Tải bản đầy đủ (.docx) (18 trang)

TIỂU LUẬN vai trò của triết học nói chung và triết học mác lê nin nói riêng đối với đời sống

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (121.88 KB, 18 trang )

TRƯỜNG…
KHOA …


TIỂU LUẬN
Chủ đề: VAI TRỊ CỦA TRIẾT HỌC NĨI CHUNG VÀ TRIẾT HỌC
MÁC - LÊNIN NÓI RIÊNG ĐỐI VỚI ĐỜI SỐNG

Họ tên học viên:…………………….
Lớp:…………….,

– 2021


MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU
NỘI DUNG
VAI TRÒ CỦA TRIẾT HỌC ĐỐI VỚI ĐỜI SỐNG
I.
Triết học
1.1.
1.2.
II.

Vai trò của triết học đối với đời sống
VAI TRÒ CỦA TRIẾT HỌC MÁC - LÊNIN ĐỐI
VỚI ĐỜI SỐNG

2.1.
Triết học Mác - Lênin


2.2.
Vai trò của triết học Mác - Lênin đối với đời sống
KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1
2
2
2
3
6
6
7
15
16


MỞ ĐẦU
Triết học ra đời ở cả phương Đông và phương Tây gần như cùng một thời
gian tại một số trung tâm văn minh cổ đại của nhân loại như Trung Quốc, Ấn
Độ, Hy Lạp. Triết học nghiên cứu thế giới bằng phương pháp của riêng mình
khác với mọi khoa học cụ thể, nó xem xét thế giới như một chỉnh thể và tìm
cách đưa ra một hệ thống các quan niệm về chỉnh thể đó. Nghiên cứu khái niệm
và nguồn gốc của triết học cho chúng ta hiểu được Triết học là hệ thống tri thức
lý luận chung nhất của con người về thế giới; về vị trí vai trị của con người
trong thế giới đó. Triết học đóng vai trò hạt nhân lý luận của thế giới quan, giữ
vai trị định hướng cho q trình củng cố và phát triển thế giới quan của mỗi cá
nhân, mỗi cộng đồng người trong lịch sử.
Nghiên cứu vấn đề cơ bản của triết học cho chúng ta hiểu được sự hình
thành các trường phái triết học duy vật và duy tâm trong lịch sử, cũng như hai

phương pháp nghiên cứu đối lập nhau trong lịch sử là phương pháp siêu hình và
phương pháp biện chứng, giúp chúng ta xây dựng được phương pháp biện chứng
trong nhận thức và cải tạo thế giới.
Với chức năng thế giới quan và phương pháp luận, Triết học nói chung và
triết học Mác - Lênin nói riêng trở thành công cụ đắc lực trong hoạt động chế
ngự thiên nhiên và sự nghiệp giải phóng con người của những lực lượng xã hội
tiến bộ. Hiện nay, Việt Nam đang tiếp tục thực hiện kế hoạch hiện đại hố cơng
nghiệp hố đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, vì vậy việc nghiên cứu
Triết học nói chung và triết học Mác - Lênin nói riêng là một địi hỏi cần thiết và
quan trọng. Đó là lý do mà em chọn đề tài “Vai trò của triết học nói chung và
triết học Mác - Lênin nói riêng đối với đời sống” làm đề tài tiểu luận.

3


NỘI DUNG
I. VAI TRÒ CỦA TRIẾT HỌC ĐỐI VỚI ĐỜI SỐNG
1.1. Triết học
Triết học là khoa học nghiên cứu về những vấn đề chung và cơ bản
của con người. Triết học xuất hiện cả ở phương Đông và phương Tây vào
khoảng thế kỷ thứ VIII đến thế kỷ thứ III (TCN).
Ở phương Đông: Người Trung quốc cổ đại quan niệm “ triết” chính là
“trí”, là cách thức và nghệ thuật diễn giải, bắt bẻ có tính lý luận trong học thuật
nhằm đạt tới chân lý tối cao. Theo người Ấn Độ: triết học được đọc là darshana,
có nghĩa là chiêm ngưỡng nhưng mang hàm ý là tri thức dựa trên lý trí, là con
đường suy ngẫm để dẫn dắt con người đến với lẽ phải [1, tr.67].
Ở phương Tây, thuật ngữ triết học xuất hiện ở Hy lạp được la tinh hóa là
Philơsơphia - nghĩa là u mến, ngưỡng mộ sự thơng thái. Như vậy Philơsơphia
vừa mang tính định hướng, vừa nhấn mạnh đến khát vọng tìm kiếm chân lý của
con người.

Tóm lại: Dù ở phương Đơng hay phương Tây, triết học được xem là hình
thái cao nhất của tri thức, nhà triết học là nhà thơng thái có khả năng tiếp cận
chân lý, nghĩa là có thể làm sáng tỏ bản chất của mọi vật. Có nhiều cách định
nghĩa khác nhau, nhưng bao hàm những nội dung giống nhau, đó là: triết học
nghiên cứu thế giới một cách chỉnh thể, tìm ra những quy luật chung nhất chi
phối sự vận động của chỉnh thể đó nói chung, của xã hội loài người, của con
người trong cuộc sống cộng đồng nói riêng và thể hiện nó một cách có hệ thống
dưới dạng duy lý. Khái quát lại ta có thể hiểu: Triết học là hệ thống tri thức lý
luận chung nhất của con người về thế giới; về vị trí vai trị của con người trong
thế giới đó.
Nguồn gốc của triết học: Triết học xuất hiện do hoạt động nhận thức của
con người nhằm phục vụ nhu cầu cuộc sống, song với tư cách là hệ thống tri
thức lý luận chung nhất, triết học không thể xuất hiện cùng sự xuất hiện của xã
hội loài người, mà chỉ xuất hiện khi có những điều kiện nhất định.
4


Nguồn gốc nhận thức: Đứng trước thế giới rộng lớn, bao la, các sự vật
hiện tượng mn hình mn vẻ, con người có nhu cầu nhận thức thế giới bằng
một loạt các câu hỏi cần giải đáp: thế giới ấy từ đâu mà ra?, nó tồn tại và phát
triển như thế nào?, các sự vật ra đời, tồn tại và mất đi có tn theo quy luật nào
khơng?... trả lời các câu hỏi ấy chính là triết học.
Triết học là một hình thái ý thức xã hội có tính khái qt và tính trừu tượng
cao, do đó, triết học chỉ xuất hiện khi con người đã có trình độ tư duy trừu tượng
hoá, khái quát hoá, hệ thống hoá để xây dựng nên các học thuyết, các lý luận.
Nguồn gốc xã hội: Lao động đã phát triển đến mức có sự phân cơng lao
động thành lao động trí óc và lao động chân tay, xã hội phân chia thành hai giai
cấp cơ bản đối lập nhau là giai cấp chủ nô và giai cấp nô lệ. Giai cấp thống trị có
điều kiện nghiên cứu triết học. Bởi vậy ngay từ khi Triết học xuất hiện đã tự
mang trong mình tính giai cấp, phục vụ cho lợi ích của những giai cấp, những

lực lượng xã hội nhất định [2, tr.190].
Những nguồn gốc trên có quan hệ mật thiết với nhau, mà sự phân chia
chúng chỉ có tính chất tương đối.
1.2. Vai trò của triết học đối với đời sống
Vai trò thế giới quan của triết học: Tồn tại trong mối quan hệ với thế giới
xung quanh, dù muốn hay không con người cũng phải nhận thức thế giới và
nhận thức bản thân mình. Những tri thức này cùng với niềm tin vào nó dần dần
hình thành nên thế giới quan.
Thế giới quan là nhân tố định hướng cho quá trình hoạt động sống của
con người. Thế giới quan như một “thấu kính” qua đó con người xác định mục
đích, ý nghĩa cuộc sống và lựa chọn cách thức đạt mục đích đó.
Trình độ phát triển của thế giới quan là tiêu chí quan trọng về sự trưởng
thành của mỗi cá nhân cũng như mỗi cộng đồng nhất định.
Triết học ra đời với tư cách là hạt nhân lý luận của thế giới quan, làm cho
thế giới quan phát triển như một quá trình tự giác dựa trên sự tổng kết kinh
nghiệm thực tiễn và tri thức do các khoa học đưa lại. Đó là chức năng thế giới
quan của triết học.
5


Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm là cơ sở lý luận của hai thế giới
quan cơ bản đối lập nhau. Chính vì vậy chúng đóng vai trị là nền tảng thế giới
quan của các hệ tư tưởng đối lập.
Cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm trong triết
học biểu hiện bằng cách này hay cách khác cuộc đấu tranh giữa những giai cấp,
những lực lượng xã hội đối lập nhau.
Triết học Mác Lênin vừa có chức năng thế giới quan vừa có chức năng
phương pháp luận bởi vì mỗi quan điểm của triết học đồng thời là một nguyên
tắc trong việc xác định phương pháp. Hệ thống các quan điểm triết học Mác
Lênin đem lại cho con người hệ thống các nguyên tắc phương pháp luận như

nguyên tắc khách quan, nguyên tắc toàn diện, nguyên tắc lịch sử - cụ thể,
nguyên tắc phát triển, nguyên tắc thực tiễn… Triết học Mác Lênin là thế giới
quan và phương pháp luận khoa học bởi vì thực chất của nó là sự thống nhất
giữa chủ nghĩa duy vật và phép biện chứng. Đặc điểm này làm cho chủ nghĩa
duy vật mang tính triệt để và phương pháp biện chứng trở thành lý luận khoa
học. Nhờ đó triết học Mác Lênin phản ánh đúng đắn về thế giới, nó trở thành
“cơng cụ nhận thức vĩ đại” cho con người.
Nắm vững triết học Mác- Lênin giúp chúng ta tự giác trong quá trình trau
dồi các quan điểm, các phẩm chất chính trị, đạo đức, năng lực tư duy sáng tạo
của mình, phịng tránh những sai lầm của chủ nghĩa duy tâm và của phương
pháp tư duy siêu hình. Tuy nhiên khơng có nghĩa là chỉ nắm vững lý luận Mác Lênin là sẽ giải quyết được các vấn đề của cuộc sống đặt ra. Muốn tránh được
chủ nghĩa giáo điều, con người cần phải có nhiều tri thức của các khoa học cụ
thể và các tri thức từ chính hoạt động thực tiễn đem lại để con người có thể vận
dụng một cách đúng đắn thế giới quan và phương pháp luận khoa học của chủ
nghĩa duy vật biện chứng.
Đối với các khoa học khác, Triết học Mác Lênin đem lại thế giới quan và
phương pháp luận đúng đắn cho sự phát triển các khoa học. Nó định hướng cho
các khoa học khác trong việc xác định cơ sở lý thuyết của bộ môn, giúp cho các
khoa học khác khái quát những thành tựu của mình. Ngược lại các khoa học
6


khác cung cấp tài liệu cho triết học. Do vậy cần phải có sự hợp tác chặt chẽ giữa
những người nghiên cứu lý luận triết học và các nhà khoa học để khơng ngừng
nâng cao trình độ nhận thức thế giới của con người.
Do vậy: Thế giới quan đúng đắn là tiền đề để xác lập nhân sinh quan tích
cực giúp cho con người sáng tạo trong hoạt động. Thế giới quan sai lầm làm
cho con người sống thụ động hoặc sai lệch trong hoạt động. Việc nghiên cứu
triết học giúp ta định hướng hồn thiện thế giới quan.
Vai trị phương pháp luận của triết học: Phương pháp luận là lý luận về

phương pháp; là hệ thống quan điểm có tính ngun tắc chỉ đạo việc tìm tịi, xây
dựng, lựa chọn và vận dụng các phương pháp. Triết học thực hiện chức năng
phương pháp luận chung nhất. Tri thức triết học là hệ thống tri thức chung nhất
về thế giới và vai trò con người trong thế giới, nghiên cứu các qui luật chung
nhất chi phối cả tự nhiên, xã hội và tư duy. Mỗi luận điểm triết học đồng thời là
một nguyên tắc trong việc xác định phương pháp, là lý luận về phương pháp.
Việc nghiên cứu triết học giúp ta có được phương pháp luận chung nhất, trở nên
năng động sáng tạo trong hoạt động phù hợp với xu thế phát triển chung [3,
tr.178].
Triết học Mác - Lênin trang bị cho con người hệ thống các khái niệm,
phạm trù, quy luật làm công cụ nhận thức khoa học; giúp con người phát triển tư
duy khoa học, đó là tư duy ở cấp độ phạm trù, quy luật.
Tuy nhiên, triết học Mác - Lênin không phải là một đơn thuốc vạn năng
có thể giải quyết được mọi vấn đề. Để đem lại hiệu quả trong nhận thức và hành
động, cùng với tri thức triết học, con người cần phải có tri thức khoa học cụ thể
và kinh nghiệm hoạt động xã hội.
Trong nhận thức và hoạt động thực tiễn khơng được xem thường hoặc
tuyệt đối hóa phương pháp luận triết học. Nếu xem thường phương pháp luận
triết học sẽ sa vào tình trạng mị mẫm, dễ mất phương hướng, thiếu chủ động,
sáng tạo trong công tác. Ngược lại, nếu tuyệt đối hóa vai trị của phương pháp
7


luận triết học sẽ sa vào chủ nghĩa giáo điều và dễ bị vấp váp, thất bại. Bồi dưỡng
phương pháp luận duy vật biện chứng sẽ giúp mỗi người tránh được những sai
lầm do chủ quan, duy ý chí và phương pháp tư duy siêu hình gây ra.
II. VAI TRỊ CỦA TRIẾT HỌC MÁC - LÊNIN ĐỐI VỚI ĐỜI
SỐNG
2.1. Triết học Mác - Lênin
Do nhu cầu tồn tại và phát triển, con người phải tìm cách thích nghi và cải

tạo thế giới. Chính vì vậy, con người ln ln phải tìm hiểu về thế giới xung
quanh và tìm hiểu bản thân mình. Q trình tìm tịi, giải đáp các vấn đề nói trên
ln ln diễn ra trong tiến trình lịch sử, đã hình thành và phát triển nên những
quan niệm nhất định về thế giới và con người. Kể từ khi xã hội phân chia giai
cấp, có sự tách biệt giữa lao động chân tay và lao động trí óc, triết học với tính
cách là một hình thái ý thức xã hội mới thực sự xuất hiện. Triết học là hệ thống
quan điểm lý luận chung nhất về thế giới và vị trí con người trong thế giới đó.
Lịch sử triết học có nhiều cách trả lời khác nhau đối với các vấn đề của thế
giới xung quanh ta, nhưng đều quy về hai quan điểm chính đối lập nhau là duy vật
hoặc duy tâm; hai phương pháp nhận thức chính là biện chứng hoặc siêu hình. Sự
phát triển của lịch sử triết học cũng chính là sự phát triển của trình độ quan điểm
nhận thức, của phương pháp tư duy nhân loại thông qua cuộc đấu tranh giữa chủ
nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm, giữa phương pháp biện chứng và phương pháp
siêu hình. Đây cũng là sự đấu tranh giữa các mặt đối lập, tạo nên động lực bên
trong của sự phát triển tư tưởng triết học nhân loại.
Sự xuất hiện triết học Mác - Lênin là một cuộc cách mạng vĩ đại trong
lịch sử triết học. Đó là kết quả tất yếu của sự phát triển lịch sử tư tưởng triết học
và khoa học của nhân loại, là kết quả của sự thống nhất giữa điều kiện khách
quan và nhân tố chủ quan. Triết học Mác - Lênin là hệ thống quan điểm duy vật
biện chứng về tự nhiên, xã hội và tư duy - thế giới quan và phương pháp luận
khoa học, cách mạng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động để nhận
thức và cải tạo thế giới.
8


Triết học Mác - Lênin là triết học duy vật biện chứng theo nghĩa rộng. Đó
là hệ thống quan điểm duy vật biện chứng cả về tự nhiên, cả về xã hội. Trong
triết học Mác - Lênin, chủ nghĩa duy vật và phép biện chứng thống nhất hữu cơ
với nhau. Với tư cách là chủ nghĩa duy vật, triết học Mác - Lênin là hình thức
cao nhất của chủ nghĩa duy vật trong lịch sử triết học - chủ nghĩa duy vật biện

chứng. Với tư cách là phép biện chứng, triết học Mác - Lênin là hình thức cao
nhất của phép biện chứng trong lịch sử triết học - phép biên chứng duy vật.
Triết học Mác - Lênin ra đời là kết quả của sự kế thừa và phát triển những
thành tựu của tư duy triết học nhân loại. Đồng thời, là kết quả của sự khái quát
hoá những thành tựu quan trọng nhất của khoa học tự nhiên, khoa học xã hội và
thực tiễn xã hội. Chính vì vậy, triết học Mác - Lênin trở thành thế giới quan và
phương pháp luận khoa học của lực lượng vật chất - xã hội năng động và cách
mạng nhất tiêu biểu cho thời đại ngày nay là giai cấp công nhân để nhận thức và
cải tạo xã hội.
Trong thời đại ngày nay, triết học Mác - Lênin đang đứng ở đỉnh cao của
tư duy triết học nhân loại, là hình thức phát triển cao nhất của các hình thức triết
học trong lịch sử. Triết học Mác - Lênin là học thuyết về sự phát triển thế giới,
đã và đang phát triển giữa dòng văn minh nhân loại.
2.2. Vai trò của triết học Mác - Lênin đối với đời sống
Chủ nghĩa Mác - Lênin là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho mọi hành
động của Đảng Cộng sản Việt Nam và của cả dân tộc Việt Nam. Đó khơng phải
là sự lựa chọn ngẫu nhiên của Bác Hồ, Đảng và nhân dân ta, mà đó là một tất
yếu lịch sử, bởi tính cách mạng và khoa học của học thuyết Mác - Lênin. Khơng
những thế, ngày nay, nó càng có vai trò quan trọng trong nhận thức và cải tạo
thế giới.
Thế giới ngày nay đang diễn ra những biến đổi hết sức sâu sắc, đã và đang
bị chi phối bởi xu thế tồn cầu hóa, hội nhập quốc tế và phát triển nền kinh tế tri
thức đang diễn ra trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, từ kinh tế đến chính trị,
giáo dục và đào tạo, khoa học và cơng nghệ, ngoại giao, quốc phịng, an ninh...
Trong bối cảnh biến động khôn lường, đặc biệt phức tạp ấy, vai trò của triết học
9


Mác - Lênin không hề bị suy giảm, mà trái lại, ngày càng thể hiện rõ hơn vai trò
nhận thức và cải tạo thế giới to lớn của mình. Vì vậy, tất cả các quốc gia, dân tộc

muốn tồn tại và phát triển khơng thể khơng tính đến những thời cơ, vận hội và
những thách thức to lớn do toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế, phát triển kinh tế tri
thức đem lại. Hơn thế nữa, để tồn tại, phát triển và phát triển ổn định, bền vững,
khơng bị hịa tan, chệch hướng trước xu thế tồn cầu hóa, tất cả các quốc gia,
dân tộc, trong đó có Việt Nam, cần phải phát triển khoa học và công nghệ hiện
đại, giáo dục và đào tạo tiên tiến để đẩy nhanh q trình cơng nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước. Muốn vậy, triết học phải góp phần phát huy nhân tố con người,
khơi dậy tiềm năng vô tận của họ là một trong những nhân tố đặc biệt quan
trọng, mang ý nghĩa quyết định thành công trên con đường xây dựng xã hội dân
giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Triết học Mác - Lênin là khoa học về thế giới quan, nhân sinh quan và
phương pháp luận khoa học, cách mạng, khơng thể đứng ngồi cuộc mà phải
góp phần tích cực vào việc hoạch định đường lối, chủ trương, chính sách của
Đảng, Nhà nước về phát triển nguồn nhân lực và sử dụng hiệu quả nguồn nhân
lực hiện có. Trên cơ sở đó, triết học nước ta trong kỷ ngun tồn cầu hóa cần có
những nghiên cứu hết sức cơ bản để vạch ra những định hướng lớn mang tầm
chiến lược nhằm phát triển đất nước đúng định hướng xã hội chủ nghĩa với
những bước đi thích hợp cho mỗi giai đoạn, thời kỳ; đảm bảo cho đất nước phát
triển bền vững chứ không phải phát triển bằng mọi giá.
Trước tác động của tồn cầu hóa, hội nhập quốc tế và phát triển nền kinh tế
tri thức, bộ mặt thế giới nói chung, ở nước ta nói riêng, đang vận động, biến đổi
từng ngày. Nghiên cứu và giảng dạy triết học ở nước ta chưa bao giờ lại phải đối
mặt với những khó khăn, thách thức to lớn như vậy. Xu hướng tồn cầu hóa,
trong đó có tồn cầu hóa về văn hóa, giáo dục và đào tạo đang diễn ra gay gắt,
buộc các cấp có thẩm quyền và cả đội ngũ cán bộ nghiên cứu, giảng dạy triết
học phải xem xét, rà soát lại tổng thể mọi vấn đề từ nghiên cứu cơ bản, nghiên
cứu ứng dụng, tuyên truyền, phổ biến tri thức triết học đến chương trình, nội
dung, phương pháp, hình thức giảng dạy, biên soạn giáo trình, tài liệu dạy học
10



môn triết học theo phương pháp truyền thống hay hiện đại để đổi mới cho phù
hợp, đạt hiệu quả. Trong thời điểm mang tính chất bước ngoặt hiện nay, đổi mới
chương trình, nội dung nghiên cứu, phương pháp giảng dạy triết học là một tất
yếu khách quan, song đổi mới như thế nào, đổi mới cái gì, rất cần phải cân nhắc
cẩn trọng và có những quyết định sáng suốt, chính xác để khơng bị chệch hướng
chính trị và đạt hiệu quả cao nhất. Trong quá trình đổi mới, cần khẳng định rõ
lập trường, quan điểm có tính ngun tắc: triết học Mác - Lênin là hạt nhân lý
luận của hệ tư tưởng của giai cấp công nhân, là thế giới quan, nhân sinh quan,
phương pháp luận khoa học, cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh và Đảng ta; là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho mọi hành động của
Đảng và cách mạng Việt Nam.
Vì vậy, sứ mệnh thiêng liêng của đội ngũ cán bộ nghiên cứu, giảng dạy
triết học ở nước ta là chú trọng nghiên cứu, tiếp thu “tinh hoa văn hóa, triết học
nhân loại” một cách có hệ thống để vận dụng triết học vào thực tiễn cuộc sống
đương đại; đồng thời, kiên quyết đấu tranh, phê phán mọi trào lưu, quan điểm
sai trái, phản động, phản khoa học; bảo vệ, phát triển và vận dụng sáng tạo chủ
nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đặc biệt là phép biện chứng duy vật
vào công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa,
nhất là trong bối cảnh tồn cầu hóa, hội nhập quốc tế và phát triển nền kinh tế tri
thức hiện nay. Qua đó, vạch ra được những vấn đề có tính quy luật của sự vận
động, phát triển của xã hội Việt Nam trong thế giới đương đại, dự báo chính xác
xu hướng vận động và nhân tố tác động, đề xuất được các giải pháp khả thi để
đẩy nhanh q trình cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, phấn đấu hoàn
thành mục tiêu đưa nước ta trở thành nước cơng nghiệp theo hướng hiện đại vào
năm 2045.
Trình độ tư duy thấp kém, tư duy giáo điều hoặc sai lầm dưới các dạng
khác nhau đều không thể thúc đẩy sự phát triển, trái lại, còn kiềm hãm, cản trở
sự phát triển của tất cả các lĩnh vực thuộc đời sống xã hội. Vì thế, ngay từ năm
1878, Ph.Ăngghen đã nhắc nhở chúng ta rằng, “một dân tộc muốn đứng vững

trên đỉnh cao của khoa học thì khơng thể khơng có tư duy lý luận” [3, tr.389].
11


“Nhưng tư duy lý luận chỉ là một đặc tính bẩm sinh dưới dạng năng lực của
người ta mà thôi. Năng lực ấy cần phải được phát triển hoàn thiện, và muốn
hồn thiện nó thì cho đến tận ngày nay, khơng có một cách nào khác hơn là
nghiên cứu tồn bộ triết học thời trước” [4, tr.394].
Hiện nay, chúng ta đang sống trong một thế giới phẳng, chịu sự tác động
gay gắt của tồn cầu hóa, của cuộc cách mạng khoa học công nghệ hiện đại, nếu
vẫn cứ tiếp tục lối mòn của phương pháp tư duy lạc hậu, áp đặt chủ quan, duy ý
chí hoặc siêu hình, tức là khinh thường phép biện chứng duy vật thì điều đó
cũng đồng nghĩa là chúng ta “dậm chân tại chỗ”, “tự trói buộc mình”, khơng thể
bàn chuyện vượt lên phía trước. Tình trạng đồng nhất mơn Triết học với giáo
dục chính trị đã được khắc phục ít nhiều trong những năm đổi mới đất nước và
nó đã đạt được những kết quả nhất định, nhất là sau khi triển khai thực hiện
Nghị quyết Trung ương 2, khóa VIII của Đảng về đổi mới giáo dục và đào tạo.
Tuy nhiên, thời gian gần đây, căn bệnh “khinh thường triết học” lại có biểu
hiện tái phát và có xu hướng nặng nề hơn trước nhiều lần. Điều đáng sợ là người
ta đã từng bước loại bỏ triết học với tư cách là hạt nhân lý luận của hệ tư tưởng
của giai cấp công nhân đến mức “khinh thường” nó. Điều đáng sợ hơn là hiện
nay thế hệ trẻ thờ ơ với “Những nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lênin” đang
được dạy học tại các trường cao đẳng, đại học ở nước ta. Việc cắt xén, thu gọn
nội dung, giảm đến mức tối đa số giờ lên lớp... đến mức biến Triết học Mác Lênin thành những nguyên lý cứng nhắc, khó hiểu, chẳng có cội nguồn, gốc rễ
đã làm cho thế hệ trẻ và khơng ít người đã hiểu khơng đầy đủ về chủ nghĩa Mác
- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh - nền tảng tư tưởng lý luận và kim chỉ nam cho
mọi hành động của Đảng và cách mạng Việt Nam.
Việc “coi thường, khinh thường” triết học đã được Ph.Ăngghen chỉ ra rằng:
Những nhà khoa học tự nhiên tưởng rằng, họ thốt ra khỏi triết học bằng cách
khơng để ý đến nó hoặc phỉ báng nó. Nhưng vì khơng có tư duy thì khơng thể

tiến lên một bước nào, và muốn tư duy thì họ cần có những phạm trù lơgic... Vì
vậy, những ai phỉ báng triết học nhiều nhất lại chính là nơ lệ của những tàn tích
thơng tục hóa, tồi tệ nhất của những triết học tồi tệ nhất. Cho nên, dù ai có làm
gì đi chăng nữa thì họ cũng vẫn bị triết học chi phối. Đối với chúng ta, sống
12


trong một thế giới phẳng đầy biến động khôn lường như hiện nay, chúng ta
khơng chỉ cần có tri thức tổng hợp liên ngành, đa ngành mà điều quan trọng hơn
là phải biết lựa chọn những tri thức nào cho phù hợp với đời sống đương đại. Vì
thế, biết phê phán, biết xác định giá trị, dám nghi ngờ, dám tìm tịi, sáng tạo để
rút ra chân lý, có phát kiến mới, thiết thực, hiệu quả thật sự là điều cuộc sống
địi hỏi, cần thiết. Muốn vậy, mỗi người khơng có cách nào khác là nắm vững
chắc tri thức triết học, đặc biệt là lịch sử triết học mácxít và phép biện chứng
duy vật - phương pháp nhận thức, tư duy thật sự khoa học, cách mạng làm hành
trang, vốn liếng để phân tích, luận giải đúng đắn bản chất mọi vấn đề phát sinh
và cải tạo thực tiễn đạt hiệu quả.
Thực tiễn công cuộc đổi mới, xây dựng, bảo vệ Tổ quốc và những thành
tựu mà chúng ta đạt được trong những năm qua đã chỉ ra rằng: xây dựng và phát
triển nền kinh tế tập trung quan liêu, bao cấp là làm theo sự áp đặt chủ quan, duy
ý chí, là bất chấp quy luật khách quan, khơng phù hợp với thực tiễn. Những sai
lầm đó có nguồn gốc sâu sa, bắt nguồn từ phương pháp tư duy siêu hình hoặc
“lây nhiễm nặng” quan điểm duy tâm, tơn giáo. Điều đó cũng có nghĩa là đã mắc
bệnh coi thường, nhận thức chưa đúng, chưa trúng và vận dụng sai lầm các
nguyên lý, quy luật của phép biện chứng duy vật nói riêng, chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh nói chung.
Trong học thuyết hình thái kinh tế - xã hội, cả C.Mác và V.I.Lênin đều
khẳng định rằng, lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất có mối quan hệ biện
chứng, trong đó, lực lượng sản xuất đóng vai trị quyết định đối với quan hệ sản
xuất. Thế nhưng, do nhận thức chưa đầy đủ quy luật này, lại rơi vào chủ quan
duy ý chí, nóng vội, mong muốn có ngay chủ nghĩa xã hội, chúng ta đã mắc sai

lầm nghiêm trọng khi quyết định đưa quan hệ sản xuất đi trước một bước để mở
đường cho lực lượng sản xuất phát triển. Việc làm đó là hoàn toàn trái với quan
điểm của C.Mác và V.I.Lênin, là làm cho quan hệ sản xuất “đi trước” không phù
hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Sai lầm đó đã được Đại hội
VI của Đảng kết luận mang tính triết học sâu sắc “phải xuất phát từ hiện thực
khách quan, tôn trọng quy luật khách quan” [5, tr.154]. Nhờ đó, chúng ta đã tiến
13


hành đường lối đổi mới tồn diện đất nước. Đó là cơ sở để chúng ta xây dựng lại
quan hệ sản xuất cho phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất,
thực hiện nền kinh tế nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị trường, có sự
điều tiết, quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Rõ ràng là, thế giới quan và phương pháp luận triết học đã và đang đóng
vai trị tích cực trong việc phê phán, bác bỏ phương pháp tư duy siêu hình, quan
điểm duy tâm, tơn giáo; đưa tinh thần của phép biện chứng duy vật vào trong đổi
mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Thành tựu mà chúng ta giành được hơn 30
năm đổi mới toàn diện đất nước là một minh chứng đầy thuyết phục, khẳng định
niềm tin vào lý luận khoa học, cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh và đường lối đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo.
Trước tác động của tồn cầu hóa, hội nhập quốc và phát triển kinh tế tri
thức, thế giới ngày nay ngày càng trở nên phẳng hơn; trong đó tri thức khoa học
đóng vai trị là lực lượng sản xuất trực tiếp như điều C.Mác đã dự báo trước đây
đã trở thành hiện thực. Thời cơ, vận hội đã và đang mở ra cho mọi quốc gia, dân
tộc. Tuy nhiên, làm gì và làm như thế nào để nắm bắt và tận dụng thật hiệu quả
thời cơ, vận hội đưa đến và hạn chế những tác động tiêu cực mà nó đưa lại là
hồn tồn phụ thuộc vào sự hiểu biết, nắm bắt và vận dụng sáng tạo thế giới
quan, nhân sinh quan và phương pháp luận biện chứng mácxít của chúng ta.
Sống trong một bối cảnh thế giới sôi động và phức tạp như vậy, chúng ta
cần phải có một triết học chân chính dẫn đường với một triết lý nhân sinh đúng

đắn, nhân văn gợi mở, giúp chúng ta vạch đường đi tới. Một triết học như vậy
không thể nào khác là triết học Mác - Lênin, khoa học về những quy luật chung
nhất của sự vận động, phát triển của tự nhiên, xã hội và tư duy. Về điều này,
Jacques Derrđa, nhà triết học đương đại nổi tiếng người Pháp, trong tác phẩm
“Những bóng ma của Mác” đã nhận định rằng, tất cả mọi người trên toàn trái đất
này, dù họ muốn, họ biết hay là không, đều là những người kế thừa của Mác và
chủ nghĩa Mác với một mức độ nhất định...”. Và Jacques Derrđa khẳng định:
“luôn luôn sẽ là một sai lầm, nếu không đọc đi đọc lại và tranh luận những tác
phẩm của Mác. Đó sẽ càng ngày càng là một sai lầm, một sự thiếu tránh nhiệm
về mặt lý luận, triết học và chính trị... Sẽ khơng có tương lai khi khơng có trách
14


nhiệm đó. Khơng có nếu khơng có Mác; khơng có tương lai mà lại khơng có
Mác. Nếu khơng có ký ức về Mác và khơng có di sản của Mác”.
Từ những vấn đề nêu trên, có thể khẳng định rằng, sự nghiệp đổi mới, xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa không thể thành công nếu
thiếu sự dẫn đường của triết học Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; hoặc coi
thường tri thức triết học nói chung, triết học Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh
nói riêng, sẽ chẳng mang lại điều gì tốt đẹp nếu những sai lầm cũ không được
phá bỏ hoặc chậm được khắc phục. Bởi lẽ, triết học là thế giới quan, nhân sinh
quan và phương pháp luận khoa học, cách mạng, là công cụ nhận thức vĩ đại để
chúng ta sử dụng vào việc khám phá, chinh phục và cải tạo thế giới vì mục tiêu
dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Trước tác động của tồn cầu hóa, hội nhập quốc tế và phát triển kinh tế tri
thức, đội ngũ cán bộ nghiên cứu và giảng dạy triết học ở nước ta cần đổi mới
nhận thức và phương pháp tư duy truyền thống, có cách nhìn nhận và giải quyết
những mâu thuẫn của thời đại vốn đã bị giáo điều hóa một cách thật sự khách
quan, toàn diện, cụ thể, lịch sử và phát triển để đúc kết, khái quát, xây dựng lý
luận mới, tư duy mới và giải quyết thấu đáo mọi vấn đề do tồn cầu hóa, hội

nhập quốc tế và phát triển kinh tế tri thức đặt ra theo một triết lý nhân sinh mới,
nhân văn: hướng đến sự phát triển bền vững của cả cộng đồng nhân loại trên cơ
sở phát triển bền vững của mỗi quốc gia, dân tộc Việt Nam.
Nói cách khác, đối tượng nghiên cứu của triết học trong kỷ ngun tồn
cầu là những vấn đề mang tính tồn cầu hóa của thế giới đương đại, bao hàm sự
phát triển bền vững của mỗi quốc gia, dân tộc và sự phát triển bền vững của cả
cộng đồng nhân loại. Đó là cách tốt nhất để triết học nước ta khơng đứng ngồi
cuộc những vấn đề tồn cầu, đặc biệt là những vấn đề về tính tất yếu khách
quan, bản chất, đặc điểm, vai trò, thực trạng tác động, nguyên nhân, các yêu cầu
và đề xuất các giải pháp phát huy mặt tích cực, hạn chế những tác động tiêu cực
do tồn cầu hóa gây ra. Hướng vào nghiên cứu và giải quyết những vấn đề do
tồn cầu hóa đặt ra, xây dựng thế giới quan, nhân sinh quan và phương pháp
luận khoa học đúng đắn về toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế và phát triển kinh tế
tri thức, triết học sẽ giúp cộng đồng nhân loại nói chung, nhân dân ta nói riêng,
15


nhận thức sâu sắc hơn về vị thế làm chủ thế giới, làm chủ nhận thức, cải tạo và
sáng tạo thế giới của mình trên cơ sở làm chủ tồn tại xã hội và làm chủ chính
bản thân, gia đình mình. Khơng thể có sự phát triển bền vững cộng đồng nhân
loại trong kỷ ngun tồn cầu hóa nếu khơng có sự phát triển bền vững của mỗi
quốc gia, dân tộc và ngược lại.
Đối với chúng ta, nhận thức đúng và giải quyết tốt những vấn đề thực tiễn
mà công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa
đặt ra trong bối cảnh tình hình hiện nay phải được coi là một trong những định
hướng chủ đạo, nhiệm vụ chính trị trọng tâm. Chỉ có làm như vậy, triết học Mác
- Lênin mới hồn thành xuất sắc chức năng, vai trị thế giới quan, phương pháp
luận khoa học cho nhận thức và cải tạo thực tiễn; đồng thời, làm tốt các vai trò
chức năng vốn có: chuẩn mực, phê phán, định hướng, tiên đốn khoa học, tổng
hợp tri thức... của mình. Đó cũng là con đường cần phải đi tới của triết học Mác

- Lênin trong kỷ nguyên toàn cầu: đem lại cách tiếp cận phức hợp, liên ngành để
nhận thức sâu sắc bản chất, xu hướng vận động, phát triển của toàn cầu hóa, hội
nhập quốc tế, phát triển kinh tế tri thức; từ đó mà có những luận chứng mới, sâu
sắc về mặt lý luận, giúp cho Đảng, Nhà nước và các cơ quan chức năng từ Trung
ương đến cơ sở hoạch định đúng đắn đường lối, chiến lược, sách lược phát triển
kinh tế - xã hội, củng cố, tăng cường quốc phòng - an ninh, bảo vệ vững chắc
thành quả cách mạng, đưa đất nước phát triển đúng định hướng, hoàn thành
thắng lợi các mục tiêu, chỉ tiêu đã đề ra. Sai lầm trong thực tiễn là rất đáng sợ,
nhưng sai lầm trong nhận thức và sự ngộ nhận mình ln ln đúng, trong khi
thực tiễn hồn tồn khơng phải là như vậy còn nguy hiểm, đáng sợ hơn nhiều.
Cách tốt nhất để mỗi người chúng ta không mắc phải sai lầm là nắm vững tri
thức khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đặc biệt là
phép biện chứng duy vật mácxít. Đây là chiếc chìa khóa mở con đường đưa
chúng ta tự tin, ln ngẩng cao đầu bước vào thế giới của kỷ nguyên tồn cầu
hóa, hội nhập quốc tế và phát triển kinh tế tri thức và nó cũng là bí quyết đưa
chúng ta đi đến mọi thành công.
KẾT LUẬN
16


Triết học có vai trị và ý nghĩa rất lớn trong cuộc sống và trong nhận thức.
Mọi giai cấp, mọi tầng lớp và từng cá nhân mỗi người có thể nhìn thấy những
mặt tích cực của Triết học để nhận thức và cải tạo thế giới. Đối với sinh viên,
Triết học có ý nghĩa vơ cùng to lớn, giúp cho sinh viên có thế giới quan và
phương pháp luận khoa học để luận giải các vấn đề nảy sinh trong quá trình học
tập, đồng thời Triết học giúp sinh tiếp cận các mơn học khác được dễ hơn, từ đó
nâng cao kết quả học tập, có cái nhìn khách quan, tiến bộ về các lĩnh vực trong
cuộc sống.
Xét về tổng thể, Triết học Mác - Lênin là thành tựu tư tưởng vĩ đại của
nhân loại do C.Mác và Ph.Ăngghen đặt nền móng vào đầu thế kỷ XIX, được V.I.

Lênin kế tục, phát triển từ cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX. Triết học Mác Lênin phơi bày bản chất sâu xa nhất, những mâu thuẫn cố hữu nhất tồn tại trong
chế độ tư bản chủ nghĩa và dự đoán chính xác xu hướng vận động của các hình
thái kinh tế - xã hội để đi đến khẳng định tương lai của nhân loại là chế độ cộng
sản chủ nghĩa. Vì vậy, đây là học thuyết khoa học, cách mạng và nhân văn duy
nhất đề ra mục tiêu giải phóng giai cấp, giải phóng xã hội, giải phóng con người
và chỉ rõ lực lượng, con đường, phương thức nhằm đạt được mục tiêu đó.
Nhờ có chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, C.Mác đã lý giải
một cách khoa học và khách quan các quy luật phát triển của xã hội lồi người
thơng qua sự vận động và phát triển của nền sản xuất xã hội. Với chủ nghĩa xã
hội khoa học, C.Mác khẳng định sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân là lật
đổ sự thống trị của giai cấp tư sản, đứng lên giải phóng chính mình để xây dựng
một chế độ xã hội khơng cịn người bóc lột người, biến chủ nghĩa xã hội từ
không tưởng trở thành khoa học, như Lênin nhận định: “đem khoa học thay thế
cho mộng tưởng”. Học thuyết Mác đã trở thành một vũ khí lý luận, tư tưởng sắc
bén trong cuộc đấu tranh chống lại mọi áp bức, bóc lột và bất cơng trong xã hội.

17


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ Giáo dục và Đào tạo, Giáo trình những nguyên lý cơ bản của chủ
nghĩa Mác - Lênin (2012), Dành cho sinh viên đại học, cao đẳng khối không
chuyên ngành mác - Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, Hà Nội.
2. Nguyễn Tấn Hùng (2015), Mâu thuẫn, một số vấn đề lý luận và thực
tiễn, Nhà xuất bản Khoa học xã hội, Hà Nội.
3. C.Mác và Ph.Ăngghen, Tồn tập, tập 1, Nhà xuất bản Chính trị Quốc
gia, Hà Nội, 1995.
4. C.Mác và Ph.Ăngghen, Toàn tập, tập 23, Nhà xuất bản Chính trị Quốc
gia, Hà Nội, 1995.
5. V.I.Lênin, Tồn tập, tập 27, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội,

1995.
1980.

18



×