Tải bản đầy đủ (.doc) (78 trang)

Hoàn thiện pháp luật Việt Nam về phòng, chống trục lợi bảo hiểm trong kinh doanh bảo hiểm tài sản.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (366.95 KB, 78 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG

LUẬN VĂN THẠC SĨ
HỒN THIỆN PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ PHỊNG,
CHỐNG TRỤC LỢI BẢO HIỂM TRONG
KINH DOANH BẢO HIỂM TÀI SẢN

Ngành: Luật kinh tê

TẠ NHẬT ANH

Hà Nội, năm 2019


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG

LUẬN VĂN THẠC SĨ
Hồn thiện pháp ḷt Việt Nam về phịng, chống trục lợi
bảo hiểm trong kinh doanh bảo hiểm tài sản

Ngành: Luật kinh tê
Mã số: 8380107

Họ và tên học viên: Tạ Nhật Anh
Người hướng dẫn: TS Nguyễn Bình Minh

Hà Nội, năm 2019



1

LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam kết luận văn này là cơng trình nghiên cứu khoa học độc lập của
tơi. Các tài liệu, tư liệu được sử dụng trong luận văn có nguồn dẫn rõ ràng, các kết
quả nghiên cứu là q trình lao động trung thực của tơi.

TÁC GIẢ LUẬN VĂN

Tạ Nhật Anh


LỜI CẢM ƠN
Tơi xin bày tỏ lịng biết ơn sâu sắc và xin trân trọng cảm ơn sự hướng dẫn,
giúp đỡ hết sức nhiệt tình, trách nhiệm và hiệu quả của TS Nguyễn Bình Minh,
giảng viên khoa Luật, Trường Đại học Ngoại thương Hà Nội.
Tơi cũng xin bày tỏ lịng cảm ơn sâu sắc và xin được gửi lời cảm ơn tới tập thể
cán bộ, giảng viên Khoa Luật, tập thể Thầy, Cô giáo Trường Đại học Ngoại thương
Hà Nội đã giảng dạy, truyền thụ kiến thức và giúp đỡ tơi trong suốt khố học và thời
gian nghiên cứu luận văn.
TÁC GIẢ LUẬN VĂN

Tạ Nhật Anh


MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN.................................................................................................i
LỜI CẢM ƠN......................................................................................................ii
DANH MỤC CÁC CHƯ VIẾT TẮT.................................................................v
TÓM TẮT KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU.............................................................vi

LỜI MỞ ĐẦU...................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ KINH DOANH BẢO HIỂM TÀI SẢN VÀ
TRỤC LỢI BẢO HIỂM TRONG KINH DOANH BẢO HIỂM TÀI SẢN....9
1.1. Tổng quan về kinh doanh bảo hiểm tài sản............................................9
1.1.1. Khái niệm kinh doanh bảo hiểm tài sản.......................................9
1.2. Tổng quan về trục lợi bảo hiểm.............................................................17
1.2.1. Khái niệm về trục lợi bảo hiểm và phòng chống, trục lợi bảo

hiểm 17
1.2.2. Nguyên nhân trục lợi bảo hiểm...................................................21
1.2.3. Hậu quả trục lợi bảo hiểm...........................................................24
1.3. Các loại trục lợi bảo hiểm tài sản..........................................................26
1.3.1. Căn cứ vào giai đoạn bảo hiểm...................................................26
1.3.2. Căn cứ vào đối tượng tiến hành trục lợi bảo hiểm.....................28
1.3.3. Căn cứ vào các thủ đoạn gian lận bảo hiểm tài sản...................30
1.3.4. Căn cứ vào hình thức trục lợi.....................................................32

CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG VỀ TRỤC LỢI BẢO HIỂM TẠI VIỆT NAM
VÀ PHÁP LUẬT VỀ PHÒNG, CHỐNG TRỤC LỢI BẢO HIỂM TÀI SẢN
..............................................................................................................................33
2.1. Thực trạng về trục lợi bảo hiểm tài sản tại Việt Nam..........................33
2.1.1. Tình hình trục lợi bảo hiểm những năm gần đây......................33
2.2.2. Hình thức trục lợi bảo hiểm........................................................34
2.2.3. Hậu quả của trục lợi bảo hiểm....................................................42
2.2. Pháp luật Việt Nam về phòng, chống trục lợi bảo hiểm tài sản..........43
2.2.1. Nhóm các quy định chung về phòng, chống trục lợi bảo hiểm 44


2.2.2. Nhóm các quy định điều chỉnh hành vi của các bên trong


hợp đồng bảo hiểm
46
2.2.2. Nhóm các quy định về quản lý nhà nước về phòng, chống trục

lợi bảo hiểm
50
2.2.3. Nhóm các quy định của pháp luật khác có liên quan điều chỉnh

hành vi trục lợi bảo hiểm
52
CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP VÀ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT
VIỆT NAM VỀ PHÒNG, CHỐNG TRỤC LỢI BẢO HIỂM TÀI SẢN......54
3.1. Làm rõ khái niệm trục lợi bảo hiểm......................................................54
3.2. Hoàn thiện quy định về hợp đờng bảo hiểm tài sản.............................55
3.3. Hồn thiện các quy định về phòng ngừa rủi ro và giám sát hoạt

động kinh doanh bảo hiểm............................................................................59
3.4. Bổ sung quy định về đăng ký hợp đồng bảo hiểm tài sản....................64

KẾT LUẬN........................................................................................................66
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


DANH MỤC CÁC CHƯ VIẾT TẮT

Tên viêt
tắt

Tiêng Anh


Tiêng Việt

ABI

Association of British Insurers

Hiệp hội Bảo hiểm Anh

FBI

Federal Bureau of Investigation

Cục điều tra liên bang

FOS

Financial Ombudsman Service

Dịch vụ thanh tra tranh chấp tài
chính

ICA

Insurance Council Australia

Hội đồng bảo hiểm Úc

IDS

Insurance Data Service Inc.


Cơng ty TNHH Dịch vụ dữ liệu
bảo hiểm

IFB

Insurance Fraud Bureau

Văn phòng về Trục lợi bảo hiểm
của Anh

IRS

Insurance Reference Services

Dịch vụ tham khảo bảo hiểm

NAIC

National Association of Insurance
Commissioners

Hiệp hội quốc gia Cơ quan quản
lý bảo hiểm Hoa Kỳ

NFD

National Fraud Database

Cơ sở dữ liệu về trục lợi quốc

gia

NFSA

National Fraud Strategic Authority
(UK)

Cơ quan Chiến lược Quốc gia
của Anh về Gian lận

NICB

National Insurance Crime Bureau

Văn phòng quốc gia về tội phạm
bảo hiểm

OIG

Offical of Inspector General (US Vụ thanh tra của Bộ sức khỏe và
Department of Health and Human dịch vụ nhân lực Mỹ
Services)

SFD

Staff Fraud Database

Cơ sở dữ liệu về trục lợi của
nhân viên



TÓM TẮT KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Tên luận văn: Hoàn thiện pháp luật Việt Nam về phòng, chống trục lợi bảo
hiểm trong kinh doanh bảo hiểm tài sản
Luận văn đã đạt được các kết quả chính sau:
- Đã làm rõ các khái niệm liên quan đến kinh doanh bảo hiểm tài sản, như bảo

hiểm tài sản, kinh doanh bảo hiểm tài sản, đặc điểm của bảo hiểm tài sản, rủi ro
trong bảo hiểm tài sản và tổn thất trong bảo hiểm tài sản.
- Đã phân tích khái niệm trục lợi bảo hiểm, nguyên nhân dẫn đến trục lợi bảo

hiểm và hậu quả của trục lợi bảo hiểm.
- Đã làm rõ khái niệm trục lợi bảo hiểm tài sản, trong đó tập trung nghiên cứu

trục lợi bảo hiểm hàng hóa vận chuyển bằng đường biển, Các loại trục lợi bảo hiểm
hàng hóa vận chuyển bằng đường biển.
- Đã làm rõ thực trạng về trục lợi bảo hiểm tài sản ở Việt Nam và pháp luật về

phòng, chống trục lợi bảo hiểm tài sản.
- Đã đề xuất một số giải pháp cụ thể để hoàn thiện pháp luật Việt Nam liên

quan đến hợp đồng bảo hiểm tài sản; giám sát hoạt động kinh doanh bảo hiểm; đăng
ký hợp đồng bảo hiểm tài sản.


1

LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiêt của đề tài


Cùng với sự phát triển mạnh mẽ của kinh tế những năm gần đây, các hoạt
động kinh doanh, thương mại diễn ra ngày càng nhiều và kèm theo đó hoạt
động bảo hiểm cũng diễn ra hết sức sơi động, đóng góp tích cực vào tăng
trưởng kinh tế của Việt Nam. Tính đến 31/12/2017, thị trường bảo hiểm có 64
doanh nghiệp hoạt động trong các lĩnh vực bảo hiểm phi nhân thọ, nhân thọ, tái
bảo hiểm và môi giới bảo hiểm. Tổng tài sản toàn thị trường đạt 316.300 tỷ
đồng, tăng 27,4% so với năm 2016, tổng số tiền đầu tư trở lại nền kinh tế đạt
247.815 tỷ đồng, tăng 25% so với năm 2016, tởng doanh thu tồn thị trường
đạt 132.369 tỷ đồng, trong đó doanh thu phí bảo hiểm đạt 107.821 tỷ đồng
(tăng 23,4% so với năm 2016), doanh thu đầu tư đạt 24.548 tỷ đồng, số tiền chi
trả quyền lợi bảo hiểm là 31.904 (Bộ Tài Chính, 2018, tr. 5). Cịn theo số liệu
đăng tải trên trang web chính thức của Hiệp hội bảo hiểm Việt Nam, doanh thu
phí bảo hiểm phi nhân thọ đạt 41.344 tỷ đồng, tăng trưởng 13%. Các doanh
nghiệp bảo hiểm đầu tư vào nền kinh tế 231.973 tỷ đồng, trong đó khối nhân
thọ đạt 193.508 tỷ đồng, tăng 41%; khối phi nhân thọ đạt 38.465 tỷ đồng, tăng
27%. Các Doanh nghiệp bảo hiểm đã tạo cơng ăn việc làm cho 702.282 lao
động, trong đó có 29.584 cán bộ nhân viên và 672.698 đại lý (Ngô Trung
Dũng, 2018).
Tuy nhiên, cùng với sự phát triển nhanh chóng của thị trường bảo hiểm
Việt Nam, đã xuất hiện tình trạng trục lợi bảo hiểm. Những năm gần đây, trục
lợi bảo hiểm nói chung và trục lợi bảo hiểm vật chất nói riêng ở Việt Nam đã
gia tăng nhanh chóng về số lượng và phát triển phức tạp về quy mô cũng như
thủ đoạn trục lợi, gây thiệt hại về vật chất, uy tín cho nhiều doanh nghiệp bảo
hiểm, xâm phạm đến quyền và lợi ích chính đáng của người tham gia bảo hiểm,


đồng thời ảnh hưởng đến sự phát triển bền vững của thị trường bảo hiểm Việt
Nam.
Pháp luật Việt Nam điều chỉnh hoạt động kinh doanh bảo hiểm nói chung
và phịng chống trục lợi bảo hiểm nói riêng đã nhiều lần được sửa đổi, bổ sung

phần nào đã cho thấy sự phức tạp của vấn đề và các khó khăn khi áp dụng các
quy định của luật nhằm phòng chống trục lợi bảo hiểm.
Ngồi ra, trong cơng tác ngăn ngừa trục lợi bảo hiểm, hoạt động quản lý,
giám sát của cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền đóng vai trò quan trọng,
nhằm đảm bảo cho các chủ thể liên quan thực hiện hành vi một cách có trách
nhiệm, tuân thủ quy định của pháp luật. Với mục đích nhằm ngăn ngừa trục lợi
bảo hiểm, cơ quan quản lý nhà nước thực hiện các nội dung giám sát của mình
thơng qua việc ban hành các quy định như: Cấp phép thành lập và hoạt động
của doanh nghiệp bảo hiểm, doanh nghiệp môi giới bảo hiểm; quản lý, giám sát
sản phẩm bảo hiểm; quản lý, giám sát kênh trung gian bảo hiểm. Các nội dung
này được cơ quan nhà nước thực hiện bằng phương thức giám sát từ xa và kiểm
tra tại chỗ cũng như thực hiện thẩm quyền của mình trong việc áp dụng các chế
tài đối với chủ thể vi phạm. Thời gian qua các doanh nghiệp bảo hiểm Việt
Nam cũng như Cục Quản lý và Giám sát bảo hiểm, Bộ Tài chính đã nghiên cứu
áp dụng nhiều biện pháp phòng ngừa hạn chế trục lợi trong bảo hiểm và đã thu
được những thành công nhất định. Tuy nhiên thực tế các biện pháp này chưa
thật sự giải quyết hiệu quả tình trạng trục lợi trong bảo hiểm nói chung và trục
lợi trong bảo hiểm hàng hóa vận chuyển bằng đường biển nói riêng.
Trên góc độ nghiên cứu, một số tác giả cũng đã phân tích thực trạng trục
lợi bảo hiểm và đặc biệt là trục lợi bảo hiểm xe cơ giới nhằm đưa ra một số giải
pháp phòng ngừa hiện tượng này. Tuy nhiên, như phần tổng quan tình hình
nghiên cứu sẽ được trình bày dưới đây cho thấy, các nghiên cứu này mới chỉ


tập trung nghiên cứu một vài khía cạnh của hiện tượng trục lợi bảo hiểm và
thường nhấn mạnh đến trục lợi bảo hiểm xe cơ giới. Ngoài ra, pháp luật Việt
Nam cũng đã có những thay đởi trong thời gian gần đây và các nghiên cứu này
chưa đề cập đến các quy định mới này.
Vì vậy, việc nghiên cứu một cách tổng thể các quy định của pháp luật Việt
Nam về phòng, chống trục lợi bảo hiểm trong kinh doanh bảo hiểm tài sản

nhằm đưa ra các giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật Việt Nam là hết sức cần
thiết và có ý nghĩa cả về lý luận và thực tiễn.
Vì những lẽ trên, học viên đã lựa chọn chủ đề “Hồn thiện pháp luật Việt
Nam về phịng, chống trục lợi bảo hiểm trong kinh doanh bảo hiểm tài sản”
làm đề tài luận văn Thạc sỹ của mình. Đề tài này phù hợp với chuyên ngành
đào tạo Thạc sỹ Luật học, chuyên ngành Luật Kinh tế tại Trường Đại học
Ngoại thương.
2. Tình hình nghiên cứu

Hoạt động kinh doanh bảo hiểm nói chung và trục lợi bảo hiểm nói riêng
khơng phải là chủ đề mới. Đã có khá nhiều nghiên cứu trong và ngoài nước về
trục lợi bảo hiểm được thể hiện trong các giáo trình về bảo hiểm, trong các đề
tài nghiên cứu khoa học, các luận án tiến sỹ, luận văn thạc sỹ cũng như các bài
viết đăng tải trên các tạp chí chun ngành. Cụ thể, có thể kể đến các cơng
trình tiêu biểu sau:
Các tác giả Đào Thanh Bình và Hồng Đình Minh trong bài viết về “Giải
pháp ngăn ngừa trục lợi bảo hiểm vật chất” đăng trên Tạp chí Tài chính số 8
năm 2014 đã phân tích thực trạng trục lợi bảo hiểm xe cơ giới, nhiện diện một
số hình thức gian lận bảo hiểm xe cơ giới và đưa ra một số giải pháp nhằm hạn
chế trục lợi bảo hiểm xe cơ giới.


PGS. TS Trần Sỹ Lâm, trong đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ về “Hạn
chế trục lợi trong bảo hiểm hàng hóa vận chuyển bằng đường biển tại một số
nước trên thế giới và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam”, nghiệm thu năm
2014, đã phân tích tởng quan về trục lợi và hạn chế trục lợi trong bảo hiểm
hàng hóa vận chuyển bằng đường biển, phân tích hiện tượng trục lợi và phương
pháp hạn chế trục lợi trong bảo hiểm hàng hóa vận chuyển bằng đường biển tại
một số nước trên thế giới và đưa ra các bài học kinh nghiệm cho Việt Nam về:
phòng ngừa trục lợi trong bảo hiểm hàng hóa vận chuyển bằng đường biển; xử

lý trục lợi trong bảo hiểm hàng hóa vận chuyển bằng đường biển. Đề tài này
cũng đã đưa ra một số giải pháp và kiến nghị nhằm hạn chế trục lợi trong bảo
hiểm hàng hóa vận chuyển bằng đường biển cho Việt Nam. Tuy nhiên, Đề tài
này chỉ tập trung nghiên cứu trục lợi trong bảo hiểm hàng hóa vận chuyển bằng
đường biển, vốn là một lĩnh vực hết sức chuyên biệt, chứ chưa nghiên cứu trục
lợi trong bảo hiểm tài sản nói chung.
Cục Quản lý và Giám sát bảo hiểm, trong một đề tài nghiên cứu khoa học
cấp Bộ do Bộ Tài chính tài trợ về“Trục lợi bảo hiểm ở Việt Nam-Nguy cơ và
Giải pháp” nghiệm thu năm 2012, đã phân tích thực trạng về trục lợi bảo hiểm
ở Việt Nam, đánh giá các tác hại mà hiện tượng này gây ra và đề xuất một số
giải pháp nhằm phòng ngừa hiện tượng này.
Tại Trường Đại học Ngoại thương có đề tài luận văn thạc sỹ bảo vệ năm
2013 của Ngũn Lệ Thủy về “Phịng chớng trục lợi trong kinh doanh bảo
hiểm phi nhân thọ tại một số doanh nghiệp bảo hiểm Việt Nam ”, cũng như đề
tài luận văn thạc sỹ năm 2012 của Nguyễn Thị Phượng về“Kinh nghiệm phịng
ngừa và đấu tranh chớng trục lợi bảo hiểm hàng hóa vận chuyển bằng đường
biển ở một sớ nước khu vực Bắc Mỹ và Tây Âu”.


Tác giả Doãn Hồng Nhung trong bài viết “Một số ý kiến hồn thiện pháp
luật về phịng ngừa, ngăn chặn trục lợi bảo hiểm trong kinh doanh bảo hiểm ở
Việt Nam”, đăng trên Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Luật học, tập 30, số 3 năm
2014, tr 33-40, đã phân tích thực trạng pháp luật Việt Nam và đề xuất một số
giải pháp hồn thiện, trong đó nhấn mạnh đến việc tăng các mức phạt tiền.
Nguyễn Thị Hoài Thu (2012) trong bài viết về “Hoàn thiện các quy định
của pháp luật để ngăn ngừa trục lợi bảo hiểm ở Việt Nam”, đăng trên tạp chí
Nghiên cứu lập pháp, số 03 (212) tháng 2 năm 2012, đã phân tích tình hình trục
lợi bảo hiểm trong kinh doanh bảo hiểm, thực tiễn xử lý các hành vi trục lợi
bảo hiểm và đưa ra các kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về kinh doanh bảo
hiểm để ngăn ngừa trục lợi bảo hiểm.

Tuy nhiên, các nghiên cứu nêu trên chủ yếu phân tích các khía cạnh kinh
tế – quản lý của vấn đề trục lợi bảo hiểm, coi đó là một phần của quản trị rủi ro
mà doanh nghiệp cần phải quan tâm thực hiện. Nghiên cứu của tác giả Nguyễn
Thị Hoài Thu đã đề cập trực tiếp đến vấn đề trục lợi bảo hiểm nói chung,
nhưng chưa đi sâu phân tích các đặc trưng của trục lợi bảo hiểm tài sản và cũng
chưa tính đến các sửa đởi của Bộ luật hình sự năm 2015.
Như vậy, cho đến nay, chưa có đề tài nào mới nghiên cứu, đánh giá một
cách tổng thể về pháp luật Việt Nam về phòng, chống trục lợi bảo hiểm trong
kinh doanh bảo hiểm tài sản.
3. Mục đích nghiên cứu

Mục đích của luận văn là phân tích các quy định của pháp luật Việt Nam
về phòng, chống trục lợi bảo hiểm trong kinh doanh bảo hiểm tài sản để đề
xuất các giải pháp nhằm áp dụng hiệu quả pháp luật cũng như hoàn thiện pháp
luật về vấn đề này.


4. Nhiệm vụ nghiên cứu

Để đạt được mục đích trên, luận văn sẽ thực hiện các nhiệm vụ sau:
Thứ nhất, phân tích hoạt động kinh doanh bảo hiểm để làm rõ bản chất
loại hình kinh doanh này
Thứ hai, nhận diện các phương thức, hành vi trục lợi bảo hiểm, đặc biệt là
trục lợi bảo hiểm tài sản.
Thứ ba, phân tích các quy định của pháp luật Việt Nam về phòng, chống
trục lợi bảo hiểm nói chung và phịng, chống trục lợi bảo hiểm tài sản nói
riêng.
Thứ tư, đề xuất các giải pháp nhằm áp dụng hiệu quả các quy định của
pháp luật Việt Nam về phòng, chống trục lợi bảo hiểm tài sản.
Thứ năm, kiến nghị hoàn thiện pháp luật Việt Nam về phòng, chống trục

lợi bảo hiểm tài sản.
5. Đối tượng nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu là các hành vi trục lợi bảo hiểm tài sản ở Việt Nam
và các quy định của pháp luật Việt Nam về phòng, chống trục lợi và hạn chế
trục lợi bảo hiểm tài sản. Ngoài ra, do bảo hiểm tài sản rất đa dạng, nên trong
một số mục, luận văn sẽ tập trung nghiên cứu loại hình bảo hiểm hàng hóa vận
chuyển bằng đường biển.
6. Phạm vi nghiên cứu

Các hoạt động kinh doanh bảo hiểm rất đa dạng và các hành vi trục lợi
cũng rất đa dạng. Vì vậy, luận văn này sẽ không đề cập đến tất cả các hành vi
trục lợi bảo hiểm nói chung mà sẽ có giới hạn cả về nội dung nghiên cứu, về
không gian nghiên cứu và thời gian nghiên cứu.


Về nội dung nghiên cứu: Đề tài chỉ giới hạn nghiên cứu các dạng trục lợi
điển hình trong bảo hiểm tài sản, cũng như các biện pháp hạn chế trục lợi chủ
yếu của các cơ quan quản lý nhà nước chức năng và các doanh nghiệp bảo
hiểm áp dụng đối với các đối tượng trục lợi. Các hành vi trục lợi bảo hiểm phi
nhân thọ sẽ không được đề tài này nghiên cứu.
Về không gian nghiên cứu: Đề tài chỉ giới hạn nghiên cứu các hành vi
trục lợi bảo hiểm tài sản ở Việt Nam và quy định của pháp luật Việt Nam về
vấn đề này. Các hành vi trục lợi, các tranh chấp về trục lợi bảo hiểm ở nước
ngoài, các quy định của pháp luật nước ngoài về phịng, chống trục lợi bảo
hiểm nếu được trích dẫn trong Luận văn thì chỉ để làm ví dụ hoặc đối tượng so
sánh chứ không phải là đối tượng nghiên cứu chính của Luận văn.
Về thời gian nghiên cứu: Đề tài tập trung nghiên cứu các hiện tượng trục
lợi, các thủ đoạn trục lợi, các biện pháp trục lợi bảo hiểm tài sản và các quy
định của pháp luật Việt Nam về phòng, chống trục lợi bảo hiểm từ năm 2000,

tức là thời điểm Việt Nam có đạo luật chuyên ngành đầu tiên về kinh doanh bảo
hiểm. Tuy nhiên, Luận văn sẽ tập trung nghiên cứu sâu hơn giai đoạn từ năm
2010 trở lại đây, tức là thời điểm Việt Nam có một luật mới sửa đởi, bở sung
một số điều của Luật kinh doanh bảo hiểm năm 20001.
7. Phương pháp nghiên cứu

Để đạt được mục đích nghiên cứu nêu trên, Luận văn sẽ sử dụng các
phương pháp nghiên cứu luật học truyền thống, như: phân tích, tởng hợp tình
huống, phân tích án lệ và so sánh luật học.

1

Để việc trích dẫn được ngắn gọn hơn, thứ tự các điều luật được trích dẫn sẽ là thứ tự trong văn bản hợp
nhất số 12/VBHN-VPQH ngày 23 tháng 07 năm 2013 về Luật kinh doanh bảo hiểm. Trong Luận văn này,
Luật Kinh doanh bảo hiểm được hiểu là Luật kinh doanh bảo hiểm năm 2010. Khi đề cập đến quy định cũ
thì Luận văn sẽ nêu rõ đó là Luật kinh doanh bảo hiểm năm 2000.


Phương pháp phân tích, tởng hợp được sử dụng xun suốt luận văn nhằm
làm sáng tỏ các vấn đề về lý luận cũng như thực tiễn về hoạt động kinh doanh
bảo hiểm, về các hành vi trục lợi bảo hiểm và các quy định của pháp luật về
phòng, chống trục lợi bảo hiểm.
Phương pháp phân tích án lệ sẽ được sử dụng chủ yếu trong Chương 2
nhằm làm sáng tỏ hơn sự phức tạp của vấn đề trục lợi bảo hiểm, cũng như rút
ra các bài học tạo tiền đề cho việc đề xuất các giải pháp nhằm áp dụng hiệu quả
các quy định của pháp luật về phòng, chống trục lợi bảo hiểm tài sản và hoàn
thiện pháp luật Việt Nam về vấn đề này.
Phương pháp so sánh luật học sẽ được sử dụng chủ yếu tại Chương 1 và
Chương 2 nhằm làm rõ các ưu điểm và nhược điểm của pháp luật Việt Nam
trong tương quan với pháp luật nước ngoài, nhằm tạo tiền đề cho các đề xuất

hoàn thiện pháp luật Việt Nam.
8. Kêt cấu của Luận văn

Ngoài Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo, Danh mục các chữ
viết tắt, Luận văn được kết cấu thành 3 chương như sau:
- Chương 1: Tổng quan về kinh doanh bảo hiểm tài sản và trục lợi bảo

hiểm trong kinh doanh bảo hiểm tài sản
- Chương 2: Thực trạng về trục lợi bảo hiểm tài sản tại Việt Nam và pháp

luật về phòng, chống trục lợi bảo hiểm tài sản
- Chương 3: Giải pháp và kiến nghị hồn thiện pháp luật Việt Nam phịng,

chống trục lợi bảo hiểm tài sản.


CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ KINH DOANH BẢO HIỂM TÀI SẢN
VÀ TRỤC LỢI BẢO HIỂM TRONG KINH DOANH BẢO HIỂM TÀI
SẢN
1.1. Tổng quan về kinh doanh bảo hiểm tài sản
1.1.1. Khái niệm kinh doanh bảo hiểm tài sản
1.1.1.1. Khái niệm “bảo hiểm tài sản”

Pháp luật Việt Nam không đưa ra định nghĩa về bảo hiểm tài sản mà chỉ
có quy định chung về bảo hiểm phi nhân thọ, theo đó bảo hiểm phi nhân thọ là
loại nghiệp vụ bảo hiểm tài sản, trách nhiệm dân sự và các nghiệp vụ bảo hiểm
khác không thuộc bảo hiểm nhân thọ (khoản 18, Điều 3, Luật kinh doanh bảo
hiểm). Như vậy, bảo hiểm tài sản nằm trong nhóm bảo hiểm phi nhân thọ.
Bảo hiểm tài sản, như tên gọi của nó cho thấy, có đối tượng là một loại tài
sản. Bảo hiểm hiểm tài sản thường được thể hiện bằng hợp đồng bảo hiểm

nhằm cung cấp sự đền bù về mặt tài chính cho chủ sở hữu hoặc người thuê tài
sản, trong trường hợp tài sản bị hư hỏng hoặc trộm cắp. Các loại tài sản được
bảo hiếm rất đa dạng. Theo pháp luật Việt Nam, tài sản là vật, tiền, giấy tờ có
giá và quyền tài sản (khoản 1, Điều 105 BLDS năm 2015). Tài sản bao gồm hai
loại là bất động sản và động sản. Bất động sản và động sản có thể là tài sản
hiện có và tài sản hình thành trong tương lai (khoản 2, Điều 105 BLDS năm
2015). Tất cả các loại tài sản kể trên đều có thể trở thành đối tượng của bảo
hiểm tài sản. Trong thực tiễn, các bên có quyền thỏa thuận về loại tài sản được
bảo hiểm.
1.1.1.2. Khái niệm kinh doanh bảo hiểm tài sản

Pháp luật Việt Nam cũng khơng có định nghĩa về kinh doanh bảo hiểm tài
sản mà chỉ có định nghĩa về “kinh doanh bảo hiểm”. Cụ thể, theo khoản 1 Điều
3 Luật Kinh doanh bảo hiểm, kinh doanh bảo hiểm là “hoạt động của doanh


nghiệp bảo hiểm nhằm mục đích sinh lợi, theo đó doanh nghiệp bảo hiểm chấp
nhận rủi ro của người được bảo hiểm, trên cơ sở bên mua bảo hiểm đóng phí
bảo hiểm để doanh nghiệp bảo hiểm trả tiền bảo hiểm cho người thụ hưởng
hoặc bồi thường cho người được bảo hiểm khi xảy ra sự kiện bảo hiểm”.
Do đối tượng của kinh doanh bảo hiểm tài sản là tài sản mà tài sản lại có
các dạng rất khác nhau nên bảo hiểm tài sản cũng rất đa dạng, thường là do các
bên tự do thỏa thuận, nhưng cũng có thể do pháp luật bắt buộc. Có thể kể đến
các loại bảo hiểm tài sản tiêu biểu sau.
a) Bảo hiểm mọi rủi ro tài sản

Đây là loại bảo hiểm nhằm bảo toàn tài sản doanh nghiệp một cách an
toàn và hiệu quả nhất. Đối tượng của loại bảo hiểm này bao gồm tài sản cố
định, các cơng trình xây dựng (nhà cửa, kho tàng, văn phịng…), hàng hóa lưu
kho, ngun vật liệu, tư liệu sản xuất… của các doanh nghiệp, xí nghiệp sản

xuất, trung tâm thương mại, khách sạn, dịch vụ… Phạm vi của loại bảo hiểm
này là toàn bộ tổn thất vật chất xảy ra bất ngờ đối với tài sản đã được bảo hiểm,
do bất kỳ nguyên nhân nào không bị loại trừ trong Quy tắc bảo hiểm và vào bất
kỳ thời điểm nào trong thời hạn bảo hiểm.
b) Bảo hiểm bắt buộc

Bảo hiểm bắt buộc là loại bảo hiểm do pháp luật quy định về điều kiện
bảo hiểm, mức phí bảo hiểm, số tiền bảo hiểm tối thiểu mà tổ chức, cá nhân
tham gia bảo hiểm và doanh nghiệp bảo hiểm có nghĩa vụ thực hiện. Bảo hiểm
bắt buộc chỉ áp dụng đối với một số loại bảo hiểm nhằm mục đích bảo vệ lợi
ích cơng cộng và an toàn xã hội. Theo Điều 8 Luật kinh doanh bảo hiểm, tại
Việt Nam bảo hiểm bắt buộc bao gồm: Bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ
xe cơ giới, bảo hiểm trách nhiệm dân sự của người vận chuyển hàng không đối
với hành khách; Bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp đối với hoạt động tư vấn


pháp luật; Bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp của doanh nghiệp môi giới bảo
hiểm; Bảo hiểm cháy, nổ.
Như vậy, bảo hiểm tài sản bắt buộc chỉ liên quan đến bảo hiểm cháy, nổ.
Đối tượng của loại bảo hiểm tài sản bắt buộc này có thể là nhà cửa, cơng trình
xây dựng và các trang thiết bị kèm theo, máy móc thiết bị, hàng hoá lưu kho
(nguyên vật liệu, bán thành phẩm, thành phẩm), vật tư và các tài sản khác. Loại
bảo hiểm tài sản bắt buộc này có phạm vi là Tổn thất vật chất bất ngờ gây ra do
cháy, nổ không lường trước được xảy ra đối với các tài sản được bảo hiểm theo
danh mục tài sản mà Người được bảo hiểm kê khai. Trong đó: Cháy là phản
ứng hóa học có tỏa nhiệt và phát sáng do nổ hoặc bất kỳ nguyên nhân nào
khác; Nổ là phản ứng hố học gây ra việc giải phóng khí và năng lượng đột
ngột với khối lượng lớn đồng thời phát ra âm thanh và ảnh hưởng vật lý đến
các vật xung quanh nhưng loại trừ thiệt hại tới bản thân nồi hơi, bình chứa,
máy móc sử dụng áp lực và chất liệu chứa trong đó.

c) Bảo hiểm cháy và các rủi ro đặc biệt

Cần lưu ý đây không phải là loại bảo hiểm tài sản bắt buộc, mà là một loại
bảo hiểm theo thỏa thuận giữa doanh nghiệp bảo hiểm và người mua bảo hiểm
nhằm bảo hiểm cho các các tài sản đặc biệt dễ cháy hoặc dễ hỏng hóc, hư hại
hoặc tiêu hao. Các rủi ro mà các bên có thể thỏa thuận là: cháy, nở, sét., giơng
bão, lũ lụt, đâm va, động đất, nổ nồi hơi và hoặc các thiết bị bình chứa hơi đốt,
rị rỉ nước từ hệ thống Sprinkler…
d) bảo hiểm gián đoạn kinh doanh

Trong thực tiễn kinh doanh, doanh nghiệp có thể phải đố diện với rủi ro
công việc kinh doanh bị gián đoạn, ngừng trệ do thiệt hại tài sản hay một phần
tài sản được bảo hiểm với mục đích kinh doanh. Loại bảo hiểm gián đoạn kinh
doanh cung cấp nguồn tài chính cho doanh nghiệp được bảo hiểm để
giúp


doanh nghiệp tiếp tục tồn tại và khôi phục hoạt động kinh doanh như trước khi
sự cố xảy ra. Đối tượng bảo hiểm là lợi nhuận bị mất đi do hoạt động sản xuất
kinh doanh của Người được bảo hiểm bị gián đoạn. Loại bảo hiểm này bồi
thường cho mất lợi nhuận kinh doanh và các chi phí cố định mà người được
bảo hiểm phải tiếp tục chi trả trong khi hoạt động kinh doanh đã bị đình trệ,
cản trở hoặc bị ảnh hưởng do có sự cố tởn thất tài sản tại cơ sở kinh doanh của
người được bảo hiểm.
1.1.1.3. Đặc điểm của bảo hiểm tài sản

Kinh doanh bảo hiểm tài sản có đối tượng hẹp hơn so với kinh doanh bảo
hiểm nói chung và vì thế nó cũng có những tính chất chun biệt hơn so với
các đặc điểm của kinh doanh bảo hiểm nói chung (bảo hiểm nhân thọ và bảo
hiểm phi nhân thọ). Cụ thể, bảo hiểm tài sản có các đặc điểm sau:

Thứ nhất, chỉ bảo hiểm khi xác định được giá trị tài sản là đối tượng của
bảo hiểm. Chính điều này địi hỏi phải có phương pháp phù hợp để xác định giá
trị tài sản. Trong thực tế, giá trị của tài sản có thể được tính trên cơ sở giá thị
trường hoặc theo thỏa thuận giữa các bên.
Thứ hai, số tiền chi trả của công ty bảo hiểm được xác định dựa trên
nguyên tắc bồi thường. Giá trị bồi thường bằng giá trị tởn thất của tài sản cộng
với chi phí hợp lý để đề phịng, hạn chế tởn thất, chi phí phát sinh theo chỉ dẫn
của doanh nghiệp bảo hiểm và chi phí giám định thiệt hại (nếu có). Các phương
thức bồi thường rất đa dạng, có thể bằng tiền, bằng sửa chửa, khôi phục hoặc
thay thế tài sản.
Thứ ba, trách nhiệm bồi thường trong trường hợp bảo hiểm trùng. Bảo
hiểm trùng là trường hợp bên mua bảo hiểm giao kết hợp đồng bảo hiểm với
hai doanh nghiệp bảo hiểm trở lên để bảo hiểm cho cùng một đối tượng với
cùng điều kiện và sự kiện bảo hiểm. Pháp luật không cấm bên mua bảo hiểm


mua bảo hiểm trùng cho tài sản bởi vì đây là quyền định đoạt của chủ sở hữu
đối với tài sản. Tức là, chủ tài sản được quyền mua bảo hiểm cho tài sản tại
nhiều doanh nghiệp bảo hiểm khác nhau với cùng điều kiện và sự kiện bảo
hiểm nhằm bảo vệ quyền lợi hợp pháp của mình đối với tài sản. Tuy nhiên,
trong quan hệ này, bên được bảo hiểm khơng được phép lợi dụng yếu tố phí
bảo hiểm phải trả cho một tài sản là rất nhỏ so với giá trị tài sản để yêu cầu bảo
hiểm nhiều lần cho tài sản tại nhiều doanh nghiệp bảo hiểm khác nhau nhằm
mục đích nhận được khoản tiền bảo hiểm lớn hơn nhiều lần so với giá trị của
tài sản bảo hiểm2.
1.1.1.4. Rủi ro trong bảo hiểm tài sản

Khi nhắc đến bảo hiểm là nhắc đến rủi ro. Rủi ro và bảo hiểm gắn liền với
nhau như hai mặt của một vấn đề, có rủi ro mới có bảo hiểm. Xác định được
các loại rủi ro có ý nghĩa khơng chỉ đối với người kinh doanh bảo hiểm mà còn

cả với người mua bảo hiểm. Rủi ro, là một điều không may mắn, không lường
trước được về khả năng xảy ra, về thời gian và không gian xảy ra, cũng như
mức độ nghiêm trọng và hậu quả của nó. Dưới góc độ pháp lý, Từ điển Thuật
ngữ Pháp-Việt giảng nghĩa rủi ro (risque) là “sự kiện bất thường có thể xảy ra,
khơng phụ thuộc hồn tồn vào ý muốn chủ quan của các bên và có khả năng
gây thiệt hại: thời tiết xấu, hỏa hoạn, thiên tai, dịch bệnh…” (Nhà Pháp luật
Việt-Pháp, Organisation Internationale de la Francophonie, 2009, tr. 805).
Trong thực tế, rủi ro rất đa dạng và có nguyên nhân phát sinh không giống
nhau và gây tác hại khác nhau. Để đánh giá một rủi ro, người ta dùng 2 tiêu
thức, đó là tần suất xuất hiện rủi ro và mức độ nghiêm trọng của rủi ro. Tần
suất xuất hiện rủi ro là số lần có thể xảy ra rủi ro trong một khoảng thời gian
nhất định hay là khoảng cách thời gian trung bình giữa các lần rủi ro xuất hiện.
2

Nội dung này sẽ được phân tích kỹ hơn tại Chương 2.


Ví dụ, cứ 10 năm lại xuất hiện một đợt rét hại ở miền Bắc Việt Nam làm chết
nhiều gia súc. Mức độ nghiêm trọng của rủi ro hay tính khốc liệt của tổn thất.
Tổn thất là hậu quả của rủi ro. Đối tượng chịu ảnh hưởng của rủi ro khác nhau
thì tởn thất gây ra cũng khác nhau. Ví dụ, giá lạnh có thể làm chết loại gia súc
này nhưng không gây thiệt hại cho loại vật nuôi khác.
Liên quan đến bảo hiểm tài sản, có thể kể đến các rủi ro sau:
a) Rủi ro tài chính và rủi ro phi tài chính

Rủi ro tài chính là những rủi ro mà hậu quả của nó có thể đo được bằng
tiền. Tài sản bị hư hỏng sẽ dẫn đến thiệt hại về tài chính, đó là chi phí khơi
phục, sửa chữa tài sản, chi phí thay thế bộ phận tài sản bị hỏng, chi phí mua tài
sản khác tương tự thay thế tài sản đã bị hư hại, thiệt hại do gián đoạn kinh
doanh.

Rủi ro phi tài chính là những rủi ro khơng đo được bằng tiền. Ví dụ, một
người mua một cái áo hoặc một đồ trang sức nhưng sau đó lại thấy khơng hợp
với sở thích của mình. Đây cũng có thể coi là một rủi ro nhưng hậu quả của nó
khơng gây thiệt hại tài chính, mà chỉ làm cho người có tài sản cảm thấy khơng
hài lịng.
b) Rủi ro có thể được bảo hiểm

Khơng phải rủi ro nào cũng có thể được bảo hiểm. Một rủi ro có thể được
bảo hiểm phải hội đủ các điều kiện sau đây:
Thứ nhất, tổn thất phải mang tính chất ngẫu nhiên. Một sự kiện có
thể được bảo hiểm phải là hồn tồn ngẫu nhiên đứng trên góc độ của người
được bảo hiểm. Không thể nào bảo hiểm một sự kiện chắc chắn sẽ xảy ra bởi vì
nó khơng mang tính chất ngẫu nhiên và do đó việc chuyển giao rủi ro sẽ
không xảy ra. Như vậy, không thể bảo hiểm những gì chắc chắn xảy ra như
những


hỏng hóc do hao mịn tự nhiên gây ra. Cũng khơng thể bảo hiểm những gì
người được bảo hiểm cố ý gây ra. Những hành động cố ý của người khác sẽ
khơng mặc nhiên bị loại trừ nếu như nó là hoàn toàn bất ngờ đối với người
được bảo hiểm.
Thứ hai, phải đo được, định lượng được bằng tiền. Ý nghĩa của bảo hiểm
chính là ở chỗ nó phát huy tác dụng như một cơ chế chuyển giao rủi ro và bù
đắp về tài chính cho những rủi ro xảy ra. Bảo hiểm không thể loại bỏ được rủi
ro, nhưng nó có trách nhiệm bảo vệ về mặt tài chính để đối phó với hậu quả
của những tởn thất xảy ra. Nếu như vậy thì rủi ro được bảo hiểm phải có thể
dẫn đến một tởn thất có thể đo được bằng tiền. Điều đó có thể dễ thấy trong các
trường hợp tổn thất tài sản. Giá trị bằng tiền bị mất của tài sản là có thể đo
được, và như vậy theo các điều kiện bảo hiểm, nó phải được bồi thường. Giá trị
chính xác của tởn thất sẽ không thể biết được ngay từ đầu khi ký hợp đồng bảo

hiểm, nhưng sẽ xác định được sau khi tổn thất đã xảy ra.
Thứ ba, không trái với đạo đức xã hội. Hoạt động bảo hiểm tài sản là một
loại giao dịch dân sự. Cũng như mọi giao dịch dân sự khác, bảo hiểm tài sản
phải không trái với luật và đạo đức xã hội (khoản 2, Điều 3 BLDS năm
2015). Vì vậy, các giao dịch cố ý hủy hoại hoặc lấy cắp tài sản của người khác
nhằm được hưởng bảo hiểm sẽ không được chấp nhận.
c) Rủi ro không được bảo hiểm (hay rủi ro bị loại trừ)

Rủi ro không được bảo hiểm là những rủi ro không được người bảo hiểm
nhận bảo hiểm hoặc không được người bảo hiểm bồi thường. Đó là những rủi
ro đương nhiên xảy ra, chắc chắn xảy ra, hoặc các thiệt hại do nội tỳ, bản chất
của hàng hóa, do lỗi của người được bảo hiểm, thiệt hại mà nguyên nhân trực
tiếp là chậm trễ, những rủi ro có tính chất thảm họa mà con người không lường


trước được quy mô, mức độ và hậu quả của nó. (Hồng Văn Châu, 2006, tr. 1718).
1.1.1.5. Tổn thất trong bảo hiểm tài sản

Tởn thất là tình trạng, hồn cảnh thực tế đưa đến sự giảm bớt giá trị của
tài sản ngồi ý muốn của người mua bảo hiểm. Tởn thất là hậu quả do các rủi
ro gây ra, là kết quả của rủi ro còn rủi ro là nguyên nhân gây ra tổn thất. Tổn
thất trong bảo hiểm tài sản có nhiều dạng, có thể là tởn thất về vật chất, tổn thất
về thu nhập, tổn thất về tinh thần, tởn thất về tính mạng, sức khỏe con người.
Tởn thất về vật chất và tổn thất về thu nhập có thể đo lường được và có thể bù
đắp được, có thể sửa chữa, khơi phục, thay thế. Vì vậy, bảo hiểm chỉ bồi
thường tổn thất vật chất, tổn thất về thu nhập. Tởn thất về tinh thần tình
cảm, như mất đi một người ruột thịt, mất đi một tập ảnh cưới là những tởn thất
khó đo được giá trị cũng như khó có cách nào bù đắp được. Tởn thất về tính
mạng và sức khỏe con người khơng có gì đo được và khơng thể lượng hố giá
trị bằng tiền. Tuy nhiên, người ta có thể thoả thuận với nhau số tiền bảo hiểm

sẽ trả trong trường hợp chết người, mất chân, mất tay v.v..., Có thể lượng hố
được sức khỏe con người bằng tỷ lệ % mất khả năng lao động. Do luận văn chỉ
đề cập đến bảo hiểm tài sản nên những loại tổn thất được nghiên cứu chỉ là các
tổn thất về vật chất.
Theo mức độ, quy mô tổn thất chia thành tổn thất bộ phận và tởn thất tồn
bộ. Tởn thất bộ phận là một phần của tài sản được bảo hiểm theo một hợp đồng
bảo hiểm bị mất mát, hư hỏng, thiệt hại. Tổn thất bộ phận có thể là tởn thất về
số lượng, trọng lượng, thể tích, phẩm chất hoặc giá trị. Tởn thất toàn bộ là toàn
bộ tài sản theo một hợp đồng bảo hiểm bị tởn thất. Có hai loại tởn thất tồn bộ
là tởn thất tồn bộ thực tế và tởn thất tồn bộ ước tính.


Căn cứ vào tính chất, tổn thất được chia thành tổn thất riêng và tổn thất
chung. Tổn thất riêng là loại tổn thất chỉ gây ra thiệt hại cho riêng quyền lợi
cùa một vài chủ tài sản, đặc biệt là các chủ hàng trong tồn bộ chuyến hành
trình, do những rủi ro được bảo hiểm gây ra và không phải tổn thất chung. Tổn
thất riêng là tổn thất của từng quyền lợi được bảo hiểm, quyền lợi bị tổn thất
không liên quan đến các quyền lợi khác và tổn thất hay tổn hại phải là ngẫu
nhiên và bất ngờ gây ra bởi một rủi ro được bảo hiểm. Tổn thất riêng có thể là
tởn thất bộ phận hoặc tởn thất toàn bộ của các quyền lợi riêng biệt.
1.2. Tổng quan về trục lợi bảo hiểm
1.2.1. Khái niệm về trục lợi bảo hiểm và phòng chống, trục lợi bảo hiểm
1.2.1.1. Khái niệm trục lợi bảo hiểm

“Trục lợi” (fraud) được mô tả trong từ điển tiếng Anh Oxford với nghĩa là:
gian dối; lừa dối hình sự; bằng cách sử dụng sự kháng nghị sai để có được một
lợi thế bất cơng hoặc làm tởn hại đến quyền, lợi ích của người khác; khơng
trung thực. Trong khi đó, Từ điển Thuật ngữ pháp luật Pháp-Việt giảng nghĩa
gian lận (fraude) là “hành động qua đó chủ thể của nó thể hiện ý định làm hại
người khác hoặc lảng tránh một số quy định của pháp luật (Nhà Pháp luật ViệtPháp, Organisation Internationale de la Francophonie, 2009, tr. 392). Một

nghiên cứu so sánh pháp luật cho thấy, pháp luật của nhiều nước có thị trường
bảo hiểm phát triển như Anh, Pháp, Thụy Sỹ, Đức, Canada… không đưa ra
định nghĩa về “trục lợi bảo hiểm” mà coi đây là một loại vi phạm thuộc phạm
vi điều chỉnh của luật hình sự. Tại các quốc gia này, các hành vi trục lợi bảo
hiểm có thể bị xử lý như là hành vi của một sự lừa dối, bất lương (J.L. Bacher,
1995, tr. 185). Tại Anh thì các tội như vậy trước đây được xử lý theo các quy
định của Đạo luật Theft 1968, và hiện nay được điều chỉnh bởi Đạo luật Fraud
2006 có hiệu lực từ ngày 15/1/2007. Đạo luật Theft tuy khơng có định nghĩa về
“ trục lợi” nhưng là đạo luật duy nhất lúc bấy giờ được dùng làm căn cứ để xử
phạt các hành vi trục lợi. Theo khoản 1 Điều 15 Đạo luật Theft người nào có


×