Tải bản đầy đủ (.doc) (25 trang)

Những nhận thức mới trong việc xây dựng quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam từ khi đổi mới đất nước (1986) đến nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (228.4 KB, 25 trang )

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài:
Trong đời sống xã hội của mình con người dù muốn hay khơng cũng buộc
phải duy trì những quan hệ nhất định với nhau để trao đổi hoạt động sản xuất
cũng như kết quả lao động những quan hệ sản xuất này mang tính tất yếu. Như
vậy quan hệ sản xuất do con người tạo ra song nó được hình thành một cách
khách quan không phụ thuộc vào ý muốn của bất kỳ ai. Việc phải thiết lập các
mối quan hệ trong sản xuất tự nó đã là vấn đề có tính quy luật tất yếu, khách
quan của sự vận động xã hội và có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, bởi vì đây là quy
luật cơ bản, xuyên suốt, chi phối quá trình phát triển của xã hội lồi người.
Ở Việt Nam, quan hệ sản xuất luôn là đề tài thu hút được sự quan tâm của
giới nghiên cứu lý luận và các nhà hoạt động thực tiễn. Trước đổi mới, các
nghiên cứu chủ yếu tập trung luận giải cho tính tất yếu của việc quốc hữu hóa,
tập thể hóa các tư liệu sản xuất cơ bản và coi đây là điều kiện để phát triển lực
lượng sản xuất, xây dựng nền kinh tế có kế hoạch. Kể từ Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ VI của Đảng (tháng 12/1986), với chủ trương đổi mới toàn diện đất
nước, các nghiên cứu về quan hệ sản xuất đã bám sát tiến trình xây dựng
quan hệ sản xuất mới tiến bộ phù hợp với sự phát triển của lực lượng sản xuất.
Cho đến nay, đã có rất nhiều cơng trình đề cập đến sự biến đổi của toàn bộ quan
hệ sản xuất hoặc của từng phương diện trong quan hệ sản xuất ở Việt Nam. Tuy
nhiên, những khái quát triết học về thực trạng biến đổi quan hệ sản xuất ở Việt
Nam từ năm 1986 đến nay, gồm cả những vấn đề đặt ra từ thực trạng biến đổi
đó, vẫn cịn nhiều nội dung chưa được làm sáng tỏ.
Quá trình lãnh đạo cách mạng giải phóng dân tộc, xây dựng chủ nghĩa xã
hội và đổi mới hiện nay, Đảng ta luôn luôn coi trọng mục tiêu, nhiệm vụ xây
dựng các quan hệ sản xuất của chế độ xã hội xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên, trong
thời gian dài chúng ta đã phạm sai lầm chủ quan, duy ý chí, xây dựng các quan
hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa vượt trước quá xa trình độ phát triển của lực lượng
sản xuất cịn lạc hậu, thấp kém.
Trong những năm đổi mới, chúng ta đã có sự nhận thức lại, vận dụng
đúng đắn, sáng tạo quy luật: “quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ của lực


lượng sản xuất”, điều chỉnh quan hệ sản xuất cho phù hợp với trình độ của lực
lượng sản xuất, bằng cách phát triển đa dạng các loại hình quan hệ sản xuất,
trong đó có quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa, từ đó tạo ra bước ngoặt căn bản
của kinh tế-xã hội. Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đã đạt được, vẫn còn
yếu kém, bất cập, quan hệ sản xuất cịn có mặt chưa phù hợp, hạn chế trong việc
giải phóng lực lượng sản xuất. Do đó, cần tiếp tục, điều chỉnh quan hệ sản xuất
cho phù hợp với lực lượng sản xuất để giải phóng lực lượng sản xuất, thúc đẩy
sản xuất phát triển.
Hiện nay, có nhiều nhân tố tác động đến quan hệ sản xuất xã hội chủ
nghĩa ở nước ta, cùng với xu thế tồn cầu hóa, hợp tác hóa, khu vực hóa đang
diễn ra mạnh mẽ. Chính vì vậy, việc nghiên cứu điều chỉnh quan hệ sản xuất xã
1


hội chủ nghĩa để thúc đẩy sản xuất phát triển làm cho nước ta hòa nhập với xu
thế của thời đại là hết sức cần thiết. Trong thời quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở
nước ta, còn tồn tại nhiều loại quan hệ sản xuất khác nhau như: quan hệ sản xuất
tiền tư bản chủ nghĩa, quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa, quan hệ sản xuất xã
hội chủ nghĩa… trong đó, quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa ở nước ta ln
được xác định đóng vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân. Cùng với quá
trình đổi mới đất nước quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa cũng khơng ngừng
được đổi mới, hồn thiện. Đảng khẳng định xây dựng, hoàn thiện quan hệ sản
xuất xã hội chủ nghĩa là nhiệm vụ thường xuyên, liên tục trong suốt thời kỳ quá
độ lên chủ nghĩa xã hội nhằm thúc đẩy sản xuất phát triển. Việc xây dựng quan
hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa trong thời kỳ quá độ ở nước ta rất cần thiết song
cũng rất khó khăn, phức tạp, vì đây là con đường đi chưa có tiền lệ, vừa phải xây
dựng, vừa phải tìm tịi thử nghiệm.
Do đó, qua mỗi thời kỳ, mỗi giai đoạn, phải điều chỉnh quan hệ sản xuất
để thúc đẩy sản xuất phát triển và giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa. Muốn
thực hiện được điều này cần phải nghiên cứu sự 2 biến đổi của quan hệ sản xuất

xã hội chủ nghĩa từ khi được hình thành đến nay, nhất là thời kỳ đổi mới. Chính
vì những lý do trên tôi đã lựa chọn đề tài: “Những nhận thức mới trong việc
xây dựng quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam từ khi đổi mới đất
nước (1986) đến nay” để nghiên cứu.
2. Mục tiêu của nghiên cứu:
Trên cở sở phân tích lý luận và thực trạng những nhận thức mới trong việc
xây dựng quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam từ khi đổi mới đến nay,
tiểu luận góp phần đưa ra một số phương pháp, giải pháp chủ yếu nhằm phát
huy những thay đổi, những nhận thức mới hạn chết những thay đổi, nhận thức
hạn chế trong việc xây dựng quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam để
thúc đẩy phát triển quan hệ sản xuất.
3. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu:
- Cơ sở lý luận: Tiểu luận dựa trên cơ sở lý luận của Chủ nghĩa MácLênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; các quan điểm, chủ trương, đường lối chính sách
của Đảng và Nhà nước về quan hệ sản xuất và quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa
ở nước ta từ khi đổi mới đất nước đến nay.
- Phương pháp nghiên cứu: Tiểu luận sử dụng tổng hợp các phương pháp
nghiên cứu của chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử để luật giải các
nội dung đặt ra, trong đó chủ trọng các biện pháp: lịch sử lo-gic, phân tích, tổng
hợp, so sánh, quy nạp – diễn dịch… để triển khai mục tiêu, nhiệm vụ đặt ra.
4. Đối tượng nghiên cứu:
Tiểu luận nghiên cứu sự vận động, biến đổi của quan hệ sản xuất xã hội
chủ nghĩa ở Việt Nam từ khi đổi mới đất nước (1986) đến nay.
5. Kết cấu của tiểu luận:
2


Ngoài phần mở đầu, danh mục tài liệu tham khảo, tiêu luận gồm 3
chương:
- Chương 1: Lý luận chung.
- Chương 2: Thực trạng sự biến đổi của quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa

trong thời kỳ đổi mới ở Việt Nam.
- Chương 3: Một số phương hướng, giải pháp chủ yếu để phát huy những
biến đổi tích cực, hạn chế những biến đổi tiêu cực củaq uan hệ sản xuất xã hội
chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay.

3


CHƯƠNG 1: LÝ LUẬN CHUNG
1.1. Quan niệm về quan hệ sản xuất và quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa
1.1.1. Khái niệm:
* Quan hệ sản xuất:
Là khái niệm của chủ nghĩa duy vật lịch sử, dùng để chỉ mối quan hệ giữa
người với người trong quá trình sản xuất vật chất. Đây là quan hệ kinh tế cơ bản,
nó đặc trưng cho một chế độ xã hội nhất định. Quan hệ sản xuất gồm ba mặt:
quan hệ về sở hữu đối với tư liệu sản xuất, quan hệ trong tổ chức, quản lý sản
xuất, quan hệ trong phân phối sản phẩm lao động.
* Quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa ở nước ta:
Là một loại hình quan hệ sản xuất dựa trên cơ sở: công hữu về tư liệu sản
xuất chủ yếu, quan hệ tổ chức quản lý đó là nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa, với sự đa dạng về hình thức phân phối: Phân phối theo lao động,
theo vốn đóng góp và theo phúc lợi xã hội, trong đó phân phối theo lao động là
hình thức cơ bản nhất.
Quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa ở nước ta được thể hiện tập trung ở hai
thành phần kinh tế là: kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể.
1.1.2. Kết cấu của quan hệ sản xuất:
Quan hệ sản xuất gồm 3 mặt:
Quan hệ sở hữu về tư liêu sản xuất tức là quan hệ giữa người với tư liệu
sản xuất. Tính chất của quan hệ sản xuất trước hết được quy định bởi quan hệ sở
hữu đối với tư liệu sản xuất .Biểu hiện thành chế độ sở hữu. trong hệ thống các

quan hệ sản xuất thì quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất có vai trị quyết định đối
với các quan hệ xã hội khác.
Trong các hình thái kinh tế xã hội mà loài người đã từng trải qua, lịch sử
đã được chứng kiến sự tồn tại của 2 loại hình sở hữu cơ bản đối với tư liệu sản
xuất: sở hữu tư nhân và sở hữu công cộng. Sở hữu cơng cộng là loại hình mà
trong đó tư liệu sản xuất thuộc về mọi thành viên của cộng đồng. Do tư liệu sản
xuất là tài sản chung của cả cộng đồng nên các quan hệ xã hội trong sản xuất và
trong đời sống xã hội nói chung trở thành quan hệ hợp tác giúp đỡ nhau. Ngược
lại trong các chế độ tư hữu do tư liệu sản xuất chỉ nằm trong tay một số người
nên của cải xã hội không thuộc về số đông mà thuộc về một số ít người các quan
hệ xã hội do vậy bất bình đẳng.
Quan hệ tổ chức và quản lý kinh doanh sản xuất: Tức là quan hệ giữa
người với người trong sản xuất và trong trao đổi vật chất của cải. Trong hệ thống
các quan hệ sản xuất các quan hệ về mặt tổ chức quản lý sản xuất là các quan hệ
có khả năng quyết định một cách quy mơ tốc độ hiệu quả và xu hướng mỗi nền
sản xuất cụ thể đi ngược lại các quan hệ quản lý và tổ chức có thể làm biến dạng
quan hệ sở hữu ảnh hưởng tiêu cực đến kinh tế xã hội.
4


Quan hệ phân phối sản xuất sản phẩm tức là quan hệ chặt trẽ với nhau
cùng mục tiêu chung là sử dụng hợp lý và có hiệu qủa tư liệu sản xuất để làm
cho chúng không ngừng được tăng trưởng, thúc đẩy tái sản xuất mở rộng nâng
cao phúc lợi cho người lao động. Bên cạnh các quan hệ về mặt tổ chức quản
lý,trong hệ thống quan hệ sản xuất, các quan hệ về mặt phân phối sản phẩm lao
động cũng là những nhân tố có ý nghĩa hết sức to lớn đối với sự vận động của
toàn bộ nền kinh tế. Quan hệ phân phối có thể thúc đẩy tốc độ và nhịp điệu của
sản xuất nhưng ngược lại nó có khả năng kìm hãm sản xuất kìm hãn sự phát
triển của xã hội
Nếu xét riêng trong phạm vi một quan hệ sản xuất nhất định thì tính chất

sở hữu quyết định tính chất của quản lý và phân phối. Mặt khác trong mỗi hình
thái kinh tế xã hội nhất định quan hệ sản xuất thống trị bao giờ cũng giữ vai trò
chi phối các quan hệ sản xuất khác, ít nhiều cải biến chúng để chẳng những
chung khơng đối lập mà phục vụ đắc lực cho sự tồn tại và phát triển của kinh tế
xã hội mới.
1.1.3. Tính chất của quan hệ sản xuất:
Quan hệ sản xuất là tiêu chuẩn khách quan để phân biệt xã hội này với xã
hội khác. Những quan hệ sản xuất tạo thành “bộ xương” của hình thái kinh tế xã
hội, nó hợp thành cơ sở hạ tầng của xó hội. Khi quan hệ sản xuất khơng cịn phù
hợp với sự phát triển của lực lượng sản xuất thỡ tất yếu phải diễn ra một cuộc
cách mạng nhằm xóa bỏ quan hệ sản xuất cũ, thay thế bằng quan hệ sản xuất
mới là quan hệ sản xuất đặc trưng cho xó hội mới. Thực tế lịch sử cho thấy rõ
bất cứ một cuộc cách mạng xã hội nào đều mang một mục đích kinh tế là
nhằm bảo đảm cho lực lượng sản xuất có điều kiện tiếp tục phát triển thuận
lợi và đời sống vật chất của con người cũng được cải thiện. Đó là tính lịch sử
tự nhiên của các q trình chuyển biến giữa các hình thái kinh tế - xã hội
trong quá khứ và cũng là tính lịch sử tự nhiên của thời kỳ quá độ từ hình thái
kinh tế - xã hội tư bản chủ nghĩa sang hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ
nghĩa.Và xét riêng trong phạm vi một quan hệ sản xuất nhất định thì tính chất
của sở hữu cũng quyết định tính chất của quản lý và phân phối. Mặt khác
trong mỗi hình thái kinh tế - xã hội nhất định quan hệ sản xuất thống trị bao
giờ cũng giữ vai trò chi phối các quan hệ sản xuất khác ít nhiều cải biến
chúng để chẳng những chúng khong đối lập mà còn phục vụ đắc lực cho sự
tồn tại và phát triển của chế độ kinh tế - xã hội mới.
Quan hệ sản xuất phải phự hợp với tớnh chất và trỡnh độ của lực lượng
sản xuất. Quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất là hai mặt của phương thức sản
xuất, sự tác động lẫn nhau giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất biểu hiên
mối quan hệ mang tính chất biện chứng. Chính sự thống nhất và tác động giữa
quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất đã hình thành nên quy luật về sự phù hợp
giữa quan hệ sản xuất với tính chất và trìng độ phát triển của lực lượng sản xuất.

Quan hệ sản xuất hình thành một cách khách quan trong quá trình sản
xuất. Trong đời sống xã hội của mình con người dù muốn hay khơng cũng buộc
phải duy trì những quan hệ nhất định với nhau để trao đổi hoạt động sản xuất
5


cũng như kết quả lao động những quan hệ sản xuất này mang tính tất yếu. Như
vậy quan hệ sản xuất do con người tạo ra song nó được hình thành một cách
khách quan không phụ thuộc vào ý muốn của bất kỳ ai. Việc phải thiết lập các
mối quan hệ trong sản xuất tự nó đã là vấn đề có tính quy luật tất yếu, khách
quan của sự vận động xã hội.
Với tính chất là những quan hệ kinh tế khách quan không phụ thuộc vào ý
muốn của con người, quan hệ sản xuất là những quan hệ mang tính vật chất của
đời sống xã hội. Quan hệ sản xuất là hình thức xã hội của lực lượng sản xuất và
là cơ sở của đời sống xã hội.
1.2. Vai trò của quan hệ sản xuất chủ nghĩa xã hội trong thời kỳ đổi mới
ở Việt Nam.
1.2.1 Vai trò của quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa đối với sự phát triển
của lực lượng sản xuất ở Việt Nam trong thời kỳ đổi mới
Thứ nhất, quan hệ sản xuất thúc đẩy mạnh mẽ lực lượng sản xuất phát
triển khi nó phù hợp với trình độ của lực lượng sản xuất. Sự phù hợp của quan
hệ sản xuất với trình độ của lực lượng sản xuất là một yêu cầu khách quan đối
với sự phát triển của lực lượng sản xuất; lực lượng sản xuất chỉ có thể phát triển
được khi có quan hệ sản xuất phù hợp, nếu quan hệ sản xuất khơng phù hợp thì
lực lượng sản xuất bị kìm hãm, nền sản xuất sẽ trì trệ.
Thứ hai, quan hệ sản xuất sẽ kìm hãm lực lượng sản xuất khi nó khơng
phù hợp với trình độ lực lượng sản xuất. Theo quan điểm của Đảng cộng sản
Việt Nam thì: khơng chỉ quan hệ sản xuất lỗi thời, lạc hậu mới kìm hãm tác động
tiêu cực đến lực lượng sản xuất mà ngay cả quan hệ sản xuất vượt quá xa so với
trình độ của lực lượng sản xuất cũng kìm hãm tác động tiêu cực đến lực lượng

sản xuất.
Hiện nay, các nước XHCN cũng đã có những thay đổi lớn về QHSX;
chẳng hạn, sở hữu ngày càng đa dạng hơn, bình đẳng hơn, chủ thể sở hữu được
mở rộng; các nước đã sử dụng kinh tế thị trường trong quản lý nền kinh tế. Các
nguyên tắc phân phối sản phẩm ngày càng đa dạng đã kích thích được vai trò
của người lao động trong sản xuất, chế tạo sản phẩm… Nhờ có các điều chỉnh
về QHSX mà đã làm cho sản xuất ngày càng phát triển, đời sống nhân dân ngày
càng được nâng cao.
Cương lĩnh (2011) của Đảng ta nhấn mạnh CNXH mà nhân dân ta xây
dựng sẽ có “quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp” với lực lượng sản xuất hiện đại.
Sự phù hợp của QHSX ở đây là phù hợp với trình độ phát triển của LLSX. Biểu
hiện của sự phù hợp của QHSX với trình độ phát triển của LLSX được thể hiện
ở năng suất lao động xã hội tăng; đời sống của người lao động không ngừng
được nâng cao; điều kiện làm việc của người lao động được bảo đảm và thường
xuyên được cải thiện; công nghệ sản xuất, dây chuyền, thiết bị sản xuất, phương
tiện lao động thường xuyên được đổi mới, hiện đại hóa, v.v..
Nếu QHSX chỉ phù hợp với trình độ phát triển của LLSX thì chưa đủ điều
kiện để xác định tính chất của xã hội XHCN mà nhân dân ta xây dựng. Do vậy,
6


điểm mới nổi bật so với những quan điểm trước đây về vấn đề này là Cương lĩnh
(2011) nhấn mạnh và diễn đạt về QHSX phải “tiến bộ phù hợp”. Tiến bộ của
QHSX phải được thể hiện trước hết ở mục đích của nền sản xuất xã hội, mà đầu
tiên là vì người lao động, phục vụ người lao động chứ khơng phải vì mục tiêu lợi
nhuận tối đa. Đây là điểm khác biệt căn bản của QHSX XHCN với QHSX
TBCN.
Tóm lại, vai trị của QHSX XHCN đối với LLSX được thể hiện là nó có thể phù
hợp với LLSX hoặc khơng phù hợp với LLSX. Điều này địi hỏi con người phải
luôn luôn nhận thức được mâu thuẫn giữa LLSX và QHSX để điều chỉnh cho

phù hợp nhằm thúc đẩy LLSX phát triển. Quan hệ sản xuất XHCN ở nước ta
ngồi vai trị thúc đẩy hoặc kìm hàm LLSX cịn phải thể hiện được sự tiến bộ
của mình, đúng như Đảng ta đã khẳng định: “có quan hệ sản xuất tiến bộ, phù
hợp với trình độ của lực lượng sản xuất”
1.2.2. Vai trò của quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa đối với việc củng cố,
hoàn thiện kiến trúc thượng tầng và định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt
Nam trong thời kỳ đổi mới
Quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa đối với việc củng cố, hoàn thiện kiến
trúc thượng tầng và định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam trong thời kỳ đổi
mới có vai trị quan trọng, củng cố hồn thiện kiến trúc thượng tầng ở Việt Nam.
Cơ sở kinh tế trong thời kỳ quá độ được Đảng, Nhà nước xác định trong thời kỳ
đổi mới đó là: phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận hành theo
cơ chế thị trường dưới sự lãnh đạo của Đảng theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Trong nền kinh tế nhiều thành phần ở nước ta có nhiều loại hình quan hệ
sản xuất, nhiều thành phần kinh tế, trong đó Đảng xác định quan hệ sản xuất xã
hội chủ nghĩa phải dần trở thành nền tảng của nền kinh tế quốc dân. Đây là cơ sở
để củng cố và hoàn thiện kiến trúc thượng tầng ở nước ta Vai trò của quan hệ sản
xuất xã hội chủ nghĩa đối với quá trình phát triển theo định hướng xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam. Quan điểm xuyên suốt của Đảng và Nhà nước ta luôn khẳng
định vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước, đồng thời coi việc bảo đảm và phát
huy vai trò chủ đạo của kinh tế Nhà nước là một trong những nội dung cơ bản để
giữ vững định hướng chủ nghĩa xã hội trong nền kinh tế thị trường của nước ta.
Có thể nói, QHSX XHCN có vai trị quan trọng, nó tạo ra cơ sở nền tảng
cho việc củng cố hoàn thiện kiến trúc thượng tầng ở Việt Nam và giữ vững định
hướng XHCN. Đại hội XII vừa qua cũng chỉ rõ, một trong những mối quan hệ
lớn cần được quan tâm và giải quyết tốt trong suốt thời kỳ quá độ ở nước ta:
“Thống nhất nhận thức về nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”
1.3. Những nhân tố tác động đến sự biến đổi của quan hệ sản xuất xã
hội chủ nghĩa ở Việt Nam trong thời kỳ đổi mới
1.3.1. Lực lượng sản xuất

Trong lịch sử nhân loại, quan hệ sản xuất nói chung và quan hệ sản xuất
xã hội chủ nghĩa nói riêng luôn luôn vận động, biến đổi cùng với sự phát triển
7


của xã hội, với sự thay đổi của phương thức sản xuất. Sự biến đổi của quan hệ
sản xuất do nhiều yếu tố tác động trước hết là lực lượng sản xuất.
Khuynh hướng của sản xuất vật chất là không ngừng vận động, biến đổi,
phát triển. Sự biến đổi và phát triển đó xét đến cùng là bắt nguồn từ sự biến đổi
và phát triển của lực lượng sản xuất. Sự vận động, phát triển của lực lượng sản
xuất quyết định và làm thay đổi quan hệ sản xuất phù hợp với nó. Cùng với sự
phát triển của lực lượng sản xuất thì quan hệ sản xuất cùng vận động, phát triển
theo cho phù hợp. Sự phù hợp của quan hệ sản xuất đối với trình độ của lực
lượng sản xuất là một tất yếu khách quan nó do trình độ của lực lượng sản xuất
quy định. Trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta Đảng ta cũng đã
ý thức được sự thiếu hụt của chúng ta khi xây dựng chủ nghĩa xã hội đó là lực
lượng sản xuất hiện đại. Từ đó, Đảng có nhiều chủ trương chính sách nhằm thúc
đẩy lực lượng sản xuất phát triển như đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước, khoa học cơng nghệ cùng với giáo dục đào tạo là quốc sách hàng
đầu… Với quan điểm “đi tắt đón đầu” chúng ta đã ứng dụng các thành tựu mới
của cách mạng khoa học công nghệ vào sản xuất như: công nghệ thông tin, công
nghệ sinh học, công nghệ vật liệu mới…Chính điều này, làm cho lực lượng sản
xuất ở nước ta được phát triển mạnh mẽ, trình độ của lực lượng sản xuất được
nâng lên không ngừng.Theo quy luật của sản xuất vật chất, thì lực lượng sản
xuất quyết định sự biến đổi của quan hệ sản xuất, do vậy, khi mà lực lượng sản
xuất đã phát triển mạnh mẽ thì địi hỏi quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa cũng
phải được điều chỉnh theo để bảo đảm sự phù phợp với trình độ mới của lực
lượng sản xuất ở Việt nam hiện nay.
Tồn cầu hóa, hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực Đối với nước ta tồn
cầu hóa tác động tới quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa trên cả ba mặt: sở hữu, tổ

chức quản lý và phân phối sản phẩm. Về mặt sở hữu tư liệu sản xuất q trình
tồn cầu hóa đã thu hút được nguồn vốn khơng nhỏ vào nước ta bao gồm cả vốn
ODA và FDI, hàng tỷ đơla vốn đầu tư của nước ngồi vào nước ta đã hình thành
nên sự thay đổi về sở hữu làm cho hình thức sở hữu hỗn hợp ngày càng tăng.
Vốn đầu tư nước ngồi có thể liên kết với các doanh nghiệp nhà nước trên một
số lĩnh vực như: dầu khí, điện lực, ngân hàng, sản xuất điện tử, dệt may… từ đó
hình thành nên thành phần kinh tế tư bản nhà nước. Khi tham gia vào tồn cầu
hóa cạnh tranh ngày càng gay gắt với sự làm ăn kém hiệu quả của các doanh
nghiệp nhà 12 nước buộc chúng ta phải cổ phần hóa, thối vốn để tái cơ cấu lại
doanh nghiệp nhà nước, từ đó làm cho nguồn vốn sở hữu của nhà nước được thu
hẹp lại và việc sử dụng có hiệu quả hơn. Về mặt tổ chức quản lý khi tham gia
vào tồn cầu hóa với sự liên kết, liên doanh với doanh nghiệp nước ngồi ta có
thể học tập được kinh nghiệm tổ chức, quản lý của các nước tiên tiến. Mặt khác,
do phải cạnh tranh với các cơng ty xun quốc gia có tiềm lực lớn, chúng ta phải
thay đổi về quản lý, hình thành các tổng cơng ty, tập đồn kinh tế nhà nước để
tạo ra tiềm lực đủ sức cho cạnh tranh. Do vậy, mơ hình tổ chức, quản lý của
quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa đã được thay đổi cho phù hợp với thực tiễn.
Về mặt phân phối sản phẩm cũng bị ảnh hưởng, bởi vì khi vốn đầu tư nước
ngoài vào nước ta để cạnh tranh, thu hút người lao động, nhân tài họ thường trả
8


lương cao hơn so với doanh nghiệp nhà nước. Vì vậy, buộc các doanh nghiệp
nhà nước phải tăng lương cho người lao động và làm cho đời sống của người lao
động được nâng lên so với trước đậy. Bên cạnh đó, các doanh nghiệp nước ngồi
ln tính đến hiệu quả kinh tế vì vậy, họ trả cơng theo lao động rất đúng và thực
chất, qua đó các doanh nghiệp nhà nước của chúng ta cũng học tập về phân phối
theo lao động tốt hơn nhằm kích thích tính tích cực, sáng tạo của người lao
động.
1.3.2. Kiến trúc thượng tầng

Kiến trúc thượng tầng có tác động mạnh mẽ đến sự biến đổi của quan hệ
sản xuất, mà trực tiếp là sự lãnh đạo của Đảng và sự quản lý của Nhà nước.
Đặc biệt trong thời kỳ quá độ xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta thì
QHSX XHCN chịu sự tác động to lớn đối với vai trò định hướng của Đảng và
quá trình quản lý của Nhà nước.
Đường lối chính trị của Đảng ta là kiên trì chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh để xây dựng thành cơng CNXH trên đất nước ta. Trong Cương
lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH (Bổ sung, phát triển năm
2011), khi xác định đặc trưng kinh tế của CNXH mà nhân dân ta xây dựng nêu
rõ: “có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ
sản xuất tiến bộ phù hợp”. Trong đặc trưng kinh tế này đã bao hàm cả yếu tố
LLSX và QHSX. Đường lối chính trị này là nhân tố chủ quan đóng vai trị quan
trọng trong việc xác định mục tiêu kinh tế của CNXH mà nhân dân ta xây dựng.
Trên cơ sở đó, tác động, ảnh hưởng đến việc nhận thức và giải quyết đúng đắn
mối quan hệ giữa phát triển LLSX hiện đại và xây dựng, hoàn thiện từng bước
QHSX XHCN ở nước ta. Đường lối chính trị của Đảng ta đặc biệt ảnh hưởng
trực tiếp đến việc xây dựng, hoàn thiện QHSX XHCN ở nước ta. Điều này được
thể hiện, đường lối chính trị của Đảng ta có vai trị rất lớn trong việc hạn chế
những tiêu cực của cơ chế thị trường, động viên sự sáng tạo, lịng nhiệt tình và
tinh thần trách nhiệm của người lao động. Chính đường lối chính trị này sẽ quy
định mục tiêu của sự phát triển kinh tế-xã hội cũng như định hướng phát triển
QHSX.
1.3.3. Tồn cầu hóa, hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực
Nhân tố quốc tế góp phần tạo nên sự khác biệt trong quá trình phát triển
của quan hệ sản xuất ở các quốc gia. Nhân tố này bao gồm sự ảnh hưởng tác
động lẫn nhau giữa các quốc gia, dân tộc trên thế giới. Trong quá trình phát triển
của lịch sử thế giới, quan hệ giữa lịch sử nhân loại và lịch sử dân tộc là quan hệ
giữa cái phổ biến và cái đặc thù, giữa chỉnh thể và bộ phận. Chỉ trên cơ sở phân
tích, lý giải, so sánh chúng ta mới có thể lý giải được sự khác biệt trong quá
trình phát triển của quan hệ sản xuất ở các quốc gia, dân tộc.

Ngày nay, do sự phát triển mạnh mẽ của lực lượng sản xuất với sự cải tiến
không ngừng của công cụ lao động, của trình độ tay nghề của người lao động và
sự bùng nổ của cách mạng khoa học, công nghệ đã làm cho các nước trên thế
giới ngày càng xích lại gần nhau hơn, quan hệ về kinh tế, chính trị, văn hóa ngày
9


càng được tăng cường giữa các quốc gia, dân tộc. Sự tăng cường hợp tác, liên
kết giữa các nước trên thế giới đã hình thành phong trào tồn cầu hóa. Tồn cầu
hóa tác động đến mọi mặt của đời sống xã hội của các nước từ trao đổi hàng hóa,
thương mại đến văn hóa, xã hội… trong đó nổi bật nhất là quan hệ sản xuất
(quan hệ kinh tế) giữa các nước.
Do đó, q trình vận động biến đổi của QHSX XHCN ở nước ta còn phụ
thuộc vào nhân tố quốc tế nhất là q trình tồn cầu hóa. Đặc điểm nổi trội của
nhân tố quốc tế là quá trình tồn cầu hóa mà mở đầu từ tồn cầu hóa về kinh tế.
Tồn cầu hóa thúc đẩy sự phát triển LLSX cũng như QHSX toàn thế giới, ảnh
hưởng tới sự phân cơng lao động trên tồn thế giới. Tồn cầu hóa tạo ra những
cơ hội thuận lợi cho chúng ta phát triển LLSX hiện đại trong một thời gian ngắn.
Chẳng hạn, tồn cầu hóa cho ta cơ hội hợp tác quốc tế cũng như học hỏi kinh
nghiệm về đào tạo nguồn nhân lực cho phát triển LLSX hiện đại; kế thừa được
thành tựu khoa học, công nghệ của các nước phát triển; học hỏi được kinh
nghiệm quản lý sản xuất; tồn cầu hóa tác động đến sự gia tăng nguồn vốn đầu
tư vào Việt Nam.
1.3.4. Các quan hệ sản xuất khác
Ở nước ta, trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội còn tồn tại nhiều loại
quan hệ sản xuất khác nhau, nó do trình độ của lực lượng sản xuất ở nước ta quy
định. Do bản chất khác nhau của các quan hệ sản xuất, chúng vừa thống nhất,
vừa mâu thuẫn, xung đột với nhau. Điều đó tác động đến cả hình thái kinh tế xã hội trong thời kỳ quá độ.
Các quan hệ sản xuất ở nước ta vừa thống nhất, vừa đối lập, tác động qua
lại lẫn nhau, thúc đẩy nhau cùng phát triển tạo ra một cơ sở hạ tầng của thời kỳ

quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta, dưới sự dẫn dắt, hỗ trợ của quan hệ sản
xuất xã hội chủ nghĩa.. Theo lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin, quan hệ sản xuất
có một vai trị tác động kép trong một hình thái kinh tế -xã hội, một mặt nó có
vai trị thúc đẩy, hoặc kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất, mặt khác,
quan hệ sản xuất cũng là cơ sở, nền tảng để hình thành nên một kiến trúc thượng
tầng tương ứng.
Đối với nước ta, trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, còn tồn tại
nhiều loại hình quan hệ sản xuất khác nhau thì quan hệ sản xuất xã hội chủ
nghĩa có vai trị đặc biệt quan trọng trong việc thúc đẩy lực lượng sản xuất phát
triển, tạo ra cơ sở nền tảng cho sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước và
dẫn dắt các loại hình quan hệ sản xuất khác đi lên chủ nghĩa xã hội.
Thực tiễn thời đại ngày nay cho thấy, sự vận động, biến đổi của quan hệ
sản xuất xã hội chủ nghĩa ở nước ta chịu tác động của nhiều nhân tố khác nhau,
trước hết là, lực lượng sản xuất. Lực lượng sản xuất luôn luôn vận động và biến
đổi nó địi hỏi quan hệ sản xuất cũng phải biến đổi theo để bảo đảm sự phù hợp.
Kiến trúc thượng tầng mà trực tiếp là sự lãnh đạo, định hướng của Đảng và sự
quản lý của Nhà nước, có tác động mạnh mẽ tới sự vận động, biến đổi của quan
hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Các loại quan hệ sản xuất khác ở nước ta
10


chúng vừa thống nhất, vừa mâu thuẫn tác động qua lại nhau tạo thành cơ sở hạ
tầng đặc trưng của thời kỳ quá độ ở nước ta, do đó cũng tác động đến sự biến
đổi của quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa.
Nhân tố tồn cầu hóa, hợp tác khu vực và quốc tế, nhân tố quốc tế cũng
góp phần tác động đến sự biến đổi của quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa nó tạo
ra cả cơ hội và thách thức trong quá trình hội nhập ở Việt Nam. Việc làm sáng tỏ
những vấn đề lý luận trên đây là cơ sở quan trọng để nghiên cứu, sự biến đổi
quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay.


11


CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG SỰ BIẾN ĐỔI CỦA QUAN HỆ SẢN XUẤT
XÃ HỘI CHỦ NGHĨATRONG THỜI KỲ ĐỔI MỚI Ở VIỆT NAM
2.1. Bối cảnh của quá trình nhận thức, cải tạo quan hệ sản xuất ở Việt Nam
Quá trình cải tạo, nhận thức quan hệ sản xuất ở nước ta cũng chính là q
trình cải tạo xã hội chủ nghĩa,là quá trình cải biến nhằm thay thế quan hệ sản
xuất cũ bằng quan hệ sản xuất mới xã hội chủ nghĩa theo những hình thức, quy
mơ và bước đi thích hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản
xuất. Cải tạo xã hội chủ nghĩa gắn trực tiếp với quỏ trình phát triển lực lượng
sản xuất, tổ chức lại nền sản xuất xã hội để có năng suất lao động cao hơn. Đối
tượng của Cải tạo xã hội chủ nghĩa về quan hệ sản xuất bao gồm: kinh tế công
thương nghiệp tư bản tư doanh và kinh tế cá thể của những người sản xuất hàng
hóa nhỏ. Trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội nhằm mục tiêu xây dựng
chủ nghĩa xã hội, Cải tạo xã hội chủ nghĩa được coi là một trong ba cuộc cách
mạng (cách mạng quan hệ sản xuất, cách mạng khoa học - kĩ thuật và cách mạng
tư tưởng văn hoá). Nhiệm vụ cải tạo được kết hợp chặt chẽ với xây dựng quan
hệ sản xuất mới, trong đó lấy xây dựng làm mục tiêu chủ yếu. Cải tạo xã hội chủ
nghĩa và xây dựng chủ nghĩa xã hội gắn bú với nhau, bao gồm cải tạo quan hệ
sản xuất (trờn cả ba mặt: quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất, quan hệ quản lí,
quan hệ phân phối sản phẩm) và phát triển lực lượng sản xuất. Cải tạo xã hội
chủ nghĩa là sự nghiệp lâu dài, phải tiến hành từng bước trong suốt thời kì quá
độ lên chủ nghĩa xó hội dựa trên cơ sở nguyên tắc: quan hệ sản xuất thích ứng
với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Song trước đây, việc tiến hành Cải
tạo xã hội chủ nghĩa đó thể hiện tư tưởng chủ quan, nóng vội, duy ý chí. Từ đầu
thập kỉ 80, trong q trình tiến hành cơng cuộc đổi mới, khuyết điểm trên đang
được từng bước khắc phục có hiệu quả. Tuy nhiên nền kinh tế nước ta vẫn là nền
kinh tế nông nghiệp kém phát triển mang nặng tính tự cấp, tự túc. Trang bị kỹ
thuật và kết cấu xã hội yếu kém, cơ cấu kinh tế mất cân đối, cơ cấu kinh tế tập

trung quan liêu bao cấp để lại nhiều hậu quả nặng nề. Nền kinh tế kém hiệu quả,
năng suất lao động thấp, khủng hoảnh kinh tế kéo dài, các tệ nạn tham nhũng...
lan rộng. Đảng cộng sản còn non, đội ngũ cán bộ còn yếu về năng lực, các thế
lực đế quốc và phản động ráo riết thực hiện chiến lược diễn biến hồ bình, phá
hoại và bao vây kinh tế. Nếp sống văn hố, đạo đức bị xói mịn, lịng tin vào
Đảng và nhà nước bị giảm sút.
Thực trạng trên có nguồn gốc sâu xa do lịch sử để lại và hậu quả của
nhiều năm chiến tranh, song chủ yếu là chúng ta đã vi phạm sai lầm chủ quan
duy ý chí, vi phạm các quy luật khách quan trong cải tạo xã hội chủ nghĩa, trong
tiến hành cơng nghiệp hố và trong cơ chế quản lý kinh tế đặc biệt là khơng có
sự phù hợp giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất. Chúng ta đã quên mất
điều cơ bản là nước ta quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội từ một xã hội tiền tư bản
chủ nghĩa. Chúng ta đã thiết lập chế độ công hữu thuần nhất giữa hai hình thức
sở hữu tồn dân và tập thể. Đồng nhất chế độ công hữu với chủ nghĩa xã hội lẫn
lộn đồng nhất giữa hợp tác hoá và tập thể hoá. Chúng ta đã ra sức vận động gần
như cưỡng bức nông dân đi vào hợp tác xã, mở rộng phát triển quy mô nông
12


trường quốc doanh, các nhà máy, xí nghiệp lớn mà khơng tính đến trình độ lực
lượng sản xuất đang cịn thời kỳ quá thấp kém. Chúng ta đã tạo ra những quy
mơ lớn và ngộ nhận là đã có “quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa” và cịn nói
rằng: mỗi bước cải tạo quan hệ sản xuất cũ, xây dựng quan hệ sản xuất mới đều
thúc đẩy sự ra đời và lớn mạnh của lực lượng sản xuất mới. Quan hệ sản xuất xã
hội chủ nghĩa có khả năng “vượt trước” “mở đường” cho sự phát triển của lực
lượng sản xuất. Thực tế nhiều năm qua đã chứng minh quan điểm đó là sai lầm
bởi quan hệ sản xuất bị thúc đẩy lên quá cao, quá xa một cách giả tạo đã làm cho
nó tách rời với trình độ thấp kém của lực lượng sản xuất.
Phải thấy rằng quan hệ sở hữu thể hiện trong việc xoá bỏ tất cả chế độ tư
hữu, thiết lập công hữu về tư liệu sản xuất không phải chỉ thời gian ngắn là

xong. Nhưng dẫu có làm được thì cũng khơng phải là mục tiêu trước mắt của
nước ta khi mà chế độ công hữu này chưa thể phù hợp với lực lượng sản xuất
hiện có. Chúng ta đều biết, khi nghiên cứu xã hội tư bản, C.Mac và Ph.Ăngghen đã phát hiện ra mâu thuẫn giữa tính chất xã hội hố của sản xuất với chế độ
chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa. Mâu thuẫn đó là cơ sở sâu xa làm nảy sinh
các mâu thuẫn khác và quy định sự vận động phát triển của xã hội tư bản. Từ đó
các ơng đi đến dự báo về sự thay thế chế độ chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa
bằng chế độ công hữu. Việc thay thế ấy, theo quan điểm của các ông, không thể
tiến hành ngay một lúc, mà phải là một quá trình lâu dài. Tuy nhiên lúc đó các
ơng vẫn chưa chỉ ra mơ hình cụ thể về chế độ cơng hữu. Sau đó, khi vận dụng
một cách sáng tạo tư tưởng của C.Mac và Ăng-ghen vào điều kiện cụ thể của
nước Nga, V.I.Lenin cũng khẳng định con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội đối
với các nước lạc hậu chưa qua tư bản phải trải qua nhiều khâu trung gian, nhiều
bước quá độ khác nhau. Ông đã cực lực phê phán những tư tưởng nóng vội
muốn xác lập ngay chế độ công hữu, khi mà những thành phần kinh tế khác vẫn
còn nhiều khả năng góp phần làm cho sản xuất phát triển. Chúng ta phải thừa
nhận một trong những sai lầm cơ bản mà chúng ta đã vấp phải là xoá bỏ quá
sớm quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa khi nền kinh tế xã hội chủ nghĩa của
chúng ta còn chưa đủ sức thay thế. Điều đó ảnh hưởng khơng tốt đến sự phát
triển của lực lượng sản xuất và đã làm mất một khả năng tạo ra sản phẩm dồi
dào cho xã hội. Cũng vậy, chúng ta xoá sạch tiểu thương khi hệ thống thương
nghiệp quốc doanh và hợp tác xã mua bán của ta chưa làm nổi vai trò “người nội
trợ cho xã hội ” gây nhiều khó khăn ách tắc cho lưu thơng hàng hố và khơng
đáp ứng nhu cầu thiết yếu cho nhân dân.
3.2. Thực trạng sự biến đổi của quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa trong
thời kỳ đổi mới ở Việt Nam
Trong nền kinh tế quá độ của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước
ta hiện nay do trình độ phát triển chưa cao, chưa đồng đều của lực lượng sản
xuất mà còn tồn tại khách quan cả chế độ sở hữu tư nhân (chế độ tư hữu) với
nhiều hình thức sở hữu như: hình thức sở hữu tư nhân của cá thể, của hộ gia
đình, của tiểu chủ, của nhà tư bản (sở hữu tư nhân tư bản), của tập đoàn tư

bản… và cả chế độ sở hữu xã hội (chế độ cơng hữu) với các hình thức sở hữu
như: sở hữu toàn dân, sở hữu nhà nước, sở hữu tập thể…, đồng thời cịn có hình
13


thức sở hữu hỗn hợp là hình thức sở hữu đan xen các hình thức sở hữu trong
cùng một đơn vị kinh tế. Đó là cơ sở tồn tại của nhiều thành phần kinh tế.. Kinh
tế nhà nước có sự vận động, biến đổi qua nhiều giai đoạn khác nhau:
3.2.1. Giai đoạn 1986 - 2001.
Quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa ở nước ta đã có sự đổi mới mang tính
bước ngoặt, được thể hiện tập trung trong Văn kiện Đại hội VI,VII,VIII và các
Nghị 14 quyết, văn bản pháp luật khác của Đảng và Nhà nước. Sự đổi mới được
thể hiện trên cả ba mặt của quan hệ sản xuất: sở hữu, tổ chức quản lý và phân
phối sản phẩm. Nhận ra những bất cập của cơ chế kinh tế hiện hành, Nhà nước
bắt đầu có một số thay đổi trong chính sách quản lý kinh tế. Trong thời kỳ này,
nước ta đã thực hiện đường lối đổi mới, chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hóa
tập trung, bao cấp sang nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, hoạt động theo
cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước và định hướng xã hội chủ nghĩa.
Đường lối đổi mới của Đảng nhanh chóng được sự hưởng ứng rộng rãi
của quần chúng nhân dân, khơi dậy tiềm năng và sức sáng tạo của các loại hình
kinh tế để phát triển sản xuất, tạo thêm nhiều việc làm cho người lao động, tăng
sản phẩm cho xã hội. Giai đoạn 1986-2000, tổng sản phẩm trong nước bình qn
mỗi năm tăng 6,51%; trong đó: khu vực nơng, lâm nghiệp và thủy sản tăng
3,72%; khu vực công nghiệp và xây dựng tăng 9,06%; khu vực dịch vụ tăng
6,66%. Nếu so với tốc độ tăng chung của kinh tế thế giới và sự giảm sút nhanh
của các nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung Đơng Âu và Liên Xơ khi chuyển
sang kinh tế thị trường, thì các tốc độ tăng trên của nền kinh tế Việt Nam là một
kết quả đáng ghi nhận. Cơ cấu kinh tế từng bước chuyển dịch theo hướng đẩy
mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hố. Năm 2000, tỷ trọng khu vực nơng, lâm
nghiệp và thuỷ sản chiếm 24,53% GDP, giảm 13,53 điểm phần trăm so với năm

1986; khu vực công nghiệp và xây dựng chiếm 36,73%, tăng 7,85 điểm phần
trăm; khu vực dịch vụ chiếm 38,74%, tăng 5,68 điểm phần trăm. Sự chuyển dịch
cơ cấu kinh tế là đúng hướng và phù hợp với u cầu đẩy mạnh tiến trình cơng
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Một trong những thành tựu kinh tế to lớn của thời kỳ đổi mới là phát triển
sản xuất nơng nghiệp, mà nội dung cơ bản là khốn gọn đến hộ nông dân, thừa
nhận hộ nông dân là đơn vị kinh tế tự chủ ở nông thôn, đánh dấu sự mở đầu của
thời kỳ đổi mới trong nông nghiệp và nông thôn nước ta. Ngành nông nghiệp đã
giải quyết vững chắc vấn đề lương thực, đảm bảo an ninh lương thực quốc gia,
đưa Việt Nam từ nước thiếu lương thực trở thành nước xuất khẩu gạo lớn thứ hai
thế giới. Năm 2000, tổng sản lượng lương thực có hạt đạt 34,5 triệu tấn, gấp 2,1
lần năm 1986; lương thực có hạt bình qn đầu người đạt 444,8 kg, gấp 1,6 lần;
xuất khẩu gạo đạt 3.477 nghìn tấn, gấp hơn 26 lần.
Sản xuất công nghiệp đi dần vào thế phát triển ổn định với tốc độ tăng
bình quân mỗi năm trong thời kỳ 1986-2000 đạt 11,09%. Những sản phẩm công
nghiệp quan trọng phục vụ sản xuất và tiêu dùng của dân cư đều tăng cả về số
14


lượng và chất lượng. Sản lượng điện năm 2000 gấp 4,7 lần so với năm 1986; sản
lượng xi măng gấp 8,7 lần; thép cán gấp 25,6 lần; thiếc gấp 3,6 lần. Sản lượng
dầu thơ đã tăng từ 41 nghìn tấn năm 1986 lên gần 7,1 triệu tấn năm 1994 và 16,3
triệu tấn năm 2000. Các cơ sở sản xuất công nghiệp đã quan tâm hơn đến chất
lượng sản phẩm, không ngừng cải tiến mẫu mã, áp dụng công nghệ tiên tiến và
thay đổi phương án sản xuất theo yêu cầu của thị trường.
Do sản xuất, kinh doanh hồi phục và có bước phát triển nên siêu lạm phát
bước đầu đã được kiềm chế và đẩy lùi. Giá bán lẻ hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng
từ mức tăng 3 chữ số mỗi năm trong 3 năm, 1986-1988, hai chữ số mỗi năm
trong thời kỳ 1989-1992 đã giảm xuống chỉ còn tăng một chữ số trong thời kỳ
1993-2000. So với tháng 12 năm trước, chỉ số giá tiêu dùng năm 1988 tăng

349,4%; năm 1992 tăng 17,5% và năm 2000 giảm 0,6%.
Sự nghiệp văn hóa, giáo dục, y tế và các lĩnh vực xã hội khác được củng
cố và tăng cường. Tại thời điểm 01/4/1999, cả nước có 90% số trẻ em 14 tuổi tốt
nghiệp tiểu học; 94% dân số trong độ tuổi 15-35 biết chữ. Sau 10 năm nỗ lực
phấn đấu, đến giữa năm 2000, cả nước hồn thành chương trình mục tiêu chống
mù chữ và phổ cập giáo dục tiểu học. Chính sách cải cách tiền lương trong thời
kỳ này đã thúc đẩy phát triển sản xuất làm cho đời sống nhân dân được cải thiện
rõ rệt. Thu nhập bình quân đầu người một tháng của dân cư tăng từ khoảng
1.600 đồng năm 1986 lên đến 295.000 đồng năm 1999. Thu nhập tăng nhanh
góp phần làm cho cơng cuộc xóa đói giảm nghèo của nước ta trong giai đoạn
này đạt được những kết quả đáng kể. Nếu như năm 1993, tỷ lệ nghèo chung của
Việt Nam tính theo phương pháp của Ngân hàng Thế giới là 58,1%, thì đến năm
1998 tỷ lệ nghèo này giảm xuống còn 37,4%.
3.2.2. Thời kỳ 2001 đến nay: Thời kỳ hội nhập quốc tế sâu rộng
Trong thời kỳ này, đất nước ta thực hiện hai chiến lược phát triển kinh tế –
xã hội là Chiến lược 2001-2010 và Chiến lược 2011-2020 nhằm xây dựng nước
Việt Nam “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh” theo
phương châm “Việt Nam sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy của tất cả các nước
trong cộng đồng quốc tế trên nguyên tắc tôn trọng độc lập chủ quyền và tồn
vẹn lãnh thổ, bình đẳng cùng có lợi, khơng can thiệp cơng việc nội bộ, cùng
phấn đấu vì hồ bình, độc lập và phát triển”. Do tranh thủ được thời cơ, thuận
lợi, vượt qua khó khăn, thách thức, nên kinh tế – xã hội nước ta đã có những
biến đổi quan trọng, đạt được nhiều thành tựu to lớn. Kinh tế liên tục tăng
trưởng đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển, bước vào nhóm nước đang
phát triển có mức thu nhập trung bình thấp. Quy mơ nền kinh tế ngày càng mở
rộng, GDP năm 2019 gấp 12,5 lần năm 2001. Tốc độ tăng GDP tương đối cao,
bình quân năm trong giai đoạn 2001-2010 tăng 7,26%, đạt xấp xỉ tốc độ tăng
7,56%/năm của Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế – xã hội 1991-2000,
đây là một thành tựu phát triển kinh tế rất quan trọng của đất nước ta trong giai
15



đoạn này. Trong giai đoạn 2011-2019, GDP tăng 6,3%/năm, trong đó năm 2018
tăng 7,08% và là mức tăng cao nhất kể từ năm 2008.
Năm 2008, nước ta đã ra khỏi nhóm nước và vùng lãnh thổ thu nhập thấp
để gia nhập nhóm nước và vùng lãnh thổ thu nhập trung bình thấp, đất nước
thốt khỏi tình trạng kém phát triển, đó là thành tựu nổi bật nhất trong sự nghiệp
xây dựng và phát triển đất nước trong thời kỳ này. GDP bình quân đầu người
năm 2019 đạt 2.715 USD, gấp 15 lần năm 1990; thu nhập bình quân đầu người 1
tháng đạt 4.294,5 nghìn đồng, gấp 12 lần năm 2002. Chất lượng tăng trưởng
kinh tế dần dịch chuyển sang chiều sâu, thể hiện ở mức đóng góp của năng suất
các nhân tố tổng hợp (TFP) trong tăng trưởng kinh tế ngày một lớn. Năng suất
lao động (NSLĐ) ngày càng được cải thiện đáng kể. Trong giai đoạn 2016-2019,
NSLĐ toàn nền kinh tế tăng 5,86%/năm, cao hơn tốc độ 4,35%/năm của giai
đoạn 2011-2015. Cơ cấu kinh tế nước ta đã bước đầu chuyển dịch theo hướng
hiện đại. Tỷ trọng các ngành, trình độ cơng nghệ sản xuất, cơ cấu lao động đã
chuyển dịch theo hướng tích cực; tỷ trọng lao động qua đào tạo của các ngành
kinh tế đáp ứng ngày càng tốt hơn yêu cầu phát triển kinh tế – xã hội và hội
nhập quốc tế.
Hoạt động kinh tế đối ngoại phát triển toàn diện và sâu rộng, đưa nước ta
hội nhập ngày càng đầy đủ với kinh tế khu vực và thế giới. Tổng mức lưu
chuyển hàng hóa ngoại thương thực hiện trong giai đoạn 2011-2019 đạt 3.100,3
tỷ USD, gấp 20,2 lần giai đoạn 1991-2000 và gấp 3,6 lần giai đoạn 2001-2010.
Tỷ lệ tổng kim ngạch xuất nhập khẩu so với GDP từ 112,5% năm 2000 tăng lên
142,2% năm 2005; 152,2% năm 2010 và 210,4% vào năm 2019. Điều này cho
thấy nền kinh tế nước ta có độ mở ngày càng cao và tăng lên tương đối nhanh,
nước ta đã khai thác được thế mạnh của kinh tế trong nước và tranh thủ được thị
trường thế giới. Kể từ khi thực hiện Luật Đầu tư nước ngoài từ năm 1988, thu
hút đầu tư nước ngoài vào nước ta đã đạt được nhiều kết quả đáng khích lệ. Năm
2019, số dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài đạt 4.028 dự án với tổng số vốn đăng

ký đạt 38.951,7 triệu USD, tương ứng gấp 19,1 lần và 24,3 lần so với giai đoạn
1988-1990. Đầu tư trực tiếp nước ngoài trở thành kênh huy động vốn quan trọng
cho sự phát triển kinh tế- xã hội, có tác dụng to lớn trong việc thúc đẩy sự
chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa, tạo thêm
nhiều việc làm, nâng cao năng lực quản lý và trình độ công nghệ cho nền kinh
tế. Đặc biệt, hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài đã thúc đẩy việc mở rộng
quan hệ kinh tế đối ngoại giữa nước ta với các nước trong khu vực và trên thế
giới.
Trong thời kỳ này, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Chương trình mục
tiêu quốc gia Xố đói giảm nghèo và Việc làm giai đoạn 2001-2005; Chương
trình mục tiêu quốc gia Giảm nghèo giai đoạn 2006-2010; Chương trình mục
tiêu quốc gia Giảm nghèo bền vững giai đoạn 2012-2015; Chương trình mục
tiêu quốc gia Giảm nghèo bền vững giai đoạn 2016-2020. Điều này đã góp phần
quan trọng giúp cho cơng cuộc xóa đói giảm nghèo của nước ta trong thời kỳ
16


này đạt được nhiều kỳ tích. Tỷ lệ nghèo chung của Việt Nam tính theo phương
pháp của Ngân hàng Thế giới năm 2002 đang ở mức là 28,9%, đến năm 2018 đã
giảm xuống 6,7%.
Những dấu ấn trong sự phát triển kinh tế – xã hội của nước ta kể từ năm
1945 khẳng định vai trị lãnh đạo của Đảng, chính sách, đường lối nhất quán của
Nhà nước về phát triển kinh tế – xã hội. Vị thế của Việt Nam thay đổi đáng kể
trên thế giới và trong khu vực ASEAN. Năm 2019, Việt Nam đứng thứ 8 thế giới
và thứ 2 trong khu vực ASEAN về tốc độ tăng trưởng GDP; là một trong 30
nước có mức tăng trưởng xuất, nhập khẩu cao và là nền kinh tế có quy mô xuất
khẩu thứ 22 trên thế giới. Việt Nam đã vượt trên các quốc gia trong khu vực
Đông Nam Á về thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, xếp hạng thứ 25 thế
giới về hấp dẫn vốn FDI. Chỉ số Năng lực cạnh tranh toàn cầu (GCI) của Việt
Nam năm 2019 tăng lên 10 bậc so với năm trước, xếp thứ 67 trong số 141 quốc

gia và vùng lãnh thổ; chỉ số HDI xếp hạng 117 trong số 177 quốc gia, vùng lãnh
thổ. Ở khía cạnh ngoại giao kinh tế, đến nay đã có trên 70 nước công nhận Việt
Nam là nền kinh tế thị trường. Trong nhiều năm qua, Việt Nam tham gia tích cực
vào việc đàm phán cũng như ký kết, phê chuẩn các Hiệp định thương mại tự do
(FTA) với 16 FTA song phương và đa phương. Đặc biệt, ngày 30/3/2020, Nghị
viện châu Âu đã thông qua FTA giữa EU và Việt Nam (EVFTA) và Quốc hội
nước ta phê chuẩn Hiệp định này vào ngày 08/6/2020. Điều này khơng chỉ góp
phần thúc đẩy thương mại và đầu tư cho nền kinh tế Việt Nam, mà còn thể hiện
sự chủ động của Việt Nam trong việc hình thành hệ thống thương mại quốc tế.
Tính đến nay, Việt Nam đã thiết lập quan hệ ngoại giao với 189 quốc gia trên thế
giới. Hoạt động đối ngoại ngày càng được mở rộng và khẳng định rõ bản lĩnh và
bản sắc của Việt Nam với tư cách là một thành viên có trách nhiệm của cộng
đồng quốc tế, đóng góp ngày càng nhiều vào hịa bình, hợp tác và phát triển
khơng chỉ trong khu vực ASEAN mà cịn cả trên thế giới.
Do hội nhập kinh tế sâu rộng, kinh tế – xã hội của Việt Nam cũng chịu
ảnh hưởng nặng nề bởi đại dịch Covid-19 trong năm 2020. Tuy nhiên, nhờ có
các biện pháp đối phó chủ động từ Trung ương tới địa phương, tác động y tế của
dịch bệnh không nghiêm trọng như nhiều quốc gia khác. Kinh tế vĩ mơ và tài
khóa giữ được ổn định, với mức tăng trưởng GDP ước tính đạt 1,81%, trong 6
tháng đầu năm 2020. Tác động của cuộc khủng hoảng Covid-19 đang diễn ra là
khó dự đốn, tùy thuộc vào quy mô và thời gian kéo dài của dịch bệnh. Đại dịch
Covid-19 cũng cho thấy cần phải cải cách mạnh mẽ hơn để kinh tế phục hồi
trong thời gian tới, như: cải thiện môi trường kinh doanh, thúc đẩy kinh tế số,
nâng cao hiệu quả đầu tư công. Đây là các nội dung chính mà Việt Nam cần thực
hiện để cải cách nhanh và mạnh hơn.
3.3. Đánh giá chung
* Về quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa thể hiện ở kinh tế nhà nước,
mà nòng cốt là các doanh nghiệp nhà nước.
17



Những biến đổi tích cực được thể hiện:
Thứ nhất, số lượng doanh nghiệp nhà nước đã giảm đi 17 lần so với trước
đổi mới.
Thứ hai, chất lượng các doanh nghiệp nhà nước được tăng cường. Từ chỗ
các doanh nghiệp nhà nước quy mơ nhỏ, vốn ít chúng ta đã ta đã thành lập các
tổng cơng ty và các tập đồn kinh tế lớn đóng vai trị đầu tầu của nền kinh tế
tăng cường khả năng hợp tác cạnh tranh với bên ngồi.
Hiện nay các tập đồn, tổng cơng ty nhà nước tập trung nắm giữ các
ngành lĩnh vực quan trọng của nền kinh tế như: Dầu khí, sắt thép, xi măng, ngân
hàng, bảo hiểm, cao su, vận tải, xây dựng, đóng tàu, thương mại… Đây là lực
lượng vật chất to lớn và là cơ sở để nhà nước điều tiết vĩ mô nền kinh tế.
Thứ ba, các ngành, lĩnh vực thuộc sở hữu 100% vốn doanh nghiệp nhà
nước đã được thu hẹp lại tập trung vào các lĩnh vực trọng yếu của nền kinh tế để
làm tốt hơn vai trò chủ đạo, tạo điều kiện, địa bàn cho các thành phần kinh tế
khác phát triển. .
Thứ tư, doanh nghiệp nhà nước góp phần quan trọng để kinh tế nhà nước
ổn định kinh tế và giải quyết các vấn đề của xã hội tạo ra một xã hội công bằng
hơn, khắc phục mặt trái của kinh tế thị trường như: phân hóa giàu nghèo, an sinh
xã hội, lạm phát.
Những biến đổi tiêu cực:
Thứ nhất, doanh nghiệp nhà nước chiếm phần lớn nguồn lực của xã hội
Hai là, nhiều doanh nghiệp, tập đồn kinh tế kinh doanh thua lỗ:
Ba là, mơ hình quản trị của các tập đồn kinh tế, tổng cơng ty còn nhiều
bất cập
* Về quan hệ sản xuât xã hội chủ nghĩa thể hiện ở kinh tế tập thể, mà
nịng cốt là các hợp tác xã.
Những chuyển biến tích cực.
Một là, chúng ta đã chuyển đổi thành công mô hình hợp tác xã kiểu cũ với
cơ chế tập trung quan liêu bao cấp theo kiểu gị ép đơng về số lượng, kém về

chất lượng sang hợp tác xã kiểu mới trên cơ sở liên kết tự nguyện, bình đẳng
cùng có lợi. Điều này đúng với tinh thần và thực chất của hợp tác xã, phù hợp
với QHSX XHCN là; liên kết tự nguyện, khơng có sự ép buộc, quản lý dân chủ
khơng có áp bức, bóc lột, bất cơng và cùng nhau, giúp đỡ nhau phát triển mang
bản chất tốt đẹp của kinh tế tập thể ở nước ta.
Hai là, chúng ta đã chuyển đổi kinh tế tập thể sang cơ chế thị trường. Điều
này tạo cơ sở pháp lý cho kinh tế hợp tác xã có tư cách pháp nhân, bình đẳng
trước pháp luật với các thành phần kinh tế khác trong sản xuất kinh doanh chứ
không phải dựa vào sự ưu ái của nhà nước như trước đây. Do đó, các hoạt động
như vay vốn, thành lập, ký kết các hợp đồng kinh tế Hợp tác xã đã có đầy đủ tư
cách pháp nhân và kinh doanh theo pháp luật.
18


Những biến đổi tiêu cực: Kinh tế tập thể mặc dù có sự hỗ trợ, ưu đãi của
nhà nước nhưng số lượng cịn hạn chế, quy mơ cịn nhỏ bé, kinh tế tập thể hiện
nay chiếm số lượng nhỏ bé nhất trong các thành phần kinh tế ở nước ta.
CHƯƠNG 3: MỘT SỐ PHƯƠNG HƯỚNG, GIẢI PHÁP CHỦ YẾU ĐỂ
PHÁT HUY NHỮNG BIẾN ĐỔI TÍCH CỰC, HẠN CHẾ NHỮNG BIẾN
ĐỔI TIÊU CỰC CỦA QUAN HỆ SẢN XUẤT XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở
VIỆT NAM HIỆN NAY
3.1. Phương hướng chủ yếu để phát huy những biến đổi tích cực, hạn chế
những biến đổi tiêu cực của quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa ở việt nam
hiện nay
3.1.1. Nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng, hiệu lực quản lý của Nhà nước
trong quá trình phát triển quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa trong thời kỳ
đổi mới
Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, hiệu lực quản lý của Nhà nước trong
việc phát huy những biến đổi tích cực của QHSX XHCN ở nước ta là gia tăng
quyền lực chính trị đối với nắm bắt, định hướng, điều chỉnh, ngăn chặn những

mặt, xu hướng chệch hướng, đồng thời giữ vững định hướng phù hợp với quy
luật, với đặc điểm nền kinh tế ở nước ta trong bối cảnh tồn cầu hóa về kinh tế.
Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, hiệu lực quản lý của Nhà nước trong
một thể thống nhất không tách rời. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng phải thơng
qua tính hiệu quả, hiệu lực của Nhà nước trong quản lý thì mới có tính hiện thực.
Tính hiệu quả, hiệu lực của Nhà nước trong quản lý cũng chỉ có được khi có sự
tăng cường sự lãnh đạo của Đảng. Để tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, hiệu
quả quản lý của Nhà nước trong việc hạn chế những biến đổi tiêu cực của QHSX
XHCN ở nước ta cần thực hiện:
Một là, khơng ngừng tăng cường vai trị lãnh đạo của Đảng và tính hiệu
lực của Nhà nước trong việc hoàn thiện hệ thống lý luận về QHSX XHCN ở
nước ta hiện nay.
Hai là, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, hiệu quả quản lý Nhà nước
trong việc phát huy những biến đổi tích cực của QHSX XHCN ở nước ta hiện
nay bằng biện pháp hoàn thiện cơ chế hoạt động giữa các tổ chức trong hệ thống
chính trị.
Ba là, nâng cao tính hiệu lực của chức năng kiểm tra, giám sát của Đảng
và năng lực điều hành, quản lý của Nhà nước trong việc phát huy những biến đổi
tích cực, hạn chế những biến đổi tiêu cực của QHSX XHCN ở nước ta hiện nay.
Công tác kiểm tra, giám sát của chủ thể đối với các hoạt động của kinh tế nhà
nước mà nòng cốt là các doanh nghiệp nhà nước cần được tăng cường nhằm kịp
thời phát hiện những sai phạm xẩy ra và kịp thời sửa chữa, ngăn ngừa những
biểu hiện tiêu cực trong quá trình hoạt động của doanh nghiệp sao cho phù hợp
với mục tiêu đề ra của chủ thể.
19


3.1.2. Phát triển quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa trên cơ sở vận dụng
sáng tạo quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ của lực lượng sản
xuất

Để lực lượng sản xuất phát triển, vấn đề quan trọng nhất là quan hệ sản
xuất phải phù hợp với trình độ của lực lượng sản xuất. Bởi vì, chỉ có quan hệ sản
xuất phù hợp thì lực lượng sản xuất mới được huy động, tham gia một cách tích
cực vào q trình sản xuất và được triển khai có hiệu quả, chỉ khi đó mới tạo
điều kiện tối ưu cho việc sử dụng và kết hợp giữa người lao động với tư liệu sản
xuất, mới tạo ra môi trường thuận lợi để lực lượng sản xuất phát triển.
Đảng cộng sản Việt Nam đã vận dụng sáng tạo quy luật này vào điều kiện
cụ thể của nước ta. Sự vận dụng sáng tạo được thể hiện, C.MácĂngnghen chỉ
nói quan hệ sản xuất phải phù hợp với trình độ của lực lượng sản xuất để thúc
đẩy sản xuất phát triển, thì Đảng khẳng định quan hệ sản xuất ở nước ta, đặc biệt
là QHSX XHCN không chỉ phù hợp với trình độ của lực lượng sản xuất mà cịn
phải thể hiện được sự tiến bộ của mình. Đại hội lần thứ XII của Đảng chỉ rõ: “có
quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp với trình độ của lực lượng sản xuất”. Sự tiến
bộ được thể hiện ở mục đích của nền sản xuất xã hội là phải vì nhân dân, vì
người lao động. Đây là điểm khác căn bản của QHSX XHCN với các quan hệ
sản xuất khác. Tiến bộ là tính chất xã hội của QHSX mà chúng ta đang lựa chọn
đó là chế độ XHCN; một chế độ của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân lấy
phục vụ nhân đân làm thước đo cao nhất. Chính vì vậy, QHSX XHCN ở nước ta
ngồi việc phải phù hợp với trình độ của LLSX để thúc đẩy sản xuất phát triển
còn phải dẫn dắt, tạo điều kiện cho các quan hệ khác phát triển, phải định hướng
đi lên CNXH. Chính thực tiễn phát triển của nền sản xuất nước ta trong những
năm qua đã đòi hỏi như vậy trong các năm tiếp theo.
Để thực hiện tốt quy luật này chúng ta cần phải:
Một là, phát triển sở hữu nhà nước sao cho giảm về số lượng, tăng về chất
lượng, các cơ quan đại diện chủ sở hữu trong doanh nghiệp nhà nước cần quy về
một mối để dễ quản lý thích ứng với cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa.
Hai là, xây dựng cơ chế quản lý mới theo kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa. Trong nền kinh tế các loại hình doanh nghiệp, các thành phần
kinh tế vừa hợp tác, vừa cạnh tranh bình đẳng trước pháp luật.

Ba là, thực hiện đa dạng hóa các hình thức phân phối cho phù hợp với
trình độ của lực lượng sản xuất đã phát triển hiện nay.
Bốn là, phải tập trung vào những ngành, lĩnh vực then chốt, quan trọng
của nền kinh tế nhằm dẫn dắt tạo điều kiện cho các quan hệ khác phát triển và
điều tiết vĩ mô nền kinh tế.
Năm là, đối với kinh tế tập thể do lực lượng sản xuất cịn thấp, năng lực
cịn hạn chế, do đó cần phải triệt để tuân thủ nguyên tắc: tự nguyện, bình đẳng,
dân chủ, công khai, minh bạch trong kết nạp các xã viên vào hợp tác xã.Thực
hiện đúng Luật hợp tác xã năm 2012, phải bảo đảm tính tương trợ, hợp tác, giúp
20


đỡ lẫn nhau của các thành viên hợp tác xã, tăng cường tính cộng đồng trong hợp
tác xã vì lợi ích của các xã viên cũng như của hợp tác xã.
3.2. Giải pháp:
3.2.1. Giải pháp về sở hữu:
Đối với quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa thể hiện ở kinh tế nhà nước:
Nhà nước cần xác định rõ chủ sở hữu trong doanh nghiệp nhà nước. Cần giảm
sở hữu nhà nước, doanh nghiệp nhà nước cần tập trung vào những ngành, lĩnh
vực thiết yếu, quan trọng. Đẩy mạnh cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước nhằm
xã hội hóa sở hữu nhà nước. Tăng cường liên kết, liên doanh giữa doanh nghiệp
nhà nước với các thành phần kinh tế khác để hình thành sở hữu hỗn hợp.
Đối với quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa thể hiện ở kinh tế tập thể: Tơn
trọng ngun tắc bình đẳng, đồng sở hữu trong hợp tác xã. Phân biệt rõ hai loại
tài sản trong hợp tác xã để tránh chồng chéo là: tài sản được chia và tài sản
không được chia. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền giáo dục để nhân dân hiểu rõ
về quyền lợi, lợi ích khi tham gia hợp tác xã.
3.2.2. Giải pháp về tổ chức, quản lý:
Đối với quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa thể hiện ở kinh tế nhà nước:
Cần xóa bỏ bao cấp trong doanh nghiệp nhà nước, các doanh nghiệp nhà nước

chuyển hoàn tồn sang cơ chế thị trường bình đẳng với các thành phần kinh tế
khác. Cần phân định rõ hai loại hình doanh nghiệp nhà nước đó là; doanh nghiệp
nhà nước hoạt động vì mục tiêu chính trị - xã hội và doanh nghiệp nhà nước vì
mục tiêu lợi nhuận. Nên phân định rõ chức năng chủ sở hữu và chức năng quản
lý kinh doanh của nhà nước trong các doanh nghiệp nhà nước. Xây dựng đội ngũ
quản trị giỏi trong các doanh nghiệp nhà nước.
Đối với quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa thể hiện ở kinh tế tập thể: Xây
dựng và phát triển kinh tế hợp tác xã đa dạng với nhiều hình thức từ thấp đến
cao, nịng cốt là các Hợp tác xã kiểu mới. Nhà nước tạo điều kiện về mọi mặt và
quản lý Hợp tác xã bằng pháp lý, cơ chế, chính sách; tài chính, đào tạo đội ngũ
cán bộ quản lý, ứng dụng khoa học công nghệ... nhằm giúp cho kinh tế hợp tác.
Tăng cường vai trò, trách nhiệm của tổ chức Liên minh Hợp tác xã, Mặt trận Tổ
quốc, các đoàn thể nhân dân, hội, hiệp hội trong phát triển kinh tế Hợp tác xã
3.2.3. Giải pháp về phân phối sản phẩm
Đối với quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa thể hiện ở kinh tế nhà nước :
Doanh nghiệp nhà nước phải triệt để tuân thủ nguyên tắc phân phối theo lao
động, xóa bỏ bao cấp trong doanh nghiệp nhà nước. Nên bỏ chế độ kiêm nhiệm,
phân phối theo công chức, viên chức trong doanh nghiệp nhà nước. Doanh
nghiệp nhà nước ngoài phân phối theo lao động phải đa dạng hóa các hình thức
phân phối
Đối với quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa thể hiện ở kinh tế tập thể: Phân
phối thu nhập trong hợp tác xã phải theo mức độ sử dụng sản phẩm, dịch vụ của
các thành viên hợp tác xã. Cần phân bổ phân phối theo vốn góp để tạo công
21


bằng trong phân phối thu nhập và khuyến khích các thành viên góp vốn vào hợp
tác xã.
3.2.4. Hồn thiện hệ thống pháp luật:
Hồn thiện hệ thống pháp luật tạo mơi trường pháp lý phù hợp để phát

huy tính năng động của các chủ thể trong nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa Hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa, giải quyết hài hòa quan hệ giữa nhà nước với thị trường. Tạo lập mơi
trường bình đẳng giữa kinh tế Nhà nước với các thành phần kinh tế khác. Tiếp
tục nâng cao nhận thức về nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Tiếp tục đổi mới và hoàn thiện thể chế về sở hữu. Hoàn thiện thể chế phân phối
đảm bảo gắn kết giữa tăng trưởng kinh tế với tiến bộ, công bằng xã hội trong
phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Hoàn thiện thể
chế đảm bảo nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng, hiệu lực, hiệu quả quản lý của
Nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩ.

22


KẾT LUẬN
Quá trình vận động, biến đổi của quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa trong
thời kỳ đổi mới được mở đầu bằng Đại hội VI của Đảng, cho đến nay đã trải qua
các kỳ Đại hội. Quan hệ tổ chức được biến đổi theo hướng xóa bỏ bao cấp hình
thành cơ chế thị trường, các thành phần kinh tế ngày càng được bình đẳng vừa
hợp tác, vừa cạnh tranh theo thị trường, doanh nghiệp nhà nước cũng được tổ
chức sắp xếp lại sao cho giảm về số lượng, tăng về chất lượng, hình thành các
Tổng cơng ty và Tập đồn kinh tế nhà nước đóng vai trị là nòng cốt trong doanh
nghiệp nhà nước. Quan hệ phân phối chuyển sang kinh tế thị trường trả lương
theo năng suất, chất lượng và hiệu quả kinh tế, gắn tăng trưởng kinh tế với công
bằng xã hội. Trong kinh tế tập thể, chúng ta đã chuyển đổi mơ hình từ hợp tác xã
kiểu cũ sang hợp tác xã kiểu mới. Tuy nhiên, quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa
ở nước ta hiện nay, cịn có những biến đổi tiêu cực tạo thành lực cản đối với sự
phát triển của lực lượng sản xuất, chưa thực sự nêu gương về năng suất, chất
lượng cho các quan hệ sản xuất khác. Điều này, được thể hiện; nhiều doanh
nghiệp nhà nước làm ăn kem hiệu quả, thua lỗ kéo dài làm thất thoát vốn của

nhà nước và nhân dân hàng nghìn tỷ đồng gây bức xúc trong dư luận.Trong quản
lý, doanh nghiệp nhà nước còn ảnh hưởng cơ chế tập trung, quan liêu bao cấp cơ
chế xin- cho, chưa thực sự chuyển hoàn tồn theo cơ chế thị trường. Trong phân
phối cịn chưa tuân thủ nguyên tắc phân phối theo lao động, người lao động là
chủ thể nhưng khơng có quyền thực sự trong doanh nghiệp, lương thấp, trong
khi đó cán bộ quản lý trả lương theo chế độ công chức nhà nước không gắn trực
tiếp với hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, do vậy họ thường lợi dụng
chức vụ để tham ô, tham nhũng làm giàu phi pháp. Kinh tế tập thể ngày càng thu
hẹp, không thể hiện được mục tiêu, bản chất của mình, q trình chuyển đổi mơ
hình hợp tác xã cịn chậm.
Do đó, đổi mới quan hệ sản xuất XHCN phải được thực hiện đồng bộ
trên cả ba mặt của quan hệ sản xuất. Để thực hiện điều này, chúng tôi đã đề ra
các giải pháp như: Giải pháp về sở hữu, Giải pháp về tổ chức, quản lý, giải pháp
về phân phối và giải pháp về, Hoàn thiện hệ thống pháp luật tạo môi trường
pháp lý phù hợp để phát huy tính năng động của các chủ thể trong nền kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.

23


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Ban Kinh tế Trung ương (2015), Đổi mới mơ hình tăng trưởng và cơ cấu lại nền
kinh tế, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
2. Ban Kinh tế Trung ương (2015), Hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
3. Vũ Đình Bách (2001), Đổi mới, tăng cường thành phần kinh tế nhà nước, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
4. Phạm Việt Dũng (2014), "Về kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và
vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước ở Việt Nam", Tạp chí Cộng sản,
5. Lê Xuân Tùng (2008), Quan hệ sản xuất trong nền kinh tế thị trường định hướng

xã hội chủ nghĩa, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
6. Mai Lâm Sơn (2016), "Nâng cao hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp nhà
nước", Tạp chí Con số và sự kiện
7. Đảng Cộng sản Việt Nam (1957), Cương lĩnh của chúng ta, Nxb Sự thật, Hà Nội.
8. Đảng Cộng sản Việt Nam (1987), Văn kiện Đại hội đại biểu lần thứ VI, Nxb Sự
thật, Hà Nội.
9. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Văn kiện Đại hội đại biểu tồn quốc lần thứ
VII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
10. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
11. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
12. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu tồn quốc lần thứ
X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
13. Đảng Cộng sản Việt Nam (2007), Văn kiện Đảng tồn tập, tập 48, Nxb Chính
trị quốc gia, Hà Nội.
14. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu tồn quốc lần thứ
XI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
15.Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ
XII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

24


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU.........................................................................................................................................1
CHƯƠNG 1: LÝ LUẬN CHUNG..............................................................................................4
1.1. Quan niệm về quan hệ sản xuất và quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa........................4

1.1.1. Khái niệm:.................................................................................................................4

1.1.2. Kết cấu của quan hệ sản xuất:..................................................................................4
1.1.3. Tính chất của quan hệ sản xuất:...............................................................................5
1.2. Vai trò của quan hệ sản xuất chủ nghĩa xã hội trong thời kỳ đổi mới ở Việt Nam.........6

1.2.1 Vai trò của quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa đối với sự phát triển của lực lượng
sản xuất ở Việt Nam trong thời kỳ đổi mới..........................................................................6
1.2.2. Vai trò của quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa đối với việc củng cố, hoàn thiện kiến
trúc thượng tầng và định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam trong thời kỳ đổi mới........7
1.3. Những nhân tố tác động đến sự biến đổi của quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa ở
Việt Nam trong thời kỳ đổi mới...............................................................................................7

1.3.1. Lực lượng sản xuất....................................................................................................7
1.3.2. Kiến trúc thượng tầng...............................................................................................9
1.3.3. Tồn cầu hóa, hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực..................................................9
1.3.4. Các quan hệ sản xuất khác......................................................................................10
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG SỰ BIẾN ĐỔI CỦA QUAN HỆ SẢN XUẤT XÃ HỘI
CHỦ NGHĨATRONG THỜI KỲ ĐỔI MỚI Ở VIỆT NAM.................................................12
2.1. Bối cảnh của quá trình nhận thức, cải tạo quan hệ sản xuất ở Việt Nam....................12
3.2. Thực trạng sự biến đổi của quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa trong thời kỳ đổi mới ở
Việt Nam................................................................................................................................13

3.2.1. Giai đoạn 1986 - 2001............................................................................................14
3.3. Đánh giá chung..............................................................................................................17

CHƯƠNG 3: MỘT SỐ PHƯƠNG HƯỚNG, GIẢI PHÁP CHỦ YẾU ĐỂ PHÁT HUY
NHỮNG BIẾN ĐỔI TÍCH CỰC, HẠN CHẾ NHỮNG BIẾN ĐỔI TIÊU CỰC CỦA
QUAN HỆ SẢN XUẤT XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM HIỆN NAY......................19
3.1. Phương hướng chủ yếu để phát huy những biến đổi tích cực, hạn chế những biến đổi
tiêu cực của quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa ở việt nam hiện nay.................................19


3.1.1. Nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng, hiệu lực quản lý của Nhà nước trong quá
trình phát triển quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa trong thời kỳ đổi mới........................19
3.1.2. Phát triển quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa trên cơ sở vận dụng sáng tạo quy
luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ của lực lượng sản xuất.................................20
3.2. Giải pháp:.......................................................................................................................21

3.2.1. Giải pháp về sở hữu:...............................................................................................21
3.2.2. Giải pháp về tổ chức, quản lý:................................................................................21
3.2.3. Giải pháp về phân phối sản phẩm...........................................................................21
3.2.4. Hoàn thiện hệ thống pháp luật:..............................................................................22
KẾT LUẬN..................................................................................................................................23

25


×