Tải bản đầy đủ (.pdf) (10 trang)

Bệnh trào ngược dạ dày thực quản (GERD) thực hành trong lâm sàng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (331.17 KB, 10 trang )

NGHIÊN CỨU LÂM SÀNG

Bệnh trào ngược dạ dày thực quản (GERD)
thực hành trong lâm sàng
Nguyễn Duy Thắng
Viện nghiên cứu và Đào tạo Tiêu hóa, gan mật

ĐỊNH NGHĨA
Thực quản có vai trị rất quan trọng trong hệ
tiêu hóa. Thực quản có hai chức năng chính: Vận
chuyển thức ăn từ miệng đến dạ dày và ngăn chặn
dòng chảy ngược bằng cơ thắt thực quản, góc Hiss.
Định nghĩa bệnh trào ngược dạ dày thực quản
(Gastroesophageal Reflux Disease- GERD)
Cần phân biệt: Trào ngược dạ dày thực quản
(GER): Là tình trạng sinh lý bình thường khi dịch
dạ dày trào lên thực quản. Bệnh trào ngược dạ dày
thực quản (GERD): Là tình trạng dịch dạ dày trào
lên thực quản có gây ra các triệu chứng hoặc tổn
thương thực quản, họng, thanh quản hoặc đường
hô hấp.
Đồng thuận Montreal về bệnh trào ngược dạ dày
thực quản (GERD)
Theo định nghĩa Montreal thì Trào ngược dạ
dày thực quản (Gastroesophageal Reflux Disease –
GERD) là tình trạng bệnh lý khi chất trong dạ dày
trào ngược gây triệu chứng khó chịu và có / hoặc gây
biến chứng.
Các chất dịch trong dạ dày như HCl, pepsin,
dịch mật v.v... trào ngược từng lúc hay thường xuyên
lên thực quản. Các chất dịch này kích thích niêm


mạc thực quản, gây ra các triệu chứng và biến chứng
của bệnh. Những bệnh nhân khơng có triệu chứng

lâm sàng nhưng có biến chứng như thực quản
Barrett cũng được coi là GERD. Cho phép chẩn
đoán GERD dựa vào triệu chứng lâm sàng đơn
thuần, không cần qua các phương pháp nội soi, xét
nghiệm. Những bệnh nhân có triệu chứng ợ hơi hay
ợ chua cũng được xem là GERD.

DỊCH TỄ
Tỷ lệ người mắc bệnh ở châu Âu khác nhau,
từ 10 đến 30% dân số. Ở châu Á tỷ lệ mắc bệnh
thấp hơn, từ 4 đến 18% và đang có xu hướng tăng
nhanh trong những năm gần đây. Nếu tính theo kết
quả nội soi thì ở Mỹ là 15-20%, ở Trung quốc là
5% và Nhật bản là 15%. Ở Việt Nam chưa có nhiều
nghiên cứu về GERD, nhưng ước tính tỷ lệ mắc
bệnh khoảng 10 -15 % bệnh nhân được nội soi dạ
dày thực quản.
Ngày nhận bài: 15/10/2020
Ngày phản biện: 05/11/2020
Ngày chấp nhận đăng: 11/11/2020

TẠP CHÍ NỘI KHOA VIỆT NAM | SỐ 19+20/20200

69


NGHIÊN CỨU LÂM SÀNG


CƠ CHẾ BỆNH SINH
Các yếu tố bảo vệ
Các cơ thắt thực quản
Bình thường dịch vị và các chất trong dạ dày
không trào ngược lên thực quản được do bị ngăn lại
bởi hai cơ thắt thực quản trên và dưới.
a. Cơ thắt thực quản trên (UES): là một bó cơ ở
đầu của thực quản. Các cơ của UES được nằm dưới
sự kiểm sốt có ý thức khi thở, ăn, và nôn mửa. Khi
người ta nuốt thức ăn hay uống nước vào, cơ thắt
thực quản trên giãn ra trong khoảng 0,2 giây sau đó
co lại trong lúc nghỉ để chống trào ngược dịch và các
chất trong dạ dày lên thực quản.
b. Cơ thắt thực quản dưới (lower esophageal
sphincter -LES): là một bó cơ ở đầu thấp của thực
quản, nơi nó gặp dạ dày. Các cơ LES khơng nằm
trong sự kiểm sốt tự nguyện. Trong q trình tiêu
hóa bình thường, cơ vòng thực quản dưới sẽ mở ra
cho thức ăn đi xuống dạ dày và đóng lại để ngăn
khơng cho thức ăn và dịch dạ dày có tính axit trào
ngược trở lại thực quản. Cơ thắt thực quản dưới sẽ
duy trì vùng áp lực cao hơn áp lực dạ dày tăng lên
sau khi ăn để chống trào ngược. Khi nuốt thức ăn
thì cơ thắt thực quản dưới sẽ giãn ra khoảng 2 giây
và khi thức ăn đi qua khoảng 3-5 giây. Mức độ nặng
của trào ngược dạ dày lên thực quản phụ thuộc vào
rối loạn chức năng của cơ thắt thực quản dưới cũng
như loại và lượng chất lỏng đi lên từ dạ dày và tác
động trung hòa của nước bọt.

Khi nào trào ngược dạ dày thực quản ? Khi một
hoặc cả hai cơ thắt thực quản yếu đi thì sẽ xảy ra tình
trạng chất trong dạ dày sẽ trào ngược lên thực quản.
Cơ chế tự bảo vệ
Nhu động thực quản có tác động làm sạch acid.
Khi nhu động yếu đi thì quá trình làm sạch acid sẽ
kéo dài. Acid không được làm sạch sẽ gây nên viêm
thực quản. Cơ thể con người cũng có cách để bảo vệ
bản thân khỏi những tác động có hại của hồi lưu và
acid. Đa số trào ngược không xẩy ra trong ngày khi

70

TẠP CHÍ NỘI KHOA VIỆT NAM | SỐ 19+20/2020

người ta hoạt động ở tư thế thẳng đứng. Khi ngủ với
tư thế nằm nên lực hấp dẫn khơng cịn có tác dụng.
Nuốt cũng sẽ bị ngừng lại. Việc tiết nước bọt cũng
giảm xuống nhiều. Do đó trào ngược sẽ xuất hiện
vào ban đêm và ở tư thế nằm nhiều hơn, nhất là nằm
đầu thấp.
Sức đề kháng của niêm mạc thực quản
Người ta thấy có sự cân bằng giữa acid và base ở
lớp niêm mạc thực quản. Khi lịng thực quản có acid
thì dòng máu đến thực quản cũng tăng lên, mang
đến nhiều oxy, các chất dinh dưỡng cùng HCO3đến và mang đi H+ cũng như carbon dioxit giúp
duy trì, căn bằng các yếu tố bảo vệ và tấn công ở
niêm mạc thực quản.
Các yếu tố tấn cơng
Chất lỏng có thể làm nóng và làm hỏng lớp lót

gây viêm thực quản. Chất lỏng trào lên thực quản
thường chứa axit và pepsin được sản xuất bởi dạ
dày. Chất lỏng trào ngược cũng có thể chứa dịch
mật đã có sẵn tại dạ dày. Dịch mật này trước đó
đã được trào lên dạ dày từ tá tràng. Axit được cho
là thành phần nguy hại nhất của chất lỏng trào
ngược lên thực quản. Pepsin và mật cũng có thể
gây tổn thương thực quản, nhưng vai trị của nó
trong viêm thực quản và hậu quả khơng rõ ràng
như vai trò của axit.
Nguyên nhân trào ngược dạ dày thực quản
Cho đến nay nguyên nhân gây nên bệnh trào
ngược dạ dày thực quản (GERD) chưa được biết
đến một cách cụ thể rõ ràng. Người ta thường
nói đến một số yếu tố nguyên nhân thường gặp
sau đây:
Do giãn tạm thời, giảm áp lực cơ thắt thực quản
dưới
Đây là cơ chế quan trọng nhất gây nên hiện
tượng trào ngược dạ dày thực quản. Áp lực cơ thắt
thực quản dưới (LES) chủ yếu do cơ hồnh duy
trì. Áp lực lúc nghỉ khoảng 10 - 45 mmHg, cuối thì
thở ra 4 - 6 mmHg, cuối thì hít vào 10 - 20 mmHg,


NGHIÊN CỨU LÂM SÀNG

hít gắng sức 50 -150 mmHg. Khi cơ thắt thực quản
dưới bị suy yếu thì sẽ dẫn đến có sự trào ngược của
dịch dạ dày lên thực quản.

Nhu động thực quản quá yếu
Không đủ sức để đẩy trở lại dạ dày các chất trào
ngược lên thực quản.
Trào ngược tự do và trào ngược do bị stress
Cơ chế của trào ngược tự do hiện nay chưa rõ.
Trào ngược tự do làm giảm pH thực quản nhưng
không làm thay đổi áp lực trong dạ dày. Chỉ xẩy ra
ở những bệnh nhân bị viêm thực quản nặng.Trào
ngược do stress xảy ra khi có sự giảm áp lực cơ thắt
thực quản dưới và mở nhanh do tăng đột ngột áp
lực ổ bụng ví dụ khi người bệnh cúi người, tập thể
dục gập người nhanh, nín thở, ho, mặc quần thắt
quá chặt.
Giải phẫu thực quản
Thực quản ngắn hơn bình thường, có khối u
trong thực quản, sự di chuyển của cơ thắt thực quản
dưới từ cơ hoành vào lồng ngực làm ngắn phần cơ
thắt bên trong ổ bụng cũng gây ra hiện tượng giảm
áp lực.
Một số yếu tố khác cũng hay được nói đến như:
yếu tố gene gia đình; tăng áp lực trong dạ dày và ứ
đọng thức ăn; tăng áp lực trong ổ bụng; do ăn uống
có nhiều rượu bia, nước có gas, thuốc lá; do dùng
thuốc NSAID, steroid; chậm làm rỗng dạ dày; thốt
vị hồnh; tình trạng tiết acid của dạ dày; H.Pylori và
GERD; Túi Acid.

TRIỆU CHỨNG LÂM SÀNG BỆNH TRÀO NGƯỢC
DẠ DÀY THỰC QUẢN
Triệu chứng tại thực quản

Hội chứng trào ngược điển hình:
Ợ nóng (Heart-burn)
Ợ nóng là cảm gíác nóng rát ở vùng ngực. Ợ
nóng xuất phát từ sau xương ức lan lên cổ và họng.
Đây là triệu chứng điển hình nhất của GERD.
Chứng ợ nóng thường được miêu tả như là một cơn

đau rát ở giữa ngực. Ợ nóng được mô tả như một
cảm giác không thoải mái đằng sau xương ức, cảm
giác nóng bỏng. Triệu chứng xuất hiện về ban đêm
nhiều hơn ban ngày, tăng lên khi bệnh nhân ăn hoặc
cúi gập người, ép bụng, nằm ngửa và giảm đi khi
uống nước ấm và sữa. Nó có thể bắt đầu ở thượng
vị hoặc có thể kéo dài ở cổ hoặc lưng. Đơi khi có
thể đau rát hoặc đau tức, chứ không phải là như bị
đốt. Đau nhức như vậy có thể giống với đau tim
(đau thắt ngực). Triệu chứng này xuất hiện ít nhất
2 lần trong 1 tuần. Triệu chứng tăng lên khi bệnh
nhân nằm ngay sau khi ăn, vì lúc nằm khơng có ảnh
hưởng của trọng lực nên trào ngược dễ dàng xảy ra
hơn, và axit được đưa trở lại dạ dày cũng chậm hơn.
Nhiều bệnh nhân bị GERD bị đánh thức ban đêm
bởi các cơn ợ nóng do trào ngược. Các đợt ợ nóng
có xu hướng xảy ra theo định kỳ và nó hầu như ln
ln trở lại. Nguy cơ ung thư biểu mô thực quản
tăng lên cùng với tần suất và thời gian ợ nóng ngày
càng gia tăng.
Ợ trớ
Ợ trớ là cảm giác có một dòng chảy của các chất
(thức ăn, dịch, acid...) bị trào ngược vào trong thực

quản, miệng, hạ hầu. Ở hầu hết bệnh nhân GERD,
thường chỉ có một lượng nhỏ chất lỏng tiếp cận thực
quản, và chất lỏng vẫn còn ở đoạn thực quản dưới.
Khoảng trên 90% chẩn đoán GERD trên lâm sàng
dựa vào 2 triệu chứng này. Hội chứng trào ngược
điển hình có thể được chẩn đốn dựa trên các triệu
chứng đặc trưng, khơng cần xét nghiệm chẩn đốn.
Đây là hai triệu chứng lâm sàng đặc trưng của
bệnh trào ngược dạ dày thực quản.
Các triệu chứng sau đây có thể gặp trong GERD:
Ợ chua và ợ ra thức ăn
Thường xuất hiện sau ăn và đặc biệt là nằm ngay
sau ăn. Đây cũng là triệu chứng rất có giá trị trong
chẩn đốn GERD.
Nuốt đau và khó nuốt
Thơng thường triệu chứng này ít gặp, chỉ gặp
TẠP CHÍ NỘI KHOA VIỆT NAM | SỐ 19+20/20200

71


NGHIÊN CỨU LÂM SÀNG

trong trường hợp niêm mạc thực quản bị tổn
thương nặng.
Đau tức ngực
Đau ngực không do bệnh lý tim mạch là triệu
chứng phổ biến và được coi là dấu đặc trưng, quan
trọng ở những bệnh nhân GERD người châu Á.
Người bệnh có cảm giác đau, co thắt ở vùng ngực.

Lồng ngực như bị đè ép xuống, bó chặt lại, khó thở.
Đơi khi có cảm giác đâm xun ra phía sau lưng, lên
cánh tay nên rất dễ nhầm với triệu chứng bệnh tim
mạch. Nguyên nhân của biểu hiện này là do axid
trào ngược từ dạ dày lên thực quản đã kích thích
vào đầu mút các sợi dây thần kinh trên niêm mạc
thực quản gây nên cảm giác đau ở vùng ngực và
người bệnh nhầm là bị đau tim. Đau ngực không
thể phân biệt được do đau tim thiếu máu cục bộ, có
thể do GERD.
Khó nuốt
Khó nuốt là một sự suy giảm về việc chuyển
thức ăn từ miệng vào dạ dày. Triệu chứng khó nuốt
là khơng phổ biến ở GERD.
Rối loạn giấc ngủ
Bệnh trào ngược dạ dày thực quản thường kết
hợp với rối loạn giấc ngủ. Nhiều người mắc bệnh
GERD có triệu chứng vào ban đêm đánh thức họ
khỏi giấc ngủ. Bệnh nhân bị chứng trào ngược acid
uric trong thời gian ban đêm cũng có nhiều khả
năng chịu các chứng bệnh liên quan đến giấc ngủ
như mất ngủ, ngưng thở khi ngủ, mệt mỏi ban ngày
và hội chứng bồn chồn. Khoảng 10% những người
bị bệnh trào ngược dạ dày thực quản (GERD) có
triệu chứng ban đêm. Những người có các triệu
chứng ban đêm thường có chất lượng sống tồi tệ
hơn những người có các triệu chứng chỉ xảy ra vào
ban ngày.
Triệu chứng ngoài thực quản
Cơ chế gây tổn thương ngoài thực quản:

• Trực tiếp:
- Lượng dịch trào lên “ quá nhiều ”

72

TẠP CHÍ NỘI KHOA VIỆT NAM | SỐ 19+20/2020

- Do dịch mật kích thích / hút vào vùng hầu
họng
• Gián tiếp:
- Yếu tố thần kinh, kích thích (hầu, họng - TQ)
gây ho
- Tăng áp lực ổ bụng: gây GERD và vịng xốy
A. Biểu hiện đã được xác định có liên quan đến
GERD.
Ho mạn tính, hen phế quản, viêm thanh quản,
triệu chứng đau ngực khơng do tim, bào mịn răng.
B. Biểu hiện nghi ngờ có liên quan đến GERD.
Viêm xoang, viêm họng, viêm tai giữa hay tái
phát, xơ hóa phổi vô căn.
C. Các triệu chứng khác
Khàn tiếng, buồn nôn, bệnh trào ngược dạ dày
thực quản và cảm giác vướng ở cổ.

CHẨN ĐỐN BỆNH TRÀO NGƯỢC DẠ DÀY
THỰC QUẢN
Chẩn đốn bệnh trào ngược dạ dày - thực quản
chủ yếu dựa vào các triệu chứng chức năng kết hợp
triệu chứng, xét nghiệm khách quan với nội soi,
giám sát trào ngược.

Chẩn đoán lâm sàng
Sử dụng bộ câu hỏi GerdQ
Đây là bộ câu hỏi đơn giản, thuận tiện để bệnh
nhân tự trả lời về các triệu chứng của mình trong
vịng 7 ngày qua. Tổng số điểm được dùng để cung
cấp thông tin cho bác sĩ chẩn đoán và khuyến cáo
phương pháp điều trị đối với bệnh nhân. GerdQ
giúp chẩn đốn chính xác, đánh giá tác động của
triệu chứng và theo dõi đáp ứng điều trị.
Điều trị thử bằng thuốc ức chế bơm Proton (PPI)
trong vòng 7 đến 14 ngày (PPI test)
Nếu với liều tiêu chuẩn hoặc liều gấp đôi tiêu
chuẩn mà hết các triệu chứng thì được xác định là
bệnh trào ngược dạ dày thực quản. Người ta nhận
thấy độ nhạy của PPI test ở những bệnh nhân đau
ngực không do tim là 80%. Tuy nhiên nếu các


NGHIÊN CỨU LÂM SÀNG

triệu chứng khơng mất đi thì cũng khơng được
loại trừ GERD. Vì GERD khơng chỉ liên quan đến
bài tiết acid dạ dày do đó cũng khơng nên coi các
thuốc PPI là nhóm thuốc duy nhất sử dụng trong
điều trị. Khoảng 1/3 bệnh nhân nghi ngờ bệnh
trào ngược dạ dày-thực quản là những người đáp
ứng với thuốc ức chế bơm proton (PPIs). Khoảng
10% đến 40% bệnh nhân trào ngược dạ dày thực
quản (GERD) không đáp ứng với thuốc ức chế
bơm proton (PPIs) một phần hoặc toàn bộ. Thất

bại với PPI 2 lần mỗi ngày thường gặp ở những
bệnh nhân bị ợ nóng khơng đáp ứng với PPI một
lần mỗi ngày, GERD kháng trị thật sự, rối loạn
thực quản chức năng.
Chẩn đốn cận lâm sàng
Do chưa có một tiêu chuẩn chẩn đoán vàng nào
được áp dụng cho nên người ta dựa vào các phương
pháp sau đây:
Chụp thực quản - dạ dày có cản quang
Trước khi có nội soi, chụp X quang thực quản là
phương tiện duy nhất để chẩn đoán GERD.
Nội soi thực quản - dạ dày tá tràng
Nội soi là test nhạy nhất để chẩn đoán viêm
thực quản trào ngược. Nội soi chẩn đốn chính xác
nhất đối với các sang thương niêm mạc thực quản
như viêm thực quản, loét thực quản, barrett thực
quản, phát hiện và điều trị hẹp thực quản do loét,
các bệnh lý ác tính khác. Nội soi cũng là cách hữu
hiệu nhất để phân độ viêm thực quản, điều này
quan trọng trong việc chọn lựa cách điều trị cho
GERD.
Nội soi được chỉ định ưu tiên cho những người
có triệu chứng như nuốt nghẹn, nuốt đau, sút cân
nhanh, xuất huyết tiêu hóa, gia đình có người bị ung
thư, có bệnh lý dạ dày thực quản.
Nhược điểm: đây là thủ thuật xâm lấn nên gây
khó chịu cho người bệnh nếu khơng gây mê, tốn
kém tài chính. Tỷ lệ khơng có tổn thương viêm thực
quản cao (>50%).


Viêm thực quản do trào ngược
Có nhiều phân loại bệnh trào ngược dạ dày thực
quản qua nội soi:
- Hệ thống phân loại kết hợp đối với bệnh trào
ngược dạ dày thực quản (GERD, Combined Staging
System).
- Phân loại bệnh trào ngược dạ dày thực quản của
Savary-Miller (GERD, Savary-Miller Classification)
dùng để xác định mức độ nặng của viêm thực quản
trào ngược.
- Phân loại MUSE đối với viêm thực quản (MUSE
Classification of Esophagitis).
- Phân loại Hetzel.
- Phân loại của Tytgat.
- Phân loại nếp van dạ dày thực quản theo Hill.
- Phân loại của Los Angeles: Đây là cách phân
loại đơn giản đang được áp dụng nhiều nhất ở các
nước trong thực hành lâm sàng. Ở Việt Nam phân
loại Los Angeles đang được áp dụng rộng rãi nhất.
+ Độ A: Một hoặc nhiều vết loét ở niêm mạc
nhưng khơng dài hơn 5 mm, khơng có vết loét nào
lan rộng hơn đỉnh của các nếp xếp niêm mạc.
+ Độ B: Một hoặc nhiều vết loét niêm mạc dài
hơn 5 mm, khơng có vết lt nào lan rộng hơn đỉnh
của 2 nếp xếp niêm mạc.
+ Độ C: Vết loét niêm mạc lan rộng hơn đỉnh
của 2 hoặc nhiều nếp xếp niêm mạc, nhưng chỉ khu
trú dưới 75 % chu vi niêm mạc thực quản.
TẠP CHÍ NỘI KHOA VIỆT NAM | SỐ 19+20/20200


73


NGHIÊN CỨU LÂM SÀNG

+ Độ D: Vết loét niêm mạc lan rộng ít nhất 75%
của chu vi niêm mạc thực quản.
Tổn thương niêm mạc được mô tả như một
vết trợt ở biểu mơ vẩy thực quản, có kèm theo hay
khơng kèm theo xuất tiết.

Đo áp lực và nhu động thực quản độ phân giải cao
(HRM)
Là kỹ thuật cho phép đánh giá áp lực trong lòng
thực quản và áp lực các cơ thắt thực quản trên và
dưới, từ đó cho phép đánh giá chức năng, hình thái
vùng nối dạ dày- thực quản và nhu động thực quản.
Chỉ định của phương pháp này là để đánh giá bệnh
nhân nghi ngờ có hội chứng trào ngược tại thực quản
nhưng không đáp ứng với điều trị thử bằng PPI liều
2 lần/ngày và nội soi có hình ảnh bình thường.

a. Chỉ định
- Bệnh nhân có rối loạn nuốt nghi ngờ các rối loạn
nhu động thực quản (ví dụ, co thắt tâm vị, thực quản
Jackhammer, co thắt tồn bộ thực quản, v.v.); bệnh

74

TẠP CHÍ NỘI KHOA VIỆT NAM | SỐ 19+20/2020


nhân có triệu chứng gợi ý GERD ngoài thực quản;
trước và sau phẫu thuật cơ thắt thực quản dưới; bệnh
nhân GERD không đáp ứng với điều trị PPI; trên
các bệnh nhân bệnh hệ thống (ví dụ, xơ cứng bì) có
triệu chứng tại thực quản; xác định vị trí cơ thắt thực
quản dưới để phục vụ đo pH-trở kháng 24 giờ.
b. Chống chỉ định
- Phụ nữ có thai; bệnh nhân có bệnh lý tâm thần
hoặc thần kinh khơng hợp tác được theo hướng dẫn;
bệnh nhân có bệnh lý tim mạch và hơ hấp nặng;
bệnh nhân có tiền sử mổ cắt đoạn thực quản; đang
nghi ngờ hoặc chẩn đốn ung thư thực quản; hẹp
thực quản hoặc bệnh lí mũi họng khơng đưa catheter
vào được; xuất huyết tiêu hóa trên; xơ gan có tăng áp
lực tĩnh mạch cửa (giãn tĩnh mạch thực quản).
Đo pH-trở kháng thực quản 24 giờ
Kỹ thuật đo pH-trở kháng thực quản 24 giờ
được sử dụng để ghi nhận bằng chứng trực tiếp là
các cơn trào ngược và đánh giá tính chất của các cơn
trào ngược, phục vụ chẩn đoán bệnh trào ngược dạ
dày-thực quản (GERD).
a. Chỉ định
- Bệnh nhân GERD có triệu chứng khơng điển
hình; bệnh nhân GERD không đáp ứng với điều trị
PPI; bệnh nhân có các triệu chứng ho kéo dài, đau
ngực khơng rõ nguyên nhân hoặc các triệu chứng
GERD ngoài thực quản khác kéo dài đã loại trừ
nguyên nhân tim mạch, hô hấp.
- Chỉ định đo pH-trở kháng thực quản 24 giờ

khi ngừng sử dụng thuốc ức chế bơm proton (off
PPI) 7 ngày cho những bệnh nhân có triệu chứng
trào ngược điển hình nhưng chưa có chẩn đốn xác
định GERD, những bệnh nhân có triệu chứng nghi
ngờ trào ngược ngồi thực quản, những bệnh nhân
nghi ngờ rối loạn “ợ hơi trên dạ dày” (supragastric
belching).
- Chỉ định đo pH-trở kháng thực quản 24 giờ khi
đang sử dụng thuốc ức chế bơm proton (on PPI)
cho những bệnh nhân có GERD dai dẳng với triệu


NGHIÊN CỨU LÂM SÀNG

chứng GERD điển hình và đã có chẩn đốn xác
định GERD trước đó.
b. Chống chỉ định
- Phụ nữ có thai.
- Bệnh nhân có bệnh lý tim mạch và hơ hấp nặng.
- Bệnh nhân có bệnh lý tâm thần hoặc thần kinh
khơng hợp tác được.
- Bệnh nhân có tiền sử mổ cắt đoạn thực quản;
đang nghi ngờ hoặc chẩn đốn ung thư thực quản;
có hẹp thực quản hoặc bệnh lí mũi họng khơng đưa
catheter vào được; xuất huyết tiêu hóa trên; xơ gan có
tăng áp lực tĩnh mạch cửa (giãn tĩnh mạch thực quản).
Đo điện thế của niêm mạc đường tiêu hóa trên
Kỹ thuật đo điện thế của niêm mạc đường tiêu
hóa trên để đánh giá sự thay đổi khả năng dẫn điện
của niêm mạc thực quản trong các trường hợp bệnh

nhân mắc bệnh lý trào ngược dạ dày thực quản.
a. Chỉ định
- Bệnh nhân có các triệu chứng điển hình nghĩ
đến bệnh lý trào ngược dạ dày thực quản như: trào
ngược, Nóng rát sau xương ức.
- Triệu chứng nghi ngờ trào ngược ngoài thực
quản như: ho kéo dài đã được loại trừ bệnh lý hô
hấp; đau ngực khơng do tim (đã được làm các thăm
dị về tim mạch); tổn thương nghi ngờ trào ngược
trên nội soi tai mũi họng; bệnh nhân được tiến hành
nội soi dạ dày thực quản.
c. Chống chỉ định
- Bệnh nhân có chống chỉ định với nội soi đường
tiêu hóa trên, bệnh nhân đặt máy tạo nhịp hoặc có
rối loạn nhịp tim.
PepTest
Test nhanh phát hiện pepsin trong nước bọt
(PepTest) được sử dụng để phát hiện sự có mặt
của pepsin trong mẫu nước bọt, qua đó hỗ trợ cho
việc chẩn đốn trào ngược dạ dày-thực quản thể
ngoài thực quản. Pepsin là một enzym sinh ra do
pepsinogen hoạt hóa dưới tác động của axit clohydric
(HCl) trong dạ dày. Pepsin chỉ xuất hiện trong nước

bọt khi có cơn trào ngược dạ dày-thực quản.
Định lượng pepsin trong nước bọt thơng qua
xét nghiệm. Nếu pepsin Dương tính (+) tức là
dịch dạ dày đã xuất hiện ở miệng, chứng tỏ người
bệnh bị trào ngược dạ dày thực quản. Đo pepsin
trong nước bọt để chẩn đoán trào ngược ở những

bệnh nhân không đủ điều kiện nội soi hoặc làm
các phương pháp khác. Tại các quốc gia sử dụng
PEPTEST tỷ lệ người bệnh dương tính với pepsin
khá cao, từ 70-90%.
a. Chỉ định
Bệnh nhân có triệu chứng gợi ý GERD ngồi thực
quản từ 18 tuổi trở lên như: ho, rát họng kéo dài đã
được loại trừ bệnh lý hô hấp; đau ngực không do tim;
nội soi tai mũi họng có kết quả nghi ngờ GERD; bệnh
nhân nghi ngờ GERD nhưng không thể thực hiện
các kĩ thuật xâm lấn khác để chấn đoán như nội soi
và đo pH trở kháng 24 giờ; mổ cắt đoạn thực quản;
nghi ngờ hoặc chẩn đoán ung thư thực quản; hẹp thực
quản; xuất huyết tiêu hóa trên; xơ gan có tăng áp lực
tĩnh mạch cửa; phụ nữ có thai; có bệnh lý tim mạch,
hơ hấp nặng; có bệnh lý tâm thần hoặc thần kinh
không hiểu được hoặc không làm theo hướng dẫn
của nhân viên y tế; bệnh nhân lơ mơ, suy giảm ý
thức không thể phối hợp để thực hiện kĩ thuật.
b. Chống chỉ định
Khơng có chống chỉ định cho bệnh nhân thực
hiện kỹ thuật này.

TẠP CHÍ NỘI KHOA VIỆT NAM | SỐ 19+20/20200

75


NGHIÊN CỨU LÂM SÀNG


Mô bệnh học
Qua nội soi thực quản người ta bấm sinh thiết
vùng chỉ điểm tổn thương thực quản để làm xét
nghiệm mô bệnh học. Nội soi sinh thiết được chỉ
định ở bệnh nhân có hội chứng GERD tại thực
quản gây khó nuốt và khó chịu kéo dài.

CHẨN ĐỐN PHÂN BIỆT
Chẩn đốn phân biệt các tổn thương thực quản
khơng do GERD:
Chít hẹp thực quản.
Bệnh túi thừa Zenkel.
Lt dạ dày, hành tá tràng.
Viêm thực quản do nấm.
Viêm thực quản do hóa chất.
Viêm thực quản do thuốc.
Viêm thực quản do tia xạ.
Chứng khó tiêu chức năng.
Ung thư dạ dày.
Bán tắc nghẽn đường tiêu hóa trên.
Achalasia (co thắt tâm vị)
ĐIỀU TRỊ BỆNH TRÀO NGƯỢC DẠ DÀY THỰC
QUẢN (GERD)
Mục đích của điều trị là làm giảm các triệu
chứng trên lâm sàng, làm lành tổn thương tại thực
quản, chống tái phát viêm thực quản và các biến
chứng của bệnh.
A. Điều trị nội khoa
Điều trị không dùng thuốc
Chế độ ăn uống, lối sống:

- Tránh dùng đồ ăn có thể gây triệu chứng ợ
nóng (các gia vị cay, chua, nóng quá như hạt tiêu,
ớt, nước cà chua, nước cam, đồ chiên, xào, rán, đồ
nướng, hành, nhiều chất béo, kẹo sôcôla). Tránh các
đồ uống dễ gây trào ngược như rượu, bia, cà phê,
nước có gas, bạc hà. Không ăn quá no nhất là buổi
tối. Tránh ăn trước khi đi ngủ ít nhất là 2 đến 3 giờ.
Tránh nằm ngay sau khi ăn, tối thiểu từ 30 phút đến

76

TẠP CHÍ NỘI KHOA VIỆT NAM | SỐ 19+20/2020

60 phút trở lên, không nằm nghiêng bên phải.
- Không nằm đầu thấp. Kê chân phía đầu giường
cao từ 20-30 cm. Điều này tốt cho bệnh nhân có triệu
chứng xảy ra về đêm hay triệu chứng thanh quản.
- Tránh uống nước quá lạnh, nước đá, ăn kem
- Uống nước ấm: Khi có cảm giác nghẹn họng,
rát họng, buồn nơn, trào ngược thì uống một ít
nước ấm. Phải uống từ từ cho đến khi hết cảm giác
khó chịu đó.
- Giảm cân nếu bị béo phì, khơng hút thuốc lá,
thuốc lào.
- Hạn chế hoặc tránh dùng các thuốc làm giảm
áp lực cơ thắt thực quản dưới như: thuốc giảm
đau không steroid (NSAID), cortisol, thuốc chẹn
canxi, thuốc ngủ, Theophylin, Anticholinergics,
Progesterone.
- Không nên mặc đồ quá chật, ép bụng nhất là

sau bữa ăn
- Đối với phụ nữ có thai bị bệnh trào ngược dạ
dày thực quản thì khuyến cáo bệnh nhân nên thay
đổi lối sống, chế độ ăn uống trước tiên để tránh phải
dùng thuốc.
Điều trị bằng thuốc
Mục đích điều trị GERD khi chưa có biến chứng
là chỉ sử dụng thuốc an toàn với liều thấp nhất mà
vẫn có thể cải thiện được triệu chứng trên lâm sàng.
Thuốc để giảm sản xuất axit
Các thuốc này được gọi là thuốc kháng thụ thể
H2 bao gồm cimetidine, famotidine, nizatidine và
ranitidine.
Các thuốc ức chế bơm proton (PPI)
Đây là các loại thuốc ngăn chặn sự sản xuất axit
và chữa lành thực quản, là thuốc chẹn acid mạnh
hơn thuốc kháng thụ thể H2 và cho phép thời gian
để các mô thực quản bị tổn thương lành lại. PPI là
lựa chọn hiệu quả nhất trong điều trị bệnh nhân
bị viêm thực quản trào ngược (GERD) và trào
ngược dạ dày thực quản không viêm (NERD).
Các thuốc ức chế bơm proton được chỉ định dùng


NGHIÊN CỨU LÂM SÀNG

trước bữa ăn sáng ít nhất từ 30 phút đến 1 giờ. Đây
là thời điểm thuốc có khả năng bất hoạt được bơm
acid với tỷ lệ cao nhất khi mà bơm này đang trong
trạng thái hoạt động.

Có các loại thuốc ức chế bơm proton đang được sử
dụng. Đó là omeprazole, lansoprazole, dexlansoprazole,
pantoprazole, rabeprazole, esomeprazole. Các thuốc
PPI được khuyến cáo dùng tối thiểu trong 4 tuần
đến 8 tuần. Trong các PPI thì Omeprazole và
Rabeprazole là thuốc được lựa chọn hàng đầu do
tính hiệu quả, an tồn, đặc biệt Rabeprazole ít phụ
thuộc vào CYP2C19.
Nếu các triệu chứng thực sự kháng lại liệu pháp
điều trị thì có thể tăng liều hoặc thay thế PPI. Cả
hai phương pháp đều có thể dẫn đến cải thiện triệu
chứng và cả hai đều có hiệu quả tương đương.
Thuốc kháng acid và Alginate

Thuốc kháng acid và Alginate (Gaviscon) có thể
giúp làm giảm triệu chứng của GERD từng đợt hoặc
trong thời gian ngắn. Có thể sử dụng Alginate và
thuốc kháng acid ở bệnh nhân GERD có triệu chứng
xẩy ra từng đợt hoặc sau các bữa ăn, lúc ngủ.
Túi acid: được hình thành khoảng 70 ml trong
vịng 15 phút và kéo dài đến 90 phút sau ăn. Có thể
nằm dưới cơ hồnh hoặc trên cơ hồnh, tồn tại ở
người bị TN DDTQ lâu hơn người bình thường.
Thành phần Alginate: Bicarbonate (sodium và
calcium) có vai trị trung hịa acid. Alginate tạo hàng
rào bảo vệ niêm mạc và cạnh tranh chốn chỗ với túi
acid dạ dày được hình thành sau khi ăn, tạo ra một
lớp màng nhày ngăn không cho các thức ăn và dịch
trào ngược lên thực quản, ngăn cản sự trào ngược
axit và làm giảm các triệu chứng ợ nóng, ợ trớ và

khó tiêu.

Túi acid
Thuốc hỗ trợ kích thích nhu động (Prokinetics)
Một số thuốc hỗ trợ nhu động trong chức năng vận
động thực quản có thể kể đến như: Domperidone,
Metoclopramide, Itopride, Cisapride, Mosapride,
Prucalopride, Acotiamide..
Lý do dùng Prokinetics trong GERD: có thể tăng

thanh thải acid thực quản, chồng lấp giữa GERD và
khó tiêu chức năng khá phổ biến, làm trống dạ dày
chậm ở bệnh nhân GERD, PPI có thể gây làm trống
dạ dày chậm và đầy hơi.
Phối hợp thuốc
Hiện nay điều trị GERD chủ yếu được khuyến
TẠP CHÍ NỘI KHOA VIỆT NAM | SỐ 19+20/20200

77


NGHIÊN CỨU LÂM SÀNG

cáo là sử dụng PPI. Tuy nhiên có thể phối hợp
thuốc trong các trường hợp bệnh nhân cụ thể.
Có thể phối hợp PPI và kháng thụ thể H2
PPI và Alginate (ví dụ: Gaviscon, Gaviscon
Dual Action).
PPI và Prokinetics (ví dụ: Mosapride citrat
(Gasmotin).

Điều trị triệu chứng GERD ngồi thực quản
Chủ yếu vẫn sử dụng PPI liều cao để điều trị Hội
chứng trào ngược ngồi thực quản. Thời gian có thể
kéo dài đến 6 tháng. Có thể kết hợp PPI với thuốc
ức chế H2 nếu đơn trị liệu PPI không đáp ứng được
ở một số trường hợp.
Điều trị nội soi can thiệp
Các phương pháp điều trị nội soi can thiệp như:
Nội soi ống mềm, đi qua đường miệng, không được
coi là phương pháp thay thế đối với điều trị bằng
thuốc hay phẫu thuật truyền thống.
B. Điều trị bằng ngoại khoa
Phẫu thuật
Được chỉ định cho những bệnh nhân bắt buộc
phải điều trị thuốc lâu dài. Mục đích là phục hồi
các khiếm khuyết về giải phẫu thực quản, làm tăng
trương lực cơ thắt.
Thiết bị thắt thực quản bằng từ tính (Magnetic
esophageal sphincter device)
Thiết bị hoạt động bằng cách tăng cường LES
với một chiếc nhẫn được làm bằng một loạt nam

78

TẠP CHÍ NỘI KHOA VIỆT NAM | SỐ 19+20/2020

châm. Thiết bị Linx là một vịng hạt từ nhỏ xíu
được quấn quanh mối nối của dạ dày và thực
quản. Thu hút từ tính giữa các hạt đủ mạnh để giữ
mối nối đóng lại để acid hồi lưu, nhưng đủ yếu để

cho phép thức ăn đi qua. Các thiết bị Linx có thể
được cấy ghép bằng cách sử dụng phẫu thuật xâm
lấn tối thiểu.

CÁC BIẾN CHỨNG CỦA BỆNH TRÀO NGƯỢC DẠ
DÀY THỰC QUẢN
Các biến chứng thực quản của bệnh trào ngược
dạ dày thực quản bao gồm viêm thực quản, loét
thực quản, xuất huyết thực quản, dị thực quản,
barrett thực quản, chít hẹp thực quản và ung thư
thực quản.
PHÒNG NGỪA BỆNH TRÀO NGƯỢC DẠ DÀY
THỰC QUẢN
Tránh bị tăng cân béo phì. Khơng nên mặc quần
áo chật. Cần có lối sống lành mạnh cùng thói quen
ăn uống điều độ. Không ăn quá no, không ăn nhiều
vào ban đêm. Tránh các loại thực phẩm chiên rán,
nướng, nhiều chất béo, đồ ăn có nhiều hành tây, tỏi.
Khơng ăn thực phẩm và gia vị chua, cay, nóng như
hạt tiêu, ớt; không ăn kẹo socola, không hút thuốc
lá, không uống rượu bia, cà phê, nước có ga vì có thể
làm bệnh trở nên trầm trọng hơn như gây ra ợ nóng,
khó tiêu và làm giãn cơ thắt thực quản dưới.



×