Tải bản đầy đủ (.docx) (26 trang)

TIỂU LUẬN phân tích vai trò của nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (185.63 KB, 26 trang )

TRƯỜNG…
KHOA …


TIỂU LUẬN
Chủ đề: Phân tích vai trị của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay

Họ tên học viên:…………………….
Lớp:…………….,

- 2021


MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU
NỘI DUNG
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ VAI TRÒ CỦA NHÀ
I.
NƯỚC TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH
HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM
Quan điểm chủ nghĩa Mác - Lênin về nhà nước trong phát
1.1.
triển kinh tế và kinh tế thị trường
Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về vai trò chức
1.2.
năng Nhà nước trong kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa
Đánh giá khái quát việc thực thi vai trò quyền lực Nhà nước
1.3.


trong kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở
nước ta
MỘT SỐ GIẢI PHÁP CƠ BẢN ĐỂ TĂNG CƯỜNG
VAI TRÒ CỦA NHÀ NƯỚC TRONG NỀN KINH TẾ
II.
THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
Xác định đúng vai trò Nhà nước trong nền kinh tế thị
2.1.
trường định hướng xã hội chủ nghĩa
Đổi mới nâng cao chất lượng hoạt động của thể chế Nhà
2.2.
nước
2.3.
Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và xã hội
KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1

2
2
6
11

12
12
15
19
23

24


MỞ ĐẦU
Sự nghiệp đổi mới toàn diện ở nước ta, trước hết và trọng tâm là đổi mới
kinh tế đồng thời từng bước đổi mới chính trị, được thực hiện từ quyết định
quan trọng - Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (12/1986). Đổi mới
kinh tế - xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa là một nhiệm vụ chiến lược quan trọng trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
xã hội ở nước ta, phù hợp với yêu cầu khách quan của thực trạng kinh tế - xã hội
của đất nước và xu thế phát triển của thời đại.
Trong đổi mới, Đảng cộng sản Việt Nam đã bước đầu đề ra nội dung, hình
thức và bước đi cụ thể, thích hợp. Từng bước chuyển nền kinh tế từ tập trung quan liêu
bao cấp sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, theo định hướng xã
hội chủ nghĩa. Thực hiện đường lối đó, Nhà nước Cộng hịa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam đóng vai trị hết sức quan trọng - quản lý và điều tiết nền kinh tế thị trường, bảo
đảm quá trình phát triển theo đúng định hướng xã hội chủ nghĩa.
Thực tiễn từ 1986 đến nay, dưới sự lãnh đạo của Đảng, vai trò quản lý
của Nhà nước, sự nghiệp đổi mới của nhân dân ta đã và đang đạt được nhiều
thành tựu có ý nghĩa quan trọng, song cũng đặt ra nhiều vấn đề phức tạp - những
thách thức, trở ngại lớn như nghị quyết Hội nghị giữa nhiệm kỳ - khóa VII đã
chỉ rõ, đặc biệt là nguy cơ chệch hướng xã hội chủ nghĩa. Cùng với nguy cơ,
thách thức trong nước, những diễn biến phức tạp của tình hình thế giới - xu
hướng khu vực hóa, quốc tế hóa và tồn cầu hóa đời sống kinh tế thế giới... đem
đến thời cơ, vận hội mới và những thách thức lớn cho nước đang ta.
Trước thực trạng đó, đặt ra vấn đề khách quan là Nhà nước phải tự đổi
mới và hồn thiện mình như thế nào? Điều tiết, quản lý và can thiệp vào kinh tế
bằng những nội dung, giải pháp nào để phát huy vai trò, hiệu lực quản lý của
Nhà nước, bảo đảm quyền lực chính trị của giai cấp công nhân, nhân dân lao
động và phát triển nền kinh tế thị trường đúng định hướng xã hội chủ nghĩa... Do

đó, nghiên cứu vấn đề “Phân tích vai trò của Nhà nước trong nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay” làm đề tài tiểu
luận có ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc.
3


NỘI DUNG
I. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ VAI TRÒ CỦA NHÀ NƯỚC
TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ
NGHĨA Ở VIỆT NAM
1.1. Quan điểm chủ nghĩa Mác - Lênin về nhà nước trong phát triển
kinh tế và kinh tế thị trường
Chủ nghĩa Mác - Lênin khẳng định rằng, nhà nước ln có chức năng
kinh tế. Nghĩa là, nhà nước ra đời và tồn tại không phải chỉ thuần túy để làm
chính trị, khơng chỉ quản lý xã hội mà còn quản lý và phát triển kinh tế. Nhà
nước chính là đại diện cho giai cấp thống trị về kinh tế và chức năng kinh tế của
nhà nước cũng chính là nhằm củng cố địa vị của giai cấp cầm quyền. Khẳng
định chức năng kinh tế của nhà nước, phân tích mối quan hệ giữa kinh tế và
chính trị, Lênin cho rằng: khơng có chính trị đơn thuần và kinh tế đơn thuần mà
chính trị và kinh tế ln gắn bó với nhau, tác động, ảnh hưởng lẫn nhau.
“Chính trị là biểu hiện tập trung của kinh tế, lập luận một cách khác đi là
quên mất điều thường thức của chủ nghĩa Mác”, “Chính trị tức là kinh tế được
cơ đọng lại” [6, tr.147].
Chính trị thực chất là quan hệ giữa các giai cấp, các nhóm xã hội, các
quốc gia dân tộc. Trong đó trước hết và cơ bản là quan hệ về kinh tế. Trong
chính trị, vấn đề quyền lực chính trị (biểu hiện tập trung ở quyền lực nhà nước)
là mục tiêu và trực tiếp mà bất cứ giai cấp, nhóm xã hội nào cũng muốn nắm và
chi phối. Vì nắm được quyền lực nhà nước là nắm được công cụ cơ bản, trọng
yếu để giải quyết quan hệ lợi ích với các giai cấp khác theo hướng có lợi cho
giai cấp mình.

Chủ nghĩa Mác - Lênin cho rằng: tất cả các cuộc đấu tranh giai cấp từ
trước tới nay, xét đến cùng đều vì mục đích kinh tế - giải phóng kinh tế và được
tiến hành trước hết vì lợi ích kinh tế. Và do đó một khi xã hội cịn tồn tại giai
cấp, cịn tồn tại nhà nước thì tất cả những vấn đề chính trị và bất kỳ một thái độ
nào cũng đều ảnh hưởng từ vấn đề kinh tế.
4


Vì vậy Lênin khẳng định: Trong quá trình phát triển xã hội, kinh tế quyết
định chính trị cịn khi hoạch định chính sách thì chính trị phải chiếm hàng đầu,
chiếm vị trí ưu tiên, phải đưa vào các chính sách, các quan hệ giai cấp các lực
lượng kinh tế xã hội. “Khơng có một lập trường chính trị đúng thì một giai cấp
nhất định nào đó khơng thể nào giữ được sự thống trị của mình và do đó cũng
khơng thể hồn thành nhiệm vụ của mình trong sản xuất” [7, tr.350].
Sự tác động của chính trị vào kinh tế thể hiện thơng qua vai trị hoạt
động của nhà nước - các thể chế và các chính sách của nhà nước. Sự tác động đó
ln diễn ra theo hai hướng:
Nếu sự tác động cùng chiều sẽ thúc đẩy sự phát triển kinh tế.
Nghĩa là, nhà nước trước hết bằng các thể chế chính trị tạo ra các quan
hệ kinh tế phù hợp với sự phát triển của lực lượng sản xuất. Nhà nước nắm bắt
các quy luật phát triển của nền kinh tế, tạo môi trường pháp lý và hoạch định các
chính sách để phát huy các mặt tích cực của các xu hướng tích cực, đồng thời
loại bỏ những mặt, những nhân tố tiêu cực cản trở sự tác động của các quy luật
kinh tế.
Sự tác động của nhà nước theo hướng ngược chiều sẽ dẫn tới kìm hãm
sự phát triển kinh tế - xã hội.
Nghĩa là, nhà nước duy trì các quan hệ kinh tế lỗi thời, khơng còn phù
hợp với sự phát triển của lực lượng sản xuất hoặc bảo vệ lợi ích của giai cấp
phản động chống lại lợi ích của giai cấp đang lên, lợi ích của nhân dân lao động.
Hoạt động bất chấp quy luật khách quan của kinh tế - xã hội.

Nhà nước với chức năng kinh tế, có vai trị hết sức to lớn đối với sự phát
triển kinh tế - xã hội. Tuy nhiên, vai trị đó được phát huy và thực hiện có hiệu
quả hay khơng là phụ thuộc vào bản chất của từng chế độ chính trị và bản chất
giai cấp của từng nhà nước.
Các nhà nước (chủ nô, phong kiến, tư sản) đều bằng cách này hay cách
khác kiểm soát các hoạt động kinh tế của xã hội, đặt ra những chính sách, luật lệ
nhằm giữ vững vị trí thống trị của giai cấp cầm quyền. Ngay dưới chủ nghĩa tư
bản, mặc dù các thể chế thị trường phát triển cao, nhà nước tư bản chủ nghĩa tham
5


gia vào các quá trình kinh tế với rất nhiều hình thức (mà đỉnh cao là chủ nghĩa tư
bản độc quyền nhà nước - sự liên minh giữa nhà nước và các tập đoàn tư bản)
cũng đều nhằm củng cố vị trí thống trị của giai cấp tư sản - giai cấp cầm quyền.
Khác với nhà nước của các giai cấp bóc lột, nhà nước xã hội chủ nghĩa là
nhà nước kiểu mới - nhà nước của giai cấp công nhân và nhân dân lao động.
Nhà nước thực hiện trấn áp giai cấp bóc lột - giai cấp tư sản và bọn phản động,
nhà nước dân chủ với quảng đại quần chúng. Nhà nước có nhiệm vụ kinh tế và
vì lợi ích kinh tế của nhân dân lao động. Trong hai chức năng trấn áp và xây
dựng của nhà nước xã hội chủ nghĩa, chủ nghĩa Mác - Lênin khẳng định rằng
chức năng xây dựng là chủ yếu.
Để làm được việc đó, giai cấp vơ sản phải bằng quyền lực nhà nước của
mình, tiến hành một cuộc cách mạng tồn diện trên tất cả các lĩnh vực của đời
sống xã hội, trước hết, trọng tâm là phát triển kinh tế, cải tạo những cơ sở kinh
tế cũ, xây dựng nền tảng kinh tế mới với các quan hệ kinh tế lành mạnh vì mục
đích con người. Với tư cách là chủ thể kinh tế, nhà nước xã hội chủ nghĩa sử
dụng những yếu tố vật chất (đất đai, tiền vốn, lao động, tài nguyên) và tạo ra
những quan hệ cần thiết để trực tiếp quản lý, sản xuất hoặc lưu thông, dịch vụ
trên những ngành, vùng chủ chốt. Đồng thời, nhà nước là người đại diện cho ý
chí và quyền lực của nhân dân, nắm trong tay các công cụ, phương tiện quản lý

(chính sách, kế hoạch, luật pháp, tài chính, ngân hàng...) và kiểm sốt việc sử
dụng tài sản quốc gia, tổ chức quản lý sản xuất kinh doanh phát triển kinh tế
theo quan điểm mục tiêu đường lối phát triển kinh tế của giai cấp lãnh đạo - giai
cấp công nhân mà đại biểu là Đảng cộng sản. Trong thời kỳ này, nhiệm vụ của
nhà nước xã hội chủ nghĩa là phải làm gì, làm như thế nào để tạo ra năng suất
lao động ngày càng cao để chiến thắng hồn tồn chủ nghĩa tư bản.
Trong q trình quản lý nền kinh tế, nhà nước xã hội chủ nghĩa phải tính
đến việc vận dụng tồn bộ hệ thống các quy luật đó sao cho phù hợp, có lợi cho
chủ nghĩa xã hội. Một mặt tạo ra những điều kiện vật chất và xã hội để các quy
luật kinh tế xã hội chủ nghĩa phát huy ngày càng đầy đủ tác dụng của mình - là
6


nhân tố chủ đạo; mặt khác, chủ động vận dụng các quy luật kinh tế khác, hướng
theo quỹ đạo của chủ nghĩa xã hội. Đây là việc khó khăn, phức tạp, dễ phạm sai
lầm “tả” hoặc “hữu khuynh”. Do đó địi hỏi nhà nước xã hội chủ nghĩa phải có
bản lĩnh, có khả năng tổ chức quản lý giỏi, biết tìm ra những hình thức, phương
pháp mới phong phú, đa dạng để hướng các thành phần kinh tế đi theo quỹ đạo
của chủ nghĩa xã hội.
Tóm lại, Lịch sử phong trào xã hội chủ nghĩa thế giới đã chứng minh
tính đúng đắn của chủ nghĩa Mác - Lênin về vai trò của nhà nước xã hội chủ
nghĩa trong phát triển kinh tế. Mặc dù ngày nay hệ thống xã hội chủ nghĩa đã tan
rã do nhiều nguyên nhân khác nhau mà ở đây chúng ta không đề cập đến, nhưng
mô hình phát triển kinh tế thống nhất và có kế hoạch của Liên Xô và của các
nước xã hội chủ nghĩa trước những năm tám mươi của thế kỷ XX đã đưa lại
những kinh nghiệm thành công mẫu mực về nhà nước xã hội chủ nghĩa quản lý
nền kinh tế.
Những luận điểm này đã mang lại nhiều thành công trong thực tiễn của
nhà nước xã hội chủ nghĩa lãnh đạo, quản lý nền kinh tế thị trường như: Thời kỳ
NEP của Liên Xơ, giai đoạn đầu của mơ hình kinh tế tự quản ở Nam Tư; những

thành quả to lớn trong chính sách cải cách mở cửa của Trung Quốc; và đổi mới ở
Việt Nam.
Chủ nghĩa Mác - Lênin và thực tiễn của các nước xây dựng chủ nghĩa xã
hội chỉ ra rằng, nhà nước xã hội chủ nghĩa có thể sử dụng các hình thức quản lý
quá độ, hỗn hợp, trong đó có thể sử dụng các quan hệ thị trường để quản lý và
phát triển nền kinh tế.
Tuy nhiên, nhà nước quản lý nền kinh tế xã hội chủ nghĩa như thế nào,
cịn là vấn đề chưa có câu trả lời cuối cùng và vấn đề đó cịn tùy thuộc vào điều
kiện từng nước và bối cảnh chung của thế giới. Nhưng khơng thể phủ nhận vai
trị đặc biệt của nhà nước xã hội chủ nghĩa trong phát triển nền kinh tế quốc dân,
đặc biệt là trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa hoặc thị
trường xã hội chủ nghĩa.
7


1.2. Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về vai trò chức năng
Nhà nước trong kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
Từ khi ra đời cho đến nay, mặc dù với tên gọi khác nhau trong từng giai
đoạn cách mạng, Đảng ta luôn khẳng định Nhà nước ta là nhà nước của giai cấp
công nhân và nhân dân lao động - Nhà nước của dân, do dân và vì dân. Nhà
nước đó có vai trị hết sức quan trọng trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc,
thống nhất đất nước và xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa ở nước ta là một q trình biến đổi
tồn diện, liên tục, sâu sắc và triệt để. Đó là q trình kết hợp cải tạo với xây
dựng, mà xây dựng là chủ yếu. Đó là q trình xóa bỏ cái lạc hậu, phát huy cái
tiến bộ, cải tạo cái cũ, xây dựng cái mới. Phải xây dựng cả lực lượng sản xuất
mới lẫn quan hệ sản xuất mới; xây dựng cả cơ sở kinh tế mới lẫn kiến trúc
thượng tầng mới; xây dựng cả đời sống vật chất mới lẫn đời sống tinh thần
mới... [2, tr.18].
Để đưa cách mạng xã hội chủ nghĩa đến thắng lợi hoàn toàn, “Điều kiện

quyết định trước tiên là phải thiết lập và không ngừng tăng cường chuyên chính
vơ sản thực hiện và phát huy quyền làm chủ của nhân dân lao động” [2, tr.18].
Yêu cầu khách quan của sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa đòi hỏi
phải có một nhà nước mạnh có đủ năng lực quản lý đất nước. Ngay từ đầu, Đảng
Cộng sản Việt Nam đã tập trung xây dựng và kiện toàn nhà nước xã hội chủ
nghĩa theo hướng tăng cường vai trò, hiệu lực của nhà nước về tổ chức và quản
lý kinh tế, văn hóa xã hội. Xác định rõ vai trị nhà nước - là cơng cụ thực hiện
quyền lực chính trị của nhân dân, tiến hành tổ chức xây dựng kinh tế nâng cao
đời sống nhân dân lao động. “Nhà nước chun chính vơ sản của ta phải là nhà
nước của dân, do dân và vì dân, một tổ chức đủ năng lực tiến hành ba cuộc cách
mạng (cách mạng quan hệ sản xuất, cách mạng khoa học kỹ thuật, cách mạng tư
tưởng văn hóa), xây dựng chế độ mới, nền kinh tế mới, nền văn hóa mới và con
người mới, bảo vệ lợi ích chính đáng của nhân dân lao động” [2, tr.61].
Để thực hiện vai trị đó - Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ IV đã xác định
từng bước thực hiện hệ thống quản lý kinh tế, nhằm vào những vấn đề quan
8


trọng nhất là tổ chức lại nền sản xuất xã hội trong phạm vi cả nước; cải tiến
phương thức quản lý kinh tế lấy kế hoạch làm chính; kiện tồn bộ máy quản lý
kinh tế [2, tr.61].
Vai trò nhà nước thể hiện rõ trong quản lý nền kinh tế bằng kế hoạch hóa
tồn bộ nền kinh tế quốc dân, quản lý nền kinh tế tập trung thống nhất từ trung
ương đến địa phương.
Tuy nhiên, với cơ chế quản lý kinh tế tập trung quan liêu bao cấp, cùng
với sai lầm khuyết điểm nóng vội, chủ quan duy ý chí, can thiệp vào tất cả các
hoạt động kinh tế (trói buộc các chủ thể kinh tế trong một cơ chế quản lý, kế
hoạch hóa sản xuất cứng nhắc), kết quả là sản xuất trì trệ, dẫn đến khủng hoảng
kinh tế - xã hội.
Nhận thức được những sai lầm khuyết điểm trên, bắt đầu từ Đại hội

Đảng toàn quốc lần thứ V (3/1982), Đảng Cộng sản Việt Nam bước đầu đề ra và
từng bước thực hiện đổi mới chính sách kinh tế và quản lý kinh tế. Xác định nền
kinh tế gồm nhiều thành phần, nhiều trình độ kỹ thuật, nhiều quy mơ hoạt động,
nhiều loại hình sản xuất kinh doanh và đang có nhiều mất cân đối gay gắt. Do
đó, thích ứng với nền kinh tế ấy phải có cơ chế quản lý năng động, có khả năng
xóa bỏ tập trung quan liêu, bảo thủ trì trệ và bao cấp tràn lan, thực hiện đúng
nguyên tắc tập trung dân chủ. Cơ chế quản lý mới phải mở rộng quyền chủ động
cho cơ sở, địa phương và ngành, đồng thời bảo đảm cho trung ương nắm chắc
những khâu cần quản lý. Lấy kế hoạch nhà nước làm trung tâm, đòn bẩy, vận
dụng các quan hệ thị trường - thị trường có tổ chức... [2, tr.72-73].
Thực hiện chủ trương đó, vai trị nhà nước trong kinh tế cũng từng bước
được chuyển đổi, từ quyết định toàn bộ các hoạt động kinh tế chuyển dần sang
quản lý kinh tế ở tầm vĩ mô.
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI, quyết tâm thực hiện đường lối đổi
mới toàn diện trên mọi lĩnh vực. Trước hết là đổi mới kinh tế, đồng thời với từng
bước đổi mới kinh tế là đổi mới chính trị - trọng tâm là đổi mới vai trò nhà nước
trong quản lý kinh tế. Thực hiện nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận
hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội
9


chủ nghĩa với cơ chế quản lý kinh tế hạch tốn kinh doanh xã hội chủ nghĩa. Vai
trị nhà nước chuyển hẳn từ can thiệp sâu vào các hoạt động kinh tế sang quản lý
kinh tế vĩ mô bằng các cơng cụ: Kế hoạch; pháp luật; chính sách và sức mạnh
kinh tế của các doanh nghiệp nhà nước. Báo cáo chính trị Đại hội VI xác định
rõ: Cơ chế quản lý của nhà nước đối với lĩnh vực kinh tế đó là quản lý hành
chính - kinh tế, đối với xã hội là quản lý hành chính - xã hội. Song cần thấy
rằng, đây khơng phải là thứ hành chính quan liêu mà là quản lý hành chính phản
ánh đúng các quan hệ xã hội khách quan thành những mệnh lệnh hành chính có
tính bắt buộc chung cho mọi người tuân theo - Nhà nước quản lý bằng các thể

chế nhà nước trong mọi lĩnh vực.
Trong lĩnh vực kinh tế, Nghị quyết nhấn mạnh: phân biệt rõ chức năng
của các cơ quan nhà nước (các bộ, các tổng cục...) là quản lý hành chính - kinh
tế với chức năng của các đơn vị kinh tế cơ sở là quản lý sản xuất kinh doanh.
Lâu nay do lẫn lộn chức năng này nên có tình trạng “các cơ quan quản lý hành
chính - kinh tế can thiệp sâu vào hoạt động sản xuất, kinh doanh của các đơn vị
cơ sở nhưng lại khơng chịu trách nhiệm gì về các quyết định của mình; các đơn
vị ở cơ sở mất quyền tự chủ, lại bị ràng buộc trách nhiệm với kết quả sản xuất
kinh doanh. Vì vậy, xảy ra tình trạng người làm nhiều bị khuyết điểm nhiều,
người làm ít bị ít khuyết điểm, hạn chế tính năng động sáng tạo của cơ sở, ỷ lại
vào kế hoạch, mệnh lệnh bên trên. Tiêu chí đánh giá về hiệu lực của bộ máy nhà
nước bị sai lệch, các cơ quan nhà nước buông lơi, khơng thực hiện chức năng
quản lý hành chính - kinh tế của mình.
Đổi mới tư duy kinh tế theo tinh thần Nghị quyết Đại hội VI của Đảng
đòi hỏi nhà nước phải tập trung thực hiện chức năng quản lý kinh tế của mình theo các nhiệm vụ:
Xây dựng kịp thời chính sách, cân đối các kế hoạch kinh tế dài hạn và kế
hoạch kinh tế hàng năm cho sự phát triển kinh tế - xã hội. Với nước ta, phải xây
dựng chiến lược kinh tế - xã hội cho một thời kỳ phát triển tương đối dài - thời
kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
10


Xây dựng hệ thống pháp luật, chính sách, chế độ, thể lệ, định mức...
trong quản lý kinh tế.
Xây dựng cơ chế quản lý mới và hệ thống tổ chức quản lý kinh tế phù
hợp với cơ chế đó, nhằm phát huy mạnh mẽ quyền chủ động trong sản xuất kinh
doanh của các đơn vị cơ sở.
Đào tạo đội ngũ cán bộ quản lý kinh tế, cán bộ khoa học kỹ thuật, cơng
nhân kỹ thuật có đủ phẩm chất năng lực...
Đại hội VII, VIII của Đảng tiếp tục đổi mới và nâng cao quá trình nhận

thức về phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Thực hiện
kinh tế nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà
nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa là chính sách nhất quán của Đảng. Đi
đôi với phát triển kinh tế thị trường không thể tách rời với việc xây dựng và vận
hành có hiệu quả cơ chế quản lý mới “cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà
nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa”.
Nghị quyết Đại hội VIII của Đảng đã khẳng định:
Sản xuất hàng hóa khơng đối lập với chủ nghĩa xã hội, mà là thành tựu
phát triển của nền văn minh nhân loại, tồn tại khách quan, cần thiết cho công
cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Trong nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần ở nước ta, thị trường theo
định hướng xã hội chủ nghĩa là một thể thống nhất với nhiều lực lượng tham gia
sản xuất lưu thơng, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, thị trường
trong nước gắn với thị trường thế giới.
Thị trường vừa là căn cứ, vừa là đối tượng của kế hoạch. Kế hoạch nhà
nước từ chỗ mang tính pháp lệnh thì hiện nay chủ yếu mang tính định hướng và
đặc biệt quan trọng trên bình diện vĩ mơ. Thị trường có vai trị trực tiếp hướng
dẫn các đơn vị kinh tế lựa chọn lĩnh vực hoạt động và phương án tổ chức sản
xuất kinh doanh.
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta yêu cầu tất yếu
phải nâng cao năng lực tự chủ của các chủ thể sản xuất kinh doanh, đồng thời
xác lập đầy đủ vai trò quản lý vĩ mô của nhà nước nhằm phát huy tác dụng đi
11


đơi với ngăn ngừa hạn chế tiêu cực của nó. Điều đó đã được Đảng ta xác định
như là vấn đề có tính ngun tắc trong đổi mới kinh tế và đổi mới nhận thức về
vai trò nhà nuớc trong kinh tế thị trường: “Nhà nước quản lý thị trường bằng
pháp luật, kế hoạch, chính sách, các cơng cụ địn bẩy kinh tế và các nguồn lực
của khu vực kinh tế nhà nước” [1, tr.60].

Để thực hiện các chủ trương đó, nhà nước phải tăng cường vai trị quản
lý của mình, xây dựng các thể chế kinh tế phù hợp với các quan hệ kinh tế thị
trường. Nhà nước phải tạo lập đồng bộ các yếu tố của thị trường, các loại hình
thị trường như: thị trường hàng hóa - dịch vụ; thị trường lao động; thị trường bất
động sản; thị trường vốn; thị trường tài chính, tiền tệ...
Nhà nước phải hoàn chỉnh hệ thống pháp luật về kinh tế, tạo hành lang
pháp lý cho các chủ thể kinh tế hoạt động sản xuất kinh doanh. Pháp luật phải
thực sự trở thành công cụ để nhà nước quản lý nền kinh tế.
Cùng với hệ thống pháp luật đồng bộ, nhà nước phải tiếp tục đổi mới cơng
tác kế hoạch hóa điều tiết nền kinh tế thị trường hướng theo mục tiêu cơng nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước. Hệ thống kế hoạch phải quán triệt đường lối chủ trương
của Đảng, đưa ra các mục tiêu vĩ mô, xác định tốc độ phát triển, cơ chế và các cân
đối lớn, xác định chính sách, giải pháp để dẫn dắt thị trường hoạt động theo hướng
phát huy mặt tích cực hạn chế mặt tiêu cực của kinh tế thị trường.
Nhà nước phải thực hiện tốt các chức năng định hướng sự phát triển
bằng cách đổi mới và hoàn thiện các thể chế tài chính, tiền tệ, trực tiếp đầu tư
vào một số lĩnh vực mà tư nhân không muốn đầu tư hoặc khơng thể kinh doanh
được, một số lĩnh vực có vai trò dẫn dắt nền kinh tế phát triển theo định hướng
xã hội chủ nghĩa, thiết lập khuôn khổ pháp luật; hoạch định hệ thống chính sách
nhất qn, tạo mơi trường thể chế ổn định thuận lợi cho sản xuất kinh doanh;
khắc phục những hạn chế của kinh tế thị trường; phân phối và phân phối lại thu
nhập quốc dân, bảo đảm về mặt xã hội cho công dân.
Thực chất chức năng của nhà nước theo quan điểm của Đảng ta: Nhà
nước vừa là chủ thể kinh tế vừa là cơ quan duy nhất có quyền lực quản lý nhà
nước nền kinh tế, định hướng và điều tiết nền kinh tế phát triển theo định hướng
12


xã hội chủ nghĩa. Sự thành bại trong quá trình quản lý, điều tiết trong nền kinh tế
thị trường của nhà nước xã hội chủ nghĩa sẽ quyết định quy mơ năng lực của nó

trong đời sống chính trị xã hội và tính định hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh
tế nước ta.
1.3. Đánh giá khái quát việc thực thi vai trò quyền lực Nhà nước
trong kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta
* Thành tựu
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước đã tích cực đổi mới quan điểm và
phương pháp theo hướng tăng cường vai trò quyền lực trong quản lý kinh tế xã
hội và đã đạt được những bước tiến quan trọng:
Nhà nước đã đổi mới nhận thức, từng bước phát triển hệ thống quan
điểm, nguyên tắc cơ bản về xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của
dân, do dân và vì dân.
Hiến pháp năm 1992 và nhiều thể chế, bộ luật, luật, pháp lệnh về kinh tế
đã được đổi mới và ban hành, tạo khuôn khổ pháp lý cho các hoạt động kinh tế,
thơng qua đó quyền lực nhà nước được thực thi trên thực tế và giảm bớt được tệ
mệnh lệnh hành chính quan liêu.
Hệ thống thể chế và pháp luật kinh tế ngày càng đồng bộ hơn và hồn
thiện hơn đã tạo mơi trường cho các chủ thể kinh tế và công dân tự do sản xuất
kinh doanh (theo pháp luật) tạo ra sự phát triển của lực lượng sản xuất tăng
trưởng kinh tế, cải thiện đời sống nhân dân, quan hệ xã hội lành mạnh và giữ
được ổn định chính trị - xã hội, quốc phòng an ninh được đảm bảo.
Điều tiết và quản lý nền kinh tế có hiệu quả hơn, kinh tế phát triển, chính
quyền nhà nước được củng cố từ trung ương đến địa phương, nhà nước nắm
được dân, và dân tin tưởng hơn vào sự lãnh đạo của Đảng, làm theo chính sách
và pháp luật của nhà nước.
Quyền lực nhà nước được củng cố và tăng cường về chất, dân chủ mở
rộng vì vậy quyền lực chính trị của nhân dân được thực hiện tốt hơn trên thực tế,
thông qua quyền lực nhà nước, tạo mơi trường chính trị ổn định và phát triển.
* Hạn chế
13



Bên cạnh những thành tựu đạt được, việc thực thi quyền lực nhà nước
cịn bộc lộ những thiếu sót, khuyết điểm:
Những nhận thức về vai trò nhà nước trong cơ chế cũ vẫn còn ảnh hưởng
nặng, chưa khắc phục được tệ quan liêu, mệnh lệnh hành chính một cách triệt
để. Tình trạng quan liêu, cửa quyền, tham nhũng, vi phạm quyền dân chủ của
nhân dân vẫn tồn tại, thậm chí đặc biệt nghiêm trọng trở thành điểm nóng ở
chính quyền một số địa phương.
Quản lý nhà nước chưa thuần thục và chưa ngang tầm với đòi hỏi của
thời kỳ phát triển mới của kinh tế thị trường, năng lực thể chế còn hạn chế, pháp
luật chưa được thực hiện nghiêm, cịn tình trạng bng lỏng, vơ chính phủ, chưa
thực sự lường hết và hạn chế được những tiêu cực của kinh tế thị trường, dẫn
đến phát sinh một số căng thẳng trong đời sống chính trị - xã hội.
Quản lý kinh tế của các cơ quan chức năng và cán bộ cịn chồng chéo.
Hệ thống thể chế, luật pháp, chính sách kinh tế còn thiếu cập nhật, chưa
thật đồng bộ, chậm điều chỉnh và hoàn thiện.
II. MỘT SỐ GIẢI PHÁP CƠ BẢN ĐỂ TĂNG CƯỜNG VAI TRÒ
CỦA NHÀ NƯỚC TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG
XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
2.1. Xác định đúng vai trò Nhà nước trong nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa
Thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, những năm qua chúng ta đã từng
bước chuyển nền kinh tế từ cơ chế cũ sang cơ chế thị trường. Theo hướng đó,
vai trị nhà nước đã từng bước chuyển đổi từ chỉ huy mệnh lệnh hành chính sang
quản lý hành chính nền kinh tế. Với việc xác định đúng vai trị nhà nước trong
kinh tế thị trường đã góp phần quan trọng khắc phục khủng hoảng kinh tế - xã
hội và đã đạt được tăng trưởng kinh tế, cải thiện được đời sống nhân dân.
Tuy nhiên, trong quá trình đổi mới vẫn còn tồn tại những quan điểm
nhận thức lệch lạc về vai trò nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa ở nước ta, dẫn đến trong tổ chức thực hiện ở một bộ phận cán

14


bộ công chức vẫn nặng về quan liêu mệnh lệnh, can thiệp quá sâu, thậm chí làm
thay cho các doanh nghiệp...
Những sai lầm đó, xuất phát từ những ý kiến cho rằng chỉ trong nền kinh
tế kế hoạch hóa tập trung bao cấp, khi bộ máy nhà nước là người trực tiếp tổ
chức và điều khiển nền sản xuất xã hội với hệ thống kế hoạch chỉ tiêu pháp lệnh
và mệnh lệnh hành chính thì mới cần đến vai trị quản lý, điều hành của nhà
nước, còn trong cơ chế thị trường thì cứ để cho các thành phần kinh tế phát triển
tự do, thị trường sẽ định hướng, dẫn dắt cả người sản xuất kinh doanh lẫn người
tiêu dùng. Quan niệm như vậy, dường như đã lặp lại quan điểm “Nhà nước tối
thiểu và thị trường tối đa”, Với quan điểm đó, tất yếu dẫn đến tình trạng bng
lỏng quản lý nhà nước, làm xuất hiện tình trạng thả nổi, vơ chính phủ, để những
mặt tiêu cực của kinh tế thị trường phát triển, tạo cơ hội cho những kẻ thối hóa
biến chất và các thế lực xấu lũng đoạn thị trường, đục khoét tài sản của nhà nước
và nhân dân như vừa qua. Mặt khác, làm cho tình trạng quan liêu, cửa quyền,
mất dân chủ, thủ tục rườm rà, qua nhiều khâu, nhiều nơi vẫn đang tiếp tục hạn
chế sự phát triển của lực lượng sản xuất gây khơng ít khó khăn cho các hoạt
động sản xuất kinh doanh và làm cho nhân dân bất bình với Đảng với Nhà nước
như ở một số địa phương có “điểm nóng” vừa qua.
Tuy nhiên, bên cạnh đó, một số ý kiến cho rằng trong kinh tế thị trường,
Nhà nước chỉ cần quản lý kinh tế ở tầm vĩ mô, không can thiệp sâu vào q trình
kinh tế, cịn các doanh nghiệp, các cơ sở kinh tế muốn làm gì thì làm, nghĩa là tự
chủ động xử lý một cách khôn khéo và có lợi nhất.
Quan điểm này, mới chỉ dừng lại ở lối suy luận logic hình thức và là một
nhận thức không đầy đủ về quản lý vĩ mô.
Thực tiễn những năm đổi mới cho chúng ta thấy: “Đúng là chúng ta vẫn
đang còn nắm quá chặt những cái cần mở rộng; Đồng thời lại đang buông lỏng
những cái cần phải nắm” [4, tr.14].

Theo chúng tôi, phải khắc phục những nhận thức không đúng trên và
phải thống nhất nhận thức đúng đắn hơn về vai trò nhà nước trong nền kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay. Đây là vấn đề không
15


chỉ có ý nghĩa về mặt lý luận mà cả với thực tiễn hiện nay trong việc tăng cường
vai trò nhà nước trong kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta
hiện nay.
Thực tiễn cho chúng ta thấy, nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa rất cần đến vai trò nhà nước, nhưng khơng phải một vai trị nhà nước
theo những quan niệm trên mà là một nhà nước xã hội chủ nghĩa pháp quyền của
dân, do dân và vì dân. “Quá trình chuyển đổi cơ chế hiện nay không cho phép
chúng ta tiếp tục quản lý theo lối cũ mà đòi hỏi phải đổi mới nhận thức, quan
niệm cũng như tổ chức và phương thức hoạt động của nhà nước” [4, tr.14].
Việc tổ chức và phương thức hoạt động với các chức năng của nhà nước
ta phải xem xét từ bản chất của nhà nước xã hội chủ nghĩa pháp quyền của dân,
do dân và vì dân, chứ khơng phải sự vay mượn hoặc áp đặt.
Theo tinh thần đó, trên cơ sở quan điểm của Đảng chúng ta cần nhận
thức chức năng của nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa ở nước ta như sau:
Trước hết, nhà nước phải tạo lập được các thể chế, hệ thống pháp luật,
tạo môi trường lành mạnh cho các hoạt động sản xuất kinh doanh, thiết lập đồng
bộ các yếu tố và cơ chế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Đồng thời, nhà nước phải định hướng phát triển xã hội thơng qua việc
hoạch định các chính sách lâu dài, được cụ thể hóa thành các chương trình, kế
hoạch xây dựng phát triển kinh tế - xã hội nhằm thúc đẩy tăng trưởng kinh tế đi
đôi với công bằng và tiến bộ xã hội.
Cùng với chức năng tạo điều kiện và định hướng phát triển kinh tế - xã hội,
nhà nước phải điều tiết, quản lý nền kinh tế bằng các công cụ vĩ mô (kế hoạch,

pháp luật, chính sách). Kiểm sốt được nền kinh tế, ngăn ngừa những tiêu cực, mặt
trái của cơ chế thị trường, tích cực giải quyết những vấn đề xã hội...
Song song với việc thực hiện chức năng quản lý xã hội, nhà nước ta còn
là người đại diện cho nhân dân thực hiện vai trò sở hữu đối với tài sản thuộc sở
hữu toàn dân. Sử dụng các doanh nghiệp nhà nước trong việc đảm bảo hàng hóa
và dịch vụ cơng cộng. Coi đó là một trong những cơng cụ điều tiết vĩ mô quan
16


trọng. Đây là một chức năng đặc thù của nhà nước ta, nắm giữ những bộ phận
then chốt để chi phối nền kinh tế theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Nhà nước không chỉ quản lý điều tiết nền kinh tế bằng sức mạnh chính
trị mà cịn bằng sức mạnh kinh tế - “Nhà nước có vai trị nịng cốt, thực hiện
quản lý nhà nước, tổ chức cho dân làm trong điều kiện cụ thể, tham gia cùng
làm với dân, cũng khơng khốn trắng” [4, tr.14].
Nói tóm lại, trong nền kinh tế thị trường với tư cách vừa là chủ thể quản
lý, vừa là chủ thể kinh tế, nhà nước đóng vai trị là người “tạo ra sân chơi, luật
chơi, tổ chức cuộc chơi và làm trọng tài các cuộc chơi”. Để các chủ thể kinh tế
tham gia cuộc chơi (sản xuất kinh doanh) một cách tin cậy, công bằng, hiệu quả.
Nhà nước cần có sự quản lý hành chính khơng chỉ “nền kinh tế mà cịn
với tồn xã hội” nhưng không cần thiết quản lý kinh tế nền kinh tế thị trường nói
chung mà chỉ quản lý các xí nghiệp thuộc nhà nước mà thơi. Vì vậy, trong nền
kinh tế thị trường, nhà nước quản lý là quản lý hành chính nền kinh tế chứ
khơng phải là trực tiếp quản lý sản xuất kinh doanh.
2.2. Đổi mới nâng cao chất lượng hoạt động của thể chế Nhà nước
* Cơ quan lập pháp
Chúng ta biết rằng, cơng cụ có ưu thế trong quản lý kinh tế thị trường là
hệ thống pháp luật nhà nước. Đối với nền kinh tế thị trường ở nước ta thì xây
dựng hệ thống pháp luật hồn chỉnh càng có ý nghĩa quan trọng và cấp bách. Hệ
thống pháp luật này sẽ quyết định việc điều chỉnh hành vi, chuẩn mực hoạt động

sản xuất kinh doanh của các chủ thể kinh tế.
Hệ thống pháp luật hoàn chỉnh đảm bảo hịa bình cơng dân, các quyền sở
hữu và tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh, cạnh tranh hợp pháp, đấu tranh
chống độc quyền, chống đầu cơ và các loại tội phạm kinh tế.
Trong nền kinh tế thị trường, cạnh tranh vừa là một động lực vừa tạo ra
nguy cơ mất ổn định thị trường. Cạnh tranh khơng hợp pháp dễ dẫn đến độc
quyền, nhóm độc quyền.
Kinh nghiệm trên thế giới cho thấy, để giảm bớt được khuynh hướng trên
cần phải mở rộng thương mại quốc tế và bên trong, nhà nước phải tạo ra những
17


bộ luật chống lại những âm mưu thỏa thuận giá độc quyền, sự cản trở và phá
hoại của những nhà độc quyền đối với những xí nghiệp mới ra đời có khả năng
cạnh tranh.
Vì vậy, để bảo đảm các hoạt động sản xuất kinh doanh diễn ra bình
thường thì khơng thể khơng có một hệ thống pháp luật đồng bộ và dầy đủ. Trong
phạm vi này, nhà nước là người duy nhất tạo ra các luật chơi để các chủ thể kinh
tế được tham gia cuộc đua một cách bình đẳng.
Tuy nhiên, làm như thế nào để nhà nước tạo ra được hệ thống luật pháp
phù hợp với kinh tế thị trường mà khơng làm giảm đi vai trị nhà nước. Giải
pháp duy nhất là phải không ngừng đổi mới các quá trình hoạt động lập pháp.
* Cơ quan hành pháp
Để quản lý và điều tiết kinh tế một cách hiệu quả, chính phủ phải đẩy
mạnh đổi mới hoạt động quản lý nhà nước về kinh tế của mình. “Chính phủ và
bộ máy hành chính nhà nước vừa thống nhất quản lý việc thực hiện các nhiệm
vụ chính trị, kinh tế, văn hóa xã hội, quốc phịng an ninh và đối ngoại theo đúng
chức năng phù hợp và cơ chế mới” [3, tr.50].
Khác với trước đây, can thiệp quá sâu vào các hoạt động kinh tế, chính
phủ phải tập trung vào quản lý kinh tế - xã hội theo pháp luật, giữ gìn ổn định

chính trị xã hội và trật tự kỷ cương, xây dựng kết cấu hạ tầng và những ngành
kinh tế then chốt, bảo đảm môi trường và điều kiện chung cho các chủ thể kinh
tế và công dân sản xuất kinh doanh theo luật.
Thông qua các công cụ vĩ mơ và vai trị kinh tế của nhà nước để nhà
nước quản lý thị trường, điều tiết thu nhập, bảo đảm tăng trưởng kinh tế với thực
hiện công bằng xã hội thúc đẩy sự phát triển đồng đều giữa các vùng, các tầng
lớp dân cư.
Tăng cường kiểm kê kiểm soát sản xuất và phân phối quản lý sử dụng
vốn và tài sản công với tư cách đại diện chủ sở hữu nhà nước, khắc phục tình
trạng vơ chủ như trước đây, đẩy lùi tham nhũng...
Kết hợp chặt chẽ kinh tế với quốc phòng, mở rộng quan hệ đối ngoại...
18


Như vậy, chính phủ đóng vai trị là người duy trì thực hiện luật pháp, tạo
ra các cuộc “thi đấu” để các chủ thể sản xuất kinh doanh tham gia vào cuộc cạnh
tranh, và bằng sức mạnh kinh tế của mình cùng với tư cách là người tham gia
các cuộc chơi tạo sự thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
Hệ thống chính quyền phải bảo đảm thống nhất từ trung ương đến cơ sở
thực hiện thống nhất chức năng quản lý hành chính chứ khơng có chính quyền
nhà nước ở địa phương. Đẩy mạnh việc hoạch định chính sách, cụ thể hóa luật
pháp thành các thể chế kinh tế thị trường để bảo đảm duy trì thực hiện cạnh
tranh bình đẳng giữa các chủ thể kinh tế.
Về cải cách thể chế hành chính, phải chuyển mạnh mẽ theo hướng xây
dựng, hồn thiện hệ thống thể chế mới của thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa
(tài chính, ngân hàng, tín dụng...). Phải tạo được động lực mới cho thúc đẩy các
hoạt động sản xuất kinh doanh phát triển. Thực hiện đổi mới trên tất cả các thể
chế kinh tế theo hướng tập trung vào tháo gỡ, giải phóng nội lực trong nước,
trong dân, khai thác nguồn lực quốc tế, kết hợp nội lực bên trong và ngoại lực
quốc tế để chuyển mạnh sang kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.

Khắc phục tình trạng bất bình đẳng trong cạnh tranh giữa nhà nước và tư nhân.
Các thể chế mới phải bảo đảm hướng mạnh vào đảm bảo cuộc sống, quyền lợi
của các chủ thể kinh tế và công dân, tạo khung cơ chế, chính sách để các chủ thể
kinh tế và công dân được tự do, chủ động trong làm ăn kinh tế, được thuận lợi
trong hưởng thụ các dịch vụ chăm sóc sức khỏe, phúc lợi... Cải cách hành chính
phải làm lành mạnh các quan hệ cơ bản giữa hành chính với doanh nghiệp, khắc
phục bằng được tình trạng thủ tục hành chính rườm rà trong kinh tế, chấm dứt
tình trạng “phép vua thua lệ làng”.
Trong tổ chức chỉ đạo của Chính phủ cần phải làm rõ chức năng của Chính
phủ và các bộ ngành, bộ máy hành chính trong quản lý kinh tế - xã hội và cung cấp
dịch vụ cho dân. Phân rõ trách nhiệm từng ngành, từng cán bộ, cơng chức...
Chính phủ, bộ, ngành nên tập trung vào xây dựng thể chế, hoạch định
chính sách vĩ mô và thực hiện chức năng kiểm tra, thanh tra; trực tiếp quản lý và
cung cấp một số hàng hóa và dịch vụ cơng cộng ở tầm quốc gia.
19


Nói tóm lại, để đổi mới được thể chế hành pháp, phải đổi mới đồng bộ chức
năng quản lý và điều tiết kinh tế, không can thiệp vào các hoạt động sản xuất kinh
doanh, Chính phủ phải tạo sân chơi cho chính mình và các chủ thể kinh tế, đồng
thời bằng sức mạnh kinh tế của mình tham gia cuộc chơi một cách bình đẳng để
thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, hạn chế những thất bại của kinh tế thị trường.
* Cơ quan tư pháp
Trong nền kinh tế thị trường mặt khiếm khuyết thường thấy là tình trạng
cạnh tranh khốc liệt dẫn tới độc quyền, bất chấp các thể chế luật pháp. Vì vậy
hoạt động tư pháp là nhằm tập trung bảo vệ nền móng pháp luật, bảo vệ quyền
sản xuất kinh doanh của các chủ thể kinh tế theo luật pháp. Hoạt động tư pháp
của nhà nước phải là người trọng tài giải quyết những tranh chấp về kinh tế và
chống các hành động độc quyền, bảo vệ quyền sở hữu tài sản hợp pháp của các
chủ thể và chống lại mọi hình thức tước đoạt, ăn cắp tài sản.

Kinh nghiệm thế giới cho thấy, các nhà đầu tư tư nhân thường phàn nàn
về việc thiếu cơ sở hạ tầng thể chế cơ bản nhất cho một nền kinh tế thị trường.
Một khoảng trống về thể chế dường như phổ biến ở một số nước, dẫn đến tội ác,
bạo lực và tình trạng mất an ninh về quyền sở hữu tài sản. Ở Mỹ Latinh, các
nước Xahara châu Phi, cộng đồng các quốc gia độc lập (SNG), Trung và Đông
Âu, gần 80% số nhà doanh nghiệp cho hay là họ thiếu tin tưởng rằng các nhà
chức trách sẽ bảo vệ con người và tài sản của họ thoát khỏi bọn tội phạm.
Người ta đặt ra câu hỏi: Liệu cơ quan tư pháp có thực thi những quy tắc
một cách độc đốn khơng, và liệu sự khơng thể đốn biết trước có là một vấn đề
đối với việc cải cách không.
Tại các nước đang phát triển, hơn 70% số các nhà doanh nghiệp nói rằng
tình trạng khơng thể đốn biết trước được của hoạt động tư pháp là một vấn đề
lớn trong các hoạt động sản xuất kinh doanh của họ [5, tr.53].
Một cơ quan tư pháp hoạt động tốt là trụ cột trung tâm của sự thắng lợi
luật pháp. Nếu như thiếu sự tin cậy sẽ làm giảm đầu tư, hạn chế tăng trưởng và
giảm lợi nhuận của các dự án phát triển. Vì các nhà đầu tư tư nhân trong và ngồi
nước sẽ khơng tin là nhà nước sẽ thực thi các quy tắc của trị chơi, nó sẽ phản ứng
20


theo nhiều cách và đều làm xấu đi kết quả thực hiện kinh tế. Một cơ quan tư pháp
không đáng tin cậy sẽ buộc các nhà doanh nghiệp phải dựa vào các thỏa thuận
khơng chính thức và những cơ chế “bắt buộc” và như vậy các nhà đầu tư sẽ
chuyển tài chính đến các nước khác, hoặc khơng đầu tư để tiền nhàn rỗi.
Một vấn đề có tính thời sự cấp bách hiện nay là, chúng ta phải nhanh
chóng hồn thiện hệ thống pháp luật kinh tế, đồng bộ và có hiệu lực thi hành đi
đơi với việc đào tạo bồi dưỡng xây dựng một đội ngũ cán bộ ngành tư pháp
trong sạch vững mạnh, có đủ năng lực để làm trọng tài giải quyết trong các vụ
tranh chấp về kinh tế. Đồng thời khắc phục triệt để cơ chế “xin cho”, tăng cường
kiểm tra giám sát, xử lý nghiêm cán bộ tham nhũng tiêu cực.

Nói tóm lại, trong nền kinh tế chuyển đổi từ bao cấp sang thị trường, yêu
cầu quan trọng nhất là phải khắc phục “khoảng trống” về quyền lực tư pháp,
nghĩa là phải nhanh chóng có một hệ thống thể chế xét xử phù hợp với các quan
hệ thị trường thì mới bảo đảm tăng trưởng kinh tế đồng thời bảo đảm định
hướng xã hội chủ nghĩa.
2.3. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và xã hội
Mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, cơng bằng, văn minh”
quy định tính tất yếu phải định hướng chính trị trong nền kinh tế thị trường ở
nước ta. Khả năng định hướng xã hội chủ nghĩa nền kinh tế thị trường nước ta
có trở thành hiện thực hay không, trước hết phụ thuộc vào sự lãnh đạo của Đảng,
vai trò Nhà nước trong phát triển kinh tế. Sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà
nước và xã hội là nhân tố quyết định bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa của
nền kinh tế thị trường cũng như sự nghiệp phát triển của đất nước.
Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước là nhằm giữ vững
bản chất giai cấp công nhân, phát huy vai trò của Nhà nước, bảo đảm cho mọi
quyền lực thuộc về nhân dân, Nhà nước là người đại diện đưa công cuộc đổi mới
đi đúng định hướng xã hội chủ nghĩa.
Để tăng cường được sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và xã hội
trong giai đoạn hiện nay mà trọng tâm là lãnh đạo kinh tế cần phải:
21


Trước hết, Đảng phải đề ra được cương lĩnh, đường lối, quan điểm, chiến
lược và sách lược kinh tế trên cơ sở căn cứ khoa học, phù hợp với thực tiễn nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Sự hình thành đường
lối quan điểm chính sách kinh tế cũng như sự cụ thể hóa định hướng xã hội chủ
nghĩa trong lĩnh vực kinh tế của Đảng phải trên cơ sở trí tuệ, nhận thức các quy
luật kinh tế khách quan, xuất phát từ nhận thức sâu sắc và đánh giá đúng thực
trạng nền kinh tế - xã hội đất nước, từ ý nguyện và hành động đơng đảo của
quần chúng, từ việc tìm ra những khuyết điểm trong lãnh đạo kinh tế. Cương

lĩnh chiến lược kinh tế của Đảng có đúng hay khơng cịn do thực tiễn kiểm
nghiệm, vì thế Đảng phải kết hợp tư duy lý luận khoa học với tổng kết thực tiễn
sinh động của nền kinh tế. Phải bám sát thực tiễn, đánh giá tình hình thực tiễn
trên cơ sở phân tích các mâu thuẫn kinh tế - xã hội và kinh nghiệm, tổng kết
thực tiễn để kiểm chứng, hoàn thiện cương lĩnh, chiến lược để dự báo một cách
khoa học, chính xác về sự phát triển kinh tế thị trường nước ta.
Thứ hai, Đảng phải thường xuyên lãnh đạo nhà nước cụ thể hóa, thể chế
hóa các quan điểm, đường lối, chính sách kinh tế của mình thành các thể chế,
pháp luật, cơ chế, chính sách kinh tế. Cương lĩnh, đường lối của Đảng tự nó
khơng thể thực hiện được trong hiện thực mà phải thông qua hoạt động của Nhà
nước, thể hiện trong Hiến pháp, pháp luật và các quyết định, thông tư, chỉ thị...
và hoạt động quản lý điều hành của Nhà nước. Đó là lý do tồn tại, là chức năng
cực kỳ quan trọng của Đảng cầm quyền. Nhà nước với tư cách là công cụ quyền
lực chính trị tối cao để thực hiện cụ thể hóa đường lối của Đảng, ý chí của nhân
dân lao động thành những chuẩn mực để quản lý và điều tiết kinh tế - xã hội. Vì
vậy, các cấp các ngành, nhân dân, các chủ thể kinh tế... thực hiện chính sách luật
pháp kinh tế của Nhà nước tức là thực hiện đường lối kinh tế của Đảng. Song
cần nhận thức đúng, sự lãnh đạo kinh tế của Đảng và hiệu lực quản lý kinh tế
của nhà nước là hai mặt thống nhất nhưng có vai trị chức năng khác nhau. Đây
là cơ quan lãnh đạo chứ không phải là cơ quan quản lý nhà nước, không phải là
cơ quan nhà nước cao nhất, cũng không phải là một tổ chức “siêu nhà nước”.
Đảng lãnh đạo nhưng khơng phải cái gì cũng trực tiếp làm. Tình trạng “Đảng
22


biến thành Nhà nước” làm cho Đảng trở thành trung tâm hành chính phục vụ,
biến cán bộ thành những người nắm quyền lực nhà nước sẽ dẫn đến hậu quả là
Đảng khơng thực hiện tốt vai trị lãnh đạo, cơ quan nhà nước ỷ lại, thụ động,
không sáng tạo, làm cho vai trò của Đảng và Nhà nước đều suy giảm.
Vì vậy, cần thiết phải xây dựng đúng, thống nhất nhận thức về vai trò

nhà nước trong nền kinh tế thị trường trong toàn bộ đời sống xã hội, làm cho các
chủ thể kinh tế nhận thức đúng và làm theo pháp luật của nhà nước.
Thứ ba, để tăng cường lãnh đạo đối với Nhà nước và xã hội, Đảng phải
định hướng rõ trong quá trình phát triển kinh tế theo định hướng xã hội chủ
nghĩa. Nghĩa là, các hình thức và phương pháp quản lý nền kinh tế thị trường
được Nhà nước sử dụng như một công cụ, phương tiện để đạt tới nền kinh tế
tăng trưởng cao, bền vững, ổn định nhằm mục tiêu dân giàu nước mạnh, xã hội
cơng bằng, dân chủ, văn minh.
Thực hiện nhiều hình thức phân phối, nhưng phân phối theo kết quả lao
động và hiệu quả kinh tế là chủ yếu. Nhà nước phải điều tiết thu nhập một cách
hợp lý nhằm thu hẹp khoảng cách chênh lệch giàu - nghèo, vừa khuyến khích
lao động, vừa bảo đảm phúc lợi xã hội. Nền kinh tế thị trường ở nước ta phải là
nền kinh tế hướng tới mục tiêu xã hội chủ nghĩa, hạn chế, khắc phục những thất
bại của thị trường, thực hiện các mục tiêu xã hội và nhân đạo. Nhà nước đó phải
là nhà nước xã hội chủ nghĩa pháp quyền của dân, do dân và vì dân.
Thứ tư, Đảng phải là một lực lượng có trình độ trí tuệ cao, nắm vững các
quy luật khách quan của kinh tế thị trường vận dụng sáng tạo vào điều kiện cụ
thể ở nước ta. Để có trình độ trí tuệ cao, Đảng phải nhạy bén, vừa nhận thức
được các quy luật khách quan của kinh tế thị trường, vận dụng sáng tạo chúng,
vừa có năng lực lãnh đạo làm cho các quy luật tác động có hiệu quả vào lĩnh vực
kinh tế. Đảng phải có tri thức, kinh nghiệm mới trong quá trình định hướng
chính trị nền kinh tế thị trường, nâng cao năng lực tổ chức để khơng ngừng hồn
thiện đường lối, chiến lược về kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Đảng phải là người kết tinh, đồng thời phát huy, tập hợp được mọi tiềm năng trí
tuệ các nhà khoa học, các trí thức giỏi trong và ngồi Đảng, sử dụng các chun
gia giúp mình chọn được phương án tối ưu trong lãnh đạo kinh tế, lãnh đạo nhà
23


nước, những quyết định chiến lược của Đảng phải là những sản phẩm của khoa

học có thơng tin, cố vấn, phản biện. Kinh tế thị trường và xu hướng dân chủ hóa
các lĩnh vực của đời sống xã hội khơng chấp nhận vào vị trí lãnh đạo những
người kém hiểu biết về kinh tế thị trường, chỉ biết ra chỉ thị mà không biết cách
tổ chức công việc một cách khoa học và có hiệu quả.
Thứ năm, xây dựng hệ thống tổ chức Đảng vững mạnh trong các cơ quan
nhà nước và chính quyền địa phương. Sự lãnh đạo của Đảng được bảo đảm thông
qua tổ chức Đảng và những đảng viên giữ chức vụ chủ chốt trong các cơ quan nhà
nước, có trách nhiệm đem nghị quyết của Đảng trình bày, thuyết phục, lãnh đạo
các cơ quan nhà nước để các cơ quan này có trách nhiệm thể chế hóa đúng đắn
đường lối, chính sách của Đảng theo thẩm quyền của mình, biến nó thành pháp
luật của Nhà nước. Ở địa phương, các cấp ủy Đảng lãnh đạo chính quyền hoạch
định những chủ trương cụ thể thi hành đường lối, chính sách của Trung ương
Đảng, Chính phủ sát với tình hình, đặc điểm của địa phương. Sự lãnh đạo của
Đảng bằng hệ thống tổ chức Đảng trong các cơ quan nhà nước và chính quyền địa
phương, do vậy phải tăng cường xây dựng các tổ chức Đảng đó trong sạch là yêu
cầu bảo đảm cho tăng cường vai trò Nhà nước từ trung ương tới cơ sở.
Thứ sáu, để tăng cường được vai trò của nhà nước trong kinh tế thị trường
hiện nay, Đảng phải đào tạo và sử dụng đội ngũ cán bộ lãnh đạo kinh tế giỏi. Đảng
chỉ có thể lãnh đạo kinh tế thắng lợi nếu đào tạo và sử dụng được một đội ngũ
cán bộ lãnh đạo và quản lý kinh tế giỏi, thiếu đội ngũ này thì quá trình thực hiện
nền kinh tế thị trường ở nước ta dù có định hướng đúng đắn cũng khơng thể
thành cơng. Việc nâng cao vai trị nhà nước trong kinh tế thị trường phụ thuộc
cốt lõi vào việc sắp xếp sử dụng đội ngũ cán bộ công chức nhà nước có đủ phẩm
chất và năng lực hiện nay là yêu cầu cấp bách. Cán bộ lãnh đạo, quản lý kinh tế
phải được đào tạo bồi dưỡng toàn diện cả về lý luận chính trị, phẩm chất đạo
đức, trình độ chun mơn và năng lực thực tiễn trong kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa.
Hiệu lực, hiệu lực quản lý của nhà nước ta là sự phản ánh trình độ lãnh
đạo của Đảng đối với Nhà nước và xã hội trong sự nghiệp đưa đất nước phát
triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa.

24


KẾT LUẬN
Xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là một
bước phát triển mới về lý luận chủ nghĩa xã hội trong điều kiện mới. NEP của
Lênin đã nêu một tấm gương về nhà nước xã hội chủ nghĩa biết sử dụng kinh tế
thị trường, đồng thời cũng chỉ ra những thách thức, mâu thuẫn của việc kết hợp
giữa nền kinh tế kế hoạch hóa và nền kinh tế thị trường. Nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa địi hỏi cơng tác kế hoạch hóa của Nhà nước xã hội
chủ nghĩa phải dựa trên cơ sở thị trường và thị trường phải làm tiếp thị ở kế
hoạch trong sự thống nhất của nền kinh tế dân tộc với mục tiêu phúc lợi và tiến
bộ xã hội. Nhà nước không làm kế hoạch ở những nơi không cần kế hoạch và
không thể kế hoạch hóa được. Cũng tương tự khơng thể làm thị trường ở nơi
không cần mua bán và không thể mua bán được.
Trong nền kinh tế ấy, Nhà nước xã hội chủ nghĩa sẽ là người thực hiện
chức năng tổ chức quản lý nhà nước nền kinh tế và đời sống xã hội, là người bảo
trợ cho những bất công xã hội do thị trường tạo ra, tạo ra những điều kiện bình
đẳng cho mọi cơng dân tìm kiếm phúc lợi. Nhà nước xã hội chủ nghĩa là người
đóng vai trị chính xây dựng một cấu trúc xã hội mà trong đó các cá nhân - cơng
dân - người lao động chứng tỏ mình tối đa để tạo ra phúc lợi xã hội tối đa. Đó
cũng là tất cả những gì mà chủ nghĩa xã hội muốn vươn tới, nó thể hiện tính chất
căn bản của Nhà nước xã hội chủ nghĩa.

25


×