Tải bản đầy đủ (.docx) (23 trang)

TIỂU LUẬN CHỦ NGHĨA KHOA HỌC XÃ HỘI NHỮNG ĐẶC ĐIỂM CƠ BẢN CỦA QUÁ TRÌNH THỰC HIỆN HÓA TƯ TƯỞNG VỀ CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở LIÊN XÔ GIAI ĐOẠN 1924 1991. NHỮNG BÀI HỌC RÚT RA TRONG GIAI ĐOẠN NÀY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (565.54 KB, 23 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM KỸ THUẬT TP. HCM
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ


TIỂU LUẬN
MƠN HỌC: TRIẾT HỌC MÁC - LÊNIN
ĐỀ TÀI: NHỮNG ĐẶC ĐIỂM CƠ BẢN CỦA QUÁ TRÌNH THỰC HIỆN
HÓA TƯ TƯỞNG VỀ CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở LIÊN XÔ GIAI ĐOẠN
1924-1991. NHỮNG BÀI HỌC RÚT RA TRONG GIAI ĐOẠN NÀY
GVHD: Bùi Xuân Dũng
SVTH:

Thành Phố Hồ Chí Minh, tháng năm


NHẬN XÉT CỦA GIẢNG VIÊN
…………………………………………………………………………………….
…………………………………………………………………………………….
…………………………………………………………………………………….
…………………………………………………………………………………….
…………………………………………………………………………………….
…………………………………………………………………………………….
…………………………………………………………………………………….
…………………………………………………………………………………….
…………………………………………………………………………………….
…………………………………………………………………………………….
…………………………………………………………………………………….
…………………………………………………………………………………….
…………………………………………………………………………………….
…………………………………………………………………………………….


Điểm: …………………………

KÝ TÊN


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU..................................................................................1
1 LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI.....................................................................................................................1
2. MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU............................................................................................................2

NỘI DUNG..............................................................................2
I/ Những đặc điểm cơ bản của quá trình hiện thực hố tư tưởng về Chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô
giai
đoạn 1924 đến 1991......................................................................................................................2
II/ Những bài học lớn có thể rút ra trong giai đoạn hiện thực hố tư tưởng về Chủ nghĩa xã hội ở
Liên Xơ giai đoạn 1924 đến 1991.................................................................................................13
III/ Vận dụng................................................................................................................................18

KẾT LUẬN...........................................................................20
TÀI LIỆU THAM KHẢO....................................................20


MỞ ĐẦU
1 LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI

Trong xã hội ngày nay, chúng ta chung sống trong một xã hội hoà bình.
Tuy nhiên ít ai lại có thể nhận thức được xã hội Việt Nam ngày nay đã trải qua
bao nhiêu sự biến đổi. Và có lẽ sự biến đổi lớn nhất được ảnh hưởng bởi một
nền văn hố, chính trị cách chúng ta rất xa.
Trước đây, khi cịn Liên Xơ và hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa thế

giới thì vấn đề đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam dường như khơng có gì phải
bàn, nó mặc nhiên coi như đã được khẳng định. Nhưng từ sau khi mơ hình chủ
nghĩa xã hội ở Liên Xơ và nhiều nước Đông Âu sụp đổ, cách mạng thế giới lâm
vào thối trào thì vấn đề đi lên chủ nghĩa xã hội lại được đặt ra và trở thành tâm
điểm thu hút mọi sự bàn thảo, thậm chí tranh luận gay gắt. Các thế lực chống
cộng, cơ hội chính trị thì hí hửng, vui mừng, thừa cơ dấn tới để xuyên tạc, chống
phá. Trong hàng ngũ cách mạng cũng có người bi quan, dao động, nghi ngờ tính
đúng đắn, khoa học của chủ nghĩa xã hội, quy kết nguyên nhân tan rã của Liên
Xô và một số nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu là do sai lầm của Chủ nghĩa MácLênin và sự lựa chọn con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội. Từ đó họ cho rằng
chúng ta đã chọn đường sai, cần phải đi con đường khác. Có người cịn phụ họa
với các luận điệu thù địch, cơng kích, bài bác chủ nghĩa xã hội, ca ngợi một
chiều chủ nghĩa tư bản. Thậm chí có người cịn sám hối về một thời đã tin theo
Chủ nghĩa Mác-Lênin và con đường xã hội chủ nghĩa! Thực tế có phải như vậy
khơng? Thực tế có phải hiện nay chủ nghĩa tư bản, kể cả những nước tư bản chủ
nghĩa già đời vẫn đang phát triển tốt đẹp khơng? Có phải Việt Nam chúng ta đã
chọn con đường đi sai khơng?
Để có thể hiểu rõ thêm về nền chính trị đó chúng tơi đã quyết định đào
xâu vào vấn đề này và chọn một đề tài thể hiện sự quan tâm của chúng tôi về
4


nền chính trị ở Liên Xơ cũng như là cách mà Liên Xô ảnh hưởng đến đất nước
chúng ta thời đấy.
2. MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU

Đối tượng nghiên cứu: Chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô, Những điều Liên Xô
đã làm để có thể xây dựng thành cơng chủ nghĩa xã hội
Mục tiêu đạt được: Hiểu về cách mà một đất nước như Liên Xô xây dựng
chủ nghĩa xã hội để có thể rút ra được bài học tổng quát trong quá trình xây
dựng chủ nghĩa xã hội


NỘI DUNG
I/ Những đặc điểm cơ bản của q trình hiện thực hố tư tưởng
về Chủ nghĩa xã
hội ở Liên Xô giai đoạn 1924 đến 1991
Cách đây 100 năm, ngày 7-11-1917 đã nổ ra cuộc Cách mạng XHCN Tháng
Mười Nga, một sự kiện lịch sử làm rung chuyển thế giới, đánh dấu bước ngoặt
vĩ đại trong tiến trình phát triển của lịch sử nhân loại. Sự thắng lợi của Cách
mạng Tháng Mười Nga đã khai sinh ra CNXH hiện thực. Một thế kỷ quá độ đi
lên CNXH đã diễn ra với rất nhiều thăng trầm: có cả những thành tựu to lớn đã
đạt được ở mỗi nước và cả những đổ vỡ, thất bại. Nhưng cũng chính từ thực tiễn
thăng trầm đó, mỗi nước trên con đường xây dựng CNXH hiện thực đã đúc rút
ra nhiều bài học kinh nghiệm quý báu cho mình. Với cách mạng Việt Nam,
Cách mạng Tháng Mười Nga và lịch sử thăng trầm của CNXH hiện thực trên thế
giới ln có ý nghĩa thiêng liêng và sâu sắc đặc biệt. Mỗi lần kỷ niệm Cách
mạng Tháng Mười Nga không chỉ là một lần chúng ta bày tỏ lòng biết ơn đối
nhân dân Liên Xô và đối với lãnh tụ V.I.Lênin vĩ đại, mà cịn là dịp để chúng ta
nhìn nhận đầy đủ, sâu sắc hơn về quá khứ, hiện tại và tương lai của CNXH trên
thế giới; về giá trị, sức sống của chủ nghĩa Mác - Lênin và thực tiễn vận dụng
chủ nghĩa Mác - Lênin trong quá trình xây dựng CNXH; về những thuận lợi và


khó khăn, những thời cơ và thách thức, những bài học lịch sử từ những thành
công và sai lầm, thất bại; về mục tiêu, con đường XHCN và tiền đồ của CNXH
ở Việt Nam...
Sự nghiệp xây dựng CNXH ở nước Nga giai đoạn này diễn ra trong bối cảnh hết
sức đặc biệt. Về bối cảnh chính trị, chính quyền Xơ-viết trong những tháng năm
đầu tiên, giữa vòng vây của chủ nghĩa đế quốc, phải liên tục đương đầu với
những vụ nổi loạn, can thiệp của “thù trong, giặc ngoài”. Thêm vào đó, với
những kinh nghiệm chính trị, cầm quyền cịn ít ỏi, giai cấp công nhân và hệ

thống chính trị Xơ-viết gặp rất nhiều khó khăn trong tổ chức và xây dựng chế độ
mới. Chỉ trong một thời gian ngắn, V.I.Lê-nin đã nhận ra sự khác biệt căn bản là
“giành chính quyền đã khó nhưng xây dựng chính quyền cịn khó hơn nhiều”.
Về bối cảnh kinh tế, nước Nga Xơ-viết bắt tay vào xây dựng CNXH từ những
tiền đề kinh tế thấp kém: Chủ nghĩa tư bản (CNTB) ở Nga mới phát triển ở giai
đoạn đầu, trình độ sản xuất phổ biến của đất nước là tiểu nông, nhiều tàn tích
của chế độ phong kiến nơng nơ, chế độ chun chế chưa được xóa bỏ; nền kinh
tế kiệt quệ sau Chiến tranh thế giới thứ nhất; chế độ mới lại bị CNTB bao vây
kinh tế, cấm vận… Thêm vào đó, năng lực tổ chức quản lý cịn yếu kém của
chính quyền Xô-viết, “bệnh ấu trĩ tả khuynh” trong cải tạo xã hội cũ và xây
dựng xã hội mới cũng khiến cho bối cảnh kinh tế của nước Nga Xô-viết những
năm đầu tiên gặp nhiều khó khăn.
Bối cảnh nước Nga khi bắt tay vào xây dựng CNXH có nhiều nét đặc thù so với
lý luận chung của chủ nghĩa Mác về xây dựng CNXH. C.Mác quan niệm rằng,
những tiền đề vật chất do CNTB phát triển ở trình độ cao làm chín muồi nguyên
nhân kinh tế cơ bản của các cuộc cách mạng XHCN; tình thế để cách mạng
thắng lợi là nó phải nổ ra đồng loạt cùng lúc ở nhiều nước, chí ít là những nước
tư bản phát triển cao như Anh, Mỹ, Pháp, Đức… Nhìn chung, bối cảnh và đặc
điểm kinh tế xã hội của Nga đương thời cần rất nhiều đến sự sáng tạo khi vận
dụng lý luận của C.Mác về cách mạng XHCN. V.I. Lê-nin chính là con người


mà lịch sử cần đến và đã tạo ra trong sự nghiệp xây dựng CNXH hiện thực đầu
tiên của nhân loại.
Thời gian càng lùi xa càng cho phép chúng ta đánh giá, nhìn nhận rộng hơn, đa
chiều, sâu sắc hơn và khách quan hơn về ý nghĩa lịch sử, tầm vóc thời đại của
Cách mạng Tháng Mười, cũng như địa vị, vai trị của CNXH hiện thực đối với
tiến trình phát triển của lịch sử nhân loại.
Thứ nhất, giá trị thời đại, ý nghĩa mở đường và tinh thần khai sáng cho một thế
kỷ phát triển vừa qua của cuộc Cách mạng Tháng Mười Nga 1917


Cho đến nay, các nhà tư tưởng lớn và nhiều nhà khoa học trên thế giới đều
khẳng định về giá trị của Cách mạng Tháng Mười Nga. Thắng lợi của Cách
mạng Tháng Mười đã đập tan ách áp bức, bóc lột của chế độ phong kiến và
CNTB ở nước Nga, đưa giai cấp công nhân và quần chúng nhân dân lên nắm


chính quyền; biến ước mơ, nguyện vọng hàng nghìn năm của quần chúng lao
động về một chế độ xã hội khơng cịn bóc lột, áp bức, bất cơng và nhân dân trở
thành chủ nhân của xã hội. Cách mạng Tháng Mười Nga thắng lợi và đã đi vào
lịch sử nhân loại như một sự kiện vĩ đại nhất của thế kỷ XX, mở đầu thời đại
mới - thời đại quá độ lên CNXH trên phạm vi thế giới. Nó đã đánh dấu bước
chuyển biến về chất của CNXH khoa học: từ lý luận đã trở thành hiện thực sinh
động. V.I.Lênin từng nhận định, Cách mạng Tháng Mười đã mở đầu cho “Một
thời đại mới trong lịch sử loài người”, “một sự nghiệp mới mẻ sáng tạo ra một
chế độ nhà nước xưa nay chưa từng có”.
Cách mạng Tháng Mười Nga đã thức tỉnh và cổ vũ các dân tộc thuộc địa và phụ
thuộc vùng lên giành độc lập dân tộc, tự giải phóng khỏi mọi áp bức, bất cơng,
tiến lên xây dựng CNXH. Thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười Nga đã khẳng
định bản chất khoa học và cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin và cung cấp
những bài học lịch sử vô giá cho các cuộc cách mạng vì độc lập dân tộc và
CNXH. Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nhận định: “Giống như mặt trời chói lọi,
Cách mạng Tháng Mười chiếu sáng khắp năm châu, thức tỉnh hàng triệu, hàng
triệu người bị áp bức, bóc lột trên trái đất. Trong lịch sử lồi người chưa từng có
cuộc cách mạng nào có ý nghĩa to lớn và sâu xa như thế”.
Tuy vậy, từ sau sự kiện Đông Âu - Liên Xô (1989 - 1991) cho đến gần đây cũng
xuất hiện những ý kiến trái chiều, đặt lại vấn đề về giá trị của Cách mạng Tháng
Mười Nga. Chẳng hạn, các ý kiến cho rằng đó là “sự lầm lạc lịch sử”; rằng, “ đó
chỉ là một cuộc phiêu lưu”, “sự áp đặt từ bên trên”; rằng nó “phải chịu trách
nhiệm cho cuộc khủng hoảng của CNXH” hiện thực sau này v.v.. Tuy nhiên,

trên thực tế, cũng đã có nhiều ý kiến phản bác sắc sảo từ chính các học giả
phương Tây về những quan điểm xuyên tạc, phủ nhận giá trị của cách mạng
Tháng Mười. Cho nên, với tinh thần khách quan, khoa học và có trách nhiệm,
các nhà khoa học hãy cùng nhau trao đổi, đánh giá một cách khách quan, sâu


sắc, toàn diện về giá trị của Cách mạng tháng Mười Nga và ảnh hưởng của nó
đến sự hình thành, phát triển của CNXH hiện thực trong một thế kỷ qua.
Thứ hai, về CNXH hiện thực trên thế giới: thành tựu, hạn chế, nguyên nhân, thời
cơ, thách thức và triển vọng của nó
CNXH hiện thực trên thế giới được bắt đầu từ năm 1917 với thắng lợi của cuộc
Cách mạng Tháng Mười Nga đến nay đã được một thế kỷ. Có thành tựu và bất
cập, đổ vỡ và cải cách, đổi mới và khơi dậy bao nhiêu cảm xúc và trăn trở trong
lương tri của nhân loại trong một thế kỷ qua.
Thành tựu nổi bật của một thế kỷ xây dựng CNXH là sự lớn mạnh nhanh chóng,
sức hấp dẫn của CNXH và sự xuất hiện nhiều mơ hình XHCN trên thế giới.
CNXH từ sau Chiến tranh thế giới thứ II đã trở thành một hệ thống thế giới
mang tính đối trọng với CNTB đế quốc và là một con đường phát triển, một
hình mẫu của tổ chức xã hội mang lại tự do, công bằng và hạnh phúc cho đa số
nhân dân. Nhiều thành tựu trong tổ chức quản lý xã hội của CNXH đã khiến cho
các nước tư bản chủ nghĩa cũng phải thừa nhận và học tập. Thế giới đã phát triển
bình đẳng hơn, cơng bằng hơn. Sự lựa chọn con đường XHCN đã trở thành một
xu thế lớn.
Đã có nhiều mơ hình và các thử nghiệm ban đầu để xây dựng CNXH trong một
thế kỷ qua. Chỉ riêng nước Nga, giai đoạn 1917-1927 đã trải qua việc thử
nghiệm 3 mơ hình: “Chính sách cộng sản thời chiến” (1918 - 1921), “Chính sách
kinh tế mới” (1921-1927) và mơ hình “CNXH nhà nước” (1927- 1991) hay cịn
gọi là mơ hình Liên Xơ, với đặc trưng kế hoạch hóa, tập trung và phi sản xuất
hàng hóa.
Về chính sách cộng sản thời chiến:

-Tất cả nền công nghiệp được quốc hữu hóa và áp dụng cơ chế quản lý tập
trung nghiêm ngặt.
-Giới thiệu độc quyền nhà nước về ngoại thương.


-Kỷ luật nghiêm khắc đối với người lao động, và đình cơng có thể bị xử bắn.
-Nghĩa vụ lao động cơng ích bắt buộc áp dụng cho "tầng lớp khơng lao động".
-Phân chia lương thực – trưng thu thặng dư nông sản từ nông dân theo giá trị
tối thiểu để phân phối tập trung cho dân số còn lại.
-Lương thực và phần lớn hàng hóa được phối cấp và phân phối theo phương
thức tập trung.
-Xí nghiệp tư nhân là bất hợp pháp.
-Quản lý đường sắt theo dạng quân sự được giới thiệu.
Về chính sách kinh tế mới:
Các luật đã chấp nhận sự tồn tại chung của các khu vực tư nhân và sở hữu
chung, được đưa vào NEP, vốn là một "nền kinh tế hỗn hợp"[12] theo định
hướng của nhà nước. Một số loại đầu tư nước ngoài được Liên Xô mong đợi
theo NEP, để tài trợ cho các dự án công nghiệp và phát triển cần ngoại hối hoặc
công nghệ.
NEP trước hết là một chính sách nơng nghiệp mới.Những người Bolshevik xem
cuộc sống làng xã truyền thống là bảo thủ và lạc hậu. Với NEP, nhà nước chỉ
cho phép tư nhân chiếm đất vì ý tưởng canh tác tập thể đã vấp phải sự phản đối
mạnh mẽ.
Và cuối cùng là về CNXH Nhà nước:
Về chính trị - xã hội, xã hội xã hội chủ nghĩa là một xã hội dân chủ, Nhà nước
xã hội chủ nghĩa vừa mang bản chất của giai cấp cơng nhân vừa mang tính nhân
dân rộng rãi. Xã hội xã hội chủ nghĩa là một chế độ dân chủ, quyền lực cao nhất
thuộc về nhân dân. Bản chất giai cấp công nhân của Nhà nước thể hiện trước hết
nó là một cơng cụ để bảo vệ lợi ích của giai cấp cơng nhân. Song lợi ích của giai
cấp công nhân về cơ bản là thống nhất với lợi ích của nhân dân lao động, do

vậy, Nhà nước xã hội chủ nghĩa cịn mang tính nhân dân rộng rãi.


Về văn hóa – tư tưởng, trong xã hội xã hội chủ nghĩa phải có nền văn hố
phát triển cao; kế thừa và phát huy những giá trị của văn hoá dân tộc và tinh hoa
văn hoá của nhân loại. Trong các chế độ dựa trên chế độ chiếm hữu tư nhân sẽ
dẫn đến tình trạng tha hóa con người, tha hoá của người lao động. Trong xã hội
xã hội chủ nghĩa, con người có đầy đủ điều kiện tiến từ "vương quốc tất yếu"
sang "vương quốc tự do". Phát triển văn hoá, nâng cao chất lượng nguồn nhân
lực, đào tạo chuyên môn kỹ thuật cho người lao động trở thành một nhiệm vụ
cấp bách và có ý nghĩa đột phá để xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Về quan hệ dân tộc, xã hội xã hội chủ nghĩa là một xã hội bảo đảm cơng bằng,
bình đẳng, đồn kết giữa các dân tộc. Trong "Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản",
Marx và Engels đã nêu luận điểm giá trị: xoá bỏ tình trạng người bóc lột người
thì tình trạng dân tộc này bóc lột dân tộc khác cũng sẽ bị xố bỏ. Lenin đã bổ
sung, phát triển những quan điểm của Marx và Engels về quan hệ giữa các dân
tộc trong điều kiện mới, đồng thời đi sâu giải quyết những vấn đề về “dân tộc
thuộc địa”, các “dân tộc bị áp bức” trên thế giới, khuyến khích các phong trào
giành độc lập, chủ quyền gắn với cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc.
Về quan hệ quốc tế, quan hệ giữa dân tộc và quốc tế được giải quyết trên cơ
sở kết hợp chủ nghĩa yêu nước với chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân.
Marx, Engels và Lenin đều thống nhất trong luận điểm: chủ nghĩa cộng sản, chủ
nghĩa xã hội là có tính chất quốc tế. Chủ nghĩa yêu nước phải kết hợp với chủ
nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân trong các phong trào cách mạng, hướng
đến chủ nghĩa xã hội. Lenin khẳng định: "Khơng có sự cố gắng tự nguyện tiến
tới sự liên minh và sự thống nhất của giai cấp vô sản, rồi sau nữa, của toàn thể
quần chúng cần lao thuộc tất cả các nước và các dân tộc trên toàn thế giới, thì
khơng thể chiến thắng hồn tồn chủ nghĩa tư bản được".
Những năm 50 thế kỷ XX, chúng ta lại thấy một tìm tịi thử nghiệm mới với chủ
nghĩa cộng sản Nam Tư, do Liên đoàn cộng sản Nam Tư khởi xướng. Đặc trưng



của nó là kết hợp quản lý của nhà nước với yếu tố kinh tế thị trường và vai trò tự
quản xã hội của các cộng đồng dân cư. Mô hình Nam Tư là một phiên bản có
nhiều cải tiến từ mơ hình Liên Xơ, tuy chưa thành cơng nhưng có lẽ đây là tín
hiệu đầu tiên của đổi mới và đa dạng hóa mơ hình của CNXH hiện thực. Đến
thập niên 80, bên cạnh sự khủng hoảng, đổ vỡ của một mơ hình CNXH ở Đơng
Âu và Liên Xơ, chúng ta lại chứng kiến sự xuất hiện hàng loạt mơ hình CNXH
thời kỳ cải cách, đổi mới như “CNXH đặc sắc Trung Quốc”, “CNXH ở Việt
Nam”, “CNXH ở Lào” và “Cập nhật hóa mơ hình phát triển kinh tế - xã hội” ở
Cuba. Cùng với đó là trào lưu “CNXH thế kỷ XXI” ở khu vực Mỹ La tinh và
trên thế giới hiện nay.
Nhìn tổng quát, một thế kỷ xây dựng CNXH hiện thực, có thành cơng, có thất
bại, phải “làm đi làm lại những cái tưởng như đã làm rồi” (C.Mác). Thực tế ấy
đã mang lại nhiều nhận thức lý luận và cả các cung bậc cảm xúc của những
người yêu quý sự nghiệp giải phóng và phát triển. Sự tồn tại, phát triển rồi trì
trệ, khủng hoảng và cải cách, đổi mới của CNXH hiện thực cho chúng ta một
đánh giá khái quát về sự thăng trầm, sức sống và cả những vấn đề của nó 100
năm qua. Hiện thực hóa lý tưởng XHCN thật vinh quang nhưng cũng khơng hề
dễ dàng, thậm chí đầy gian nan, thử thách! Thực tiễn nhiều chiều cạnh của
CNXH hiện thực một thế kỷ qua, dưới cái nhìn của khoa học hơm nay, có thể rút
ra những vấn đề có tính quy luật hoặc những kinh nghiệm để quá trình xây dựng
CNXH hiện thực ở mỗi nước trong thế kỷ XXI đạt hiệu quả cao hơn. Cùng với
đó là việc xác lập niềm tin khoa học cho những người yêu quý CNXH ở Việt
Nam và thế giới hướng tới các giá trị vĩnh tồn của nó là phát triển, cơng bằng,
bình đẳng, tự do, dân chủ và hịa bình. Rằng, thế kỷ XXI, nhân loại vẫn tiếp tục
quá độ đi lên CNXH với những nhận thức mới được bổ sung từ thực tiễn của
100 năm qua và từ công cuộc cải cách, đổi mới hiện nay.



Thứ ba, kiên định, trung thành, vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác Lênin trong tiến trình cách mạng XHCN và công cuộc xây dựng CNXH trên thế
giới trong một thế kỷ qua
Khi bàn về nguyên nhân khủng hoảng của CNXH hiện thực và sự sụp đổ của
Liên Xô và chế độ XHCN ở Đông Âu, các nhà nghiên cứu đều cho rằng có
nguyên nhân khách quan và nguyên nhân chủ quan, nhưng nguyên nhân chủ
quan là chủ yếu. Trong nguyên nhân chủ quan cũng có nhiều nhân tố như: tình
trạng quan liêu, xa dân, tham ơ, tham nhũng; yếu kém trong tổ chức thực hiện
đường lối, chính sách, kể cả sai lầm về đường lối và sách lược cách mạng hay sự
phản bội mục tiêu, lý tưởng XHCN của một số nhà lãnh đạo. Nhìn nhận bao
quát hơn, sâu sắc hơn, có thể thấy những nhân tố chủ quan đó đều liên quan đến
vấn đề kiên định, trung thành, vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác Lênin trong tiến trình cách mạng XHCN và cơng cuộc xây dựng CNXH của các
nước này.
V.I.Lênin từng viết: “Không có lý luận cách mạng thì khơng có phong trào cách
mạng”; “chỉ Đảng nào được một lý luận tiền phong hướng dẫn thì mới có khả
năng làm trịn vai trị chiến sĩ tiền phong”. Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng từng
khẳng định: “Khơng có lý luận về CNXH khoa học thì khơng thể có lập trường
giai cấp vững vàng” . Tất nhiên, hệ thống lý luận CNXH khoa học chứa trong
mình bản chất khoa học và cách mạng nên nó là một hệ thống mở. Ngay trong
Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản, chính C.Mác và ph.Ăngghen từng nhấn mạnh:
“bất cứ ở đâu và bất cứ lúc nào, việc áp dụng những ngun lý đó cũng phải tuỳ
theo hồn cảnh lịch sử đương thời...”. Điều ấy có nghĩa rằng, trung thành, vận
dụng, phát triển sáng tạo CNXH khoa học phù hợp với thực tiễn là điều mà các
nhà kinh điển muốn nói với hậu thế. Câu nệ, máy móc hay nhân danh cải tổ, cải
cách, đổi mới mà thực tế là xa rời bản chất khoa học, cách mạng của chủ nghĩa
Mác - Lênin đều là những sai lầm nguy hiểm. Bế tắc, lúng túng, chao đảo về tư


tưởng, lý luận sẽ dẫn đến chuệch choạc về thực tiễn. Sai lầm trong lý luận sẽ dẫn
đến thất bại, trả giá, thậm chí là trả giá rất đắt trong thực tiễn.
Cách mạng Tháng Mười Nga và lịch sử thăng trầm của CNXH hiện thực thế

giới trong một thế kỷ qua đã xác nhận, ở đâu, lúc nào những người cộng sản
trung thành, vận dụng, phát triển sáng tạo di sản Mác - Lênin thì khi đó, ở đó
cách mạng giành được thắng lợi; ngược lại, ở đâu, lúc nào rơi vào chủ quan, duy
ý chí, máy móc, giáo điều hoặc xa rời, từ bỏ chủ nghĩa Mác - Lênin thì ở đó, lúc
đó cách mạng lâm vào khó khăn, khủng hoảng, chao đảo, thậm chí thất bại, tan
rã. Đây là vấn đề chưa và không bao giờ cũ với chúng ta.
Thứ tư, về thách thức, thời cơ và triển vọng của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
hiện nay từ ánh sáng Cách mạng Tháng Mười Nga và bài học lịch sử thăng trầm
một thế kỷ qua của CNXH hiện thực thế giới
Dưới ánh sáng của Cách mạng Tháng Mười Nga, dưới sự lãnh đạo của Đảng
Cộng sản Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập và rèn luyện, cách mạng
Việt Nam đã đi từ cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân tiến lên cách mạng
XHCN. Trước đòi hỏi của thực tiễn, dưới sự lãnh đạo của Đảng, từ năm 1986
nước ta đã tiến hành công cuộc đổi mới toàn diện và phát triển đất nước theo
định hướng XHCN. Sau hơn 30 năm đổi mới và kiên trì con đường đi lên
CNXH mà Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng Cộng sản và nhân dân đã lựa chọn,
chúng ta đã đạt được nhiều thành tựu to lớn có ý nghĩa lịch sử. CNXH ở Việt
Nam được bảo vệ, giữ vững và đang tiếp tục phát triển.
Tuy nhiên hiện nay, nước ta đang đứng trước khơng ít những khó khăn, nguy cơ,
thách thức. Từ ánh sáng của Cách mạng Tháng Mười cùng những bài học xương
máu từ sự sụp đổ của Liên Xô và chế độ XHCN ở Đơng Âu địi hỏi chúng ta
phải nhận diện rõ các nguy cơ và những vấn đề đặt ra để chủ động có phương án
giải quyết. Đó là những vấn đề liên quan đến hoàn thiện thể chế kinh tế thị
trường định hướng XHCN; vấn đề phát triển kinh tế tư nhân với tư cách là động
lực quan trọng của nền kinh tế; vấn đề hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN


và phát huy dân chủ XHCN; vấn đề đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục đào tạo
và phát triển văn hóa và con người Việt Nam; vấn đề bảo vệ lợi ích quốc gia và
bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN; vấn đề thời cơ và thách thức của Việt Nam

trong điều kiện tồn cầu hóa, hội nhập quốc tế sâu rộng và cuộc Cách mạng
cơng nghiệp 4.0,vv.. Đó là nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế so với các nước
trong khu vực và trên thế giới; nguy cơ chệch hướng XHCN; nguy cơ từ những
âm mưu, hành động “diễn biến hịa bình” của thế lực thù địch; nguy cơ từ tình
trạng suy thối về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, quan liêu, tham ơ, tham
nhũng và những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ,...
Chúng ta cần ý thức sâu sắc rằng tất cả những vấn đề, những nguy cơ đó đều
liên quan mật thiết đến vận mệnh, tiền đồ của dân tộc và chế độ XHCN ở Việt
Nam.
“Cách mạng đã chết, cách mạng muôn năm!” C.Mác đã từng viết như vậy trong
tác phẩm“Đấu tranh giai cấp ở pháp 1848-1850” như một tiên tri về tính chất
khó khăn, phức tạp và tính tất yếu của sự nghiệp cách mạng XHCN. Năm 1918,
V.I.Lênin cũng đã viết: “Nếu chính quyền Xơ viết bị chủ nghĩa đế quốc liên
minh đè bẹp, trong trường hợp xấu nhất ấy, những sách lược Bơnsêvích cũng
khơng vì thế mà khơng có ích lợi to lớn cho CNXH và giúp cho sự lớn mạnh của
cách mạng thế giới vô địch”. Từ bối cảnh của thế giới hiện nay, Đảng Cộng sản
Việt Nam nhận định: “Hiện tại, chủ nghĩa tư bản còn tiềm năng phát triển,
nhưng về bản chất vẫn là một chế độ áp bức, bóc lột và bất cơng. Những mâu
thuẫn cơ bản vốn có của chủ nghĩa tư bản, nhất là mâu thuẫn giữa tính chất xã
hội hóa ngày càng cao của lực lượng sản xuất với chế độ chiếm hữu tư nhân
tư bản chủ nghĩa, chẳng những không được giải quyết mà ngày càng trở nên sâu
sắc”(5) và “Theo quy luật tiến hóa của lịch sử, lồi người nhất định sẽ tiến tới
CNXH”(6). Nhận thức đó đang được nhiều dữ kiện của đời sống kinh tế, chính
trị, xã hội của thế giới và những thành tựu của công cuộc cải cách, đổi mới ở
nhiều nước XHCN trên thế giới xác nhận. Đồng thời, từ thực tiễn xây dựng


CNXH của Trung Quốc, Việt Nam, Lào, chúng ta có thể khẳng định rằng, kinh
tế thị trường tự nó khơng đi đến CNXH nhưng CNXH muốn thành công, tất yếu
phải phát triển kinh tế thị trường.

Chắc chắn những kinh nghiệm và xung lực từ Cách mạng Tháng Mười Nga, từ
sự nghiệp xây dựng hệ thống XHCN, từ những bài học của khủng hoảng rồi sụp
đổ của Đông Âu, của Liên Xô và cả những bài học kinh nghiệm của CNXH hiện
thực trong cải cách, đổi mới hiện nay, đều hữu ích cho sự nghiệp xây dựng
CNXH ở Việt Nam và các nước trên thế giới.

II/ Những bài học lớn có thể rút ra trong giai đoạn hiện thực
hoá tư tưởng về Chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô giai đoạn 1924
đến 1991
Ưu điểm:
Từ sự sụp đổ và tan rã của CNXH ở Liên Xơ, chúng ta có thể rút ra được những
bài học bổ ích sau đây:
Một là, phải thường xuyên chăm lo xây dựng đảng để giữ vững vai trị cầm
quyền của Đảng, bộ máy chính quyền trong sạch vững mạnh và gắn bó với nhân
dân. Xây dựng đảng vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức, ln ln gắn bó
mật thiết với nhân dân, nắm chắc quần chúng và động viên được sức mạnh của
nhân dân.


Đảng lãnh đạo bằng đường lối, có đường lối lãnh đạo đúng đắn nhưng đường lối
đó chỉ trở thành sức mạnh vật chất khi quần chúng nhân dân hiện thực hóa trong
đời sống xã hội. Do vậy, địi hỏi mỗi đảng cộng sản phải trung thành với lý luận
chủ nghĩa Mác - Lênin, vận dụng sáng tạo các nguyên lý cách mạng để đề ra
đường lối chiến lược, sách lược đúng đắn và phù hợp với thực tiễn. Để lãnh đạo,
quản lý điều hành đất nước có hiệu quả, Đảng cầm quyền, bộ máy chính quyền
phải gắn bó mật thiết với nhân dân, được lòng dân, nắm chắc dân và quy tụ được
sức mạnh của nhân dân trong thực hiện nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Khi Đảng và chính quyền bị tha hóa biến chất, xa dân và sách nhiễu dân, mối



quan hệ với nhân dân bị rạn vỡ cũng đồng nghĩa với Đảng sẽ mất quần chúng,
nhà nước và chế độ sẽ đánh mất cơ sở xã hội chính trị thì tất yếu bị lật đổ.
Đảng ln ln phải giữ vai trị cầm quyền, có nghĩa là Đảng Cộng sản phải thể
hiện quyền lực chính trị, quyền lãnh đạo về chính trị và khơng bao giờ chia sẻ
quyền lực đó cho bất kỳ lực lượng nào khác. Đảng mất là mất hết, vì Đảng lãnh
đạo tồn bộ các mặt, các lĩnh vực của xã hội, lãnh đạo hệ thống chính trị, nhân
sự cán bộ… Lãnh đạo Nhà nước thực hiện tốt chức năng, cụ thể hóa đường lối
của Đảng, quản lý tốt xã hội, kiến tạo xã hội mới, định ra chính sách xã hội đúng
đắn đáp ứng lợi ích chính đáng của nhân dân, thực sự dân chủ, lắng nghe và tơn
trọng những nguyện vọng chính đáng của nhân dân. Đảng và bộ máy chính
quyền là “xương sống” của chế độ nên phải vững mạnh, hoạt động có hiệu lực,
hiệu quả, thực sự vì nhân dân, thực hiện có hiệu quả các chức năng, nhiệm vụ
lãnh đạo, quản lý điều hành xã hội, mang lại lợi ích thiết thực cho nhân dân thì
mới bảo đảm cho sự tồn tại của chế độ xã hội và thúc đẩy tiến bộ xã hội.
Hai là, vấn đề then chốt có ý nghĩa quyết định là xây dựng và thực hiện tốt chiến
lược cơng tác cán bộ, nhất là cán bộ chủ trì và xây dựng nguồn cán bộ lãnh đạo,
quản lý kế cận, kế tiếp ở các cấp từ Trung ương đến địa phương. Trong công tác
tổ chức sắp xếp cán bộ, nhất là những vị trí chủ chốt cần lựa chọn đúng những
người thực sự tiêu biểu về bản lĩnh chính trị, đạo đức và lối sống, năng lực trí
tuệ và trình độ tổ chức thực tiễn, gần gũi nhân dân và được tín nhiệm, bảo đảm
sự vững vàng về chính trị. Kiên quyết loại khỏi bộ máy lãnh đạo của Đảng và cơ
quan Nhà nước những phần tử cơ hội thực dụng, tha hóa về chính trị tư tưởng và
đạo đức, lối sống, sách nhiễu dân và xa dân, không được tín nhiệm. Thực hiện
tốt cơng tác quản lý cán bộ, đánh giá và sử dụng cán bộ vì đó là gốc của mọi
công việc, không để mất cảnh giác để các thế lực thù địch cài cắm các phần tử
cơ hội, phần tử chống đối phản bội chui sâu, leo cao trong bộ máy của Đảng và
Nhà nước.


Ba là, xây dựng nền kinh tế ổn định và phát triển vững chắc, giữ được độc lập tự

chủ trong hội nhập kinh tế quốc tế có hiệu quả, giữ vững sự lãnh đạo của Đảng
và sự quản lý của Nhà nước đối với nền kinh tế. Sự ổn định và phát triển vững
chắc của nền kinh tế là nền tảng vật chất bảo đảm sự ổn định và phát triển bền
vững của đất nước. Khi kinh tế lâm vào khủng hoảng suy thoái, đất nước dễ lâm
vào mất ổn định chính trị, tạo điều kiện cho các thế lực thù địch lơi kéo, kích
động nhân dân chống lại Đảng và chính quyền, làm chuyển hóa chế độ xã hội
theo quỹ đạo của chủ nghĩa tư bản. Cần giữ vững sự lãnh đạo của Đảng, sự quản
lý của Nhà nước đối với nền kinh tế, bảo đảm đúng định hướng phát triển của
quốc gia, không để cho bất kỳ một thế lực nào điều khiển và thao túng nền kinh
tế. Cần duy trì được tốc độ tăng trưởng hợp lý và ổn định, phát huy tốt năng lực
nội sinh, tạo được nhiều việc làm để tăng thu nhập của người dân, bảo đảm công
bằng xã hội, an sinh xã hội, tạo cơ sở vật chất để đất nước ổn định và phát triển
bền vững. Mở rộng hội nhập quốc tế trong điều kiện tồn cầu hóa, đặc biệt là
hợp tác về kinh tế là xu thế khách quan mà các nước XHCN phải tham gia, nếu
khơng thì khó có thể tồn tại và phát triển được. Vấn đề đặt ra là các nước XHCN
mở rộng hội nhập quốc tế để tận dụng được những thành tựu khoa học cộng
nghệ, tận dụng được nguồn lực tài chính của các nước phát triển làm cho sản
xuất của đất nước ngày càng lớn mạnh đủ sức canh tranh, lợi ích quốc gia - dân
tộc và cơ sở vật chất của chủ nghĩa xã hội ngày càng được củng cố.
Bốn là, tăng cường công tác chính trị tư tưởng, nâng cao nhận thức, trách nhiệm
và bản lĩnh chính trị của cán bộ, đảng viên, nhân dân; phịng, chống có hiệu quả
chiến lược “diễn biến hịa bình” và “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”. Cơng tác tư
tưởng, lý luận phải trở thành vấn đề quan trọng hàng đầu trong điều kiện Đảng
cầm quyền, trước hết phải quan tâm thường xuyên đến công tác giáo dục lý luận
chính trị cho các đối tượng trong xã hội, đặc biệt là đội ngũ cán bộ, đảng viên
phải là những người nắm vững bản chất các nguyên lý cách mạng của chủ nghĩa
Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh thì mới trở thành những người tiên phong.


Nhận thức sâu sắc nguyên nhân dẫn đến sự sụp đổ của CNXH ở Liên xô và

Đông Âu, với những nguyên nhân chủ quan và khách quan. Giáo dục mục tiêu,
lý tưởng của Đảng, quán triệt kịp thời những nghị quyết đến cán bộ, đảng viên.
Tuyên truyền, vạch trần âm mưu, thủ đoạn thâm độc của các thế lực thù địch
chống phá sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc XHCN. Củng cố niềm tin có cơ
sở khoa học của cán bộ, đảng viên, của nhân dân vào con đường đi lên CNXH
trong giai đoạn hiện nay. Cần huy động được sức mạnh tổng hợp của cả hệ
thống chính trị và tồn xã hội trong tiến hành cơng tác chính trị tư tưởng, đặc
biệt là phải phát huy vai trò của cơ quan và cán bộ chuyên trách từ Trung ương
đến cơ sở.

Năm là, Đảng cầm quyền phải nắm chắc lực lượng vũ trang, đặc biệt chăm lo
xây dựng quân đội nhân dân và công an nhân dân thực sự trung thành, tin cậy về
chính trị, có chất lượng tổng hợp và sức mạnh chiến đấu cao, làm nòng cốt trong
nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc. Việc nắm chắc và chăm lo xây dựng lực lượng vũ
trang, nhất là quân đội nhân dân và công an nhân dân vững mạnh, thực sự trung
thành và tin cậy về chính trị là một nguyên tắc chiến lược của đảng cầm quyền,
liên quan trực tiếp đến sự sống còn của quốc gia dân tộc và chế độ. Đảng cầm
quyền phải thường xuyên làm tốt cơng tác giáo dục chính trị tư tưởng và rèn
luyện bản chất giai cấp công nhân của lực lượng vũ trang, luôn trung thành với
Đảng, với nhân dân. Nâng cao nhận thức, trách nhiệm, bản lĩnh chính trị, quyết
tâm chiến đấu của cán bộ, chiến sĩ quân đội và công an, sẵn sàng nhận và thực
hiện thắng lợi mọi nhiệm vụ được giao trong các tình huống khơng để bất ngờ
xảy ra. Đảng ln ln giữ vững vai trị lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp và toàn diện
về mọi mặt đối với lực lượng vũ trang, nhất là quân đội và công an; đặc biệt
chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ quân đội và công an vừa hồng, vừa chuyên...
Sự vững mạnh của lực lượng vũ trang không chỉ là lực lượng nòng cốt trong bảo
vệ Tổ quốc, mà còn là đội quân lao động sản xuất, đội quân công tác, lực lượng


chính trị tin cậy của Đảng và Nhà nước. Đây là lực lượng nịng cốt để cùng tồn

dân thực hiện thắng lợi nhiệm vụ quốc phòng, an ninh, chủ động xử lý kịp thời
và đập tan âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch chống phá con đường đi
lên CNXH.
Nhược điểm:
Một là, về kinh tế, duy trì quá lâu cơ chế quản lý tập trung, quan liêu bao
cấp, khơng quan tâm đến lợi ích làm triệt tiêu động lực thúc đẩy xã hội phát
triển. Hậu quả là tụt hậu rất xa so với ba trung tâm của CNTB là Mỹ, Nhật, EU.
Hai là, về chính trị, chưa xây dựng được cơ chế đảm bảo dân chủ sục sôi
trong sinh hoạt đảng và trong hoạt động của nhà nước như chỉ dẫn của Lênin.
Thiếu dân chủ là bà đỡ của các tệ nạn lãng phí, quan liêu, tham nhũng, tha hóa
trong bộ máy lãnh đạo đảng, nhà nước, nhất là ở cấp cao. Chính điều này đã làm
cho nhân dân bất bình, giảm lịng tin đối với đảng và nhà nước và là mảnh đất
tốt cho các thế lực thù địch với CNXH triển khai chiến lược diễn biến hịa bình
phá hoại trên lĩnh vực tư tưởng, chính trị, gieo cấy các nhân tố tư sản phương
Tây vào trong hệ thống đảng, nhà nước và trong xã hội các nước XHCN nhằm
thực hiện sự tự diễn biến, tự chuyển hoá từ bên trong.
III/ Vận dụng

Để đại diện cho nhà nước và dân nhân chung lòng để phát triển một bộ máy
thống nhất và đoàn kết. Việt Nam chúng ta luôn tổ chức những sự kiện hợp tác
giữa nhân dân và nhà nước.


Lễ phát động do Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Tổng Liên
đoàn Lao động Việt Nam, Bộ Thông tin và Truyền thông phối hợp tổ chức trên
Cổng Thông tin điện tử nhân đạo Quốc gia 1400. Đồng thời, Tổng Liên đồn
chính thức phát động Chương trình “Vaccine cho công nhân” thông qua Quỹ Xã
hội từ thiện Tấm lịng vàng Lao động.
Cùng tham dự có: Bí thư Trung ương Đảng, Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam Đỗ Văn Chiến; các Ủy viên Trung ương Đảng: Tổng

Thư ký Quốc hội, Chủ nhiệm Văn phịng Quốc hội Bùi Văn Cường; Chủ tịch
Tổng Liên đồn Lao động Việt Nam Nguyễn Đình Khang; đại diện lãnh đạo các
cơ quan hữu quan…

Tại lễ phát động, thay mặt ba cơ quan tổ chức, Chủ tịch Tổng Liên đoàn Lao
động Việt Nam Nguyễn Đình Khang phát động nhắn tin “Tồn dân ủng hộ
phịng, chống dịch bệnh COVID-19” và triển khai chương trình “Vaccine cho
cơng nhân”.


Phát biểu tại lễ phát động, Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ đánh giá rất cao
sự phối hợp của Tổng Liên đồn Lao động Việt Nam, Bộ Thơng tin và Truyền
thông, Ban Thường trực Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các
cơ quan, đơn vị liên quan đã tổ chức Lễ phát động “Toàn dân ủng hộ phòng,
chống dịch bệnh COVID-19” và triển khai Chương trình “Vaccine cho cơng
nhân”.

KẾT LUẬN
Cả lý luận và thực tiễn đều cho thấy, xây dựng chủ nghĩa xã hội là kiến tạo một
kiểu xã hội mới về chất, hoàn toàn không hề đơn giản, dễ dàng. Đây là cả một sự
nghiệp sáng tạo vĩ đại, đầy thử thách, khó khăn, một sự nghiệp tự giác, liên tục,
hướng đích lâu dài, khơng thể nóng vội. Vì vậy, bên cạnh việc xác định chủ
trương, đường lối đúng, bảo đảm vai trò lãnh đạo của Đảng, phải phát huy mạnh
mẽ vai trò sáng tạo, sự ủng hộ và tham gia tích cực của nhân dân. Nhân dân tiếp
nhận, ủng hộ và nhiệt tình tham gia thực hiện đường lối của Đảng vì thấy đường
lối đó đáp ứng đúng yêu cầu, nguyện vọng của mình. Sức mạnh nhân dân là cội
nguồn sâu xa của thắng lợi, của phát triển.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. />

tuong.aspx?CateID=201&ItemID=27566
2. />
lien-xo-va-dong-au-308642/



×