện ở những hoạt động cụ thể, ví dụ, nghĩa vụ sửa đổi, bổ sung, hoàn
thiện các quy định của luật quốc gia phù hợp với những cam kết quốc tế của
chính quốc gia đó. Bên cạnh đó, luật quốc tế cịn tác động đến luật quốc gia
thơng qua vai trị của hệ thống này đối với đời sống pháp lý tại mỗi quốc gia,
phản ánh tương quan giữa hai hệ thống khi điều chỉnh những vấn đề thuộc lợi
ích phát triển và hợp tác quốc tế của quốc gia.
Hiện nay, việc vận dụng lý luận khoa học pháp lý hiện đại về mối quan hệ
giữa luật quốc tế và luật quốc gia vào thực tiễn pháp lý của mỗi quốc gia khơng
có sự đồng nhất về cách tiếp cận.
Sự khác biệt ở cách xây dựng luật. Khơng có đạo luật quốc tế nào. Liên
Hiệp Quốc nhất trí về các cơng ước mà các quốc gia thành viên quyết định phê
chuẩn và tn thủ, nhưng khơng có thực thể chính quyền quốc tế nào. Luật quốc
tế được tạo thành từ các hiệp ước, tập quán và thỏa thuận giữa các quốc gia.
Điều này hồn tồn tương phản với q trình lập pháp tạo ra luật quốc gia của
các quốc gia và nhà nước.
Hiệp ước quốc tế là thỏa thuận pháp lý có tính ràng buộc giữa các quốc
gia. Tại một quốc gia như Mỹ thì hiệp ước là một thỏa thuận được Quốc hội phê
chuẩn. Sau khi được phể chuẩn thì hiệp ước cũng có giá trị như luật liên bang
(nghĩa là đạo luật). Vì vậy hiệp ước có thể mang các nghĩa khác nhau tùy vào

quốc gia hay cơ quan quốc tế đang thảo luận về chúng. Ví dụ như Hiệp ước
Versailles, đây là một hòa ước được ký kết sau Chiến tranh Thế giới thứ nhất.
Hiệp định quốc tế thường kém phần trang trọng hơn hiệp ước, mặc dù
cộng đồng quốc tế cũng xếp chúng ngang hàng với hiệp ước. Tại Mỹ, hiệp định
quốc tế không cần được Quốc hội phê chuẩn, và chúng chỉ được áp dụng trong
luật quốc gia (nghĩa là bản thân chúng không thể được thực thi). Một ví dụ về
hiệp định quốc tế là Hiệp định Kyoto quy định việc cắt giảm khí thải trên tồn
cầu, với mục đích kìm hãm biến đổi khí hậu.
Tập quán quốc tế được tạo ra khi một quốc gia thường xuyên và kiên định
thực hiện đúng theo một thơng lệ nào đó do sự ý thức về nghĩa vụ pháp lý. Tập
12


quán quốc tế không nhất thiết được lập thành văn bản và là hình thức ít trang
trọng nhất trong các tài liệu về luật quốc tế.
Sự khác biệt ở cách thi hành luật. Khơng có cơ quan cảnh sát nào có thẩm
quyền quốc tế tồn vẹn. Thậm chí INTERPOL, một tổ chức có 190 nước thành
viên, chỉ đóng vai trị là cơ quan điều phối, cung cấp thông tin và huấn luyện cho
lực lượng cảnh sát quốc gia. Khi có tranh chấp giữa các quốc gia, luật quốc tế
được thi hành thông qua các hiệp ước, công ước Liên Hiệp Quốc và Tịa án
Cơng lý Quốc tế [3, tr19].
Trong các tranh chấp pháp lý theo luật quốc gia, vụ kiện sẽ được phán
quyết dựa trên luật dân sự dưới hình thức đạo luật, hay theo hệ thống thông luật
của tiểu bang xảy ra vụ kiện.
Nếu hai bên trong vụ tranh chấp pháp lý là các quốc gia có chủ quyền,
bạn có thể mặc định rằng luật quốc tế, các phương pháp quốc tế về thi hành án
và giải quyết tranh chấp sẽ được áp dụng. Ngược lại, nếu cả hai bên đều là cơng
dân của cùng một quốc gia thì cơ quan thi hành luật quốc gia, hệ thống tòa án và
nguyên tắc xét xử nội bộ sẽ được áp dụng để giải quyết tranh chấp.
Khi tranh chấp xảy ra giữa các cá nhân thuộc các quốc gia khác nhau hoặc

giữa cá nhân với chính phủ của một nước khác, tịa án sẽ căn cứ theo các hiêp
ước, cơng ước Liên Hợp quốc hoặc hợp đồng để có thơng tin về quốc gia tài
phán trước khi thụ lý vụ tranh chấp.
Đánh giá mối quan hệ giữa luật quốc tế và luật quốc gia. Sự khác biệt cơ
bản xuất phát từ quan điểm khác biệt của hai trường phái: nhất nguyên và nhị
nguyên. Trường phái nhất nguyên cho rằng luật quốc tế và luật quốc gia hợp
thành một hệ thống pháp luật chung, trong đó luật quốc tế có vị trí ưu thế so với
pháp luật trong nước. Hệ thống pháp luật trong nước phải phù hợp, không được
trái với pháp luật quốc tế. Tính ưu thế này ln được đảm bảo, dù luật quốc tế có
được chuyển đổi hay nội luật hóa hay khơng. Điều này cũng có nghĩa, pháp luật
quốc tế được áp dụng trực tiếp mà không cần phải nội luật hóa. Trái lại, trường
phái nhị nguyên cho rằng luật quốc tế và luật quốc gia là hai hệ thống pháp luật
13


riêng biệt. Không thể viện dẫn một Điều ước quốc tế trước Tịa án quốc gia, trừ
khi điều ước đó đã được chuyển hóa vào nội luật bằng những quy định cụ thể.
Pháp luật quốc tế có giá trị ràng buộc giữa các quốc gia, nhưng để áp dụng đối
với các chủ thể trong mỗi quốc gia thì cần có sự chuyển đổi hay nội luật hóa.
Khi khơng có sự chuyển hóa, có thể xảy ra trường hợp một hành vi được coi là
phù hợp với quy định của pháp luật trong nước, nhưng lại trái với pháp luật quốc
tế, và trong trường hợp này, trường phái nhị nguyên cho phép các tòa án áp dụng
pháp luật quốc gia. Tuy vậy, mức độ, tính chất áp dụng hai trường phái ở mỗi
nước lại khác nhau, phụ thuộc vào nhiều yếu tố.
Nhiều người trong cộng đồng quốc tế xem luật quốc tế và luật quốc gia là
hai thực thể tách biệt. Họ cho rằng mỗi hệ thống sẽ điều chỉnh các vấn đề riêng
biệt và tồn tại trong thế giới riêng của nó. Quan điểm của họ là luật quốc tế điều
chỉnh hành vi của nhà nước và tương tác của các nhà nước với nhau. Mặt khác,
họ cho rằng luật quốc gia điều chỉnh hành vi của những người sống trong một
nhà nước có chủ quyền

Hai hệ thống này hầu như không tương tác với nhau. Tuy nhiên, nếu họ
cho rằng có sự tương tác, thì đó là khi luật quốc gia thừa nhận và tích hợp các
nguyên tắc của luật quốc tế. Vì thế luật quốc gia sẽ được ưu tiên áp dụng hơn
luật quốc tế. Trong trường hợp có sự mâu thuẫn giữa luật quốc tế và luật quốc
gia thì tịa án quốc gia sẽ áp dụng luật quốc gia.
Phân tích mối quan hệ trên quan điểm của thuyết "nhất nguyên". Người
theo thuyết nhất nguyên tin rằng luật quốc tế và luật quốc gia đều là một phần
của hệ thống pháp lý. Đối với họ, cả hai hệ thống dựa trên cùng một cơ sở nhằm
điều chỉnh hành vi của con người và sự vật [2, tr.89].
Mặc dù các quốc gia đều có một nghĩa vụ chung là tuân thủ luật quốc tế,
nhưng thường có một sự sai lệch lớn trong cách tuân thủ của họ. Nhìn chung,
các quốc gia được tự do quyết định cách tích hợp luật quốc tế vào luật quốc gia.
Họ xử lý vấn đề này theo nhiều cách khác nhau, nhưng xu hướng chung là theo

14


thuyết dị nguyên. Do đó, hầu hết các quốc gia đều chính thức tích hợp luật quốc
tế bằng cách thơng qua một số luật quốc gia.
4. Liên hệ thực tiễn Việt Nam
Đánh giá tác động của luật quốc tế đối với luật quốc gia. Trong bối cảnh
quốc tế, luật quốc tế sẽ thắng thế so với luật quốc gia. Tuy nhiên, luật quốc gia là
chứng cứ hữu dụng của luật tập quán quốc tế và các nguyên tắc chung của pháp
luật. Ngoài ra, luật quốc tế thường để lại các câu hỏi mà chỉ có luật riêng của
quốc gia có thể trả lời. Vì vậy, nếu phải ra tịa án quốc tế, bạn có thể sử dụng luật
quốc gia để xác định xem có sự vi phạm luật quốc tế hay khơng. Thậm chí tịa
án quốc tế có thể tham khảo luật quốc gia để giúp họ diễn giải luật quốc tế.
Trong bối cảnh nội bộ (nghĩa là quốc gia), sự tương tác giữa hai hệ thống
luật khó đánh giá hơn. Nói chung, các thỏa thuận và tập quán quốc tế ít trang
trọng sẽ được thừa nhận và tuân thủ miễn là khơng mâu thuẫn với luật quốc gia.

Nếu có sự mâu thuẫn, luật quốc gia thường được ưu tiên áp dụng. Tuy nhiên, các
hiệp ước chính thức thường được xem là có giá trị áp dụng ngang hàng với luật
quốc gia, miễn là bản thân chúng có thể tự thi hành (nghĩa là tự vận hành trong
phạm vi một quốc gia). Nhưng một số quốc gia có quan điểm khác.
Cho đến hiện nay định nghĩa điều ước quốc tế được ghi nhận trong 04 văn
bản quy phạm pháp lý, cụ thể là Pháp lệnh về Ký kết và thực hiện điều ước quốc
tế năm 1989, Pháp lệnh về Ký kết và thực hiện điều ước quốc tế năm 1998, Luật
ký kết, gia nhập và thực hiện điều ước quốc tế năm 2006 và sau đó được thay
thế bằng Luật điều ước quốc tế năm 2016. Định nghĩa đã có sự phát triển qua
thời gian với bằng chứng là sự thay đổi qua bốn lần sửa đổi luật, đặc biệt là giữa
luật năm 2006 và luật năm 2016, thể hiện nhận thức chính xác hơn về điều ước
quốc tế nói riêng và luật pháp quốc tế nói chung.
Về chủ thể ký kết, các luật trên đều ghi nhận rộng hơn hai Công ước Viên,
bao gồm cả quốc gia, tổ chức quốc tế liên chính phủ và các chủ thể khác của
pháp luật quốc tế. Khơng có quy định giải thích rõ nội hàm của “các chủ thể
khác của pháp luật quốc tế” theo luật năm 2006 hay “các chủ thể khác được
15


công nhận là chủ thể của luật pháp quốc tế” theo luật năm 2016. Trong một bản
dự thảo của luật năm 2016, Ban soạn thảo đã ghi nhận “các phong trào giải
phóng dân tộc” là một trong các chủ thể ký kết nhưng sau đó đã loại bỏ.
Về luật điều chỉnh, luật năm 2006 không nhắc đến và đây là điểm khác
quan trọng so với định nghĩa trong hai Công ước Viên. Luật năm 2016 đã bổ
sung thiếu soát này, nhưng thay vì sử dụng cụm từ khá trừu tượng “chịu sự điều
chỉnh của luật quốc tế”, luật sử dụng cụm từ “làm phát sinh, thay dổi hoặc chấm
dứt quyền, nghĩa vụ … theo pháp luật quốc tế”. Với sự bổ sung này, luật năm
2016 đã hoàn thiện định nghĩa điều ước trong pháp luật Việt Nam, ghi nhận đầy
đủ các yếu tố quan trọng như trong hai Công ước Viên.
Về hình thức, các luật đều quy định hình thức của điều ước quốc tế là

bằng văn bản, không nhắc đến điều ước quốc tế bằng hình thức phi - văn bản.
Do đó, có thể suy luận rằng các cam kết giữa Việt Nam và các nước bằng hình
thức phi-văn bản sẽ không là điều ước quốc tế và không chịu điều chỉnh bởi luật
này. Ví dụ như các cam kết có thể có giữa Việt Nam và các nước bằng lời nói
trong các cuộc gặp giữa lãnh đạo nhà nước. Trên thực tế vấn đề này sẽ khơng
gây khó khăn trên thực tế bởi lẻ các cam kết bằng lời nói sau đó thường được
xác nhận lại bằng các ghi nhận bằng văn bản sau đó.
Có thể thấy với luật năm 2016 Việt Nam đã có một định nghĩa điều ước
quốc tế cơ bản hoàn chỉnh. Mặc dù vậy, do không đi thẳng vào bản chất của điều
ước quốc tế như cách tiếp cận của các cơ quan tài phán quốc tế do đó vẫn cịn
cần nghiên cứu để có bổ sung phù hợp trong tương lai, khi nhận thức về luật
pháp quốc tế được nâng cao hơn.
Điều ước quốc tế là một trong các nguồn chính của luật pháp quốc tế và là
nguồn phổ biến, quan trọng nhất. Mặc dù vậy cho đến nay chưa có bất kỳ định
nghĩa thống nhất chung nào trong luật pháp quốc tế về điều ước quốc tế. Điều
ước quốc tế được định nghĩa trong hai Công ước Viên năm 1969 và 1986, và lại
được định nghĩa theo cách thức khác trong các án lệ quốc tế. Có thể đây chỉ là
các cách tiếp cận, cách diễn đạt khác nhau của cùng một thứ, nhưng việc thiếu
một định nghĩa được chấp nhận chung là một điều đáng tiếc. Pháp luật Việt Nam
16


cũng đã có sự phát triển và ghi nhận định nghĩa điều ước quốc tế đầy đủ hơn,
bám sát vào định nghĩa trong hai Công ước Viên. Tuy nhiên định nghĩa này lại
không bao hàm được cách tiếp cận trong các án lệ quốc tế.
Ở Việt Nam, vấn đề giải quyết mối quan hệ giữa luật quốc tế và pháp luật
quốc gia thông qua việc giải quyết mổi quan hệ giữa điều ước quốc tế hiện đang
có hiệu lực với Việt Nam và pháp luật Việt Nam cũng đang là vấn đề thời sự.
Trong bối cảnh của công cuộc cải cách, mở cửa tại Việt Nam, điều ước quốc tế
trở thành công cụ pháp lý chủ yếu, điều chỉnh hiệu quả quan hệ hợp tác quốc tế

toàn diện của Việt Nam với các quốc gia và các tổ chức quốc tế. Từ năm 1990
trở lại đây, số lượng các điều ước quốc tế mà Việt Nam ký kết hoặc gia nhập
ngày một nhiều, làm tăng lên đáng kể các cam kết quốc tế và các nghĩa vụ thành
viên điều ước quốc tế đối với Việt Nam. Việc thực hiện các quyền và nghĩa vụ
pháp lý quốc tế ghi nhận trong điều ước quốc tế hiện nay đòi hỏi sự hiện diện
một khung pháp luật quốc gia về điều ước quốc tế phù hợp, để tạo cơ sở cũng
như các đảm bảo thực tế cho việc thực thi các thoả thuận quốc tế của Việt Nam.
Trong các văn bản pháp luật hiện hành tại Việt Nam đều thể hiện quan điểm của
nhà nước Việt Nam trong việc nghiêm chỉnh tuân thủ và tôn trọng các nghĩa vụ
cũng như các cam kết quốc tế mà Việt Nam đã chính thức ràng buộc, trên cơ sở
của ngun tắc bình đẳng, có đi có lại, hợp tác phát triển.
Mặc dù hiện tại, pháp luật Việt Nam về điều ước quốc tế chưa xác định rõ
ràng vị trí của điều ước quốc tế trong hệ thống pháp luật quốc gia, nhưng trong
các văn bản pháp luật, hiệu lực thi hành của điều ước quốc tế mà Việt Nam hiện
là thành viên vẫn được bảo đảm bởi việc thừa nhận ưu thế của điều ước quốc tế
trong tương quan với pháp luật Việt Nam.
Trong nhiều quan hệ điều ước quốc tế thuộc những lĩnh vực hợp tác
chuyên môn, như lĩnh vực về quyền con người, việc sử lý nhàm hài hồ hố các
quy phạm của điều ước với quy phạm của luật Việt Nam được tiến hành bàng
hoạt động lập pháp của Quốc hội và các cơ quan có thẩm quyền.
Ở Việt Nam, như đã nói ở trên, về phương diện khoa học luật chưa có sự
thống nhất chung quanh vấn đề này. Còn về phương diện luật thực định, Hiến
17


pháp năm 1992 và Pháp lệnh Ký kết và Thực hiện điều ước quốc tế năm 1998
cũng chưa làm sáng tỏ vấn đề vị trí của điều ước quốc tế so với các văn bản quy
phạm pháp luật trong nước. Tuy nhiên, trong hầu hết các văn bản luật, pháp lệnh
hiện hành của Việt Nam đều có điều khoản áp dụng điều ước quốc tế, đại ý:
"Trong trường hợp có sự khác nhau giữa quy định của luật/pháp lệnh/nghị định

này và các quy định của điều ước quốc tế về cùng một vấn đề, thì áp dụng các
quy định của điều ước quốc tế đó". Từ thực tiễn này cho phép rút ra hai nhận xét
sau:
Thứ nhất , Nhà nước Việt Nam đã và đang thực hiện nghiêm chỉnh Công
ước Viên năm 1969 về điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên. Điều 26 và
27 Công ước đã đề ra nguyên tắc nghiêm chỉnh tuân thủ cam kết quốc tế, tức là
một khi quốc gia tự nguyện ràng buộc bởi một cam kết quốc tế thì cũng đồng
nghĩa với việc quốc gia đó có trách nhiệm pháp lý quốc tế phát sinh từ cam kết
đó mà khơng được viện dẫn bất cứ lý do gì, kể cả lý do về pháp luật quốc gia để
biện minh cho việc không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ các nghĩa vụ
quốc tế đã cam kết.
Thứ hai, bằng các quy định về áp dụng điều ước quốc tế như đã nói ở trên,
Việt Nam đã chấp nhận quan điểm về tính ưu thế của pháp luật quốc tế so với
pháp luật quốc gia. Đây cũng là quan điểm đang được thừa nhận rộng rãi trên
thế giới hiện nay. Một số học giả cho rằng có vẻ như Việt Nam đang xích lại gần
trường phái nhất nguyên luận. Tuy nhiên, chúng tơi cho rằng cũng cịn q sớm
để khẳng định rằng Việt Nam chấp nhận quan điểm nhất nguyên luận, bởi lẽ dù
thừa nhận tính ưu thế của pháp luật quốc tế so với pháp luật quốc gia, nhưng
quan điểm chủ đạo hiện nay ở Việt Nam vẫn cho rằng pháp luật quốc tế và pháp
luật quốc gia là hai hệ thống độc lập và có tác động qua lại lẫn nhau. Quan điểm
này khơng phải là hồn tồn khơng có cơ sở, bởi lẽ trong hệ thống pháp luật
thực định của chúng ta cũng chưa có bất kỳ một quy định nào cho phép hiểu một
cách tường minh về việc pháp luật quốc tế và pháp luật quốc gia là hai hệ thống
độc lập hay là chúng hòa làm một.
18


Mặc dù chưa có cơ sở để có thể khẳng định rằng Việt Nam chấp nhận
trường phái nhất nguyên hoặc nhị nguyên, song dựa vào việc Việt Nam chấp
nhận quan điểm về tính ưu thế của pháp luật quốc tế so với pháp luật quốc gia,

chúng ta có điều kiện để tìm hiểu sâu hơn về mối quan hệ giữa điều ước quốc tế
và pháp luật quốc gia trong hệ thống pháp luật Việt Nam. Như trên đã nói, bằng
việc chấp nhận điều ước quốc tế tính ưu thế so với luật/pháp lệnh, có thể cho
phép nhận xét là Việt Nam đã coi điều ước quốc tế có vị trí cao hơn luật. Quan
điểm này cũng đã được tái khẳng định một cách rõ ràng tại Điều 4 dự thảo Luật
Điều ước quốc tế.

19


KẾT LUẬN
Có thể nói, Luật quốc tế đóng một vai trị vơ cùng quan trọng và khơng
thể thiếu trong việc điều hòa các quan hệ quốc tế. Đặc biệt, trong bối cảnh tồn
cầu hóa hiện nay thì vai trị đó ngày càng được khẳng định. Tuy nhiên, bên cạnh
những vai trị to lớn đó, cũng phải nói đến những vấn đề còn tồn tại mà Luật
quốc tế hiện chưa thể giải quyết được. Lấy một dẫn chứng cho vấn đề hịa bình
ở Trung Đơng, dường như chưa có một cách thức giải quyết thật ổn thỏa cho các
bên. Mặc dù theo các nguyên tắc của Luật quốc tế thì vấn đề này đã có thể được
giải quyết. Như vậy, khơng phải trong mọi trường hợp đều chỉ có căn cứ vào
Luật quốc tế để giải quyết mà bên cạnh đó cịn phải dựa trên hồn cảnh, điều
kiện cụ thể mỗi quốc gia. Bởi suy cho cùng, Luật quốc tế được xây dựng từ
chính các chủ thể của Luật quốc tế trong đó có quốc gia.

20


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nguyễn Trường Giang, Những phát triển của Luật pháp quốc tế trong
thế kỷ XXI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2008.
2. Thái Vĩnh Thắng, Mối quan hệ giữa pháp luật quốc gia và pháp luật

quốc tế trong xu thế tồn cầu hố, Tạp chí Luật học, số 2/2003.
3. Trần Vân Thắng, Mối quan hệ giữa luật quốc tế và luật quốc gia trong
pháp luật và thực tiễn các nước, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, số 4/2002.
4. Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật quốc tế, Nxb Cơng an
nhân dân, Hà Nội, 2004.
5. Trịnh Tiến Việt, Những vấn đề pháp lý cơ bản về luật hình sự quốc tế
và việc bảo vệ quyền con người, Tạp chí tồ án nhân dân, số 8/2009.
6. Phedross A, Luật quốc tế, M, 1959.
7. Shurshaloff V.M, Quan hệ pháp lý quốc tế, M, 1971.

21



×