Tải bản đầy đủ (.doc) (25 trang)

SKKN một số kinh nghiệm nhằm phát triển vốn từ cho trẻ 24 – 36 tháng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.27 MB, 25 trang )

THÔNG TIN CHUNG VỀ SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
1. Tên sáng kiến kinh nghiệm: “Một số kinh nghiệm nhằm phát triển vốn từ cho
trẻ 24 – 36 tháng”
2. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến kinh nghiệm: Phát triển ngôn ngữ
3. Thời gian áp dụng sáng kiến kinh nghiệm:
Từ năm học 2017– 2018 đến năm học 2019 - 2020
4. Tác giả:
Họ và tên: Nguyễn Thị Nguyệt
Năm sinh: 1988
Nơi thường trú: Xã Nghĩa Minh – Huyện Nghĩa Hưng – Tỉnh Nam Định
Trình độ chuyên môn: Trung cấp sư phạm
Chức vụ công tác: Giáo Viên
Nơi làm việc: Trường Mầm Non Nghĩa Minh
Địa chỉ liên hệ: Xã Nghĩa Minh – Huyện Nghĩa Hưng – Tỉnh Nam Định
Điện thoại: 0937281666
Tỉ lệ đóng góp tạo ra sáng kiến: 85%
5, Đơn vị áp dụng sáng kiến kinh nghiệm:
Tên đơn vị: Trường Mầm Non Nghĩa Minh
Địa chỉ: Xã Nghĩa Minh – Huyện Nghĩa Hưng – Tỉnh Nam Định
Điện thoại: 03503711082


BÁO CÁO SÁNG KIẾN
I. Điều kiện hoàn cảnh tạo ra sáng kiến:
Các nhà nghiên cứu giáo dục đều khẳng định phát triển vốn từ là nền tảng
quan trọng để phát triển ngơn ngữ, có ý nghĩa quan trọng quyết định đến phát triển
toàn diện sau này của trẻ.
Sống trong xã hội con người luôn phải giao tiếp, mà khi giao tiếp con người
phải sử dụng vốn từ để biểu đạt với những người xung quanh.
Trong công tác giáo dục trẻ mầm non hiện nay, chúng ta càng thấy rõ vai trị
của ngơn ngữ đối với việc giúp các cháu trở thành những con người phát triển về


mọi mặt: Đức, trí, thể, mỹ và hình thành những cơ sở ban đầu của nhân cách con
người.
Trẻ mầm non có nhu cầu giao tiếp rất lớn, qua việc giao tiếp trẻ có thể sử
dụng ngơn ngữ của mình để trình bày ý nghĩ, biểu cảm của mình với mọi người
xung quanh, mọi đồ vật, con vật, cây cối hoa lá... Ngơn ngữ cịn là phương tiện nhận
biết thế giới xung quanh của trẻ. Trẻ em ln có nhu cầu tìm hiểu thế giới xung
quanh mà trẻ đến được thế giới xung quanh là nhờ người lớn. Ngôn ngữ là phương
tiện biểu hiện những nhận thức, khi trẻ nhận thức được thế giới khách quan trẻ tiến
hành hoạt động với nó, trẻ sử dụng ngơn ngữ để miêu tả. Ngơn ngữ cịn là phương
tiện giáo dục đạo đức cho trẻ vì thơng qua ngơn ngữ trẻ nhận thức được cái hay, cái
đẹp.
Muốn cho ngôn ngữ của trẻ phát triển thuận lợi, một trong những điều kiện
quan trọng là trẻ được tích luỹ nhiều vốn từ và trên cơ sở hiểu biết đầy đủ ý nghĩa
của những từ đó, trẻ biết cách sử dụng “số vốn” đó một cách thành thạo.
Trong cuộc sống quỹ thời gian dành cho gia đình rất hạn hẹp. Cha mẹ, những
người lớn trong gia đình đều lo làm ăn kiếm sống, thời gian các bậc cha mẹ trò
chuyện với con trẻ để phát triển vốn từ có rất ít. Do vậy vốn từ của trẻ ở độ tuổi 24 –
36 tháng vốn từ còn rất hạn chế, chủ yếu trẻ được tiếp xúc và phát triển vốn từ qua ti
vi, phim ảnh…chưa được sự chỉ bảo, uốn nắn của người lớn.


Xuất phát từ những lý do trên mà tôi đã chọn đề tài: “ Một số kinh nghiệm
nhằm phát triển vốn từ cho trẻ lứa tuổi 24- 36 tháng” đã được nghiên cứu từ năm
học 2017 - 2018, áp dụng và làm sáng kiến năm học 2019-2020. Trong quá trình
thực hiện tơi đã gặp một số thuận lợi và khó khăn sau:
II. Mô tả giải pháp
1. Mô tả giải pháp trước khi tạo ra sáng kiến
- Do chưa xác định được tầm quan trọng của việc phát triển ngôn ngữ cho trẻ
cho nên trong q trình chăm sóc giáo dục hầu như giáo viên chưa chú ý đến việc
thay đổi nội dung và cách thức trò chuyện, cách tạo các tình huống cho trẻ thể hiện

những tình cảm và yêu cầu của mình bằng các âm, các từ. Khi nói chuyện với trẻ cơ
hay nói nhanh và khơng chú ý tới việc sửa sai lỗi về từ, âm, câu cho trẻ.
- Giáo viên chưa chú ý luyện câu, từ cho trẻ, nhiều trẻ nói thiếu, nói lặp, cơ
cũng khơng kịp thời điều chỉnh và sửa sai.
- Quá trình tổ chức giờ học cô chưa chú ý đến hệ thống câu hỏi để giúp trẻ phát
triển kỹ năng tư duy, khám phá và phát triển ngơn ngữ.
Xuất phát từ những lí do trên nên hoạt động dạy trẻ phát triển vốn từ khơng thể
thiếu trong q trình chăm sóc giáo dục trẻ. Vì vậy việc nâng cao chất lượng vốn từ
là vấn đề quan trọng trong đổi mới hình thức tổ chức chăm sóc giáo dục trẻ trong
giáo dục mầm non. Tuy nhiên trong q trình thực hiện tơi gặp những thuận lợi và
khó khăn sau:
1.1. Thuận lợi:
- Được sự quan tâm của các cấp lãnh đạo là một giáo viên có trình độ chun
mơn Trung cấp sư phạm mầm non tơi ln nhiệt tình trong cơng việc, bên cạnh đó
đồng nghiệp của tơi cũng có trình độ Cao Đẳng SP Mầm Non và cũng có rất nhiều
kinh nghiệm trong việc chăm sóc giáo dục trẻ.
- Về cơ sở vật chất: Diện tích phịng học rộng rãi, thống mát, lớp sạch sẽ
khang trang có đầy đủ đồ dùng đồ chơi cho cô và trẻ hoạt động, nhất là môn Phát
triển vận động .


- Về trẻ: Trẻ trong lớp cùng độ tuổi với nhau nên rất thuận tiện trong việc
chăm sóc giáo dục trẻ.
- Hai giáo viên ở lớp luôn phối kết hợp thống nhất phương pháp, biện pháp
giáo dục trẻ, thường xuyên dành thời gian trao đổi với phụ huynh để cùng chăm sóc,
ni dưỡng và giáo dục trẻ. Cả 2/2 giáo viên trình độ chun mơn đạt chuẩn và trên
chuẩn.
- Bản thân là một giáo viên vào nghề từ năm 2015 là giáo viên trẻ nhưng là
người tâm huyết với nghề, ln có tinh thần học hỏi vươn lên nhiệt tình trong cơng
tác chăm sóc giáo dục trẻ, tơi ln u nghề mến trẻ.

- Nhờ sự quan tâm giúp đỡ và chỉ đạo nhiệt tình của Ban giám hiệu về chun
mơn xây dựng phương pháp đổi mới bằng công nghệ thông tin, tổ chức dự giờ, hội
giảng góp ý. Từ đó bản thân đã rút ra một số kinh nghiệm để nâng cao chất lượng
giảng dạy.
1.2. Khó khăn:
- Đối với trẻ thì hệ thống ngơn ngữ khơng được mở rộng do trong quá trình giúp
trẻ các hoạt động, hệ thống các câu hỏi của cô thường đưa ra là câu hỏi đóng do đó
ngơn ngữ của trẻ khơng được mở rộng, trẻ hay nói câu thiếu các thành. phần.
- Khả năng lĩnh hội thông tin của trẻ rất hạn chế nếu cơ truyền đạt một câu
dài hoặc một sự việc có nội dung truyền tải nhiều.
- Đời sống của nhân dân cịn gặp nhiều khó khăn, hạn hẹp, vì nhiều phụ
huynh đi làm ăn xa để con ở nhà với ông bà, nên việc nhận thức về chủ trương chính
sách của nghành học mầm non còn hạn chế, việc quan tâm đến trẻ còn dừng lại ở
mức độ.
- Việc kết hợp với cơ giáo để chăm sóc giáo dục trẻ cịn hạn chế.
- Nhân dân còn sử dụng tiếng địa phương nên trẻ nói ngọng, nói lắp nhiều nên
rất khó khăn cho việc dạy trẻ phát âm.
2. Mô tả giải pháp sau khi có sáng kiến:
Rút kinh nghiệm qua những biện pháp mà tơi đã áp dụng chưa hiệu quả trước
đó, tơi đã tìm tịi, nghiên cứu và áp dụng những biện pháp mới. Và dưới đây là
những biện pháp mà tôi đã áp dụng và đạt được những kết quả khả quan:


2.1. Biện pháp 1: Luyện phát âm cho trẻ.
a. Rèn luyện thính giác ngơn ngữ cho trẻ
Trẻ học nói được là nhờ vào sự vận động của thính giác (Trẻ bị điếc sẽ khơng
thể học nói được). Vì vậy việc rèn luyện thính giác ngơn ngữ cho trẻ là nội dung
hàng đầu trong q trình dạy trẻ nói.
Rèn luyện thính giác ngôn ngữ là rèn luyện khả năng tri giác âm thanh ngôn
ngữ, giúp trẻ phân biệt được âm thanh nói chung.

VD: Âm thanh của từ “Hoa” khác âm thanh của từ “Lá”
Muốn trẻ rèn luyện khả năng tri giác âm thanh ngôn ngữ được tốt cần đặt trẻ
vào trong mơi trường âm thanh (Bao gồm âm thanh nói chung và âm thanh ngơn
ngữ nói riêng). Trẻ càng thu nhận được tín hiệu ngơn ngữ bao nhiêu thì sự phát triển
lời nói càng nhanh chóng bấy nhiêu vì vậy chúng ta cần phải lặp đi lặp lại nhiều lần
giúp trẻ phát âm đúng.
VD: Khi dạy bài thơ “Con tàu” khi trẻ đọc đến từ “xanh xanh” một số trẻ sẽ
phát âm sai vì vậy cơ giáo cần chú ý, kiên trì sửa sai cho trẻ bằng cách (khơng lặp lại
lỗi mắc sai của trẻ), không cáu gắt làm trẻ mất hứng thú mà cô sẽ phát âm lại chậm,
rõ và cho trẻ phát âm theo cô nhiều lần và trong cả q trình chăm sóc trẻ.
b. Luyện cơ quan phát âm cho trẻ.
Cơ quan phát âm đóng vai trị quan trọng trong q trình trẻ nói, nó điều
khiển bộ máy phát âm của trẻ. Quá trình giáo dục sẽ tác động đến bộ máy phát âm
của trẻ.
Chúng ta cần luyện cơ quan phát âm cho trẻ theo cách :
Luyện vận động tự do nhằm giúp các bộ phận môi, răng, lưỡi chuyển động
nhịp nhàng, linh hoạt. Đối với trẻ Mầm non “Trẻ học mà chơi, chơi mà học” vì vậy
giáo viên cần vận dụng khéo léo và kinh hoạt các phương pháp, biện pháp phù hợp
để lôi cuốn trẻ. Tôi đã suy nghĩ và lựa chọn phương pháp sử dụng trị chơi để luyện
bộ máy phát âm cho trẻ.
VD: Cơ nói: Trời tối rồi các con hãy “Gọi gà” để cho gà ăn nào! cô hướng dẫn
cho trẻ bặm 2 môi vào nhau thật chặt và phát âm (Bập..Bập...Bập) Như thế tôi đã


luyện tập cho trẻ biết điều khiển hoạt động của môi và hàm. Hoặc cho trẻ làm động
tác “Nhai kẹo cao su”, hay cho trẻ “Chậc lưỡi”… tôi đã luyện tập cho trẻ biết điều
khiển hàm theo 2 hướng…
c. Luyện thở ngơn ngữ.
Qua q trình quan sát và tiếp xúc với trẻ tôi nhận thấy đặc điểm của trẻ là
chưa biết điều khiển nhịp thở của mình khi nói cho phù hợp, có nhiều trẻ nói rất

nhanh vừa nói vừa thở. Hoặc ngược lại có những trẻ nói rất chậm ê..a..vừa nói vừa
thở. Vì vậy điều khiển sự thở là khơng thể thiếu được trong q trình rèn luyện phát
âm cho trẻ.
Trò chơi được sử dụng rất nhiều, đa dạng phong phú trong q trình giáo dục
ngơn ngữ cho trẻ.
VD: Để luyện thở ngôn ngữ cho trẻ, trong khi cho trẻ tập thể dục tơi có thể
cho trẻ khởi động bằng các trò chơi như: Thổi nơ bay cao, xa; thổi chong chóng; gà
gáy. Thơng qua các trị chơi này giúp cho trẻ hít thở được đều đặn dần dần trẻ sẽ biết
cách lấy hơi khi nói.
d. Luyện giọng.
Giọng nói giúp trẻ thể hiện thái độ, tình cảm của mình trong từng lời nói như:
âu yếm, thủ thỉ, to, nhỏ….
VD: Khi cho trẻ đọc bài thơ: “Yêu mẹ”
Giáo viên cần đọc mẫu bài thơ cho trẻ nghe 2-3 lần, cô đọc chậm và rõ thể
hiện sắc thái tình cảm của mình trong bài thơ sau đó cho trẻ đọc theo cô. Trong khi
trẻ đọc cô sẽ giúp trẻ điều chỉnh giọng đọc để thể hiện tình cảm của mình đối với
mẹ.
2.2. Biện pháp 2: Tăng vốn từ cho trẻ qua giờ học
- Đối với các giờ học cô phải sử dụng đồ dùng trực quan. Đồ dùng trực quan
là nền tảng để tổ chức việc tích cực ngơn ngữ của trẻ. Hệ thống câu hỏi của cô phải
rõ ràng, ngắn gọn và tạo tình huống phát triển để trẻ phát biểu ý kiến. Trong khi trẻ
trả lời cô hướng dẫn trẻ nói đúng từ, đủ câu, khơng nói cụt lủn hoặc cộc lốc.
Ví dụ: Bài NBTN “Quả dứa, quả cam, quả đu đủ”


Cô phải chuẩn bị đầy đủ các loại quả thật để trẻ được nhìn, được sờ, được
nếm.
+ Con biết tên quả này chưa? Tên nó là gì? (Đây là quả dứa ạ!)
+ Sờ vào quả con có cảm giác gì? (Sần sùi ạ!)
+ Quan sát kỹ con thấy gì? (Vỏ dứa có mắt ạ!)

+ Hãy đưa lên mũi ngửi và cho nhận xét giúp cơ? (Quả dứa có mùi thơm ạ!)
Qua giờ kể chuyện

Hình ảnh cơ giáo dạy trẻ kể chuyện
Nghiên cứu kĩ yêu cầu của giờ kể chuyện kể cả về kiến thức, kĩ năng và giáo dục
đạo đức. Từ đó đưa ra phương pháp, hệ thống câu hỏi, đồ dùng phục vụ giờ dạy đạt
hiệu quả cao.
Ví dụ: Mục đích yêu cầu của giờ kể truyện “Cây táo”
* Về kiến thức:
- Trẻ biết tên câu chuyện, biết tên nhân vật và hành động của các nhân vật
trong chuyện.


- Đọc được các từ: “ông”, “bé”, “gà trống”, “mặt trời”, “bươm bướm”, “sưởi
nắng”, “bật ra”.
- Biết lắng nghe và trả lời các câu hỏi của cô.
* Về kĩ năng:
- Trẻ nhận biết và phân biệt được quả to, quả nhỏ.
- Nhận biết và phân được ba màu: đỏ, vàng, xanh và đọc chính xác các từ:
“màu đỏ”, “màu vàng”, “màu xanh”.
* Về thái độ:
- Trẻ biết “Ăn quả nhớ phải nhớ ơn người trồng cây”
- Biết lợi ích của việc ăn quả: Cung cấp vitamin và khoáng chất.
- Biết giữ gìn vệ sinh rửa quả, rửa tay trước khi ăn, biết bỏ hạt và thùng rác.
- Biết chăm sóc bảo vệ cây (Tưới nước, bắt sâu không ngắt lá, bẻ cành).

Hình ảnh các nhân vật trong câu chuyện cây táo


2.3. Biện pháp 3: Dạy trẻ nói thơng qua phương pháp dạo chơi thăm quan;

Chơi hoạt động ở các góc
Dạo chơi thăm quan cũng là một hình thức bổ sung và cung cấp cho trẻ mở
rộng thêm vốn từ mới, một số khái niệm mới cho trẻ.

Hình ảnh các bé chơi ngoài trời
Đối với trẻ 24-36 tháng, vốn từ của trẻ cịn rất ít, nhiều khi trẻ muốn nói ra
một sự việc nào đấy nhưng trẻ lại không biết dùng từ ngữ gì để diễn đạt nên cháu
thường e..a hay đang nói giữa chừng lại khơng nói nữa vì khơng có từ để diễn đạt.
Vì vậy giáo viên cần bổ sung và làm giàu thêm vốn từ cho trẻ.
Khi cho trẻ dạo chơi quan sát các loại cây ăn quả tơi hỏi trẻ: Con có biết vì
sao “ lá xanh lại ở trên cây, lá vàng lại rơi xuống đất? tơi sẽ giúp cho trẻ hiểu vì lá
vàng đã già rồi nên rụng xuống cho lá non mọc ra. Đồng thời tơi cịn giúp cho trẻ
hiểu khi lá rụng xuống đất nếu không được con người quét dọn, nhiều lá rơi xuống


sẽ gây ô nhiễm môi trường, bẩn, sân trường sẽ không đẹp, cô sẽ hướng dẫn tổ chức
cho các cháu nhặt lá rụng bỏ vào thùng rác.

Hình ảnh trẻ quan sát cây xanh
Hoặc khi đang chơi khi nghe tiếng sấm trẻ sẽ nói đó là tiếng pháo nổ, tơi sẽ
giúp trẻ hiểu đó là tiếng sấm báo hiệu trời chuẩn bị có mưa to đấy và ở ngồi khi có
sấm chớp rất nguy hiểm các con ạ! Như vậy các cháu đã có thêm từ mới, khái niệm
mới về sự vật, hiện tượng trong tự nhiên.
Hoặc trong khi cháu chơi tôi đến gần quan sát trẻ chơi, gần gũi cháu để trao
đổi với cháu chơi với các đồ chơi ô tô, máy bay. Tôi lại gần gợi ý để cháu ôn lại một
số bộ phận của ô tô, máy bay mà các cháu đã học, thơng qua đó để giúp cháu nắm
vững hơn các vấn đề đã được học và đồng thời phát triển
- Tại các hoạt động chơi của trẻ tại các góc chơi: Bé chơi với búp bê và thao
tác vai, hoạt động với đồ vật, góc vận động, góc thiên nhiên tơi ln tạo cơ hội cho
trẻ thao tác với vai chơi của trẻ qua đó gợi ý để trẻ phát triên ngôn ngữ tăng vốn từ:

+ Con thích chơi ở góc chơi nào? Con chơi gì đó? Con chơi cùng với ai? Con
sẽ chơi trị chơi gì? Con chơi như thế nào?


Hình ảnh bé chơi hoạt động ở các góc
+ Tạo tình huống khi chơi: Nếu mà…thì sẽ như thế nào? Con sẽ làm gì nếu
như….?


Hình ảnh các bé chơi góc xây dựng

Hình ảnh các bé chơi góc thư viện
Qua các góc chơi u thích của mình trẻ sẽ được trải nghiệm thực hành những
kỹ năng quen thuộc gần gũi với trẻ như: Tập bế em, chăm em bé, làm bác sĩ, đóng
vai mẹ…. qua cách diễn đạt bằng ngôn ngữ của trẻ, trẻ sẽ phát triển tư duy quan sát
ghi nhớ, cô là người quan sát quá trình chơi và cung cấp cho trẻ những kiến thức cơ


bản cho trẻ.

Hình ảnh trẻ bế búp bê và chơi thao tác vai
2.4. Biện pháp 4: Dạy trẻ nói ở mọi lúc mọi nơi.
Hưởng ứng cuộc vận động “Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích
cực; dạy trẻ theo hướng lấy trẻ làm trung tâm”. Trong lớp, tôi luôn xây dựng mối
quan hệ giữa trẻ với cô giáo từ đó tạo được niềm tin ở trẻ, trẻ yêu quý cơ, thích nghe
cơ nói, nghe cơ kể chun và mong muốn được đến lớp để từ đó cơ giáo thực hiện
cơng tác giảng dạy được tốt hơn.
Để giúp cháu nói được tốt hơn tơi cịn dùng các hình thức trị chuyện với trẻ
trong tất cả các hoạt động từ khi đón trẻ cho đến lúc trả trẻ. Cơ có thể trò chuyện với
trẻ những diễn biến, những hoạt động của trẻ trong gia đình lúc trẻ ở nhà với bố mẹ

ví dụ : Ở nhà con được bố mẹ cho ăn những món ăn gì? Cho đi chơi ở đâu? Ai là
người tắm, giặt quần áo cho em…?

Qua đó cháu sẽ biểu lộ được những trải


nghiệm, những suy nghĩ của mình bằng ngơn ngữ đơn giản nói được câu nhiều từ
hơn.

Hình ảnh cơ giáo trị chuyện với trẻ
Trong giờ ăn trẻ tiếp nhận được số lượng những từ ngữ mới góp phần làm
giàu vốn từ cho trẻ. VD: Cơ giới thiệu món ăn; Hỏi trẻ cái bát, cái thìa dùng để làm
gì, hơm nay con ăn cơm với gì hoặc tay phải con cầm gì, tay trái làm gì; cơ mời cả
lớp ăn cơm, trẻ mời lại....
Trong giờ ngủ cô hát những bài hát, bài thơ gần gũi với giờ ngủ của trẻ như
“Giờ đi ngủ” để trẻ hiểu những quy tắc trong giờ ngủ.
Giờ vệ sinh cơ vừa thực hiện vừa trị chuyện với trẻ.
VD: Vì sao phải rửa tay (rửa mặt), tác dụng của việc rửa tay, rửa tay vào
những lúc nào?.....
Giờ đón trẻ cơ dặn dị trẻ đi học đúng giờ; Hỏi trẻ ở nhà con phải như thế
nào? Trò chuyện việc công việc giúp bố mẹ ở nhà của trẻ.
Như vậy trẻ sẽ hình thành khái niệm đơn giản về ý thức, hành động đúng để
từ đó trẻ sẽ nói được những câu từ diễn đạt được suy nghĩ, hiểu biết của trẻ trong
sinh hoạt hằng ngày.


2.5. Biện pháp 5: Cải tiến phương pháp giảng dạy, áp dụng phương pháp
lấy trẻ làm trung tâm:
Trước tiên tôi chuẩn bị soạn giáo án chi tiết, nghiên cứu kỹ bài dạy, nắm chắc
nội dung yêu cầu. Chuẩn bị kỹ đồ dùng trực quan: Tranh mẫu, vật mẫu, hình ảnh

đẹp, sinh động, hấp dẫn có đảm bảo tính sư phạm và phù hợp với nội dung bài dạy.
Khi thực hiện tổ chức các hoạt động tôi thường xuyên thay đổi cách giới thiệu bài:
Bằng trực tiếp hoặc gián tiếp. Thông qua các hình thức tập thể, tổ, nhóm, cá nhân trẻ
phát huy được khả năng phát triển vốn từ của mình.
Muốn tạo được cảm xúc để gây được hứng thú và tập trung sự chú ý của trẻ,
tôi cần chú ý đến các thủ thuật gây hứng thú với cách vào bài bằng vật thật, câu đố,
bài hát, bài thơ, ca dao, đồng dao, các trị chơi dân gian, ln tạo được tình huống
bất ngờ kết hợp với với việc sử dụng đồ dùng trực quan sao cho đúng lúc, đúng chỗ,
khoa học, hợp lý phù hợp với từng đề tài. Tổ chức giờ học nhẹ nhàng, thoải mái
không mang tính gị ép, từ đó trẻ hào hứng, thích thú, qua đó trẻ mạnh dạn giao tiếp,
chia sẻ với cơ và bạn. Trẻ được nói theo ý hiểu, theo những gì mà trẻ được trải
nghiệm trong giờ học cũng như các tình huống mà trẻ gặp hàng ngày. Tạo các tình
huống giúp trẻ được học thơng qua chơi; thơng qua các trò chơi để lĩnh hội kiến thức
giúp trẻ trải nghiệm thực tế thông qua đồ dùng đồ chơi, vật thật, mơi trường ngồi
trời, lớp học…


Trẻ dán các bộ phận còn thiếu cho con lật đật

Hình ảnh các bé chơi với đồ chơi ở các góc
3.6. Biện pháp 6: Làm đồ dùng đồ chơi phục vụ tiết học
Để giờ học đạt được hiệu quả cao tôi luôn cố gắng làm những đồ dùng đồ


chơi sinh động, thu hút trẻ nhưng vẫn đảm bảo tính thẩm mỹ và mức độ an tồn
trong khi sử dụng.
Tơi tận dụng những thùng cattong, giấy bìa, chai lọ, vải vụn, vỏ sữa học
đường... để làm đồ dùng trực quan sử dụng trong giảng dạy

Hình ảnh những con rối được làm từ vải vụn, bìa, chai lọ phế thải

VD: Tôi dùng 1 thùng cattong xung quanh chiếc hộp này tôi dùng bút màu vẽ
về những đối tượng mà trẻ học như: Quả cam, con voi, con rùa..... Để trẻ nhận biết
tập nói về các đối tượng trên và kết hợp phát triển vận động thể lực bằng cách phía
trên chiếc hộp tơi kht một hình trịn, phía dưới góc của hộp tơi kht 1 hình vng
cho trẻ chơi trị chơi “Thi nhặt bóng”, từ đó trẻ có thể nhận biết được hình trịn ở
trên là để bỏ bóng, hình vng dưới là để nhặt bóng. Với hoạt động này tôi thấy trẻ
rất hứng thú tham gia, vừa cung cấp đầy đủ vốn từ lại vừa phát triển vận động cho
trẻ. Ngồi ra tơi cịn làm một số đồ dùng trực quan để sử dụng trong tiết dạy như
chai, lọ, vải vụn, vỏ sữa để làm búp bê, hoa, các loại quả, mơ hình ngơi nhà.... các
con vật ngộ nghĩnh như lợn, trâu, cá, thỏ....


Hình ảnh đồ chơi tự làm
2.7. Biện pháp 7: Cơ giáo sử dụng một số trò chơi trong hoạt động Nhận
biết tập nói để làm tăng vốn từ cho trẻ.
Những tiết học với đồ chơi có ảnh hưởng to lớn đến sự phát triển trị chơi và
lời nói. Trong thời gian học sẽ tạo ra được những hoạt động cùng nhau và sự đồng
cảm những gì diễn ra giữa trẻ.

Hình ảnh tiết học nhận biết màu sắc qua đồ chơi


Trị chơi 1: Hái hoa
- Mục đích: Giúp trẻ phân biệt các loại hoa phát triển vốn từ, luyện phát âm
cho trẻ qua tên gọi các loại hoa.
- Nội dung: Cho trẻ tiếp xúc với đối tượng, dùng tình huống trò chơi để trẻ
phát âm các từ: Hoa hồng, hoa cúc.
+ Chuẩn bị: 2 chậu (lọ) hoa. Hoặc lẵng hoa hồng, hoa cúc
Tranh lơ tơ về một số lồi hoa.
+ Cách chơi: Lần 1 trẻ lên chọn hoa theo ý thích và nói tên hoa trẻ đã chọn;

Lần 2 trẻ phải hái hoa theo u cầu của cơ và nói tên hoa theo yêu cầu.
Chơi cùng lô tô: Cô miêu tả bồn hoa, trẻ suy nghĩ và chọn tranh lô tơ đúng
loại hoa cơ miêu tả và nói tên hoa.
Trị chơi 2: Trồng cây hái quả.
- Mục đích: Luyện trí nhớ và khả năng phát triển vốn từ cho trẻ
- Nội dung: cho trẻ tiếp xúc với đối tượng, bằng tình huống chơi nhớ được các
màu xanh, đỏ, vàng và gọi tên các loại quả, các màu đó.
- Cách tiến hành:
+ Chuẩn bị: Các cây nhựa có quả gần gũi với trẻ: na, chuối, cam, cà chua
Tranh chụp một số loại quả.
+ Cách chơi:
Lần 1: Cơ cho trẻ ngồi vịng cung và hướng dẫn cách chơi: Yêu cầu trẻ vào
vườn quả và hái quả theo yêu cầu của cô.
Cô yêu cầu trẻ nói tên quả và nói màu sắc của quả
Lần 2: Cô mô tả quả (1 loại quả hoặc 2 loại quả)
Yêu cầu trẻ hái quả theo sự mô tả, mơ phỏng của cơ. Trẻ nói tên quả và màu
sắc.
Ví dụ: Hãy hái cho cơ quả trịn, vỏ sần, ăn chua, có hạt? Trẻ hái quả cam và
nói quả cam
Cơ hỏi: Quả cam này màu gì? Trẻ nói : Quả cam màu xanh


Trị chơi 3: Bắt chước tiếng kêu.
- Mục đích: Luyện cho trẻ phát âm những từ khó “tu tu”, pim pim pim, tt
tt.
- Nội dung: Dùng tình huống trị chơi để dạy trẻ phát triển vốn từ, bắt chước
tiếng kêu của cịi của loại phương tiện giao thơng: Tàu hỏa, xe đạp, ô tô, phà…
- Cách tiến hành:
+ Chuẩn bị: Ô tô, tàu hỏa, xe máy (đồ chơi)
Tranh: Ô tô, tàu hỏa, xe máy.

+ Cách chơi: Cô cho trẻ ngồi hình vịng cung rồi giới thiệu luật chơi. Hơm
nay cơ giáo đến tặng chúng mình một hộp quà to, chúng mình cùng đốn và nói xem
đó là q gì nhé! u cầu khi cơ giơ lên các con phải nói ngay tên gọi
Cơ giơ ơ tơ ->Trẻ nói ơ tơ
Cơ nói: “ Ơ tơ chạy -> trẻ nói: Pim pim”
Trẻ thực hiện tương tự với các phương tiện giao thông khác (Tàu hỏa, xe
máy…)
Động viên khuyến khích trẻ chơi.
Khi trẻ đã biết chơi, cơ có các bức tranh, tàu hỏa, ô tô, xe máy cho trẻ lên lấy
tranh và bắt chước tiếng kêu theo u cầu của cơ. Ví dụ: lấy cho cơ tranh xe máy và
làm tiếng cịi xe máy kêu.
III. Hiệu quả do sáng kiến đem lại:
Qua thực hiện việc nâng cao chất lượng giáo dục trẻ ở lớp nhóm trong q
trình tơi áp dụng sáng kiến trong suốt những năm học qua. Tơi đã tích luỹ được rất
nhiều kinh nghiệm cho bản thân, chất lượng các cháu ở lớp tôi phụ trách được nâng
lên theo từng năm học, cháu đến lớp ngày càng nhiều, cháu luôn gần gũi với cô,
mạnh dạn, hồn nhiên:
- Phát âm rõ ràng mạch lạc
- Nói khơng đúng và phát âm khơng hết câu.
- Hứng thú tham gia hoạt động cùng cô và bạn.
- Biết thể hiện vốn từ


- Vốn từ của trẻ phong phú hơn và dần dần hoàn thiện theo độ tuổi.
Qua học tập bồi dưỡng kinh nghiệm cho bản thân tôi cố gắng phấn đấu năng
cao năng lực chuyên môn phục vụ cho công tác chăm sóc giáo dục trẻ.
Tạo được niềm tin từ các bậc phụ huynh.
Để có được kết quả trên đó chính là nhờ sự giúp đỡ từ phía nhà trường, sự
giúp đỡ của chị em đồng nghiệp và sự cố gắng của bản thân trong việc nâng cao chất
lượng chăm sóc, giáo dục trẻ ở nhóm trẻ 24-36 tháng tuổi.

IV. Cam kết không sao chép hoặc vi phạm bản quyền.
Tôi xin cam đoan nội dung sáng kiến là những kinh nghiệm đã áp dụng thực
tiễn hoạt động chăm sóc giáo dục trẻ mà tơi đã thực hiện ở nhóm trẻ 24-36 tháng
tuổi. Tôi cam đoan không sao chép vi phạm bản quyền.
CƠ QUAN ĐƠN VỊ

TÁC GIẢ SÁNG KIẾN

ÁP DỤNG SÁNG KIẾN
.....................................................................
.....................................................................
.....................................................................
.....................................................................
.....................................................................
.....................................................................
.....................................................................

Nguyễn Thị Nguyệt


PHÒNG GD&ĐT
(Xác nhận, đánh giá, xếp loại)
.......................................................................................................................................
.......................................................................................................................................
....................................................................................................................................
.......................................................................................................................................
.....................................................................................................................................
......................................................................................................................................




PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO HUYỆN NGHĨA HƯNG
TRƯỜNG MẦM NON NGHĨA MINH

BÁO CÁO SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
“ Một số kinh nghiệm nhằm phát triển vốn từ cho trẻ 24 – 36 tháng”

Tác giả: Nguyễn Thị Nguyệt
Trình độ chun mơn: Trung cấp sư phạm mầm non
Chức vụ: Giáo viên dạy nhóm trẻ 24 – 36 tháng tuổi
Nơi cơng tác: Trường Mầm Non Nghĩa Minh

Nghĩa Minh, ngày

tháng 6 năm 2020



×