Tải bản đầy đủ (.pdf) (15 trang)

Tiểu luận phân tích và làm rõ các phương pháp giáo dục, có vận dụng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (613.11 KB, 15 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC GIÁO DỤC
---♦---♦---♦---

CHƯƠNG TRÌNH BỒI DƯỠNG
NGHIỆP VỤ SƯ PHẠM ĐẠI HỌC

BÀI THU HOẠCH
CHUYÊN ĐỀ: GIÁO DỤC HỌC ĐẠI CƯƠNG

Học viên: Nguyễn Thị Lan Phương
Ngày sinh: 26/01/1988
Nơi sinh: Hà Nội
Đơn vị công tác: Trường Cao đẳng Công thương Hà Nội

Năm 2021
1


PHẦN NHẬN XÉT CỦA GIẢNG VIÊN
…………………………………………………………………………......
…………………………………………………………………………......
…………………………………………………………………………......
…………………………………………………………………………......
…………………………………………………………………………......
…………………………………………………………………………......
…………………………………………………………………………......
…………………………………………………………………………......
…………………………………………………………………………......
…………………………………………………………………………......
ĐIỂM


Bằng số Bằng chữ

Hà Nội, ngày …. tháng ….. Năm 2021
Giảng viên

2


CÂU HỎI 1
Anh chị hãy phân tích và làm rõ các phương pháp giáo dục. Anh chị đã
vận dụng phương pháp giáo dục nào trong công tác giảng dạy của mình, bình
luận về điểm mạnh và hạn chế của phương pháp giáo dục đó.

3


MỤC LỤC
I - MỞ ĐẦU ............................................................................................................... 5
II - HỆ THỐNG CÁC PHƯƠNG PHÁP GIÁO DỤC ........................................... 5
2.1- Nhóm các phương pháp hình thành ý thức (khái niệm, phán đốn, niềm
tin) cá nhân người được giáo dục .........................................................................5
2.2 - Nhóm các phương pháp tổ chức hoạt động xã hội và hình thành kinh
nghiệm ứng xử xã hội của người được giáo dục .................................................8
2.3 - Nhóm các phương pháp kích thích hoạt động và điều chỉnh ứng xử của
người được giáo dục ............................................................................................10
III – VẬN DỤNG THỰC TẾ ................................................................................. 12
TÀI LIỆU THAM KHẢO ...................................................................................... 15

4



I - MỞ ĐẦU
Giáo dục làm biến đổi nhân cách khi mà nó có khả năng làm nảy sinh ở cá nhân những ý
nghĩ, tình cảm, nhu cầu mới dẫn đến một hành vi nhất định của cá nhân đó. Vì vậy, trong
quá trình giáo dục phải sử dụng những phương pháp tác động tới ý thức, tình cảm và hành
vi của người được giáo dục, gọi là phương pháp giáo dục.
Phương pháp giáo dục là cách thức hoạt động của nhà giáo dục và người được giáo dục,
được thực hiện trong sự thống nhất biện chứng, gắn bó với nhau, nhằm hoàn thành những
nhiệm vụ giáo dục phù hợp với mục đích giáo dục đã định.
Phương pháp giáo dục là thành tố hữu cơ của quá trình giáo dục, nó có mối quan hệ biện
chứng với các nhân tố khác của quá trình giáo dục như phương tiện giáo dục, hình thức tổ
chức giáo dục,..

II - HỆ THỐNG CÁC PHƯƠNG PHÁP GIÁO DỤC
Hệ thống các phương pháp giáo dục rất phong phú và rất khó để có thể xác định được
một cơ sở lôgic thống nhất để phân loại các phương pháp giáo dục.
Người ta thường chia phương pháp giáo dục thành 3 nhóm:
2.1- Nhóm các phương pháp hình thành ý thức (khái niệm, phán đoán, niềm tin) cá
nhân người được giáo dục
Cách thức: Tác động vào lý trí, tình cảm , ý chí của người được giáo dục.
Cơ sở xuất phát: Dựa trên nguyên tắc thống nhất giữa ý thức và hoạt động, hoạt động
bên trong kết hợp chặt chẽ với hoạt động bên ngồi trong sự hình thành nhân cách.
Mục đích: giúp cho người được giáo dục ý thức đúng đắn về các chuẩn mực của xã hội,
hình thành ở họ khái niệm, đánh giá, phán đốn,…làm cơ sở cho những quan điểm, niềm tin
của nhân cách.
Chức năng : Đưa lý luận vào ý thức người được giáo dục và khái quát những kinh
nghiệm, những hành vi, những sự ứng xử của bản thân người được giáo dục. Đồng thời, cịn
có chức năng cụ thể hóa những chuẩn mực, khái niệm đạo đức, thẩm mỹ,…để người được
giáo dục tiếp thu được.
Nhóm phương pháp này bao gồm:

* Phương pháp diễn giảng: Diễn giảng là trình bày một cách có hệ thống, mạch lạc,
tương đối hồn chỉnh bản chất của một vấn đề chính trị- xã hội, đạo đức, thẩm mỹ. Trung
tâm lôgic của diễn giảng là sự khái quát lý luận về một lĩnh vực ý thức, khoa học. Các sự
kiện cụ thể chỉ đóng vai trị minh hoạ hoặc là yếu tố xuất phát để tiến hành diễn giảng.
Để nâng cao hiệu quả tác động về mặt nhận thức, xúc cảm của phương pháp diễn giảng
cần đảm bảo tính thuyết phục của các luận chứng, tính hệ thống chặt chẽ của cấu trúc nội
dung, tính chân thực của tình cảm, thái độ của người diễn giảng, tính sống động của ngôn từ

5


được dùng khi diễn giảng. Qua diễn giảng cần giúp họ đi sâu vào việc nhận thức bản chất
của các vấn đề được đề cập tới.
* Phương pháp đàm thoại: Phương pháp này thể hiện ở chỗ giáo viên và người được
giáo dục trò chuyện với nhau, trao đổi ý kiến với nhau về một câu chuyện, vấn đề nào đó
nhằm giáo dục người được giáo dục . Những câu chuyện đó thường có nội dung tư tưởng –
đạo đức đa dạng và phong phú.
Nhiệm vụ cơ bản của đàm thoại là lôi cuốn người được giáo dục vào phân tích và đánh
giá các sự kiện, hành vi, hiện tượng trong đời sống xã hội, trong trường, trong lớp, trên cơ
sở đó hình thành cho họ thái độ đúng đắn với hiện thực xung quanh, đối với trách nhiệm
công dân, trách nhiệm đạo đức của họ. Chủ đề các vấn đề đàm thoại càng gần với những
kinh nghiệm bản thân người được giáo dục thì càng có sức thuyết phục.
Về việc tổ chức các buổi đàm thoại cần phải chuẩn bị chu đáo các câu chuyện để đàm
thoại. Đề tài đàm thoại được thông báo trước để người được giáo dục chuẩn bị trước. Cần
làm cho họ thấy được tầm quan trọng của đề tài đối với cuộc sống của họ, chứ không phải
điều giáo viên nghĩ ra để bắt họ trao đổi ý kiến. Mở đầu đàm thoại, giáo viên cung cấp cho
họ tài liệu và đặt ra những câu hỏi để họ thảo luận. Sau đó, khuyến khích, thúc đẩy họ mạnh
dạn và tự do trình bày những ý nghĩ, những luận cứ, kết luận của mình. Giáo viên cần ít nói
song cần chia sẻ những băn khoăn, kinh ngạc, vui mừng, tức giận với người được giáo dục
khi họ phát biểu. Cuối giờ, giáo viên tổng kết, nêu rõ những quan điểm, giải pháp, kết luận

đúng đắn và gợi hướng hành động của tập thể và cá nhân để cùng có kết quả cuộc đàm thoại.
Về hình thức đàm thoại: Có hai cách thức:
+ Đàm thoại giữa giáo viên với tập thể người được giáo dục
+ Đàm thoại giữa giáo viên với một hoặc vài người được giáo dục.
Trong khi đàm thoại, giáo viên cần giữ đúng thái độ tôn trọng chân thành, thương yêu
trong quan hệ thầy trò. Khi sử dụng phương pháp này cần chú ý tới đặc điểm lứa tuổi và cá
nhân của người được giáo dục .
* Phương pháp tranh luận: Đó là phương pháp hình thành cho người được giáo dục
những phán đoán, đánh giá và niềm tin dựa trên sự va chạm các ý kiến, các quan điểm khác
nhau. Nhờ đó nâng cao được tính khái quát, tính vững vàng và tính mềm dẻo của các tri thức
thu nhận được. Tranh luận không yêu cầu phải đi đến giải pháp cuối cùng, những kết luận
dứt khoát. Tranh luận giúp cho người được giáo dục những cơ hội phân tích các khái niệm
về các lý do bảo vệ các quan điểm, niềm tin và thuyết phục những người khác tin vào những
quan điểm đó.
Trong khi tranh luận người được giáo dục khơng chỉ phát biểu những ý kiến của mình
mà cịn phát hiện những điểm mạnh, điểm yếu trong những phán đoán của người khác. Tìm
và chọn các luận chứng để bác bỏ những sai lầm và khẳng định những chân lý. Tranh luận
đòi hỏi những người tham gia phải dũng cảm từ bỏ những quan điểm không đúng và chấp
6


nhận những quan điểm đúng đắn. Những vấn đề đưa ra tranh luận phải có ý nghĩa thiết yếu
đối với cuộc sống của người được giáo dục , phải thực sự làm cho họ băn khoăn suy nghĩ,
xúc động và do đó thúc đẩy họ tham gia trao đổi ý kiến.
Giáo viên cũng như người được giáo dục phải chuẩn bị chu đáo cho cuộc tranh luận.
Các vấn đề tranh luận cần phân công cho người được giáo dục chuẩn bị trước. Trong khi
tranh luận cần phải đảm bảo tự do tư tưởng, giáo viên không nên can thiệp thô bạo, vội vã
phê phán những quan điểm sai của người được giáo dục , bắt họ chấp nhận những quan điểm
của mình. Trái lại, cần phải tế nhị, chân thành, trầm tĩnh, biết hài hước nhưng không xúc
phạm đến nhân phẩm của họ.

* Phương pháp nêu gương: Đó là phương pháp nêu lên những gương điển hình, những
mẫu mực cụ thể, sống động để người được giáo dục bắt chước, làm theo những tấm gương
đó.
Điều đó phù hợp với tâm lý của học viên là tính hay bắt chước. Song bắt chước không
phải là sao chép một cách mù quáng, máy móc. Thơng qua bắt chước họ vẫn có những hành
động mới mẻ, đúng đắn, phù hợp với phương hướng chung của lý tưởng, vừa có hoạt động
độc đáo, gần gũi với những tư tưởng chủ đạo của tấm gương mà học viên bắt chước.
+ Hoạt động bắt chước cùa người được giáo dục thường có đặc điểm:
- Bắt chước từ các mẫu mực gần gũi đến bắt chước các mẫu mực xa.
- Từ chỗ bắt chước một cách vô ý thức đến chỗ bắt chước một cách chủ động.
- Từ chỗ sao chép tồn bộ hình tượng hành vi ứng xử đến chỗ chỉ mượn một số nét riêng rẽ.
- Từ chỗ bắt chước trong trò chơi đến chỗ bắt chước trong cuộc sống.
- Từ chỗ bắt chước vỏ bề ngoài (dáng điệu, cử chỉ) đến bắt chước những phẩm chất bên trong
của nhân cách.
Tính chất bắt chước tuỳ theo lứa tuổi, sự mở rộng kinh nghiệm và trình độ phát triển về trí
tuệ và đạo đức của họ.
Có thể phân biệt ba giai đoạn của cơ chế bắt chước:
-

Ở giai đoạn đầu hành động cụ thể của người khác làm nảy sinh ở người được giáo
dục hình ảnh chủ quan về hành động đó và lịng ham muốn hành động như thế.
Ở giai đoạn thứ hai, mối liên hệ tấm gương cần bắt chước với những hành động kế
tiếp mới được thiết lập.
Ở giai đoạn ba, các hành động bắt chước và các hành động độc lập mới tổng hợp lại
được nhờ ảnh hưởng tích cực của các tình huống nảy sinh trong cuộc sống và các
tình huống giáo dục tạo ra.

Những tấm gương mà người được giáo dục thường bắt chước là những tấm gương thường
ở xung quanh họ, ở nhà, ở trường. Đó là những tấm gương của những người thân trong gia
7



đình, bạn bè, đặc biệt là của giáo viên, những nhân vật tích cực trong lịch sử, trong văn học,
những anh hùng chiến đấu, trong sản xuất, những danh nhân văn hố và khoa học.
2.2 - Nhóm các phương pháp tổ chức hoạt động xã hội và hình thành kinh nghiệm
ứng xử xã hội của người được giáo dục
Quá trình hình thành nhân cách cho người được giáo dục chủ yếu và trước hết phải dựa
vào những kinh nghiệm tích cực mà họ có. Do đó nhà giáo dục cần phải tổ chức cho họ tham
gia vào các hoạt động, các quan hệ giao lưu đa dạng, để thông qua đó họ tích lũy được những
kinh nghiệm ứng xử xã hội.
Nhóm này gồm:
* Phương pháp địi hỏi sư phạm: Đó là phương pháp nhà giáo dục đề ra những đòi hỏi,
những yêu cầu về mặt sư phạm đối với người được giáo dục.
+ Chức năng của phương pháp đòi hỏi sư phạm: tổ chức hoạt động cho người được giáo dục,
vì họ sẽ phải tổ chức hoạt động của mình để thực hiện các đòi hỏi sư phạm.
Những đòi hỏi đó biểu hiện như là: Những chuẩn mực xã hội mà người được giáo dục nhất
thiết phải nắm vững, phải thực hiện và coi nó như là phương hướng, nội dung để tự giáo dục,
tự rèn luyện.
Đối với học sinh sinh viên, đó cũng có thể là những quy định trong điều lệ nhà trường, điều
lệ Đoàn, Đội, những quy định trong sinh hoạt tập thể, xã hội… Những đòi hỏi đó như là
những nhiệm vụ xã hội cụ thể mà người được giáo dục phải hoàn thành trong quá trình hoạt
động.
Những địi hỏi đó đóng vai trị là những kích thích hay kìm hãm mà khi tổ chức bất kỳ hoạt
động nào cũng phải sử dụng tới. Đó là những chỉ thị, mệnh lệnh khi tiến hành công việc và
khi kết thúc công việc, khi chuyển sang công việc mới, khi điều chỉnh, sửa chữa hành động,
khi đình chỉ hành động làm trở ngại cho người khác. Những đòi hỏi đó đóng vai trị như
những biện pháp giúp người được giáo dục hiểu ý nghĩa, ích lợi và cần thiết của cơng việc.
+ Hình thức địi hỏi sư phạm: Có địi hỏi trực tiếp và địi hỏi gián tiếp.
Địi hỏi trực tiếp thể hiện dưới dạng là những chỉ thị, mệnh lệnh mang tính chất là những chỉ
dẫn tích cực và kiên quyết.

Đòi hỏi gián tiếp biểu hiện dưới dạng khuyên bảo, gợi ý. Nó chỉ có tác dụng mạnh mẽ khi
người được giáo dục đã có ý thức, động cơ, mục đích, niềm tin ở một trình độ nhất định.
Đòi hỏi sư phạm phải làm chuyển biến những địi hỏi từ bên ngồi thành địi hỏi bên trong
của người được giáo dục.
* Phương pháp tạo dư luận xã hội: Phương pháp này là sự phản ánh những đòi hỏi của tập
thể là tập trung sự đánh giá, sự phán đoán của tập thể, là phương tiện tác động giáo dục mạnh
mẽ của tập thể đối với cá nhân, là hoạt động sư phạm phức tạp và lâu dài của nhà giáo dục
trong quá trình tổ chức tập thể.
8


Sức mạnh của dư luận tập thể phụ thuộc vào tính ngun tắc, tính thuyết phục, tính cơng
bằng của các phán đốn của tập thể, tính rõ ràng, tính sắc sảo của những ý kiến, tính cụ thể
và được được điều tra của những quyết định của tập thể.
Để tạo được những dư luận lành mạnh giáo viên cần lôi cuốn người được giáo dục tham gia
vào những cuộc thảo luận tập thể về các sự kiện tiêu biểu trong đời sống của lớp, của trường,
hướng dẫn họ đánh giá đúng đắn các sự kiện tiêu biểu trong đời sống của lớp, của trường.
Nếu tập thể mà đa số người được giáo dục tích cực tham gia các hoạt động tập thể, cùng
nhau thể nghiệm những thành công chung, cũng có thái độ phê phán các thiếu xót đó, chứng
tỏ tập thể đó đã hình thành được dư luận xã hội lành mạnh.
* Phương pháp tập thói quen: Tập thể có được thói quen (tập thói quen) là tổ chức cho
người được giáo dục thực hiện một cách đều đặn và kế hoach các hành động nhất định nhằm
biến các hành động đó thành thói quen ứng xử. Trong những điều kiện nhất định, thói quen
có thể và cần phải trở thành thuộc tính bền vững hoặc phẩm chất của nhân cách. Nhờ thói
quen mà ý nghĩ có thể trở thành niềm tin, và từ đó niềm tin trở thành hành động.
+ Vận dụng phương pháp giáo dục này đòi hỏi phải tuân theo một số yêu cầu sư phạm nhất
định. Đó là:
- Tập cho người được giáo dục có thói quen hành vi nào đó nhất thiết phải làm cho họ
hình dung rõ nét hành vi đó dưới những quy tắc ngắn gọn.
- Hình thái ứng xử cần mềm dẻo, có tính khái qt nhất định để có thể giữ vững được

khi hồn cảnh thay đổi.
- Hình thái ứng xử cần tập để người được giáo dục có thói quen phải được phân ra
thành từng nhóm hành động để tập trung từng quãng thời gian nhất định.
- Cần chỉ cho người được giáo dục thấy hình mẫu của hành vi ứng xử và hình thành
cho họ lịng mong muốn thích tập luyện các hành vi đó. Lúc đầu cần làm chính xác sau đó
mới làm nhanh.
- Cần kiểm tra việc thực hiện hành vi với thái độ thiện chí, thơng cảm với những khó
khăn của người được giáo dục trong tập luyện, nhất là lúc đầu.
- Cần khuyến khích người được giáo dục tự kiểm tra.
- Việc tập thói quen được tiến hành dưới các hình thức khác nhau, tuỳ theo lứa tuổi,
hoàn cảnh sống và điều kiện giáo dục.
- Cần sử dụng chế độ sinh hoạt và hoạt động của người được giáo dục là một phương
tiện tập cho họ có được thói quen hành vi.
* Phương pháp rèn luyện: Nếu phương pháp tập thói quen chủ yếu giúp người được giáo
dục nắm bắt quá trình của hoạt động thì phuơng pháp rèn luyện làm cho hoạt động trở nên
có ý nghĩa cá nhân với người được giáo dục. Nhiệm vụ cơ bản của rèn luyện là đảm bảo cho
9


người được giáo dục thu lượm được những kinh nghiệm thực tiễn và các quan hệ tập thể để
hình thành những phẩm chất nhân cách.
Phương pháp rèn luyện tất nhiên phải dựa vào phương pháp tập thói quen. Song điều đó
khơng có nghĩa là việc tập luyện có tính chất máy móc theo kiểu hành vi chủ nghĩa. Cái chủ
yếu trong rèn luyện là rèn luyện động cơ, rèn luyện ý chí.
Cơ sở rèn luyện là hồn cảnh sống mà nhà giáo dục tổ chức và đưa người được giáo dục vào
đó nhằm tạo điều kiện cho họ có cơ hội lựa chọn và thực hiện những hành động đúng, chuẩn
mực và quy tắc ứng xử trong các tình huống khác nhau. Vì vậy, đời sống tập thể và hoạt
động tập thể, đặc biệt là hoạt động lao động, công tác xã hội, thông qua việc giao nhiệm vụ,
giao công việc, chế độ trách nhiệm là phương tiện thực hiện rèn luyện cho người được giáo
dục .

* Phương pháp giao công việc: Là cách thức lôi cuốn người được giáo dục vào hoạt động
đa dạng của tập thể, nhờ đó, họ thu lượm được những kinh nghiệm trong quan hệ đối xử
giữa người với người thông qua việc thực hiện những nghĩa vụ xã hội.
Khi giao công việc cho người được giáo dục, cũng như người được giáo dục thực hiện công
việc được giao, cần làm cho họ ý thức được ý nghĩa xã hội của cơng việc để có thái độ tích
cực đối với cơng việc đó, cần giao các công việc phù hợp với xu hướng và hứng thú của
người được giáo dục, song không chỉ những công việc ham thích đó mà trước hết là những
cơng việc cần làm. Việc giao cơng việc có thể có giáo viên hoặc tập thể người được giáo dục
mà giáo viên chỉ làm nhiệm vụ gợi ý tuỳ theo lứa tuổi và đặc điểm của từng người.
* Phương pháp tạo tình huống giáo dục: Là phương pháp mà nhà giáo dục phát hiện ra
những tình huống trong đời sống và trong hoạt động tập thể của người được giáo dục hoặc
tự mình tạo ra những hồn cảnh có khả năng gây cho người được giáo dục những tâm trạng,
tình cảm, động cơ và hành vi cần thiết để tiến hành giáo dục.
Về thực chất đó là những tình huống của sự lựa chọn tự do, ở trong tình huống đó, người
được giáo dục nhất thiết phải lựa chọn một giải pháp nhất định trong các giải pháp khác
nhau.
Các tình huống giáo dục có thể được tạo ra trong bất cứ loại hình hoạt động nào của người
được giáo dục: Vui chơi, học tập, lao động, công tác xã hội, văn nghệ…
2.3- Nhóm các phương pháp kích thích hoạt động và điều chỉnh ứng xử của người được
giáo dục
Chức năng chung của nhóm phương pháp này: kích thích, thúc đẩy, điều chỉnh, ức chế
các hành vi ứng xử của người được giáo dục, củng cố kết quả của 2 nhóm phương pháp trên.
Nhóm này bao gồm các phương pháp sau:
* Phương pháp thi đua: Với tư cách là phương pháp giáo dục, thi đua là phương thức kích
thích khuynh hướng tự khẳng định ở mỗi người được giáo dục, thúc đẩy họ đua tài, gắng
10


sức, hăng hái vươn lên hàng đầu, lôi cuốn người khác cùng tiến lên giành cho được những
thành tích cá nhân và tập thể cao nhất.

Để phương pháp này đạt hiệu quả cao cần tổ chức tốt việc thi đua với những mục tiêu cụ thể,
rõ ràng và thiết thực, động viên tất cả người được giáo dục hăng hái tham gia phong trào thi
đua với động cơ đúng đắn, sáng tạo nhiều hình thức mới mẻ, hấp dẫn, so sánh công khai
những kết quả đạt được trong thi đua, tiến hành sơ tổng kết, thi đua đều đặn, biểu dương,
khen thưởng cơng bằng và thích đáng các cá nhân và tập thể đạt thành tích cao hoặc nhiều
nỗ lực trong thi đua.
* Phương pháp khen thưởng: Đó là phương pháp biểu thị sự đánh giá tích cực của xã hội
đối với hành vi ứng xử và hoạt động của từng người được giáo dục hoặc của tập thể những
người được giáo dục xứng đáng được khen thưởng. Người được giáo dục qua đó cảm thấy
hài lịng, phấn khởi, có thêm nghị lực, tự tin vào sức lực của mình và có mong muốn tiếp tục
thực hiện hành vi đó.
Khơng nên cho rằng việc biểu dương, khen thưởng bất kỳ ở đâu và bất kỳ lúc nào cũng có
ích. Ý nghĩa giáo dục của khen thưởng càng lớn, nếu khi khen thưởng không chỉ đánh giá
kết quả mà cả động cơ và phương thức hoạt động. Cần tạo cho người được giáo dục biết
quý trọng bản thân sự việc được khen chứ không chỉ coi trọng giá trị của lời khen và vật
được thưởng. Cần chú ý khen những người được giáo dục nhút nhát và thiếu tự tin. Cần đặc
biệt chú ý đảm bảo tính khách quan, sự cơng minh khi khen thưởng. Cần luôn nhớ rằng khen
thưởng là để người được khen thưởng cố gắng hơn nữa.
* Phương pháp trách phạt: Đó là phương thức biểu thị sự không tán thành, lên án, phủ
định của giáo viên, của tập thể, của xã hội đối với hành vi của cá nhân, của tập thể người
được giáo dục trái với những chuẩn mực ứng xử xã hội để buộc cá nhân hay tập thể đó từ
bỏ những hành vi có hại cho xã hội và bản thân, và điều chỉnh sự ứng xử theo chuẩn mực đã
định.
Một số hình thức trách phạt phổ biến thường thấy trong môi trường giáo dục của chúng ta
là: Nhận xét của giáo viên; Phê bình vào sổ liên lạc; Gọi lên hội đồng của giáo viên để
khun bảo, phê bình; Cảnh cáo thơng báo trong toàn trường; chuyển sang lớp khác cùng
khối, đuổi ra khỏi trường, gửi tới các trường cải tạo đặc biệt.
Cách vận dụng phương pháp trách phạt: Mục đích của trách phạt là giúp nguời làm điều sai
trái sửa chữa lỗi lầm nên phải giúp họ hiểu rõ hành vi sai trái ở chỗ nào, gây tác hại gì cho
người khác và cho bản thân, và cần phải hành động như thế nào. Trách phạt cơng minh, có

thiện ý, tơn trọng nhân cách không được gây đau đớn về thể xác, sỉ nhục nhân cách người
phạm tội. Song đôi khi cũng phải áp dụng những biện pháp để người có lỗi chịu “hậu quả tự
nhiên” do việc làm sai trái của mình.
Những yêu cầu chung về mặt sư phạm đối với phương pháp khen thưởng và trách phạt:

11


- Khen thưởng và trách phạt là những phương pháp trực tiếp đụng chạm mạnh mẽ đến nhân
cách người được giáo dục. Bởi vậy nhà giáo dục cần nhớ rằng không phải khen hay chê,
thưởng hay phạt một nhân cách mà là khen hay chê, thưởng hay phạt những hành động đúng
hay sai, tốt hay xấu mà thôi.
- Khen thưởng hay trách phạt phải cơ động hay cá biệt, chú ý đến hoàn cảnh nảy sinh hành
vi, đặc điểm lứa tuổi và cá nhân của người được giáo dục.
- Sức mạnh giáo dục của khen thưởng và trách phạt phụ thuộc vào chỗ ai khen, ai phạt, giáo
viên có uy tín nhiều hay ít, hiệu trưởng, đồn thể xã hội, hội đồng sư phạm… Sức mạnh của
dư luận xã hội ở trong khen chê là rất lớn.
- Khen thưởng và trách phạt, cũng như mọi kích thích, phải được sử dụng có chừng mực về
tần số cũng như về cường độ, không thể áp dụng mãi cho một số người cùng một hình thức,
vì như vậy sẽ dẫn đến hiện tượng “thích nghi” hoặc “chai sạn”.
- Khen thưởng và trách phạt có thể sử dụng cho từng cá nhân cũng như cho cả tập thể. Nếu
việc khen thưởng cả tập thể thường có nhiều tác dụng tích cực, thì việc trách phạt cả tập thể
đôi khi cũng dẫn đến những hậu quả không hay (bao che, dung túng cho nhau, đồng tình với
những điều sai trái…).
- Khen thưởng và trách phạt trong nhà trường chúng ta là biểu thị của những địi hỏi đối với
con người và sự tơn trọng con người. Do đó cần khen thưởng những cố gắng nỗ lực của
người đó, và trong trách phạt, phải loại bỏ mọi phương pháp, phương tiện, thái độ hạ thấp
nhân phẩm con người.

III – VẬN DỤNG THỰC TẾ

Tôi hiện đang tham gia công tác giảng dạy môn Tin học tại Trường THPT Hoàng
Mai – Hà Nội. Đối với bậc Trung học Phổ thông, tôi nhận thấy mục tiêu giáo dục của mơn
Tin học tại trường có sự phân hóa sâu theo định hướng nghề nghiệp, cụ thể như sau:
- Lớp 10: Các chủ đề, các dự án học tập nhằm:
o Hệ thống hóa và hồn thiện các kiến thức, kĩ năng và hình thành ở giai
đoạn giáo dục cơ bản
o Giúp học sinh có một cái nhìn tương đối tổng quát về lĩnh vực tin học
o Đồng thời giới thiệu về các ngành nghề thuộc lĩnh vực Tin học và liên quan
đến Tin học.
o Để tạo điều kiện cho học sinh khám phá các sở thích cá nhân, lựa chọn các
học phù hợp với định hướng nghề nghiệp ở lớp 11 và lớp 12, trong nội
dung môn Tin học lớp 10 có 2 chủ đề giới thiệu hai hướng chính trong lĩnh
vực nghề liên quan chặt chẽ đến Tin học là: Khoa học máy tính và Tin học
ứng dụng.
- Lớp 11 và lớp 12: Tin học ứng dụng và Khoa học máy tính là những mơn học tự chọn
bắt buộc theo sở thích và định hướng nghề nghiệp của học sinh.
Môn Tin học ứng dụng nhằm:
12


Đáp ứng sở thích cá nhân và nhu cầu tối thiểu của con người trong xã hội tri thức ;
Đáp ứng mục đích dùng Tin học như một cơng cụ nâng cao hiệu quả học tập và làm
việc trong những ngành nghề liên quan đến cơng nghệ số hóa;
- Đáp ứng nguyện vọng hướng đến nhiều ngành nghề thuộc dịch vụ Tin học.
Để phát triển năng lực thích ứng và năng lực phục vụ xã hội số hóa, các chủ đề thuộc định
hướng này tập trung vào:
- Kỹ năng kết nối và sử dụng các thiết bị phần cứng,
- Sử dụng các phần mềm công cụ,
- Khai thác ứng dụng web,
- Cài đặt phần mềm trên các thiết bị thông minh thông dụng,

- Quản trị hệ thống ứng dụng
-

Định hướng khoa học máy tính phù hợp với định hướng các ngành nghề liên quan chặt chẽ
đến Tin học. Các chủ đề thuộc môn này trang bị cho học sinh:
- Kiến thức về thuật tốn, lập trình
- Quản trị mạng
- Quản trị cơ sở dữ liệu
- Đồng thời coi trọng phát triển tư duy hệ thống, thiết kế và tự động hóa.
Chính vì vậy, trong q trình giảng dạy, tơi đã áp dụng nhiều phương pháp giáo dục nhằm
đạt được mục tiêu giáo dục, cụ thể như sau:
A- Phương pháp diễn giảng/thuyết trình
Mục tiêu: Nhằm truyền đạt thơng tin, kiến thức, cung cấp tổng quan về chủ đề giảng dạy,
khơi dậy hứng thú học tập, kích thích suy nghĩ của học sinh
Ưu điểm: Phương pháp này giúp truyền đạt kiến thức đến được với nhiều người nghe, đề
cập được nhiều thông tin một cách nhanh chóng, rất dễ tổ chức.
Hạn chế: Tuy nhiên trong phương pháp này, học sinh khá thụ động. Thơng tin truyền đạt
chỉ có một chiều vì vậy có thể trở nên nhàm chán. Học sinh khơng thể hiện kiến thức và kỹ
năng.
Giải pháp: Đối phương pháp này tơi ln cần có kế hoạch trình tự cẩn thận về tiết dạy. Phần
trình bày nội dung tơi sử dụng nhiều hình ảnh minh họa, để duy trì được sự quan tâm của
học sinh. Tơi cho phép và khuyến khích học sinh đặt câu hỏi hoặc đề nghị làm rõ. Tôi sử
dụng thêm các phương tiện hỗ trợ học tập, và khuyến khích học sinh ghi chép. Cuối buổi
học, tơi thường khái quát điểm chính và củng cố bằng các câu hỏi trắc nghiệm.
B- Phương pháp nêu gương
Giảng viên minh họa một hoạt động cho thấy một kỹ năng hoặc một số hiện tượng trong khi
học viên quan sát.
Mục tiêu: Dạy một nhiệm vụ cụ thể cho học sinh, phát triển kỹ năng quan sát và giới thiệu
một kỹ thuật mới, qua đó nâng cao hiểu biết của người học về nguyên tắc, khái niệm, kỹ
thuật.

13


Ưu điểm: Khơi dậy sự quan tâm đối với chủ đề ở học sinh. Sử dụng từ hai giác quan trở lên
như nghe, nhìn, cảm giác. Có thể sử dụng vật thực hoặc mơ hình trực quan.
Nhược điểm: Thơng thường khơng thích hợp với lớp đơng và người học có thể không quan
tâm đến nữa nếu phần minh họa quá dài
Giải pháp: Tơi giải thích rõ ràng và duy trì nhịp độ trình bày như nhau. Tạo điều kiện để
các học sinh cùng tham gia quá trình. Cần đảm bảo có đầy đủ trang thiết bị và biết rõ q
trình thực hiện.
C- Phương pháp rèn luyện
Người học được tham gia vào các hoạt đông thực hành "được động tay động chân"
Mục tiêu: Phát triển các kỹ năng quan sát ở học sinh. Nâng cao kỹ năng làm việc bằng chân
tay. Phát triển tư duy phê phán phân tích, kỹ năng áp dụng và kiểm chứng lý thuyết, và kỹ
năng trình bày kết quả của học sinh.
Ưu điểm: Giúp củng cố lý thuyết. Các nguyên tắc được minh họa hiệu quả trong tiết học.
Khuyến khích sự hợp tác chia sẽ kiến thức nguồn lực. Khuyến khích học sinh chú ý đến an
tồn chính xác. Giúp đánh giá sự tiến bộ của học sinh và đánh giá được hiệu quả của các
chiến lược giảng khác nhau.
Hạn chế: Thực tế, trang thiết bị thực hành có thể cịn nhiều bất cập, máy tính cũ, hỏng, gặp
sự cố. Nhiệm vụ nhiều khi vượt quá thời gian dự kiến. Tốn nhiều thời gian tổ chức cho một
tiết thực hành. Chú ý độ an toàn trong khi giảng dạy.
Giải pháp: Xác định mục đích của bài tập rõ ràng. Bảo đảm người học phải vận dụng được
thiết bị, tài liệu. Bảo đảm đưa ra hướng dẫn rõ ràng để học sinh thực hiện. Các bài tập cần
có bổ trợ một số chiến lược khác. Liên tục giám sát chặt chẽ trong quá trình thực hiện. Tuân
thủ tuyệt đối an tồn nghề nghiệp.
Tóm lại, trong q trình giáo dục, nhà giáo dục cần chú ý:
-

Không được tuyệt đối hóa bất kì một nhóm phương pháp giáo dục nào mà cần lựa

chọn, phối hợp các nhóm và các phương pháp giáo dục một cách hợp lí
Khi sử dụng các phương pháp cần chú ý đến: nội dung, mục tiêu của giáo dục cụ thể,
đối tượng giáo dục, điều kiện thực tế.
Cần đảm bảo sự thống nhất giữa vai trò chủ đạo của nhà giáo dục và vai trò tự giác,
tích cực, độc lập của người giáo dục, khơng tuyệt đối hay phủ định bất kỳ vai trò nào
của 2 yếu tố nói trên.

14


TÀI LIỆU THAM KHẢO
- TS. Trần Anh Tuấn, Ngô Thu Dung, Mai Quang Huy (2013) – Giáo dục học Đại
cương – Trường Đại học giáo dục, NXB. Đại học Quốc gia Hà Nội.
- PGS.TS. Trần Thị Hương, Nguyễn Đức Danh, Hồ Văn Liên, Ngơ Đình Qua (2017)
– Giáo dục học đại cương – NXB. Đại học Sư phạm TP. Hồ Chí Minh
- Hà Thị Mai (2011) – Giáo trình Giáo dục học đại cương – Trường Đại học Đà Lạt

15



×