Tải bản đầy đủ (.docx) (19 trang)

tiểu luận tìm hiểu hiến pháp 1992

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (119.76 KB, 19 trang )

ĐẠI HỌC KHOA HỌC THÁI NGUYÊN
KHOA LUẬT

TIỂU LUẬN KẾT THÚC HỌC PHẦN:

LỊCH SỬ NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT VIỆT NAM
Đề Tài:
“TÌM HIỂU HIẾN PHÁP NƯỚC CỘNG HỊA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
NĂM 1992”

Họ và Tên: Dương Đức Huân
Lớp: Luật B-K15
Mã sinh viên: DTZ1752380101138

***Thái

Nguyên,tháng 08 năm 2021***


LỜI MỞ ĐẦU
Lịch sử của một dân tộc là lịch sử của những cuộc đấu tranh bền bỉ và gian
khổ, là thành quả nặng kết từ xương máu và nước mắt của nhân dân đồng bào.
Tiến trình lịch sử lồi người đã trải qua và ghi nhận những đau thương mất mát
và cả những chiến thắng vẻ vang. Tất cả là để dành độc lập, chủ quyền, tự do,
dân chủ. Một trong những nhiệm vụ cấp bách đặt ra chính là cần xây dựng hiến
pháp. Bởi vậy hiến pháp ra đời như một lẽ tất yếu, đảm nhận sứ mệnh lịch sử, là
một thứ công cụ hữu hiệu nhất để khẳng định với thế giới các quyền dân tộc cơ
bản mà con người xứng đáng được hưởng. Và như Latxan, một học giả nổi
tiếng về luật Hiến Pháp đã nói: “Hiến pháp không phải trở thành chỉ là một đạo
luật mà phải hơn một đạo luật. Hiến pháp không phải là đạo luật thông thường
Hiến pháp là đạo luật cơ bản của nhà nước”


Lịch sử lập hiến Việt Nam trải qua năm bản hiến pháp: Hiến pháp năm
1946, Hiến pháp năm 1959, Hiến pháp năm 1980, Hiến pháp năm 1992, Hiến
pháp năm 2013. Hiến pháp năm 1946 là sự khai mở cho việc xây dựng điều luật
cơ bản được phát triển qua các bản Hiến pháp năm 1959, 1980 và đặc biệt là
hiến pháp 1992 được hoàn thiện tới mức tối ưu trong giai đoạn phịng trào Cộng
sản và cơng nhân quốc tế lâm vào thoái trào, các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông
Âu và Liên Xô sụp đổ nước ta lâm vào cuộc khủng hoảng kinh tế trầm trọng,
bởi những lý do trên nên em quyết định tìm hiểu về đề tài tìm hiểu Hiến pháp
năm 1992
Trong quá trình tìm hiểu, do kiến thức cịn hạn chế nên khơng tránh khỏi
những sai sót, rất mong thầy cơ đóng góp ý kiến để đề tài tên đầy đủ và sâu sắc.
Chúng em xin chân thành cảm ơn


Mở Đầu
1 Lý do chọn đề tài
Đề tài được phân công nghiên cứu làm tiểu luận kết thúc học phần Lịch sử
nhà nước và pháp luật Việt Nam
2 Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của bài tiểu luận là làm sáng tỏ cơ sở lý luận và thực
tiễn của Hiến pháp 1992 , trên cơ sở đó xác định các quan điểm. Với mục đích
như trên , các nhiệm vụ mà bài tiểu luận phải giải quyết là :
- Nghiên cứu , làm rõ những vấn đề lý luận trong Hiến pháp 1992 , từ đó
phân tích , làm rõ những vấn đề lý luận của Hiến pháp 1992.
3 Đối tượng nghiên cứu
Về đối tượng nghiên cứu: Đi sâu nghiên cứu và tìm hiểu các quy định
trong bản Hiến pháp năm 1992
4 Phương pháp nghiên cứu
Để làm rõ các vấn đề nghiên cứu , bài tiểu luận vận dụng phương pháp
luận duy vật biện chứng duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác Lênin . Đây là

phương pháp luận khoa học được vận dụng nghiên cứu trong toàn bộ bài tiểu
luận để đánh giá khách quan sự thể hiện của các quy định của pháp luật trong
Hiến pháp 1992. Bài tiểu luận cũng được nghiên cứu dựa trên đường lối , chính
sách phát triển kinh tế - xã hội , phát triển dịch vụ và hội nhập kinh tế của Đảng
và nhà nước ta . Trong quá trình nghiên cứu tác giả tiểu luận sử dụng các
phương pháp nghiên cứu khoa học cụ thể khác nhau , như : Phương pháp phân
tích và tổng hợp , phương pháp thống kê , phương pháp lịch sử cụ thể phương


pháp nghiên cứu trực tiếp qua khảo sát thực tế , nhằm minh chứng cho những
lập luận , cho những nhận xét đánh giá , kết luận khoa học của luận án .


CHƯƠNG I
SỰ RA ĐỜI CỦA HIẾN PHÁP 1992
I. Hoàn cảnh ra đời của hiến pháp năm 1992
Sau một thời gian phát huy hiệu lực, nhiều quy định của Hiến pháp 1980 tỏ
ra không phù hợp với điều kiện kinh tế, xã hội của đất nước. Tình hình thực tiễn
của đất nước địi hỏi phải có một bản hiến pháp mới ra đời, phù hợp hơn để thúc
đẩy sự tiến bộ của xã hội, xây dựng cuộc sống ấm no hạnh phúc cho nhân dân.
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI năm 1986 đã mở ra một thời kỳ mới ở
nước ta. Đảng đã chủ trương nhìn thẳng vào sự thật, phát hiện những sai lầm
của Đảng, của Nhà nước, mở rộng dân chủ xã hội chủ nghĩa, phát huy tư duy
độc lập, sáng tạo của các tầng lớp nhân dân lao động, trên cơ sở đó để có những
nhận thức đúng đắn về chủ nghĩa xã hội và vạch ra những chủ trương, chính
sách mới nhằm xây dựng một xã hội dân giàu nước mạnh, công bằng và văn
minh. Với tinh thần của Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ VI, Quốc hội khóa 8,
tại kì họp thứ 3 ngày 22/12/1988 đã ra Nghị quyết sửa đổi lời nói đầu của Hiến
pháp 1980. Ngày 30/6/1989, kì họp thứ 5, Quốc hội khóa 8 lại ra Nghị quyết
sửa đổi 7 điều: 57,116,118,122,123,125 để xác định them quyền ứng cử vào

Quốc hội, HĐND của công dân và thành lập thêm thường trực HĐND trong cơ
cấu HĐND cấp tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương và cấp huyện, quận, thành
phố thuộc tỉnh, thị xã đồng thời củng cố thêm các mặt hoạt động của HĐND và
UBND. Trong kì họp này Quốc hội đã ra Nghị quyết thành lập Ủy ban sửa đổi
Hiến pháp để sửa đổi Hiến pháp một cách cơ bản, tồn diện đáp ứng u cầu
của tình hình kinh tế, xã hội mới, đặc biệt là trong lĩnh vực kinh tế. Ủy ban sửa
đổi hiến pháp được thành lập bao gồm 28 người, do Chủ tịch Hội đồng Nhà
nước Võ Chí Cơng là Chủ tịch. Ủy ban dự thảo hiến pháp đã họp nhiều phiên để
chỉnh lý, bổ sung và thơng qua tồn văn dự thảo Hiến pháp sửa đổi.


Cuối năm 1991 đầu năm 1992 Bản dự thảo Hiến pháp lần ba đã được đưa
ra trưng cầu ý kiến nhân dân. Trên cơ sở tổng hợp ý kiến đóng góp của nhân dân
và ý kiến của Bộ chính trị, Ban chấp hành trung ương Đảng, Dự thảo Hiến pháp
lần 4 đã hồn thành và được trình lên Quốc hội khóa VIII, tại kì họp thứ XI xem
xét. Sau nhiều ngày xem xét, thảo luận sôi nổi với những chỉnh lý và bổ sung
nhất định, ngày 15 tháng 4 năm 1992 Quốc hội đã nhất trí thơng qua Hiến pháp.
Việc soạn thảo và đưa ra Hiến pháp năm 1992 là một quá trình thảo luận dân
chủ và chắt lọc một cách nghiêm túc những ý kiến đóng góp của mọi tầng lớp
nhân dân về tất cả các vấn đề từ quan điểm chung đến các vấn đề cụ thể. Bản
Hiến pháp này là bản Hiến pháp của Việt Nam trong tiến trình đổi mới. Đúng
như nhận xét của đồng chí Tổng bí thư Ban chấp hành trung ương Đảng Cộng
sản Việt Nam Đỗ Mười, nó là “sản phẩm trí tuệ của tồn dân, thể hiện ý chí và
nguyện vọng của đồng bào cả nước”.
CHƯƠNG II

Những nội dung cơ bản của Hiến pháp 1992
II. Hiến pháp 1992
1 Điểm mới của Hiến pháp năm 1992 so với các bản Hiến pháp 1946 và
1980

Trước hết, có thể thấy, Hiến pháp 1992 là văn bản duy nhất quy định tổ
chức quyền lực nhà nước, là hình thức pháp lý thể hiện một cách tập trung hệ tư
tưởng của giai cấp lãnh đạo, ở từng giai đoạn phát triển, hiến pháp 1992 là văn
bản, là phương tiện pháp lý thể hiện tư tưởng của Đảng cộng sản dưới hình thức
những quy phạm pháp luật.
Ví dụ:


Điều 2, chương I của Hiến pháp 1992 có viết: “Nhà nước Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước pháp quyền xã hôi chủ nghĩa của nhân dân, do
nhân dân, vì nhân dân. Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân mà nền
tảng là lien minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ tri
thức. Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân cơng và phối hợp giữa các
cơ quan nhà nước trong việc thực hiên các quyền lập pháp, hành pháp, tư
pháp.”
Điều 4, chương I của Hiến pháp 1992 có viết: “Đảng Cộng sản Việt Nam,
đội tiên phong của giai cấp công nhân Việt Nam, đại biểu trung thành quyền lợi
của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc,theo chủ nghĩa
Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã
hội. Mọi tổ chức của Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp
luật.”
Nội dung điều luật trên đã khẳng định được vai trò lãnh đạo của Đảng
Cộng sản Việt Nam đối với nhà nước và xã hội. Hiến pháp 1992 đã phần nào
phản ánh được những quy luật khách quan, hững ý chí, nguyện vọng, quyền và
lợi ích của nhân dân, phát huy được hiệu quả của pháp luật đối với các mối quan
hệ xã hội.
2. Nội dung Hiến pháp 1992.
Xét trên phương diện nội dung, nếu các luật khác thường chỉ điều chỉnh
các quan hệ xã hội thuộc một lĩnh vực nhất định của đời sống; chẳng hạn luật
hôn nhân và gia đình, luật đất đai, luật lao động… thì đối tượng điều chỉnh của

hiến pháp rất rộng, có tính chất bao quát trên mọi lĩnh vực cuả sinh hoạt xã hội.
Đó là những quan hệ giữa công dân, xã hội với Nhà nước và là quan hệ cơ bản
xác định chế độ nhà nước.


Trong lĩnh vực chính trị: Luật Hiến pháp 1992 điều chỉnh những quan hệ
xã hội cơ bản sau: các quan hệ xã hội liên quan đến việc xác định nguồn gốc
của quyền lực nhà nước, các hình thức nhân dân sử dụng quyền lực nhà nước;
các quan hệ xã hội xác định mối quan hệ giữa Nhà nước, Đảng Cộng sản Việt
Nam, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các thành viên của Mặt trận; các quan hệ
xã hội quyết định chính sách đối nội, đối ngoại của Nhà nước Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam… Những quan hệ này trên cơ sở để xác định chế độ chính
trị của nước Cộng hịa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Ví dụ: Điều 6, chương I – Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam Chế độ chính trị quy định: “Nhân dân sử dụng quyền lực Nhà nước thông qua
Quốc hội và Hội đồng nhân dân là những cơ quan đại diện cho ý chí và nguyện
vọng của nhân dân, do nhân dân bầu ra và chịu trách nhiệm trước nhân dân.
Quốc hội, Hội đồng nhân dân và các cơ quan khác của Nhà nước đều tổ chức
và hoạt động theo nguyên tắc tập trung dân chủ.”
Điều 6 đã chỉ rõ một phần nguồn gốc quyền lực của nhà nước là thuộc về
nhân dân. Đồng thời chỉ rõ các hình thức sử dụng quyền lực nhà nước của nhân
dân.
Hay trong điều 9, chương I – Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam –
chế độ chính trị quy định: “Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là tổ chức liên minh
chính trị, liên hiệp tự nguyện của tổ chức chính trị, các tổ chức chính trị - xã
hội, tổ chức xã hội và các cá nhân tiêu biểu trong các giai cấp, các tầng lớp xã
hội, các dân tộc, các tôn giáo và người Việt Nam định cư ở nước ngoài.
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên là cơ sở chính trị
của chính quyền nhân dân. Mặt trận phát huy truyền thống đoàn kết tồn dân,
tăng cường sự nhất trí về chính trị và tinh thần trong nhân dân, tham gia xây
dựng và củng cố chính quyền nhân dân, cùng Nhà nước chăm lo và bảo về lợi

ích chính đáng của nhân dân, động viên nhân dân thực hiện quyền làm chủ,


nghiêm chỉnh thi hành Hiến pháp và pháp luật, giám sát hoạt động của cơ quan
nhà nước, đại biểu dân cử và cán bộ, viên chức nhà nước.
Nhà nước tạo điều kiện để Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức thành viên
hoạt động có hiệu quả.”
Các điều quy định trên làm cơ sở cho Luật tổ chức và các bộ luật khác ra
đời. Từ Hiến pháp 1992 quy định việc tổ chức, khả năng và quyền hạn của phái
Nhà nước và nhân dân giúp các luật khác điều chỉnh theo.
Trong lĩnh vực kinh tế: Luật hiến pháp điều chỉnh những quan hệ xã hội
sau: các quan hệ xã hội xác định các loại hình sở hữu, các thành phần kinh tế,
chính sách của Nhà nước đối với các thành phần kinh tế, vai trò của Nhà nước
đối với nền kinh tế.
Ví dụ:
Khi quy định về các thành phần kinh tế, các ngành kinh tế chủ đạo, Hiến
pháp 1992 có viết. “Kinh tế nhà nước được củng cố và phát triển, nhất là trong
các ngành và lĩnh vực then chốt, giữ vai trò chủ đạo, cùng với kinh tế tập thể
ngày càng trở thành nền nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân.” (Điều
19, chương II – Chế độ kinh tế). Hoặc cũng tại chương II – chế độ kinh tế, điều
20 có viết: “Kinh tế tập thể do cơng dân góp vốn, góp sức hợp tác sản xuất,
kinh doanh được tổ chức dưới nhiều hình thức trên nguyên tắc tự nguyện, dân
chủ và cùng có lợi. Nhà nước tạo điều kiện để củng cố và mở rộng các hợp tác
xã hoạt động có hiệu quả.” Cùng với các điều khác trong chương “Chế độ kinh
tế”, hai điều trên đã trở thành cơ sở, nền tảng cho Luật kinh tế. Tạo điều kiện
cho Luật kinh tế ra đời có được những khn mấu để định hướng chính xác các
vấn đề kinh tế. Nhiều điều khoản trong Hiến páp 1992 cũng góp phần định
hướng cho các luật doanh nghiêp, luật tranh chấp…



Một ví dụ khác để minh chứng cho “Hiến pháp 1992 là đạo luật cơ bản”
trong chương về chế độ kinh tế như: “Đất đai, rừng núi, sông hồ, nguồn nước,
tài nguyên trong lòng đất, nguồn lợi ở vùng biển, thềm lục địa và vùng trời,
phần vốn và tài sản do Nhà nước đầu tư vào các xí nghiệp, cơng trình thuộc các
ngành và lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội, khoa học, kỹ thuật, ngoại giao, quốc
phòng, an ninh cùng các tài sản khác mà pháp luật quy định là của nhà nước,
đều thuộc sở hữu toàn dân.” (Điều 17, chương II). Điều này chứng tỏ khơng chỉ
có thể làm cơ sở, làm thước chuẩn cho Luật kinh tế, Luật thương mại mà các
Luật đất đai, Luật tài nguyên và môi trường… cũng dựa trên Hiến pháp 1992 để
ra đời.
Trong lĩnh vực quan hệ giữa công dân và Nhà nước: Luật Hiến pháp 1992
điều chỉnh các quan hệ xã hội liên quan tới việc xác định địa vị pháp lý cơ bản
của công dân như: Quốc tịch, quyền và nghĩa vụ cơ bản của cơng dân.
Ví dụ: Điều 49,chương V Hiến pháp 1992 quy định: “Công dân nước
Cộng hịa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là người có quốc tịch Việt Nam”. Theo đó
cả bộ luật “Luật quốc tịch Việt Nam” gồm 6 chương 44 điều ra đời, quy định
chặt chẽ về những người có quốc tich Việt Nam, nhập quốc tịch Việt nam, trở về
quốc tịch Việt nam,....
Hay khi quy định về quyền và nghĩa vụ cơ bản của cơng dân thì chương V,
điều 54 viết: “Cơng dân, không phân biệt dân tộc, nam nữ, thành phần xã hội,
tín ngưỡng, tơn giáo, trình độ văn hóa, nghề nghiệp, thời hạn cư trú, đủ mười
tám tuổi trở lên đều có quyền bầu cử và đủ hai mưới mốt tuổi trở lên đều có
quyền ứng cử vào Quốc hội, HĐND theo quy định của pháp luật.” Theo đó,
Luật bầu cử của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã được ban hành.
Điều 58, chương V – Quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân, quy định:
“Công dân có quyền sở hữu về thu nhập pháp, của cải để sản xuất, vốn và tài
sản khác trong doanh nghiệp hoặc trong các tổ chức kinh tế khác; đối với đất


được nhà nước giao sử dụng thì theo quy định tại Quy định tại điều 17 và điều

18. Nhà nước bảo hộ quyền sở hữu hợp pháp và quyền thừa kế của cơng dân.”
Hay tại điều 60, chương V có viết: “Cơng dân có quyền nghiên cứu khoa
học, kĩ thuật, phát minh, sang chế, sang kiến cải tiến kỹ thuật, hợp lý hóa sản
xuất, sang tác, phê bình văn học, nghệ thuật và tham gia các hoạt động văn hóa
khác. Nhà nước bảo hộ quyền tác giả, quyền sở hữu cơng nghiệp.”
Từ đó các luật như Luật bản quyền, Luật sáng tạo… đã được dự thảo và
đưa và cuộc sống. Có thể nói, Luật Hiến pháp 1992 đã tạo những nền tảng cơ
bản nhất cho những quy tắc, nền tảng cơ sở để tạo nên nhiều luật khác. Đó là
một cách cụ thể hóa Hiến pháp.
Trong lĩnh vực tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước: Luật hiến pháp
điều chỉnh các quan hệ xã hội liên quan đến việc xác định các nguyên tắc, cơ
cấu tổ chức và hoạt động của các cơ quan nhà nước.
Ví dụ:
Điều 83, chương VI – Quốc hội quy định: “Quốc hội là cơ quan đại biều
cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất của nước Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Quốc hội quyết định những chính sách cơ bản
về đối nội và đối ngoại, nhiệm vụ kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh của đất
nước, những nguyên tắc chủ yếu về tổ chức và hoạt động của bộ máy Nhà nước,
về quan hệ xã hội và hoạt động của công dân. Quốc hội thực hiện quyền giám
sát tối cao đối với toàn bộ hoạt động của bộ máy nhà nước.”
Như vậy, qua Hiến pháp ta có thể nhận thấy vai trị của Quốc hội trong việc
lập pháp. Đồng thời trong Hiến pháp 1992 vai trò của Chủ tịch nước và các cơ
quan đại diên cho nhà nước (Phó chủ tịch nước, UBND, HĐND, VKSND…)
cũng được xác định vai trò một cách cơ bản nhất và cụ thể nhất.


Có thể nói, Hiến pháp 1992 đóng vai trị như vị trí liên kết các ngành luật
khác. Chính vị trí trung tâm này của HP 1992 mà hệ thống pháp luật Việt Nam
được xây dựng thành một hệ thống pháp luật thống nhất và hoàn chỉnh. Hiến
pháp 1992 xác lập những nguyên tắc cơ bản làm cơ sở để xây dựng ngành luật

khác. Từ HP 1992, chúng ta đã xây dựng nên một hệ thống hoàn chỉnh các bộ
luật của nước CHXH chủ nghĩa Việt Nam.
3. Mặt pháp lý của Hiến pháp năm 1992.
Xét về phương diện pháp lý, Hiến pháp năm 1992 với tính chất là luật cơ
bản, có hiệu lực pháp lý cao nhất. Đặc tính đó của Hiến pháp 1992 có những
biểu hiện cụ thể như sau:
Các quy định của HP 1992 đều là nguồn, là căn cứ cho tất cả các ngành
luật khác thuộc hệ thống pháp luật nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Ở đây, cần chú ý đến các đặc tính của các quy phạm HP và các ngành luật
khác. Thông thường, người ta thường phân biệt ba loại quy phạm hiến pháp:
Quy phạm tuyên ngôn – cương lĩnh, quy phạm điều chỉnh chung, quy
phạm điều chỉnh trực tiếp.
- Các ngành luật khác hầu hết không mâu thuẫn với Hiến pháp 1992 mà
hoàn toàn phù hợp với tinh thần và nội dung các quy định của HP 1992.
- Tất cả các văn bản pháp luật khác cũng hoàn toàn phù hợp với tinh thần
và nội dung của Hiến pháp 1992, chúng đều được ban hành trên cơ sở HP 1992
và để thi hành hiến pháp.
- Các điều ước Quốc tế mà Nhà nước CHXHCN Việt Nam tham gia không
mâu thuẫn, đối lập với quy định của HP 1992. - Các cơ quan có thẩm quyền đã
và đang ban hành các văn bản pháp luật mà Hiến pháp năm 1992 đã quy định.


- Tất cả các cơ quan nhà nước phải thực hiện chức năng của mình theo quy
định của Hiến pháp 1992, sử dụng đầy đủ các quyền hạn, làm tròn các nghĩa vụ,
chức năng mà HP quy định.
- Tuân theo Hiến pháp 1992, nghiêm chỉnh chấp hành các quy định của HP
1992 là nghĩa vụ cao quý, thiêng liêng bậc nhất của mỗi cơng dân nước
CHXHCN Việt Nam.
4. Mặt chính trị của Hiến pháp 1992
Với tính chất nền tảng chính trị - pháp lý của quốc gia, Hiến pháp năm

1992 đã thể hiện rõ là đạo luật gốc của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam. Hiến pháp do cơ quan đại diện có thẩm quyền cao nhất của nhân dân
là Quốc hội thơng qua theo một trình tự, thủ tục đặc biệt và do nhân dân trực
tiếp thông qua bằng trưng cầu ý dân, quy định những vấn đề cơ bản, quan trọng
nhất của chế độ chính trị, chế độ kinh tế, chính sách văn hóa - xã hội, quyền và
nghĩa vụ cơ bản của công dân, cơ cấu tổ chức và hoạt động của Nhà nước, thể
hiện một cách tập trung nhất, mạnh mẽ nhất ý chí và lợi ích của liên minh giai
cấp cơng nhân, nơng dân và đội ngũ trí thức xã hội chủ nghĩa cầm quyền ở nước
ta.
Bản chất giai cấp công nhân, tính chất xã hội và xã hội chủ nghĩa được
thể hiện trong Hiến pháp năm 1992. Ra đời trong thời kỳ đấu tranh giai cấp và
là sản phẩm trực tiếp của cuộc đấu tranh giai cấp, đấu tranh dân tộc lâu dài, bản
chất của Hiến pháp đã thể hiện đậm nét ý chí của giai cấp cơng nhân, với nội
dung quy định những điều kiện sinh hoạt vật chất và điều chỉnh những quan hệ
xã hội tuân theo một trật tự nhất định phù hợp với lợi ích của giai cấp cơng
nhân, nơng dân và đội ngũ trí thức xã hội chủ nghĩa. Điều 2, Hiến pháp quy
định: “Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Tất cả quyền lực nhà


nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giai cấp công nhân với giai
cấp nông dân và tầng lớp trí thức”.
Hiến pháp đã thể hiện tính chất xã hội rộng lớn, phản ánh nhu cầu và lợi
ích chung của tất cả các giai cấp, tầng lớp nhân dân và của cả quốc gia, dân tộc.
Hiến pháp là nền tảng cho sự phát triển chung của toàn xã hội, điều chỉnh các
quan hệ xã hội, thể hiện sâu sắc truyền thống và bản sắc văn hóa dân tộc Việt
Nam. Điều 3, Hiến pháp thể hiện: “Nhà nước bảo đảm và không ngừng phát
huy quyền làm chủ về mọi mặt của nhân dân, thực hiện mục tiêu dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, mọi người có cuộc sống ấm no, tự
do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện; nghiêm trị mọi hành động xâm

phạm lợi ích của Tổ quốc và của nhân dân”.
Đối lập với tính chất tư bản chủ nghĩa thường có trong hiến pháp của các
nước tư bản, trong mọi nội dung Hiến pháp năm 1992 của nước ta đều thể hiện
rõ tính chất xã hội chủ nghĩa. Lợi ích trước tiên mà Hiến pháp bảo vệ là lợi ích
của giai cấp vô sản - giai cấp công nhân Việt Nam; tiếp đến là lợi ích giai cấp
nơng dân, đội ngũ trí thức xã hội chủ nghĩa và tồn thể nhân dân lao động. Hiến
pháp đã khẳng định nền tảng giai cấp của Nhà nước ta là liên minh giữa giai cấp
công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức. Đặc biệt, Hiến pháp khẳng
định và ghi nhận quyền lãnh đạo Nhà nước và toàn xã hội của một chính đảng
cộng sản duy nhất - Đảng Cộng sản Việt Nam. Ðiều 4 Hiến pháp quy định:
“Ðảng Cộng sản Việt Nam, đội tiên phong của giai cấp công nhân Việt Nam, đại
biểu trung thành quyền lợi của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả
dân tộc, theo chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, là lực lượng
lãnh đạo Nhà nước và xã hội”. Đối lập với các hình thức tổ chức quyền lực nhà
nước theo nguyên tắc tam quyền phân lập của các nhà nước tư sản, Hiến pháp
của nước ta xác định tổ chức quyền lực nhà nước theo nguyên tắc tập quyền.
Điều 2 Hiến pháp quy định: “Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân


công và phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập
pháp, hành pháp, tư pháp”.
5. Mặt thực tiễn của Hiến pháp năm 1992
Hiến pháp năm 1992 chỉ đạo toàn bộ sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã
hội thời kỳ đổi mới toàn diện, sâu sắc về kinh tế, từng bước và vững chắc về
chính trị. Điểm nổi bật là chỉ đạo chuyển đổi cơ bản nền kinh tế từ kế hoạch hóa
tập trung hai thành phần sang kinh tế hàng hóa thị trường nhiều thành phần, xác
định sự bình đẳng trước pháp luật của các thành phần kinh tế, khuyến khích đầu
tư nước ngồi. Bảo tồn, phát triển nền văn hóa Việt Nam, xác định giáo dục và
đào tạo là quốc sách hàng đầu. Quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân được
sửa đổi, bổ sung nhiều hơn. Bổ sung nhiều quyền hạn quyết định xây dựng

chương trình luật, pháp lệnh, trưng cầu dân ý của Quốc hội, quyết định chính
sách dân tộc của Nhà nước. Sửa đổi thiết chế Nhà nước, Quốc hội; chế định
Chính phủ theo quan điểm tập quyền “mềm” - quyền lực Nhà nước tập trung
thống nhất có sự phân biệt chức năng giữa các cơ quan nhà nước trong thực
hiện lập pháp, hành pháp và tư pháp; tăng nhiều quyền hạn và đề cao vai trò của
Thủ tướng trong thành lập Chính phủ. Nhấn mạnh tính đại diện của Hội đồng
nhân dân; tăng quyền hạn của Chủ tịch Ủy ban nhân dân. Thiết lập thêm các tòa
án kinh tế, lao động, hành chính. Thực hiện chế độ Thẩm phán bổ nhiệm; kết
hợp giữa chế độ cử và chế độ bầu Hội thẩm nhân dân. Thành lập thêm các Ủy
ban kiểm sát thuộc Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh
(thành phố thuộc Trung ương)…
Hiến pháp năm 1992 vừa đánh dấu sự phục hưng, vừa thúc đẩy sự phát
triển của nền kinh tế xã hội Việt Nam những năm cuối thế kỷ XX, đầu thế kỷ
XXI. Vào thời điểm Hiến pháp năm 1992 ban hành, đất nước ta chưa ra khỏi
khủng hoảng kinh tế - xã hội. Nhờ có Hiến pháp định hình khn khổ hệ thống
luật pháp theo tinh thần đổi mới mà chỉ 10 năm sau - năm 2001, Đại hội IX của


Đảng đã nhận định: “Đất nước đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, vượt
qua được cơn chấn động chính trị và sự hẫng hụt về thị trường...; phá được thế
bị bao vây cấm vận, mở rộng được quan hệ đối ngoại và chủ động hội nhập
kinh tế quốc tế; không để bị cuốn sâu vào cuộc khủng hoảng tài chính - kinh tế
ở một số nước châu Á...; tình hình chính trị - xã hội cơ bản ổn định; quốc
phòng và an ninh được tăng cường. Sức mạnh về mọi mặt của nước ta đã lớn
hơn nhiều”. 20 năm sau - năm 2011, Đại hội XI chỉ rõ: “Chúng ta đã thực hiện
thành công chặng đường đầu của công cuộc đổi mới, đưa đất nước ra khỏi tình
trạng kém phát triển, đời sống nhân dân có nhiều thay đổi tích cực, sức mạnh
quốc gia về mọi mặt được tăng cường, độc lập, tự chủ và chế độ xã hội chủ
nghĩa được giữ vững, vị thế và uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế được
nâng cao, tạo tiền đề để nước ta tiếp tục phát triển mạnh mẽ và bền vững hơn

trong giai đoạn mới”... Những giá trị to lớn đó càng chứng minh, Hiến năm
1992 còn là tấm gương phản chiếu tinh thần đổi mới trong tư tưởng lập hiến và
lập pháp của con người Việt Nam.
Hiến pháp 1992 thể hiện sự độc lập và tự chủ trong tiến trình phát triển
của nền triết học pháp quyền Việt Nam, một nền triết học pháp quyền thể hiện
bản sắc dân tộc. Cũng như hiến pháp các năm 1946, 1959 và 1980, những tư
tưởng triết lý về lập hiến trong Hiến pháp năm 1992 do chính những người dân
Việt Nam lập nên. Từ tinh thần, nội dung đến các nguyên tắc lập hiến đều của
người Việt Nam, do người Việt Nam định đoạt, không chịu sự áp đặt bởi những
triết lý lập hiến nào từ bên ngoài. Đặc biệt là kế thừa những nguyên tắc, tư
tưởng dân chủ lập hiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “trăm điều phải có thần linh
pháp quyền” - tồn bộ quyền lực của nhà nước tự nhiên thuộc về nhân dân.
Đồng thời, Hiến pháp cũng thể hiện sự kết hợp nhuần nhuyễn với tính quốc tế
và hiện đại trên cơ sở phát triển và tiếp thu những tinh hoa của văn hóa pháp lý
Việt Nam và tinh hoa văn hóa pháp lý thế giới. Những quan điểm, tư tưởng cơ
bản, nền tảng về xây dựng hệ thống chính trị, nền dân chủ xã hội chủ nghĩa của


chủ nghĩa Mác - Lênin được thể hiện; những giá trị tiến bộ về xây dựng nhà
nước pháp quyền, khẳng định toàn bộ chủ quyền thuộc về nhân dân, giao quyền
tổ chức và thực hiện quyền lực nhân dân cho nhà nước, phân công, phối hợp
thực hiện quyền lực giữa các cơ quan nhà nước… trong hiến pháp của các nước
trên thế giới được chọn lọc, vận dụng vào hoàn cảnh cụ thể sự nghiệp xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
KẾT LUẬN
Với những giá trị chính trị - pháp lý trên đây của Hiến pháp năm 1992 đã
phủ định hoàn toàn những quan điểm, tư tưởng sai lầm, phản động, phiến diện
đang lợi dụng chủ trương bổ sung, sửa đổi Hiến pháp lần này để tuyên truyền,
bịa đặt cho rằng Hiến pháp năm 1992 “không phải là một đạo luật gốc”, “không
tuân thủ những nguyên tắc lập hiến”, “chưa phản ánh đầy đủ các quyền công

dân” hay “chỉ là hiến pháp bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa”… nhằm mục tiêu
hiến định một chế độ, một hệ thống chính trị phi xã hội chủ nghĩa, gạt bỏ sự
lãnh đạo của Đảng, xóa bỏ thành quả cách mạng của nhân dân lao động, hướng
lái quốc gia, dân tộc theo con đường tư bản chủ nghĩa. Mặt khác, những giá trị
thực tiễn toàn diện và to lớn mà Hiến pháp đã đem lại cho đất nước, nhân dân ta
trong thời kỳ đổi mới vừa qua là “nền tảng vật chất” vững chắc đập tan những
luận điệu phủ nhận tính thực tiễn của một bản hiến pháp luôn nên cao lý tưởng
dân quyền, tinh thần độc lập và tự chủ, hướng tới mục tiêu dân giàu, nước
mạnh, xã hội dân chủ, công bằng văn minh.
Những giá trị cơ bản không thể phủ nhận của Hiến pháp năm 1992 còn tiếp
tục hiện diện, tỏa sáng trong đời sống chính trị, tinh thần và pháp lý của người
dân Việt Nam thời kỳ đẩy mạnh sự nghiệp đổi mới. Để những giá trị đó được kế
thừa và phát huy, bên cạnh việc giữ vững những nguyên tắc, giá trị và truyền
thống văn hóa lập hiến trước đây, việc sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 1992 lần
này cần có sự thống nhất, tiếp tục kế thừa những quy định của Hiến pháp năm


1992 và của các bản Hiến pháp trước đây còn phù hợp. Mạnh dạn sửa đổi, bổ
sung những vấn đề thực sự cần thiết, phù hợp với tình hình mới, nhưng phải căn
cứ định hướng, nội dung của Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá
độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) và các văn kiện khác của
Đảng, đặc biệt phải bám sát các nội dung đã được văn kiện Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ XI của Đảng xác định
Nước ta đang trong thời kỳ hội nhập quốc tế và hợp tác hóa từng ngày
trước bối cảnh đó hiến pháp 1992 đã làm đúng vai trị nhiệm vụ của mình trong
việc định hướng và làm cơ sở cho các bộ luật ra đời một lần nữa có thể khẳng
định hiến pháp 1992 là đạo luật cơ bản của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam



DANH MỤC CÁC TÀI LIỆU
1. Giáo trình “Luật Hiến pháp Việt Nam”, Nhà xuất bản Tư pháp, Hà Nội,
năm 2006.
2. Giáo trình “Luật Hiến pháp Việt Nam”, Khoa luật – ĐH Quốc gia Hà
Nội, Nxb.ĐHQG, Hà Nội, năm 2005.
3. Sách “Góc nhìn Lập pháp” của Bùi Ngọc Sơn, Nxb.CTQG, Hà Nội năm
2006.
4.Văn phòng Quốc hội, Hiến pháp 1946 – Sự kế thừa và phát triển qua các
Hiến pháp VN, Nxb.CTQG, Hà Nội, năm 1993.
5. Viện nghiên cứu nhà nước và pháp luật, “Bình luận khoa học hiến pháp
Cộng hịa XCHCN Việt Nam”, Nxb.KHXH, năm 1995.
6. Một số trang web.



×