Tải bản đầy đủ (.docx) (15 trang)

TIỂU LUẬN văn học KHÔNG GIAN NGHỆ THUẬT TRONG THƠ THÍCH NHẤT HẠNH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (116.29 KB, 15 trang )

THE ART SPACE IN THÍCH NHẤT HẠNH’S POETRY
KHƠNG GIAN NGHỆ THUẬT TRONG THƠ THÍCH NHẤT HẠNH
Tóm tắt: Thiền sư Nhất Thích Hạnh là một tu sĩ Phật giáo có ảnh hưởng lớn ở Việt Nam và
phương Tây, suốt cả cuộc đời đấu tranh khơng mệt mỏi vì hịa bình và hịa giải các dân tộc. Ơng
cũng là một nhà thơ lớn với nhiều tác phẩm thơ thiền mang nội dung nhân văn sâu sắc và có
ảnh hưởng lớn. Khơng gian nghệ thuật trong thơ Thích Nhất Hạnh có những tiếp hiện nhân văn
sâu sắc và uyên bác qua ba dạng thức tiêu biểu: khơng gian thiền, khơng gian thốt tục, khơng
gian thiên nhiên. Đó là sự hóa thân mầu nhiệm của Thiền học vào văn chương, của văn xuôi
vào thơ ca, của biểu hiện vào thông điệp, của hiện hữu vào ngôn thuyết. Điều này đã tạo nên
những nét đặc sắc riêng biệt của thơ Thích Nhất Hạnh. Nghiên cứu thi pháp thơ của Thiền sư từ
góc độ khơng gian nghệ thuật cũng sẽ góp phần minh giải nét đặc sắc của thơ thiền trong văn
học Việt Nam qua các thời kỳ.
Abstract: The Zen monk Nhat Thich Hanh is an influential Buddhist monk in Vietnam and
the West, throughout his life fighting tirelessly for peace and reconciliation of peoples. He is
also a great poet with many influential and profound humanistic poetic works. The art space
in Thich Nhat Hanh's poetry has profound and scholarly human touches through three typical
forms: meditation space, secular space, and natural space. It is the miraculous incarnation of
Zen into literature, of prose into poetry, of expression into messages, of being into discourse.
This has created the distinctive features of Thich Nhat Hanh's poetry. Studying the poetic
poetry of Zen from the perspective of art space will also contribute to explain the unique
characteristics of Zen poetry in Vietnamese literature over time.
Từ khóa: Khơng gian nghệ thuật, khơng gian thiền, khơng gian thốt tục, khơng gian thiên
nhiên, Thích Nhất Hạnh, Thơ.
Keywords: art space, meditation space, secular space, natural space, Thich Nhat Hanh,
poetry.

1


1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Muốn hiểu sâu hiểu đúng về một tác phẩm văn chương khơng thể khơng


tìm hiểu khơng gian, hồn cảnh được xây dựng trong tác phẩm đó. Trong thơ
thiền, quan niệm về không gian chi phối rất lớn đến cảm hứng sáng tác của thi
nhân. Do đó, các bài thơ câu kệ của thiền nhân chứa đầy không gian, thấm đẫm
suy nghĩ và quan niệm về không gian. Nhờ đó, việc nghiên cứu khơng gian
trong thơ thiền càng ngày càng thêm ý nghĩa.
Gần như trong hầu hết sáng tác của nhà văn nhà thơ đều có dấu ấn và có ý
thức thể hiện khơng gian trong tác phẩm của mình. Ý thức bởi lẽ họ thể hiện
khơng gian khơng phải chỉ để miêu tả lại vị trí, nơi chốn tồn tại của mình mà
thơng qua khơng gian, tác giả thể hiện quan niệm, cách suy nghĩ của riêng mình.
Khơng gian như vậy là khơng gian mang tính nội dung, được lặp đi lặp lại nhiều
lần theo chủ ý của nhà văn nhà thơ trong một sáng tác, một nhóm sáng tác hay
trong tồn bộ sự nghiệp, có khi ở một trào lưu, một thời kì của lịch sử văn học…
Và khi ấy, việc nghiên cứu không gian sẽ có ý nghĩa rất lớn trong việc giải mã
tâm tư tình cảm, quan niệm, suy nghĩ của tác giả, phát hiện chân lí cuộc sống.
Lúc này, khơng gian trong tác phẩm văn học đã trở thành không gian nghệ thuật
- một lĩnh vực quan trọng mà người nghiên cứu thi pháp cần tìm hiểu.
Nhiều thiền sư cũng làm thơ viết văn nhưng ít thấy ai diễn đạt được cái
khơng gian nghệ thuật độc đáo, gắn chặt trái tim yêu thương một cách tha thiết,
sâu đậm như Thích Nhất Hạnh. Lời văn và ý thơ của Thầy rõ ràng, sáng sủa, chân
thật, khơng gai góc, hay thậm thâm vi diệu như đa phần những thiền sư đi trước.
Nơi Thầy một tình thương ngày một lớn rộng, một không gian thảnh thơi, giải
thốt; khơng ai là kẻ thù mà ai cũng là bạn và tình thương là chất liệu ơm ấp và
chuyển hóa mọi khổ đau của con người.
Để thực hiện bài viết này, tác giả đã sử dụng phương pháp thống kê ngôn
ngữ học để phận loại và chọn ra những tác phẩm tiêu biểu về không gian nghệ
thuật. Đồng thời tác giả sử dụng tổng hợp các phương pháp như: Phương pháp
phân tích văn bản, phân tích diễn ngơn; phương pháp so sánh, đối chiếu… để
phục vụ mục đích nghiên cứu của đề tài.
Phạm vi nghiên cứu: Bài báo chỉ tập trung nghiên cứu các bài thơ có nội
dung về không gian nghệ thuật trong tập thơ Từng ôm và mặt trời từng hạt.

2. NỘI DUNG
2.1. Đôi nét về không gian nghệ thuật và thiền sư Thích Nhất Hạnh
Theo Phan Thị Đào trong cơng trình “Tìm hiểu thi pháp tục ngữ Việt
Nam” quan niệm về không gian nghệ thuật: “Không gian nghệ thuật là phạm trù
của hình thức nghệ thuật, là phương thức tồn tại và triển khai của thế giới nghệ
thuật. Nếu thế giới nghệ thuật là thế giới của cái nhìn và mang ý nghĩa thì khơng
gian nghệ thuật là trường nhìn mở ra từ một điểm nhìn, cách nhìn… Do gắn với
điểm nhìn, trường nhìn, mơi trường hoạt động, không gian nghệ thuật trở thành
2


phương tiện chiếm lĩnh đời sống, đồng thời do gắn với ý nghĩa, giá trị, không gian
trở thành ngôn ngữ, biểu trưng nghệ thuật” [1, tr.43]. Theo tác giả Lê Bá Hán và
cùng một số nhà nghiên cứu trong cuốn “Từ điển thuật ngữ văn học” giải thích
rõ hơn về không gian nghệ thuật như sau: “Là một hiện tượng nghệ thuật, không
gian nghệ thuật là một hiện tượng ngoại lệ, mang ý nghĩa cảm xúc, tâm tưởng.
Không gian trong văn học được biểu hiện bằng không gian điểm mang tính chất
ước lệ, tượng trưng (làng q, bến sơng, tha hương, ngồi vườn…), hoặc các từ
chỉ khơng gian vốn đã mã hóa sẵn về ý nghĩa trong đời sống (trên cao, dưới thấp,
quanh co, rộng hẹp, ngắn dài…), không gian nghệ thuật thể hiện tập trung vào cái
nhìn, điểm nhìn, điểm quan sát không gian và thời gian” [2, tr.144].
Như vậy, khơng gian nghệ thuật là phạm trù của hình thức nghệ thuật, là
phương thức tồn tại và triển khai của thế giới nghệ thuật. Không gian nghệ thuật
trở thành phương tiện chiếm lĩnh đời sống. Không gian nghệ thuật trong một văn
bản văn học không đơn giản là xác định nơi chốn hay tái hiện những khung cảnh
hiện thực mà nó được xây dựng như một kí hiệu đặc biệt để thể hiện tâm trạng
của nhân vật hay bộc lộ quan điểm của tác giả về thế giới.
Nghiên cứu về khơng gian nghệ thuật, sẽ thật thiếu sót nếu chỉ nghiên cứu
về không gian hiện thực, không gian vật lí được tác giả miêu tả trong tác phẩm
mà quên đi không gian trong thế giới tâm tưởng của con người. Thậm chí đây là

lớp khơng gian quan trọng nhất mà người cảm thụ văn học cần chiếm lĩnh, không
gian hiện thực chỉ là cái cớ để tác giả nêu lên quan điểm của mình. Theo Đỗ Đức
Hiểu trong cuốn “Từ điển văn học (bộ mới)” thì “Khơng gian nghệ thuật trong
thơ không chỉ gắn liền với ý thức về khơng gian tồn tại của con người mà cịn gắn
liền với cách chiêm nghiệm, thưởng thức không gian, cách ứng xử trong mơ hình
khơng gian” [4, tr.120]. Đối với thơ thiền, vấn đề này càng phải được chú trọng
đặc biệt. Bởi lẽ, không gian trong cảm thức của người tu thiền không phải là thứ
không gian thuần nhất mà ngược lại, khơng gian đó mang đầy quan niệm của con
người và được phản ánh khơng đồng nhất trong q trình tu chứng của thiền gia.
Đó là điều đặc biệt của thơ thiền mà những loại thơ khác khơng có được.
Nhà thơ - Thiền sư Thích Nhất Hạnh tên thật là Nguyễn Xuân Bảo, sinh
ngày 11 tháng 10 năm 1926 tại Thừa Thiên Huế, xuất gia vào năm 16 tuổi tại
chùa Từ Hiếu, trở thành nhà sư năm 1949. Ngày 1 tháng 5 năm 1966, thiền sư
Thanh Quý Chân Thật trao ấn khả cho Thích Nhất Hạnh tại chùa Từ Hiếu để trở
thành thiền sự và chân truyền làm Tổ nhánh Từ Hiếu đời thứ 8 dòng Liễu Quán
đời thứ 42 của phái thiền Lâm Tế Dhyana. Thiền sư Thích Nhất Hạnh đã bảo tồn
và phát triển những nhận thức sâu sắc từ truyền thống Phật giáo Đại thừa,
phương pháp truyền thống Phật giáo Thượng tọa bộ, phối hợp với các phát kiến
của ngành tâm lý học đương đại phương Tây để phát triển dịng tu Tiếp Hiện và
đưa thơng điệp “Phật giáo dấn thân” (engaged Buddhism) ra thế giới.
3


Thầy Nhất Hạnh là một thiền sư đã thực sự đưa được tinh thần của đạo
Phật vào cuộc đời, đã phát động mạnh mẽ phong trào cải cách văn hóa và xã hội
theo tinh thần ấy, và phong trào này đã lan rộng trong nhiều nước khắp thế giới.
Thầy là một nhà thơ lớn, thơ của Thầy thâm sâu, uyên áo, nói lên được
những gì mà ngơn ngữ khơng thể diễn tả hết được. Thầy đã hướng dẫn phong trào
đấu tranh cho hịa bình trong cuộc chiến Việt Nam, hết sức bênh vực người đồng
bào đang bị kẹt giữa hai làn bom đạn. Thầy - mang trong mình trái tim của Bụt đã

vượt thắng mọi khó khăn, tạo dựng cầu hiểu - cầu thương bắc nhịp hơi thở đều
cho triệu triệu trái tim. Thầy đã hướng dẫn phái đoàn Phật giáo có mặt bên Hội
Nghị Paris, sáng lập dịng tu Tiếp Hiện, mở trường đại học Vạn Hạnh và xây
dựng trường Thanh Niên Phụng Sự Xã Hội… Khúc quanh của lịch sử dân tộc là
song hành với đau thương của con người Việt và Thầy với tinh thần “Hoa sen
trong biển lửa” đã gởi gắm tinh thần đại bi vào từng bước chân an lạc. Thầy đã
được mục sư Martin Luther King đề cử giải Nobel Hịa Bình. Thầy cũng đã tổ
chức nhiều chuyến cứu trợ thuyền nhân tị nạn Việt Nam ngoài biển và cứu trợ trẻ
em nạn nhân của nghèo đói và chiến tranh. Thầy thành lập đạo tràng mai thôn tại
nước Pháp, và hàng năm đi thuyết giảng khắp thế giới để xiển dương đạo Bụt
nhập thế. Tổ chức Buddhist Peace Fellowship ở Hoa Kỳ mà thi sĩ Gary Snyder đã
hợp tác thành lập hiện nay là một trong những tổ chức dẫn đầu đi theo đường lối
của Thầy. Hiện nay, vì tuổi cao sức yếu nên Thầy về lại chốn tổ tại chùa Từ Hiếu thành Phố Huế để nghỉ ngơi.
Tất cả những thành quả lớn lao này có được là nhờ năng lượng từ bi dồi
dào, Thầy đem sức mạnh của từ bi vào việc chuyển đổi những bất công xã hội để
mọi người, mọi loài đều được hạnh phúc an vui. Thầy Nhất Hạnh là hiện thân của
bồ tát Quán Thế Âm, lắng nghe tiếng kêu cứu mà dấn thân trên con đường giúp
họ vơi bớt niềm đau nỗi khổ. Cho nên ngoài việc giảng dạy Phật pháp, Thầy vẫn
dành nhiều thì giờ để chăm sóc những nạn nhân của chiến tranh và áp bức của bất
công xã hội.
2.2. Nội dung không gian nghệ thuật trong Thơ Thích Nhất Hạnh
2.2.1. Khơng gian thiền
Thiền là thuật ngữ Phật giáo, thơ là thuật ngữ văn học nghệ thuật. Hai
thuật ngữ tưởng chừng cách xa nhau về lĩnh vực ấy lại có một sự hịa điệu hết
sức mạnh mẽ. Sự hòa điệu ấy bắt nguồn từ những điểm tương đồng của hai yếu
tố này trên nhiều phương diện.Trong dòng văn học Phật giáo Việt Nam, thơ
thiền là một dòng chảy độc đáo nhất và mạnh mẽ nhất. Mạnh mẽ như thế nào thì
chúng ta có thể hình dung được dựa vào số lượng tác giả tham gia sáng tác và
tác phẩm được sáng tác trong thời kì này, cộng với những nội dung sâu sắc mà
nó truyền đạt. Cịn độc đáo nhất thì có lẽ ở chỗ lần đầu tiên trong văn học Việt

Nam có sự hịa nhập cao độ đến mức gần như tuyệt đối như vậy giữa thơ ca và
triết học tôn giáo. Chúng ta thật khó xác định rằng, thơ thiền là loại kinh kệ phục
4


vụ trong nhà chùa, trong giới tu hành hay đây là những tác phẩm mang đầy đủ
những đặc trưng của sáng tác văn học. Có lẽ hiểu ở khía cạnh nào cũng đúng,
nhưng chúng ta phải thừa nhận rằng đây là một hiện tượng độc đáo khó có thể
lặp lại trong lịch sử văn học dân tộc.
Phân tích làm rõ những vấn đề chung nhất về thơ thiền sẽ là cơ sở để chúng
ta đi vào nghiên cứu không gian thiền trong thơ Thích Nhất Hạnh.
Khơng gian thiền trong Thơ Thích Nhất Hạnh có những tiếp hiện nhân
văn, sâu sắc, uyên áo lạ thường và vô cùng độc đáo. Những câu thơ hay như
“chân hôn mặt đất, mắt ôm trời” ‘tháng tư đồng nội trăm hoa nở/ mong ước ôm
đầy hai cánh tay/ sắc xuân rực rỡ trời phương ngoại/ thơ hát yêu thương rộng
tháng ngày”… là sự thăng hoa của trí tuệ, tự thấm vào lịng người đọc.
Bài thơ “Sinh Tử” Thầy viết trong Hội nghị giữa các nhà tơn giáo về
chuyện “sống chung hồ bình” được tổ chức năm 1974 tại Tích Lan là một
khơng gian nghệ thuật khác lạ, độc đáo mà người đời thật khó thấu thị:
Sinh sinh sinh tử sinh
Tử sinh sinh tử sinh
Tử sinh sinh, sinh tử
Tử sinh tử, sinh sinh.
Từ bao nhiêu đời rồi, sinh tử phát sinh sinh tử này kéo theo sự phát sinh
của sinh tử khác khi quan niệm về sinh tử phát sinh thì sinh tử cũng phát sinh và
khi quan niệm về sinh tử mất đi thì sự sống chân thực mới phát sinh ra được.
Chân lý về vịng trịn khơng gian ln hồi sinh tử được khắc họa chỉ hai từ “sinh
tử” cấu thành bài thơ thấm đậm chất triết lý nhân sinh.
Không gian thiền trong thơ Thích Nhất Hạnh thể hiện khơng gian chùa
chiền của đời sống tu hành. Rời bỏ danh vọng hư ảo, xa lìa mái ấm gia đình, các

thiền gia dấn thân vào con đường đạo pháp để tu hành giác ngộ chân lí. Sống ở
chốn “thâm sơn cùng cốc”, bên cạnh khơng gian cảnh vật thiên nhiên xung
quanh cuộc sống nhà sư cịn có khơng gian chùa chiền của đời sống tu hành.
Không tách biệt với thiên nhiên, không gian chùa chiền tự bao đời đã hịa mình
vào khung cảnh u tịch đó tạo nên những bức tranh tuyệt đẹp.
“Thiền Duyệt tâm bất động
rừng cây dâng hương hoa
một sáng ta thức dậy
sương lam phủ mái nhà
hồn nhiên cười tiễn biệt
chim chóc vang lời ca
đời đi về muôn lối
quan san mộng hải hà
chút lửa hồng bếp cũ
ấm áp bóng chiều sa…”
5


(Đề thiền duyệt thất - Thơ từng ôm và mặt trời từng hạt)
Không gian chốn “thảo am” gợi nên khung cảnh cuộc sống đời thường
thanh nhàn, đạm bạc nhưng đầy hương vị giải thốt, “vắng bóng người, thưa
khách tục.
Bức tranh cuộc sống tu hành mà Thích Nhất Hạnh gợi nên thật bình dị
mộc mạc, nó thể hiện sinh động nhất cho cái “khơng” - biểu hiện của ý chí thốt
li, buông xả vật chất giả tạm cuộc đời - của con người cầu đạo.
Hay trong bài Tươi son bền sắt khung cảnh thanh tao, lặng tĩnh của không
gian thiên nhiên chốn chùa vắng cũng thật nhẹ nhàng:
“Vườn xanh cây mướp trổ bông
Trẻ thơ đùa giỡn trước sân nắng đào
Chợ Văn bán sách lầu cao

Muối dưa đắp đổi hôm nào cũng vui
Xót q lịng có ngậm ngùi
Tin q dồn dập tới lui chẳng ngừng
Chùa xưa vắng tiếng chuông ngân”
Trong thơ thiền Thích Nhất Hạnh, thiền gia hịa mình tuyệt đối vào khơng
gian cuộc sống đời thường, phảng phất đâu đó trong khơng gian là hương thơm
giải thốt của một tâm hồn đạt đạo, vạn vật cũng hiện lên đầy vẻ đẹp thông qua
cảm hứng thiền của con người. Các sự vật được gợi lên trong bức tranh cuộc sống
đời thường cũng gắn liền với đời sống tu hành của một nhà sư hay cư sĩ. Từ đó
dẫn đến, khơng gian đời thường trong thơ thiền gắn liền với cảm hứng thiền và
tràn ngập hương vị thiền mà các loại thơ khác khơng có được.
Các bài thơ trên thể hiện các khung cảnh khác nhau nhưng cùng thể hiện
không gian tu hành ở chốn chùa chiền, thể hiện thế giới tâm thức mênh mông
trong tâm hồn con người đạt đạo. Giác ngộ chân lí, các thiền gia trở về với bản
thể thanh tịnh, tưởng chừng họ sẽ khép cửa lịng mình để sống an vui với tự tánh,
thế nhưng không ngờ sự tỉnh thức đó lại giúp con người nhạy cảm hơn, tinh tế
hơn khi đón nhận những thay đổi nhỏ bé của thiên nhiên, cảnh vật. Cái tĩnh tại, đồ
sộ, vững chải của không gian chùa chiền với những “thiền bản”, “bồ đoàn”,
“đường trung”… cùng với tư thế bất động, trầm tĩnh của nhà sư hoàn toàn đối lập
với cái mỏng manh yếu ớt như “tia khói bay”, “cánh hồng rơi” khiến cho khơng
gian có chiều sâu hun hút và đầy gợi hình gợi cảm.
Như vậy, khơng gian cuộc sống tu hành ở chốn chùa chiền là một không
gian được nhiều thiền gia ẩn cư đề cập tới. Không gian này được xây dựng trong
mối quan hệ với không gian cảnh vật thiên nhiên xung quanh và với hình ảnh con
người gắn liền cuộc sống tu hành thiền định. Các tác giả thường khơng miêu tả
một cách đầy đủ, dài dịng, chi tiết về nó mà chỉ phác thảo trong mỗi bài thơ một
vài sự vật để qua đó làm nổi bật thế giới tâm cảnh của con người. Không gian này
có lúc là một khơng gian đơn sơ, thiếu thốn, khắc khổ thách thức sức chịu đựng
6



bền gan, “nhẫn nhục” của người tu hành; có lúc là không gian đồ sộ, tĩnh lặng so
với những biến đổi xung quanh như đại diện cho thế giới tâm cảnh của người giác
ngộ; cũng có lúc khơng gian đó giao hòa với thế giới tự nhiên vạn vật giống như
tâm hồn của con người khát khao hòa nhập. Tuy nhiên, dù ở trường hợp nào,
khơng gian đó cũng gợi nên cuộc sống tĩnh lặng, an nhàn; khơng khí cơ liêu tịch
mịch, tạo chiều sâu hun hút để con người dễ dàng đi sâu thiền định công phu, giác
ngộ và sống an vui với tự tánh.
Không gian thiền trong thơ Thích Nhất Hạnh thể hiện khơng gian vận hành
theo qui luật vô thường. Không gian trong thơ thiền là không gian thể hiện cái tâm
của con người giác ngộ. Trong sáng tác của mình, thiền sư chú trọng việc thể hiện
sự chiêm nghiệm về các mặt mang ý nghĩa đối lập: vọng - thực, có - khơng, nhất
thời - vĩnh cửu, động - tĩnh, hữu hạn - vô hạn… Để thể hiện một cách đầy đủ và
thuyết phục về những phạm trù đó, thiền gia có thói quen sử dụng những thi liệu
quen thuộc của thiên nhiên như: mùa thu, ánh trăng, gió, hoa, chim, nước, mây,
núi…: “Trăng sao vẫn đẹp đêm Rằm/ Bãi dương vẫn mướt, sóng tùng vẫn xao.”
Những hình ảnh đó đầy chất thơ nhưng khi được sử dụng vào thơ của các
thiền gia thì cũng đậm chất thiền. Chúng vừa gợi liên tưởng về cái hằng thường
của bản thể, của qui luật, vừa gợi cái hữu hạn của thế giới vật chất cuộc đời.
Trong cảm thức của người tu thiền, dù khơng cịn chấp trước, phân biệt
đối đãi, nhưng những vấn đề mê - ngộ, phải- trái, thiện - ác luôn được họ ý thức
rõ. Các thiền sư chủ trương trước tiên phải rèn luyện cho thiện tâm được thuần
thục, tránh xa mọi tội lỗi vướng vào mình; đến khi “tìm được trâu”, “dẫn trâu về
nhà”, “người trâu đều quên” rồi thì mặc tình mà “thõng tay vào chợ” (tranh chăn
trâu Thiền tơng). Vì có như vậy, con người sẽ khơng cịn bị ràng buộc bởi thiện ác, phải trái vì mỗi mỗi hành động, suy nghĩ, lời nói đều khơng cịn là xấu ác
nữa; mà dù cho có ác thì lời nói ác hay hành động ác ấy cũng nhằm mục đích
thiện lành, tốt đẹp. Như vậy, triết lí thiền là một biểu hiện sinh động của tinh
thần “tự giác giác tha” (tự giác ngộ cho bản thân sau đó giúp cho người khác
giác ngộ) của các thiền gia, là sự thể nghiệm “sở chứng sở đắc” của mình.
Khơng gian đó dễ dàng gieo vào lịng người niềm trắc ẩn về cuộc đời bể dâu,

vơ thường khơng chân thật, khơi gợi ý chí tu hành mạnh mẽ.
Đôi lúc, không gian chật hẹp, ngột ngạt của tù ngục hiện ra là biểu tượng cho
cuộc đời khổ đau mà con người khơng có niềm tự do an lạc, một khi thốt khỏi
khơng gian mất tự do của “lung”, “tù”, “quynh”, “lao” đó thì con người sẽ được cởi
trói, sống đời sống an nhiên tự tại.
Cái vơ thường, ngắn ngủi của vạn vật và đời người cần phải hiểu đúng và
theo hướng tích cực. Đó khơng phải là tư tưởng bi quan yếm thế để con người
xem nhẹ, trốn tránh cuộc sống. Nhà sư coi mọi biến đổi của thế sự cũng như
khơng nên khơng cịn sợ hãi, kinh ngạc mà ngược lại còn tỏ ra điềm nhiên, bình
thản trước mọi việc. Hơn thế nữa, họ khao khát được sống an nhiên tự tại, ung
7


dung giải thoát khỏi mọi ràng buộc của kiếp sống trần tục đầy bó buộc, thậm chí
có người muốn giải phóng theo cá tính riêng của mình. Đó thực sự là một thái
độ tích cực lạc quan, một tinh thần khoan dung cởi mở, một tâm hồn phóng
khống và giàu chất nhân bản của thiền gia. Điều này càng tạo nên một khí sắc
độc đáo, hịa lẫn đạo với đời trong thơ Thích Nhất Hạnh.
Tóm lại, khơng gian biểu tượng cho triết lí vơ thường là khơng gian mà
mọi sự vật hiện tượng trong nó ln vận động và biến đổi. Sự vận động và biến
đổi ấy diễn ra theo vịng tuần hồn của thời gian, tiêu biểu nhất là các mùa trong
năm (xuân- hạ- thu- đông), các buổi trong một ngày (sáng - trưa - chiều - tối),
ngày này qua ngày khác hay năm này qua năm khác. Cũng có khi sự biến đổi ấy
diễn ra theo hướng xấu đi và tiến đến huỷ hoại… Các sự vật trong khơng gian
đó thường nhỏ nhoi, yếu ớt, khơng tồn tại lâu trong cuộc đời này. Cách hiểu và
đánh giá về bản chất của sự vật ấy đã trở thành một lối mòn vốn rất quen thuộc
trong quan niệm người tu hành theo đạo Phật.
2.2.2. Khơng gian thốt tục
Khơng gian mang tính nhàn tản thốt tục gợi lên cuộc sống bình dị thanh
nhàn của con người trong thế giới tự nhiên. Thơ tả cảnh trong thơ Thích Nhất

Hạnh là một thế giới ấm áp gần gũi với sinh hoạt con người. Những không gian
tầng tầng lớp lớp chia ra bằng khoảng cách gợi nên sự siêu thốt. Đó là khơng
gian thanh nhàn siêu thoát của tâm hồn muốn xa lánh sự thế gắn với thiên nhiên
thường vắng bóng người và sự bận rộn của con người, vắng khách tục trần. Các
bài thơ của Thích Nhất Hạnh tốt lên sự thanh tịnh, u nhàn lặng lẽ đến mức
không thể ngờ. Cả một bầu khơng gian mà sống trong đó, tâm hồn thi sĩ ln
ln có thể bắt gặp những đường nét, những màu sắc hài hịa cùng với những
tình tứ chân thật và sâu rộng, một ý vị say sưa và trong trẻo. Chất thiền một cánh
nhẹ nhàng lộ ra từ trong bức tranh cơ liêu tịch mịch đó khiến cho con người càng
nức lòng trước hương vị thiền phảng phất. Thiền gia lắng nghe mọi âm thanh của
cuộc sống, ngắm nhìn mọi màu sắc của cảnh vật, theo dõi mọi diễn biến của thế
giới vật chất xung quanh nhưng không vồ vập, cuốn hút hồn mình theo nó mà cảm
thụ bởi tâm thức thiền và cuối cùng dẫn tới chỗ ngưng lắng, vơ ngơn.
Đây một gốc cây
Đây một căn phịng trống
Đây một tọa cụ nhỏ
Đây xanh mát một bãi cỏ…
Nụ cười an nhiên…
(Địa xúc)
Khơng gian cuộc sống an nhàn thốt tục ở đây khơng có những biến động
lớn lao, khơng có những sóng gió ba đào, cũng khơng có những ốm đau chết
chóc; khơng gian dường như rất thuận lợi, mọi thứ diễn ra bình thường tốt đẹp,
êm đềm lặng lẽ như rộng mở vịng tay chào đón lấy con người say sưa sống
8


trong niềm vui vơ biên đó. Con người sống trong không gian này là những con
người nhàn nhã, vui với lẽ đạo và dễ dàng hòa nhập vào thiên nhiên, sống cuộc
sống hồn hậu tuỳ cảnh tuỳ thời giữa suối nguồn an lạc đang trào dâng bất tuyệt.
Không gian đời thường. Là con người, ai cũng có khơng gian cuộc sống

đời thường của riêng mình. Dù là nhà sư giác ngộ chân lí Phật hay người đang
nỗ lực tiến bước trên con đường tu tập thì khơng ai có thể tách rời cuộc sống này
để tồn tại. Do đó, khơng gian đời thường cũng là một loại không gian được các
thiền gia nhắc đến nhiều lần trong tác phẩm của mình. Nếu như khơng gian vũ
trụ mở ra bởi một tầm nhìn hun hút rộng mở của thiền gia, thì khơng gian đời
thường chính là phản ánh của cái nhìn thu hẹp hơn từ phía cuộc sống đời
thường. Nói một cách khác đi, nhờ tầm nhìn rộng mở, khơng gian vũ trụ hiện lên
với hình ảnh núi sơng, bầu trời, mây gió…; cịn khi thu hẹp tầm nhìn về phía
cuộc sống xung quanh mình, khơng gian đời thường hiện lên là những thứ cụ thể
hơn, nhỏ bé hơn như cây lá, sân nhà, am thất, chim chóc, chiếc lá rơi… Các
thiền gia sống cuộc sống ẩn dật, nhàn tản ở chốn núi rừng, hay chốn chùa chiền
với công việc hằng ngày hết sức quen thuộc. Cũng một phong thái ung dung,
thoát tục ấy, các nhà thơ đã miêu tả chân thực và đầy đủ không gian cuộc sống
đời thường diễn ra xung quanh mình:
“Cái gì sẽ xảy ra khi Sắc chạm phải Khơng
Và cái gì sẽ xảy ra khi Tưởng đi vào Phi Tưởng?
Kẻ trượng phu ơi hãy lại cùng tôi quan sát"
Hai tên hề Sinh Tử đang cùng nhau bày trò
Ảo thuật trên sân khấu thế gian
Mùa thu lá chín, lá bay
Vàng đỏ diễn phơ, đầy trời ngoạn mục
Đã từ bao lâu cành nâng niu nắm giữ
….
Đêm nay trời không một gợn mây
Đèn lửa hỏi thêm phiền
Lo chi chuyện cơm nước
Ai tìm, mà ai được?
Cùng trăng vui suốt đêm.”
(Đêm hội trăng rằm)
Khơng gian ẩn dật nhàn tản thốt tục. An lạc, nhàn nhã từ thể xác đến tinh

thần và đi đến giải thoát khỏi luân hồi sinh tử là điều mà những người tu Phật
mong muốn đạt tới. Tuy nhiên, cái nhàn nhã đó khơng phải là kiểu nhàn nhã của
kẻ “ngồi không ăn bát vàng”, cũng không phải là kẻ sống nhàn theo kiểu mà
Khổng Tử chê trách “nhàn cư vi bất thiện” (kẻ ở không chẳng làm gì thường hay
nghĩ ra chuyện ác); mà cái nhàn ở đây toát lên từ tâm hồn của một con người đạt
đạo xa lánh mọi phiền não, lo lắng hay chấp trước phân biệt của cuộc đời, thoát
9


khỏi mọi ràng buộc đua chen của sự đời ảo ảnh. Cái an nhàn đó xuất phát từ tâm
thái của người đạt đạo thoát tục, giữ được sự thanh thản, bình tĩnh, an vui của
tâm hồn:
“Ngồi đây lắng tiếng chim bay
Ba ngàn thế giới không đầy tấc gang
Phương Tây vừa khuất quạ vàng
Phương Đông thỏ ngọc đã ngang đỉnh đồi
Trước sau có một mình tơi
Nghe như có tiếng đất trời gọi nhau
Xuất thiền lặng lẽ giây lâu
Lá xanh rèm liếp bên lầu sáng trăng
Sơng xưa thuận nẻo dương trần
Gió theo tám hướng, lịng khơng bận về.”
(Lịng khơng bận về)
Các thiền gia gạt qua một bên những sợ hãi về qui luật vơ thường của
cuộc đời, hịa mình vào cuộc sống tự nhiên bình dị nhất để sống một cách bình
thường, an vui và tự tại. “Đói - ăn”, “mệt - ngủ” là cách sống hồn nhiên, giản dị,
là những nhu cầu cần thiết của “người phàm mắt thịt”. Những qui luật vốn bình
thường trong cuộc sống chính là chân lí của đạo, hà tất phải đi tìm cầu những
điều cao siêu ở bên ngoài cuộc sống. Thiền gia sống hết mình với hồn cảnh, tùy
dun mà hành động, khơng vướng mắc câu chấp cũng khơng u cầu địi hỏi,

vừa khơi dậy tiềm lực của chính mình lại vừa khơng phải khó nhọc cơng tìm
kiếm bên ngồi. Họ hướng về thiên nhiên bộc lộ niềm hân hoan an lạc.
Bóng dáng tiền trần cịn thơi xuất hiện
Gió thoảng đêm hiền
Ánh trăng khuya mát lạnh
Gương nga lặng lẽ
Bên ấy trời sáng chưa
Để bên này tơi ngủ
Đầu gối lên đêm
Cỏ hoa cịn thơm ngát
Buổi mai buổi trưa buổi chiều
Giờ nào em lắng nghe tiếng gọi
Nhìn vào đâu cũng thấy nụ tinh khơi.
(Cỏ hoa cịn thơm ngát)
Cả bài thơ toát lên sự thanh tịnh, u nhàn lặng lẽ đến mức không thể ngờ.
Cả một bầu khơng gian mà sống trong đó, tâm hồn thi sĩ ln ln có thể bắt
gặp những đường nét, những màu sắc hài hịa cùng với những tình tứ chân thật
và sâu rộng, một ý vị say sưa và trong trẻo. Chất thiền một cánh nhẹ nhàng lộ ra
từ trong bức tranh cơ liêu tịch mịch đó khiến cho con người càng nức lòng trước
10


hương vị thiền phảng phất. Thiền gia lắng nghe mọi âm thanh của cuộc sống,
ngắm nhìn mọi màu sắc của cảnh vật, theo dõi mọi diễn biến của thế giới vật
chất xung quanh nhưng không vồ vập, cuốn hút hồn mình theo nó mà cảm thụ
bởi tâm thức thiền và cuối cùng dẫn tới chỗ ngưng lắng, vô ngôn.
Không gian cuộc sống an nhàn thốt tục ở đây khơng có những biến động
lớn lao, khơng có những sóng gió ba đào, cũng khơng có những ốm đau chết
chóc; khơng gian dường như rất thuận lợi, mọi thứ diễn ra bình thường tốt đẹp,
êm đềm lặng lẽ như rộng mở vòng tay chào đón lấy con người say sưa sống

trong niềm vui vơ biên đó. Con người sống trong khơng gian này là những con
người nhàn nhã, vui với lẽ đạo và dễ dàng hòa nhập vào thiên nhiên, sống cuộc
sống hồn hậu tuỳ cảnh tuỳ thời giữa suối nguồn an lạc đang trào dâng bất tuyệt.
2.2.3. Không gian thiên nhiên
Tự trong cảm thức sâu xa, con người trong thơ Thích Nhất Hạnh xem mình
là một bộ phận hữu cơ của tự nhiên; nhà thơ thấy mình sống trong vịng “thiên phú
địa tái” (trời che đất chở) của thiên nhiên, nhìn thấy trong bản thân mình có chứa cả
vũ trụ, thấy ẩn đằng sau mọi sự vật của thế giới hiện tượng là những ngụ ý sâu xa
mà mình phải tìm tịi học hỏi, cũng có lúc họ xem thiên nhiên là người bạn thân
thiết mà mình khơng thể thiếu được trong cuộc đời này. Các thiền gia cũng chịu sự
chi phối của vũ trụ quan đó, họ khao khát được hịa nhập với vũ trụ, chiếm lĩnh
khơng gian rộng lớn, thậm chí vượt ra ngồi sự chi phối của vũ trụ. Hay nói đúng
hơn, chính sự giác ngộ đã đưa các thiền gia trở về hòa nhập với vũ trụ vì cả hai vốn
có cùng một bản thể. Do đó, không gian vũ trụ chiếm một phần khá lớn trong thơ
Thích Nhất Hạnh, trong đó, khơng gian thiên nhiên cao - viễn và khơng gian tương
thơng - giao hịa vạn vật là hai kiểu không gian vũ trụ tiêu biểu nhất:
“Mưa xuân nhẹ hạt đất tâm ướt
Hạt đậu năm xưa hé miệng cười.
Người đã tới thăm, trăng một túi
Lá tía tô gọi hạt mồng tơi.
Rậm lục thưa hồng chuông gợi bước
Chân hơn mặt đất mắt ơm trời
Ngàn xưa một thống, mùa tuôn dậy
Tuyết cũng màu xanh, nắng cũng rơi”
(Cúc cu đúng hẹn - Thơ từng ôm và mặt trời từng hạt)
Không gian thiên nhiên cao - viễn. Không gian vũ trụ trong thơ Thích
Nhất Hạnh thường được xây dựng là không gian thiên nhiên cao - viễn. Cao viễn ở đây không đơn thuần chỉ là cao và xa mà nó đã bao hàm một khơng gian
ba chiều rộng lớn. Khơng gian đó được gợi nên bởi tầm nhìn rộng và hết sức bao
quát của người quan sát. Nên ở đó, mọi sự vật hiện tượng được biểu hiện ra hầu
như bằng hết kích cở thật của nó chứ khơng ẩn khuất hay bị che giấu. Các thiền

gia vốn ưa thích sống gần gũi với thiên nhiên, được nương mình ở không gian
11


mênh mơng thống đãng, cơ liêu tịch mịch của thiên nhiên để tu hành tầm đạo.
Và vì thế, núi cao rừng sâu hay sông nước bao la là không gian đáp ứng đầy đủ
nhất và thích hợp nhất với nguyện vọng đó của họ:
“Thơ đi về chân trời, nơi vầng
Sáng đang đắp chân mây
Mặt trời xanh rờn một rổ rau tươi
Mặt trời dẻo thơm trong bát cơm gạo Tám…
… Mặt trời cười tươi trên bông hướng dương
Mặt trời trĩu nặng nơi trái đào Tiên tháng tám”.
(Từng Ôm Và Mặt Trời Từng Hạt)
Thiền gia sống giữa không gian vũ trụ bao la với sơng rộng trời cao, phóng
tầm mắt nhìn thẳng lên trên là bầu trời bao la, ngó xuống dưới chân là dịng sơng
mênh mơng lai láng, nhìn sang bên kia là thơn xóm đầy dâu gai, ngó sang bên này là
thơn xóm đầy mây khói. Khơng gian bát ngát hiu quạnh ấy dễ dàng khơi gợi sự rung
động của tình cảm con người, gieo vào lịng người cảm hứng thiền mạnh mẽ, là
chiếc nôi ru thiền gia trở về với giấc ngủ hồn nhiên của tự tánh. Sống trong khơng
gian đó, con người dễ dàng liên tưởng đến sự nhỏ bé hữu hạn của cuộc đời mình.
Khơng gian thiên nhiên dằng dặc mênh mông, tạo vật cao xa, thăm thẳm hoàn toàn
đối lập với con người nhỏ nhoi thấp bé càng khiến cho con người choáng ngợp và sợ
hãi. Thế nhưng, đối với các thiền gia, khơng gian đó khơng những khơng đáng sợ bởi
lẽ nó vốn dĩ bình đẳng với con người. Họ vươn lên chiếm lĩnh không gian, thậm chí
có lúc vượt ra ngồi khơng gian vũ trụ ấy với niềm vui tươi phấn khích trong cuộc
sống:
“Mặt trời đã đi vào trong tôi
Mặt trời đã đi vào với đám mây và dịng suối.
Tơi đã đi vào dịng suối

Tôi cũng đã rủ mặt trời cùng đi
Chúng ta không lúc nào không tương nhập.
Trước khi mặt trời đi vào trong tơi
Tơi đã có mặt trời
Tơi đã có đám mây và dịng suối.”
(Phổ nhập)
Nếu khơng gian khơi gợi cảm xúc thiền mãnh liệt trong bài thơ “Phổ
nhập” là không gian trời, nước mênh mơng, mây và dịng suối… đó là không
gian dằng dặc bao la của đất trời mà con người có thể đến đi thỏa thích. Trong
khơng gian vũ trụ bao la đó, con người đã trở thành trung tâm của trời đất mà
các chiều kích của khơng gian có khi như được mở rộng ra đến vơ tận, cũng có
khi như bị thu hẹp lại qua cách nhìn đầy cảm hứng thiền của thiền sư.
Để nhận thức được khơng gian đó, các đơn vị đo lường khơng cịn là
phương tiện hữu hiệu nữa. Nhà thơ Thích Nhất Hạnh chỉ có thể ước chừng nó
12


bằng những con số khơng hạn định như thiên lí, vạn lí; hoặc bằng cách nói
chung chung là vũ trụ, càn khơn, thiên địa, trường giang, đại hải; cũng có khi đó
là những sự vật cụ thể có tầm vóc lớn lao như mây (vân), núi (sơn, phong), sông
(hà, giang), biển (dương, hải), mặt trời (nhật), mặt trăng (nguyệt); diễn tả cho cái
mênh mơng bát ngát đó là một loạt các tính từ: thâm thâm, du du, cao cao, mang
mang… Cái cao của núi, cái rộng của sông, cái sâu của biển, cái dài của mây, cái
sức buông tỏa ánh sáng mặt trời, mặt trăng… dệt nên những bức tranh thống
đạt mênh mơng khá gần gũi với tranh họa. Đó có thể là cảm hứng chung của các
thiền gia khi đối diện với vũ trụ bao la mà con người là một phần khơng thể tách
rời trong đó.
Khơng gian vũ trụ trong thơ thiền khơng chứa trong nó con người cá nhân
với những suy tư thầm kín mà chỉ dung chứa những con người vũ trụ, hòa cái
“bản ngã” của cá nhân vào cái “đại ngã” của thế giới:

Trời lên cơn bão tố
Đất trời như giận dữ
Nhưng cuối cùng trong con
Mưa cũng tạnh mây cũng tan
Nhìn ra cửa sổ
Con thấy vầng trăng khuya đã hiện
Và đất trời đã thực sự bình an. (Tìm nhau)
Nếu con người trong thơ Nho thời trung đại xem thiên nhiên là đối tượng
để “tải đạo” hay “ngơn chí”, là người bạn để xẻ chia tình cảm, tâm sự thì con
người trong thơ thiền Thích Nhất Hạnh xem mình và thiên nhiên có cùng một
bản thể, từ đó các thiền gia vươn đến thiên nhiên để đạt được một sự cộng
hưởng tinh thần cao độ. Cũng miêu tả về không gian bao la rộng lớn, cũng trời
mây núi sơng hùng vĩ, nhưng khơng hồn tồn giống như thái độ “vơ vi” hịa
mình vào tự nhiên của Đạo gia, càng khơng giống như ý chí tiến thủ của các nhà
Nho, mà thông qua việc miêu tả không gian thiên nhiên rộng lớn, các thiền gia
thường thể hiện “xung thiên chí” (chí xơng lên trời thẳm) để đi đến giác ngộ Phật
tánh của mình. Khơng gian trong hồn cảnh này thường là không gian lên núi cao,
không gian con đường sâu thẳm đến vơ tận. Hình ảnh con đường xa thẳm mênh
mông vô lối nhiều khi là nỗi ám ảnh lớn lao với người cầu đạo.
Như vậy, không gian vũ trụ trong thơ thiền Thích nhất Hạnh là không gian
hiện thực mênh mông bát ngát. Các sự vật trong khơng gian đó to lớn hùng vĩ phù
hợp với tâm thế con người và dễ dàng tạo được cảm hứng thiền ở các thiền gia.
Con người sống trong đó bên cạnh việc hịa nhập hết mình cịn muốn vượt ra khỏi
sự hữu hạn để vươn lên một thế giới rộng mở tuyệt đối. Thiên nhiên trong không
gian này không phải là thứ thiên nhiên giả tạo siêu hình, thiếu màu sắc mà ngược
lại, nó sinh động, nên thơ và gợi cảm giữa cuộc sống tu hành; đồng thời nó cũng
chứa bên trong cảm hứng thiền, tâm trạng thiền, ý vị thiền qua con mắt nhà sư.
13



Thức dậy hôm nay em thấy trời xanh
Chắp tay em cám ơn đời mầu nhiệm
Cho em hai mươi bốn giờ tinh khôi
Cho em bầu trời bao la
Mặt trời lên cao
Rừng cây ý thức
Mặt trời lên cao
….
Ý thức em mặt trời tỏ rạng
Bàn tay em gieo hạt cho mùa sang năm.
Biển động, tai em nghe tiếng triều dâng…”
(Ý thức em mặt trời tỏ rạng)
3. KẾT LUẬN
Tóm lại, có thể thấy rằng khơng gian nghệ thuật trong thơ Thích Nhất
Hạnh mang những đặc trưng riêng làm nên dấu ấn thời đại trong khơng gian
nghệ thuật. Khơng gian nghệ thuật trong thơ Thích Nhất Hạnh mang đậm màu
sắc tơn giáo huyền bí với mơ hình khơng gian ba giới, ba tầng, ba cõi. Khơng
gian nghệ thuật mang tính rộng lớn bất biến của kiểu khơng gian vũ trụ, sau đó
khơng gian được trở về gần hơn với cuộc sống của con người, đó là kiểu khơng
gian trần tục hóa, khơng gian thế tục hóa…Khơng gian nghệ thuật trong thơ
Thích Nhất Hạnh là một hình tượng nghệ thuật sinh động chứ khơng khơ cứng.
Nó không đơn giản chỉ là cảm nhận bằng tư duy tỉnh táo mà nó cịn được cảm
nhận bằng óc chủ quan, bằng cảm xúc, bằng tâm trạng của nhà thơ. Đó là sự
tách biệt về ranh giới của khơng gian, giữa khơng gian bên trong và khơng gian
bên ngồi, giữa ranh giới bất biến và khả biến. Không gian nghệ thuật trong thơ
Thích Nhất Hạnh mang tính tượng trưng và mang tính quan niệm. Tính quan
niệm này xuất phát từ ngun tắc mơ phỏng thiên nhiên trong hội hoạ, đó là luật
thấu thị - nhìn sự vật theo tỉ lệ xa gần, sáng tối trong hội hoạ phương Tây.
Không gian nghệ thuật thể hiện tập trung vào cái nhìn, điểm nhìn, điểm quan sát.
Điểm nhìn là vị trí của chủ thể trong khơng thời gian, thể hiện ở phương hướng

nhìn, khoảng cách nhìn, ở đặc điểm của khách thể được nhìn.

14


Tài liệu tham khảo
1. Phan Thị Đào, Tìm hiểu thi pháp tục ngữ Việt Nam, NXB Thuận Hoá, Huế, 2001.
2. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (chủ biên), Từ điển thuật ngữ văn học, NXB
Giáo dục, 1992, Hà Nội.
3. Thích Nhất Hạnh (1926), Từng ơm và mặt trời từng hạt, Hội Nhà Văn Công ty sách Phương
Nam, 2015, thành phố Hồ Chí Minh.
4. Đỗ Đức Hiểu (chủ biên), Từ điển văn học (bộ mới), NXB Thế giới, 2004, Hà Nội.
5. Trần Đình Sử, Một số vấn đề thi pháp học hiện đại, Bộ Giáo dục và Đào tạo - Vụ giáo viên,
Hà Nội, 1993.
6. Đoàn Thị Thu Vân, Luận án Phó Tiến sĩ khoa học Ngữ văn - Khảo sát một số đặc trưng
nghệ thuật của thơ thiền VN thể kỉ XI- thế kỉ XIV, Thành phố Hồ Chí Minh, 1994.
7. Đồn Thị Thu Vân, Khảo sát đặc trưng nghệ thuật thơ thiền Việt Nam thế kỉ X-XV, Trung
tâm nghiên cứu văn học, NXB Văn học, 1996, Hà Nội.

15



×