Tải bản đầy đủ (.docx) (35 trang)

báo cáo tốt nghiệp: huy động vốn của các ngân hàng thương mại việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (214.59 KB, 35 trang )


Bài Luận
Đề Tài:

Nghiệp vụ huy động vốn của các
ngân hàng thương mại

MỤC LỤC

22


LỜI NÓI ĐẦU

Bất kỳ một nước nào muốn tăng trưởng và phát triển đều cần một điều kiện
không thể thiếu được đó là phải tạo vốn cho nền kinh tế. Việt Nam cũng nằm
trong qui luật đó, hay nói cách khác Việt Nam muốn thực hiện được các mục tiêu
công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước là phải có vốn. Nguồn vốn đó có thể là
vốn trong nước hay vốn nước ngoài. Tiết kiệm để tạo vốn là vấn đề bức bách có
tính chiến lược cho sự phát triển kinh tế xã hội của nước ta.

33


Thể hiện mục tiêu tổng quát của chiến lược phát triển kinh tế xã hội của nước
ta bước sang thế kỉ 21 là ổn định và phát triển kinh tế xã hội, cải thiện đời sống
nhân dân thốt khỏi tình trạng nước nghèo nàn và kém phát triển, củng cố quốc
phòng và an ninh, tạo điều kiện phát triển nhanh hơn. Vì thế phải huy động nhiều
nguồn vốn, xét về mặt chiến lược thì nguồn vốn trong nước là chủ yếu, vững chắc,
quyết định và nguồn vốn từ bên ngoài là quan trọng.
Nếu xét ở góc độ của Ngân hàng thương mại thì nguồn vốn là cơ sở để tổ chức


hoạt động kinh doanh quyết định đến quy mô của hoạt động Ngân hàng nói chung
và quy mơ các hoạt động tín dụng nói riêng, nguồn vốn dồi dào là cơ sở tạo uy tín
đảm bảo khả năng cạnh tranh của Ngân hàng thương mại . Về phía Ngân hàng
muốn giải quyết tốt vấn đề huy động vốn trong dân cư cần phải tìm ra những giải
pháp tốt nhất, cơng cụ lãi suất và các hình thức huy động vốn. Vì vậy nguồn vốn
là sự cần thiết khơng thể thiếu được của Ngân hàng thương mại.
Xuất phát từ thực tiễn của Ngân hàng Việt Nam, trước yêu cầu của đời sống
kinh tế xã hội đất nước, trước sự cạnh tranh gay gắt trong nước và trên thị trường
quốc tế nên yêu cầu cấp thiết Ngân hàng thương mại phải xây dựng chiến lược
“Huy động vốn” cho những năm mới của thế kỷ XXI.
Qua quá trình nghiên cứu, trên cơ sở lý luận qua các tài liệu; tạp chí Ngân
hàng, tài liệu môn lý thuyết tiền tệ Ngân hàng và kiến thức học tập từ cô giáo bộ
môn, em mạnh dạn làm đề tài “Nghiêp vụ huy động vốn của các Ngân hàng
thương mại”.
Trong quá trình viết, do trình độ nhận thức và hiểu biết có hạn nên bài viết này
cịn có nhiều những thiếu sót, vì vậy em rất mong nhận được sự giúp đỡ của cô
giáo để bài viết này được hoàn thiện hơn.
Nội dung bài gồm:
Chương 1: cơ sở lý luận
Chương 2: thực trạng huy động vốn ở Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển
nông thôn

44


Chương 3: Một số giải pháp và kiến nghị đối với việc huy động vốn của Ngân
hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn

55



CHƯƠNG I:
CƠ SỞ LÝ LUẬN CHUNG

1. SỰ RA ĐỜI VÀ PHÁT TRIỂN CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG
MẠI, VAI TRÒ CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI:
1.1 Sự ra đời và phát triển của Ngân hàng thương mại:
Nghề kinh doanh tiền tệ tiền thân của Ngân Hàng ra đời gắn liền với thương
mại, khi có sự giao lưu hàng hố giữa các vùng, các quốc gia với các loại tiền tệ
khác nhau gây trở ngại cho việc mua bán thanh toán và đặc biệt phức tạp trong
việc chuyển đổi bảo quản tiền tệ.Vì thế thúc đẩy sự ra đời của những tổ chức
chuyên kinh doanh tiền tệ, để đảm nhận những tổ chức kinh doanh la thực hiện
việc chuyển đổi tiền tệ giữa các vùng các nước để phục vụ công việc giao lưu
hàng hoá. Đổi các loại tiền tệ khác nhau ra vàng bạc và ngược lại, theo yêu cầu
của sự phát triển các quan hệ tiền tệ hàng hoá. Nghiệp vụ đổi tiền tệ đã kéo theo
các nghiệp vụ khác mà trước hết là nhận tiền gửi, nhận bảo quản vàng bạc đã tạo
ra những chuyển biến về chất trong hoạt động của các tổ chức kinh doanh tiền
tệ.Việc nhận tiền gửi và bảo quản vàng bặc ngày càng phát triển,tạo điều kiện cho
các tổ chức kinh doanh tiền tệ phát hàng những chứng phiếu (giấy nhận nợ) là
phương tiện thanh toán thay cho tiền. Lúc đầu các giấy nhận nợ chỉ là những biên
lai xác định quyền sở hữu số tiền vàng đó, tiến tới phát hành các loại chứng phiếu
đảm bảo cho khách hàng có thể sử dụng nó trong việc mua bán, thanh toán thay
cho việc rút tiền vàng. Nghiệp vụ nhận tiền gửi phát triển cùng với việc sử dụng
rộng rãi các chứng phiếu thanh toán thay cho tiền mặt đã tạo nên nguồn dự trữ đã
được sử dụng để cho vay sinh lời. Đây là một sự kiện quan trọng trong việc
chuyển các tổ chức hoạt động dịch vụ tiền tệ một cách thuần tuý thành các tổ chức
Ngân hàng chuyên kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ tín dụng.
Ngân hàng được hình thành phát triển qua một quá trình lâu dài với nhiều hình
thái kinh tế xã hội khác nhau. Trong thời kỳ đầu, vào khoảng thế kỷ 15 đến thế kỷ


66


18, các Ngân hàng còn hoạt động độc lập với nhau và thực hiện các chức năng
như nhau, đó là làm trung gian tín dụng, trung gian thanh tốn trong nền kinh tế
và phát hành giấy bạc Ngân hàng. Sang thế kỷ 18, lưu thơng hàng hố ngày càng
mở rộng và phát triển, việc các Ngân hàng cùng thực hiện chức năng phát hành
giấy bạc Ngân hàng làm cho lưu thơng có nhiều loại giấy bạc Ngân hàng khác
nhau đã gây cản trở cho q trình lưu thơng hàng hố và phát triển kinh tế. Chính
điều đó đã dẫn đến sự phân hoá trong hệ thống Ngân hàng và Ngân hàng thương
mại cũng ra đời từ đó.
Thời kỳ đầu, các Ngân hàng thương mại thực hiện tất cả các hoạt động của nó
như nhận tiền gửi và làm dịch vụ thanh tốn. Ban đầu chủ yếu là nhận tiền gửi
khơng kỳ hạn, có kỳ hạn và cho vay ngắn hạn, về sau, các Ngân hàng thương mại
thực hiện cả cho vay trung - dài hạn bằng nguồn vốn trung hạn, dài hạn do huy
động tiền gửi trung hạn, dài hạn và phát hành trái khoán.
Cho đến cuối những năm 1960, đặc điểm đặc thù để phân biệt một Ngân hàng
thương mại với một Ngân hàng trung gian khác là ở chỗ Ngân hàng thương mại là
một đơn vị duy nhất được phép mở tài khoản tiền gửi không kỳ hạn cho cơng
chúng. Ngân hàng thương mại có thể tồn tại dưới nhiều dạng sở hữu khác nhau.
Ngân hàng thương mại có thể được thành lập bằng 100% vốn của tư nhân, 100%
vốn của Nhà nước hoặc là sự hùn vốn giữa tư nhân với Nhà nước hoặc với người
nước ngoài. Ngân hàng thương mại gắn liền với sự phát triển của sản xuất và lưu
thơng hàng hố, qua đó khẳng định hoạt động kinh doanh của Ngân hàng bắt đầu
tư tín dụng, Ngân hàng thương mại đã phát triển mạnh mẽ cả về số lượng, chất
lượng và trở thành trung gian tài chính lớn nhất.
1.2 Vai trị của Ngân hàng thương mại:
- Với tư cách là một doanh nghiệp, để hoạt động kinh doanh tốt thì phải có
vốn, để có vốn hoạt động thì Ngân hàng thương mại phải tìm cách để huy động
được một số vốn lớn từ các chủ thể kinh tế có vốn nhàn rỗi trong nền kinh tế để

bù lại Ngân hàng thương mại phải trả lại cả vốn và lãi cho chủ sở hữu khi đến
hạn. Với tư cách là người đi vay, Ngân hàng thương mại phải đảm bảo trả đúng

77


hạn vốn huy động hoặc đáp ứng phương thức thanh tốn của khách hàng với một
món lợi tức hợp lý kèm theo. Cịn với tư cách người cho vay thì Ngân hàng
thương mại sử dụng vốn đi thuê để cho thuê lại, tức là tạm thời bán quyền sử
dụng vốn cho người khác và Ngân hàng thương mại cũng luôn mong muốn khách
hàng của mình sử dụng vốn này có hiệu quả và hoàn trả đầy đủ vốn và lãi đúng kỳ
hạn theo quy định đã cam kết. Qua đó Ngân hàng thương mại là một trong những
trung gian tài chính lớn nhất, một trong những trung tâm thanh tốn của nền kinh
tế. Vai trò của Ngân hàng thương mại cịn góp phần giảm chi phí lưu thơng, nâng
cao hiệu quả sử dụng vốn, góp phần thúc đẩy nền kinh tế tăng trưởng, thúc đẩy
lực lượng sản xuất phát triển, góp phần mở rộng quan hệ giao lưu kinh tế.
- Ngân hàng thương mại cịn có vai trị tập trung vốn của nền kinh tế: Trong
nền kinh tế có những chủ thể có dư tiền và khoản tiền đó chưa được sử dụng một
cách triệt để ( ví dụ như vẫn cịn cất giấu trong gia đình chưa được mang ra lưu
thông) nhưng họ vẫn muốn tiền này sinh lời cho mình và họ nghĩ là cho vay và có
những chủ thể cần tiền để hoạt động kinh doamh. Nhưng những chủ thể này
khơng quen biết nhau và cũng có thể không tin tưởng nhau nên tiền vẫn chưa
được lưu thơng. Ngân hàng thương mại với vai trị trung gian của mình, nhận tiền
từ người muốn cho vay, trả lãi cho họ và đem số tiền ấy cho người muốn vay.
Thự hiện được điều này Ngân hàng thương mại huy động và tập trung các
nguồn vốn nhà rỗi trong nền kinh tế, mặt khác với số vốn này Ngân hàng thương
mại sẽ đáp ứng được nhu cầu vốn của nền kinh tế để sản xuất kinh doanh. Qua đó
nó thúc đẩy nền kinh tế phát triển.
Ngân hàng thương mại vừa là người cho vay vừa là người đi vay với số lãi
suất chênh lệch có được nó sẽ duy trì hoạt dộng của mình.Vai trị trung gian này

trở nên phong phú hơn với việc phát hành thêm cổ phiếu, trái phiếu,… Ngân hàng
thương mại có thể làm trung gian giữa công ty và các nhà đầu tư; chuyển giao
mệnh lệnh trên thị trường chứng khoán; đảm nhiệm việc mua bán trái phiếu công
ty….

88


2. NỘI DUNG HOẠT ĐỘNG CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG
MẠI:
Ngân hàng thương mại là một tổ chức kinh doanh tiền tệ, nó hoạt động trên cơ
sở huy động vốn và đầu tư vốn. Ngân hàng thương mại đi vay để cho vay, thực
hiện nghiệp vụ chiết khấu và làm phương tiện thanh toán. Việc Ngân hàng thương
mại đi vay để cho vay cũng nhằm mục đích trọng yếu nhất là tìm kiếm lợi nhuận.
Đã là một doanh nghiệp hoạt động trên thị trường tài chính, q trình hoạt động
nghiệp vụ tín dụng, thanh toán và các nghiệp vụ kinh doanh khác và dùng làm
nguồn vốn để kinh doanh. Bản chất của nguồn vốn huy động là tài sản của các chủ
sở hữu khác, không thuộc quyền sở hữu của Ngân hàng nhưng Ngân hàng có
quyền sử dụng trong thời gian hoạt động và có trách nhiệm hồn trả cả gốc và lãi.
Ngân hàng thương mại xây dựng chiến lược huy động vốn bằng nhiều hình thức:
2.1 Nhận tiền gửi:
Đây là nguồn vốn chủ yếu, chiếm tỉ trọng lớn trong tổng nguồn vốn huy động
nói riêng và trong nguồn vốn kinh doanh của các Ngân hàng thương mại nói
chung. Các Ngân hàng thương mại huy động tiền gửi của các tổ chức kinh tế, cơ
quan, dân cư dưới nhiều hình thức khác nhau.
Tiền gửi thanh tốn (tiền gửi khơng kỳ hạn) là loại tiền được thể hiện trên các
tài khoản tiền gửi của khách hàng để thực hiện chi trả về mua hàng hoá và thực
hiện các dịch vụ khác trong hoạt động kinh doanh của mình. Ngân hàng mở cho
khách hàng một tài khoản tiền gửi thanh toán séc hay tài khoản vãng lai để quản
lý tài sản của khách hàng.

Tiền gửi không kỳ hạn thuần tuý là khoản tạm thời nhàn rỗi ở khách hàng. Họ
gửi vào Ngân hàng không mang tính chất của tài khoản tiền gửi thanh tốn, chỉ
nhằm mục đích an tồn tài sản cho khách hàng hoạt động vì mục đích lợi nhuận
nên để có lợi nhuận Ngân hàng thương mại phải kinh doanh có hiệu quả. Hành vi
đi vay để cho vay thực chất là đi mua quyền sử dụng vốn để bán lại quyền sử
dụng vốn đó cho một chủ thể thiếu vốn khác trong nền kinh tế.

99


Trước hết để có vốn hoạt động thì Ngân hàng thương mại phải huy động vốn
bằng cách nhận tiền gửi: Tiền gửi có thể phát hành séc, tiền gửi tiết kiệm khơng
kỳ hạn và có kỳ hạn. Sau đó họ cho vay thế chấp và để mua các trái khoán Chính
phủ, trái khốn của chính quyền địa phương. Huy động vốn và đầu tư vốn là có
quan hệ khơng thể tách rời, để có nguồn vốn lớn thì các Ngân hàng thương mại
phải tìm nhiều biện pháp hữu hiệu thu nạp một cách nhanh chóng. Sau đó dùng số
vốn đó cho vay mà chủ yếu là cho vay ngắn hạn, đầu tư vốn có hiệu quả hay
khơng sẽ quyết định sự tồn tại và phát triển của Ngân hàng thương mại.
2.2 Nguồn vốn của Ngân hàng thương mại bao gồm :
Nguồn vốn huy động, nguồn vốn đi vay, nguồn vốn tự dó. Ngồi ra cịn có các
nguồn vốn được hình thành trong q trình hoạt động. Trong đó mỗi nguồn vốn
đều có một tính chất và vai trị riêng trong tổng nguồn vốn hoạt động của Ngân
hàng thương mại.
2.2.1 Nguồn vốn huy động:
Nguồn vốn huy động là những phương tiện tiền tệ mà Ngân hàng huy động
được thông qua các hình thức :
- Phát hành kỳ phiếu.
- Phát hành trái phiếu.
- Các chứng chỉ tiền gửi có kỳ hạn.
Các hình thức trên, các Ngân hàng thương mại phải trả lãi suất cao hơn so với

lãi suất tiền gửi. Nguồn vốn này chỉ phát sinh khi Ngân hàng thiếu vốn mà vốn tự
có và vốn huy động tiền gửi khơng đủ. Qua đó ta thấy nguồn vốn huy động là
cơng cụ chính, là nguồn vốn chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tổng nguồn vốn kinh
doanh và giữ vị trí quan trọng trong hoạt động kinh doanh của Ngân hàng thương
mại. Số vốn mà các Ngân hàng thương mại huy động là tài sản của các chủ sở hữu
Ngân hàng được quyền sử dụng nhưng phải có trách nhiệm hồn trả cho họ đúng
thời hạn cả vốn và lãi. Các Ngân hàng thương mại chỉ được sử dụng nguồn vốn
này vào các nghiệp vụ tín dụng như cho vay, đầu tư, chiết khấu... mà không được

10
10


sử dụng để hùn vốn liên doanh, mua cổ phần, mua tài sản cố định cho Ngân hàng
cũng như các mục đích khác ngồi kinh doanh.
2.2.2 Nguồn vốn đi vay:
Vốn đi vay là vốn được hình thành qua việc vay vốn trên thị trường và vay
của Ngân hàng Trung ương. Trong tổng số vốn hoạt động của Ngân hàng có một
bộ phận vốn bổ sung chiếm tỷ trọng đáng kể đó là vốn đi vay. Các Ngân hàng
thương mại đi vay vốn để bổ sung vào nguồn vốn hoạt động của mình khi đã sử
dụng hết vốn tự có, vốn huy động tiền gửi, vốn huy động khác mà vẫn khơng có
đủ để hoạt động và khi cần sử dụng họ rút tiền ra để chi tiêu.
Tiền gửi có kỳ hạn: Là tiền gửi của các doanh nghiệp, các đơn vị kinh doanh,
nó được chia làm nhiều kỳ hạn khác nhau: ngắn hạn, dài hạn và trung hạn, nhưng
hiện nay chủ yếu là kỳ hạn ngắn. Tuy vậy do tính chất tương đối ổn định của nó
nên tiền gửi có kỳ hạn thực sự là nguồn vốn quan trọng đối với Ngân hàng thương
mại. Nếu lãi suất hấp dẫn, tiền gửi có kỳ hạn sẽ có xu hướng phát triển, song nếu
lãi suất không hấp dẫn hoặc bị lãi suất của tín phiếu kho bạc, trong đó có trung
hạn sẽ dẫn đến bị biến động đột ngột làm đảo lộn nguồn vốn của Ngân hàng
thương mại và gây khó khăn không nhỏ cho công tác chi trả của Ngân hàng.

Tiền gửi tiết kiệm: Là khoản tiền để dành của một cá nhân hay một gia đình
gửi vào Ngân hàng nhằm hưởng lãi suất theo định kỳ. Nguồn vốn huy động này
chủ yếu là tiền gửi của những người tiêu dùng. Các Ngân hàng thương mại thực
hiện huy động tiền gửi tiết kiệm dưới nhiều hình thức, thời hạn khác nhau:
- Tiền gửi tài khoản không kỳ hạn.
- Tiền gửi tài khoản có kỳ hạn.
2.3 Nguồn vốn huy động khác:
Khi nguồn vốn tự có và nguồn vốn huy động ở các khoản tiền gửi trên không
đủ để đáp ứng cho nhu cầu sử dụng vốn của mình, các Ngân hàng thương mại
được phép huy động vốn của Ngân hàng, đòi hỏi các Ngân hàng thương mại phải
tạo ra một quỹ dự trữ cần thiết.

11
11


Bên cạnh việc mở rộng nguồn vốn thì các Ngân hàng thương mại phải đảm
bảo an toàn vốn trong hoạt động kinh doanh của mình để tránh được những rủi ro
và tổn thất trong việc đầu tư vốn của Ngân hàng thương mại, rủi ro lãi suất khi có
sự chênh lệch về thời hạn giữa nguồn vốn và sử dụng vốn, sự khơng cân xứng về
tài sản có và tài sản nợ xảy ra trong q trình hoạt động.
Nói cách khác, khi tạm thời thiếu vốn khả dụng thì Ngân hàng thương mại có
thể đi vay của các tổ chức tài chính, tín dụng trong nước, vay của các tổ chức, cá
nhân ở nước ngồi. Nếu vẫn khơng đáp ứng đủ trong các trường hợp trên thì
Ngân hàng thương mại sẽ đi vay của Ngân hàng Trung ương. Ngân hàng trung
ương đóng vai trị là người đi cho vay cuối cùng phù hợp với chính sách tiền tệ tại
thời điểm đó.
2.4 Các nguồn vốn khác:
Ngồi các nguồn vốn kể trên, các Ngân hàng thương mại cịn có một số vốn
khác có thể sử dụng để cho vay. Đó là nguồn vốn hình thành trong q trình thanh

tốn của Ngân hàng, giao dịch trong thanh toán chênh lệch giữa thời gian từ lúc
nhận vốn thanh tốn đến khi thanh tốn thì Ngân hàng thương mại tận dụng được
một khoản vốn rồi sử dụng trong kinh doanh. Quản lý tốt nguồn vốn này sẽ tạo
được nguồn vốn để cho vay ngắn hạn mà khơng phải trả lãi suất.
2.5 Vai trị của nguồn vốn huy động đối với hoạt động kinh doanh của Ngân
hàng thương mại:
Ngân hàng thương mại ln đóng vai trị làm trung gian tài chính đó là thu
nhận tiền gửi tạo nguồn vốn. Nguồn vốn trong Ngân hàng thương mại khơng
những là phương tiện kinh doanh chính mà cịn là đối tượng kinh doanh chủ yếu
của các Ngân hàng thương mại. Do vậy nguồn vốn của Ngân hàng thương mại có
vai trị quyết định khả năng thanh tốn và chi trả của một Ngân hàng, gây thanh
thế và uy tín cho Ngân hàng đó. Để có một khối lượng vốn lớn từ nhiều nguồn
vốn phong phú đa dạng phục vụ cho mục đích mở rộng quy mơ hoạt động tín
dụng của Ngân hàng thương mại mà vẫn đảm bảo khả năng thanh toán.

12
12


2.6 Chức năng của ngân hang thương mại.
2.6.1 Chức năng làm trung gian tín dụng
Với chức năng trung gian tín dụng, ngân hàng thương mại làm "cầu nối" giữa
người thừa vốn và người thiếu vốn và nó đã khơng chỉ đem lại lợi ích cho những
người dư thừa vốn và những người thiếu vốn mà cịn đem lại lợi ích kinh tế cho
bản thân nó và nền kinh tế. Đối với ngân hàng, họ sẽ tìm được lợi nhuận cho bản
thân mình từ chênh lệch giữa lãi suất cho vay và lãi suất tiền gửi hoặc hoa hồng
môi giới, 80% lợi nhuận của Ngân hàng Công thương - Ngân hàng thương mại
Quốc Doanh là thông qua hoạt động cho vay. Lợi nhuận này chính là cơ sở cho
Ngân hàng thương mại tồn tại và phát triển. Đối với nền kinh tế, chức năng này
có vai trị quan trọng trong việc thúc đẩy tăng trưởng kinh tế vì nó đáp ứng nhu

cầu vốn để đảm bảo quá trình sản xuất được thực hiện liên tục và để mở rộng
quy mô sản xuất. Với chức năng này, Ngân hàng đã biến vốn nhàn rỗi khơng hoạt
động thành vốn hoạt động, kích thích quá trình luân chuyển vốn, thúc đẩy sản
xuất kinh doanh.
2.6.2 Chức năng trung gian thanh toán.
Chức năng trung gian thanh tốn có nghĩa là ngân hàng đứng ra thanh
tốn hộ cho khách hàng bằng cách chuyển tiền từ tài khoản này sang tài khoản
khác theo yêu cầu của họ. Thông qua chức năng này Ngân hàng đóng vai trị là
người "thủ quỹ" cho các doanh nghiệp và cá nhân bởi ngân hàng là người giữ
tiền của khách hàng, chi tiền hộ cho khách hàng. Nền kinh tế thị trường càng
phát triển thì chức năng này của ngân hàng ngày càng được mở rộng.
Thơng qua chức năng trung gian thanh tốn, hệ thống Ngân hàng thương
mại góp phần phát triển nền kinh tế. Khi khách hàng thực hiện thanh toán qua
ngân hàng sẽ làm giảm rủi ro, giảm chi phí thanh toán cho khách hàng đồng thời
tốc độ luân chuyển vốn kinhgóp phần tăng lợi nhuận của ngân hàng thơng qua
việc thu lệ phí thanh tốn. Hơn nữa, nó lại tăng nguồn vốn cho vay của ngân
hàng thể hiện trên số dư có tài khoản tiền gửi của khách hàng. Chức năng này
cũng chính là cơ sở để hình thành chức năng tạo tiền của Ngân hàng thương mại.

13
13


2.6.3 Chức năng tao tiền.
Đây là hệ quả của hai chức năng trên trong hoạt động ngân hàng: Từ một
số dự trữ ban đầu thơng qua q trình cho vay và thanh tốn bằng chuyển
khoản của ngân hàng thì lượng tiền gửi mới được tạo ra và nó lớn hơn so với
lượng dự trữ ban đầu gấp nhiều lần, gọi là quá trình tạo tiền của hệ thống ngân
hàng.
Một ngân hàng sau khi nhận một món tiền gửi, trên tài khoản tiền gửi

của khách hàng tại ngân hàng sẽ có số dư. Với số tiền này sau khi đã để lại một
khoản dự trữ bắt buộc, ngân hàng sư đem đi đầu tư, cho vay từ đó nó sẽ
chuyển sang vốn tiền gửi của ngân hàng khác. Với vòng quay của vốn thơng
qua chức năng tín dụng và thanh tốn của ngân hàng. Ngân hàng thương mại
thực hiện được chức năng tạo tiền.

14
14


CHƯƠNG II
THỰC TRẠNG HUY ĐỘNG NGUỒN VỐN Ở NGÂN HÀNG
NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN NƠNG THƠN VIỆT NAM.

Trong q trình tiến hành cơng nghiệp hố, hiện đại hố đất nước, đưa nước ta
thành một nước có nền kinh tế phát triển mạnh, Nhà nước ta đã xác định mục tiêu
hàng đầu và quan trọng đó là phải có nguồn vốn và trong số nguồn vốn của ngân
hàng thương mại thì số vốn huy động chiếm số lượng lớn, hoạt động của các ngân
hàng thương mại Việt Nam hiện nay về vấn đề huy động vốn đang diễn ra trong
điều kiện khá thuận lợi vì có thị trường chứng khốn ra đời, tiền nhàn rỗi của dân
cư tăng lên...Nhưng bên cạnh đó cũng có nhiều khó khăn và thử thách. Trong một
số năm trở lại đây thì huy động vốn trong nước của các ngân hàng thương mại có
vai trị quyết định và bằng các hình thức huy động truyền thống như nhận tiền gửi
cịn có thêm các loại hình huy động mới đó là huy động bằng ngoại tệ, phát hành
kỳ phiếu, trái phiếu...
1.

Khái quát về Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nơng thơn Việt
Nam.


1.1Lịch sử hình thành vá phát triển.
-

Năm 1988: Được thành lập ngày 26/03/1988 với tên gọi Phát triển Nông nghiệp
Việt Nam.

-

Năm 1990: Đổi tên thành Nông nghiệp Việt Nam.

-

Năm 1995: Đề xuất thành lập Ngân hàng phục vụ người nghèo, nay là Ngân hàng
Chính sách xã hội.

-

Năm 1996: Đổi tên thành Ngân hàng Nông nghiệp va Phát triển Nông thôn Việt
Nam.

-

Năm 2003: Được phong tặng danh hiệu Anh hung Lao động thời kỳ đổi mới.

15
15


-


Năm 2006: Đạt giải thưởng Sao Vàng đất việt.
Năm 2008:Đảm nhiệm chức chủ tịch APRACA; Đạt Top 10 Giải thưởng Sao
Vàng đầt việt

-

Năm 2009: Khai trương hệ thống IPCAS II, kết nối trực tuyến toàn bộ hệ thống.
Vinh dự được Tổng Bí thư tớ thăm và làm việc. Là ngân hàng đầu tiên lần thư 2
liên tiếp nhận đạt giải thưởng Top 10 Sao Vàng đất việt.

-

HỘI ĐỒNG THÀNH VIÊN
Năm 2010: Top 10 trong 500 doanh nghiệp lớn nhất Việt Nam, tiếp tục là Định
chế tài chính có vốn điều lệ lớn nhất việt Nam. Agribank bứt phá vươn lên vị trí
ngân hàng số 1 Việt Nam trong lĩnh vực phát triển chủ thẻ. Ngày 28/6/2010,

Agribank chính thức khai trương Chi nhánh nước ngoài đầu tiên tại Campuchia.
BAN THƯ KÝ HĐTV
BAM KIỂM SỐT ỦY BAN QUẢN LÝ RỦI RO
Agribank chính thức công bố thành lập Trường Đào tạo Cán bộ (tiền thân là Trung
tâm Đào tạo) vào dịp 20/11/2010. 2010 cũng là năm Agribank tổ chức thành công
TỔNG GIÁM ĐỐC
Đại hội Đảng bộ lần thứ VIII (nhiệm kỳ 2010 – 2015), Hội nghị điển hình tiên tiến
lần thứ III, Hội thao toàn ngành lần thứ VI.
Năm 2011: Chuyển đổi theo mơ hình cơng ty Trách nhiệm hữu hạn một thành
HỆ THỐNG KIỂM TRA KIỂM SỐT NỘI BỘ
viên
do Nhà CÁC
nước PHỊNG

làm chủ sở
hữu. GIÁM ĐỐC
KIỂM TỐN
TRƯỞNG
TỔNG
-

HỆ THỐNG BAN CHUN MƠN NGHIỆP VỤ

SỞ GIAOCHI
DỊCH
CHI NHÁNH NƯỚC NGỒI
PHỊNG
ĐẠI ĐƠN
DIỆNVỊ SỰ NGHIỆP
CƠNG TY CON
NHÁNH LOẠI 1,VĂN
LOAI
2

1.2Hệ thống tổ chức.
PHÒNG GIAO DỊCH

CHI NHÁNH LOẠI 3

PHÒNG GIAO DỊCH

16
16


CHI NHÁNH


2. Các hình thức huy động vốn.
17
17


Nguồn vốn huy động là số vốn chủ yếu trong tổng nguồn vốn của các Ngân
hàng thương mại, các ngâ hàng thương mại Việt Nam đã xây dựng chiến lược huy
động vốn bằng nhiều hình thức: Nhận tiền gửi, tiền gửi tiết kiệm, ngồi ra cịn có
các hình thức huy động khác như phát hành kỳ phiếu, trái phiếu và chứng chỉ tiền
gửi có kì hạn.
- Tiền gửi khơng kì hạn: Là loại tiền gửi mà khách hàng có thể rút ra bất cứ
lúc nào. Ở nhiều nước thì phần lớn các giao dịch thanh toán được thực hiện bằng
séc cịn Việt Nam thì tài khoản được thực hiện thường gọi là tài khoản tiền gửi
thanh toán gồm tài khoản thanh toán dùng cho doanh nghiệp và tài khoản thanh
toán cho cá nhân. Hiện nay các Ngân hàng thương mại trả lãi thanh toán cho loại
tiền gửi này (Khoảng 0,1%/tháng).
Tiền gửi không kỳ hạn gồm hai loại :
Tiền gửi thanh toán: Là loại tiền gửi mà khách hàng gửi vào ngân hàng để
thực hiện các khoản thanh toán về tiền mua hàng hoá, dịch vụ và các khoản
thanh toán khác phát sinh trong quá trình hoạt động kinh doanh của khách hàng.
Đứng trên góc độ là khách hàng thì đây là tiền khách hàng gửi vào ngân hàng để
sử dụng các cơng cụ thanh tốn khơng dùng tiền mặt: Séc, thẻ thanh tốn, uỷ
nhiệm chi... Họ có quyền rút ra bất kỳ lúc nào thơng qua cơng cụ thanh tốn.
Đứng trên góc độ ngân hàng thì ngân hàng coi đây là một khoản tiền mà họ phải
có trách nhiệm hồn trả cho khách hàng bất kỳ lúc nào. Tuy nhiên ngân hàng
cần tận dụng loại tiền gửi này để làm vốn kinh doanh của mình bởi vì trong quá
trình lưu chuyển vốn của ngân hàng do có sự chênh lệch giữa các khoản tiền gửi

vào và rút ra giữa các tài khoản của khách hàng.
Tiền gửi không kỳ hạn thuần tuý: Là loại tiền gửi không kỳ hạn, khách
hàng gửi vào ngân hàng nhằm bảo đảm an toàn về tài sản. Tiền gửi không kỳ
hạn thuần tuý cũng là tài sản của người ký thác, họ có quyền rút bất kỳ lúc nào,
ngân hàng ln ln phải đảm bảo có thể thanh tốn, lãi suất tiền gửi khơng
kỳ hạn thuần t cao hơn lãi suất tiền gửi thanh tốn.
Mục đích của người gửi tiền là bảo đảm an tồn vì khách hàng không xác

18
18


định được thời gian nhà rỗi cho số tiền của họ vả họ khơng có nhu cầu sử dụng
tiền gửi thanh tốn khơng dùng tiền mặt của ngân hàng.
- Tiền gửi có kì hạn: là loại tiền gửi mà khách hàng có thể rút ra sau một thời
hạn nhất định ở Việt Nam trong nhưng năm qua thì tỷ trọng tiền gửi có kỳ hạn
cũng có xu hướng tăng lên trong tổng số vốn tiền gửi có 2 loại tiền gửi có kỳ hạn
đã được áp dụng:
+ Tiền gửi: Có kỳ hạn theo tài khoản:
+ Tiền gửi: Có kỳ hạn dưới hình thức phát hành trái phiếu Ngân hàng trong đó
Ngân hàng chủ động phát hành phiếu nợ để huy động vốn thường nhằm mục đích
đã định và được huy động theo 2 phương thức:
+ Phát hành theo mệnh giá: Người mua trả tiền mua kì phiếu mệnh giá đã
được ghi trên kỳ phiếu khi đến hạn Ngân hàng sẽ hồn trả vốn gốc và thanh tốn
lãi cho người mua kỳ phiếu.
+ Phát hành dưới hình thức chiết khấu.
- Tiền gửi tiết kiệm: Nước ta đã có các loại tiền gửi tiết kiệm sau:
+ Tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn: Là loại tiền gửi mà khách hàng có thể gửi,
rút nhiều lần vào bất cứ lúc nào.
+ Tiền gửi tiết kiệm có kì hạn là loại tiền gửi được rút ra sau một thời gian

nhất định, nếu khách hàng rút trước thì phải có điều kiện là hưởng lãi suất thấp.
+ Tiền gửi tiết kiệm có mục đích là hình thức tiết kiệm trung và dài hạn nhằm
mục đích xây dựng nhà ở. Ngoài số tiền lãi khách hàng cịn được Ngân hàng cho
vay nhằm mục đích bổ sung vốn cho xây dựng nhà ở.
+ Tiền gửi có kì hạn và tiền gửi tiết kiệm được gọi chung là tiền gửi phi giao
dịch.
Khi nguồn vốn huy động và nguồn vốn tự có khơng đủ cho nhu cầu sử dụng
vốn của mình thì các ngân hàng thương mại cịn được phép huy động phát hành kì

19
19


phiếu, trái phiếu và các chứng chỉ tiền gửi có kì hạn để bổ sung nguồn vốn huy
động của mình.

3. Kết quả huy động nguồn vốn của Ngân hàng Nông nghiệp và Phát
triển Nông thôn Việt Nam trong các năm gần đây.
Bằng các hình thức huy động vốn của mình, ngân hàng đã huy động được
một số lượng vốn lớn để đáp ứng cho các nhu cầu hoạt động kinh doanh của
mình. Số lượng vốn huy động ngày một tăng lên chiếm 60% tổng nguồn vốn. Đây
là một số trong số kết quả huy động vốn của ngân hàng:
Theo báo cáo của chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn
đến 31/12/2011 tổng nguồn vốn huy động của các Ngân hàng thương mại là
483724 tỷ đồng trong đó nguồn vốn huy động bằng ngoại tệ là 8438154 tỷ đồng
(đổi ra VNĐ) chiếm tỷ trọng 91.7% tổng nguồn vốn huy động; Qua đó ta thấy
việc huy đơng vốn bằng ngoại tệ cũng chiếm phần lớn trong tổng số vốn huy động
được.
Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn có số vốn huy động tăng lên
rất nhanh từ năm 2009 đến năm 2010 nhưng đến 2011 thì tổng số vốn huy động

được đã tụt xuống cò 8,935,773 triệu đồng.

20
20


Bảng 1: một số chỉ tiêu của Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông
thôn
ĐV: Tỷ đồng

Chỉ tiêu

2009

2010

Tổng nguồn vốn

495,000,881

205,102,950

483724

Vốn huy động

7,436,059

1,123,128


8438154

Tiền gửi tiết kiệm và

13,6756611

38,234,151

50,708,49

kỳ phiếu

Tỉ lệ vôn huy động so

2011

9

1.502%

5.476%

91.7%

với tổng nguồn vốn
Nguồn: Báo cáo tài chính của Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông
thôn (2009 -2011)
Trong thời gian này số vốn huy động tăng nhanh mặc dù tỉ lệ vốn huy động
so với tổng nguồn vốn khơng tăng đều. Đến hết năm 2011 thì mặc dù với những
khó khăn đặc thù riêng như là khủng hoảng, lũ lụt xảy ra và giá một số mặt hàng

bị sụt giá và thua lỗ như cà phê, gạo nhưng Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển
Nông thôn Việt Nam đã cố gắng vượt qua khó khăn. Đến hết năm 2011 thì tổng
nguồn vốn huy động là: 483724 tỷ đồng.

21
21


Bảng 2: bảng quy mô và chênh lệch của huy động bằng vàng và ngoại tệ.
Đơn vị: tỷ đồng
2009
Chỉ tiêu
Tiền gửi của khách
hàng
tiền gửi của tổ chức tín
dụng khác
tổng

2010

Tỷ
trọng

2011

Tỷ
trọng

Tỷ
trọng


64% 4,787,938

47% 5,239,792

41% 3,421,120

35% 2,639,019

53% 5,948,126

59% 5,020,300

100% 7,426,957 100%

400070461

100% 223,501,751

Nguồn: Báo cáo tài chính của Ngân hang tong những năm 2009 -2011
Bảng 3: huy động vốn bàng nội tệ.
Đơn vị: tỷ đồng
Chỉ tiêu
Tiền gửi của tổ chức tín dụng khác
Tiền vay của tổ chức tín dụng khác
Phát hành giấy tờ có giá
Vay chính phủ và ngân hàng nhà nước

2009
2,639,019

1,840,138
1,367,561
4,474,480

2010
5,948,126
227,123
1,657,755
5,360,221

2011
5,020,300
3,471,404
5,070,849
6,530,305

Nguồn: Bảng báo cáo tài chính của ngân hang trong những năm 2009 -2011

22
22


BIỂU ĐÒ THỂ HIỆN MỨC HUY ĐỘNG VỐN BẰNG NỘI TỆ
Đơn vị: tỷ đồng

Nguồn: bảng huy động vốn bằng nội tệ
Bảng 4: Tình hình huy động vốn từ dân cư
Đơn vị: tỷ đồng
Năm


2009

2010

2011

Chỉ tiêu
Vốn huy động

9.262

11.587

14.605

Tiền gửi dân cư

2.977

3.409

3.728

114%

109%

29,43%

25,52%


% so cùng kỳ
Tỉ trọng/VHĐ

32.14%

Nguồn: Bảng báo cáo tài chính của Ngân hàng trong những năm 2009 -2011

Quan sát tổng quan bảng số liệu cho thấy, cùng với sự tăng trưởng của
nguồn vốn huy động, bộ phận tiền gửi dân cư tương đối ổn định và có xu hướng
tăng lên qua các năm, tuy nhiên mức tăng trưởng có xu hướng tăng dần. Cụ thể,
năm 2009 tăng so với năm 2010 là 432tỷ đồng, đạt mức tăng trưởng 14%. Đến
năm 2011, tăng 319 tỷ đồng (tăng 9%). Tổng vốn huy động có xu hướng tăng dần,
thể hiện niềm tin người dân vào Ngân hàng.
Bảng 5: Kết cấu tiền gửi dân cư
Đơn vị : Tỷ đồng
Chỉ tiêu
1. Tổng số
2.Tiền gửi KKH

2009
Số tiền
%
3.728
100
72

2010
Số tiền
%

3.628
100
41

23
23

2011
Số tiền
%
3.397
100
19


3.Tiền gửi có KH 3.656
0,98
3.587
0,989
3.379
0,99
Nguồn: Bảng báo cáo tài chính của ngân hàng trong những năm 2009 -2011
Như vậy, qua 3 năm 2009,2010,2011, ta thấy trong nguồn tiền gửi tiết
kiệm, tiền gửi không kỳ hạn chiếm tỷ lệ rất nhỏ trong nguồn tiền gửi dân cư và
tương đối ổn định. Tiền gửi có kỳ hạn ln có hướng tăng lên và chiếm khoảng
98% tổng nguồn tiết kiệm. Cụ thể năm 2009 là 3.656 tỷ đồng, chiếm 98% so với
tổng tiền gửi dân cư ( 3.728 tỷ) và năm 2010, chiếm 98,9% Tính đến năm 2011,
tiền gửi có kỳ hạn đã chiếm tỷ trọng không nhỏ là 99% trên tổng tiền gửi dân cư.
Điều này có lợi cho ngân hàng bởi vì ngân hàng có cơ sở nguồn vốn để cho vay
với thời gian tương đối dài, lãi suất cao hơn và có kế hoạch thu hồi vốn đúng

hạn.Tiền gửi có kỳ hạn được người dân ưa chuộng hơn, chiếm tỷ trọng lớn thể
hiện sự tin tưởng của nhân dân với ngân hàng và mục đích gửi tiển để hưởng lợi
nhuận, phản ánh chính sách khách hàng đúng đắn đi đơi với hoạt động quảng bá
các sản phẩm tiện ích cao hơn hẳn so với các Ngân hàng khác.
Tuy nhiên cũng cần phải thấy rằng, tỷ trọng nguồn tiền gửi tiết kiệm có kỳ
hạn của Ngân hàng Nơng nghiệp và Phát triển nông thôn tăng qua các năm song
cũng phải đối mặt với rất nhiều thách thức. Khi đời sống, thu nhập của dân cư cao
hơn, họ có điều kiện để tích luỹ và do đó nguồn tiền gửi của họ vào ngân hàng
tăng lên. Nhưng đồng thời, nền kinh tế phát triển, tạo điều kiện mở rộng sản xuất
kinh doanh, mang đến những cơ hội đầu tư mới cho cả những người dân với số
vốn không nhất thiết phải thật lớn. Thêm vào đó, ngày càng có thêm nhiều ngân
hàng tham gia hoạt động trên thị trường, cạnh tranh trở nên quyết liệt hơn cùng
với nhiều lý do khác khiến cho công tác huy động vốn từ dân cư của Ngân hàng
Nông nghiệp vá Phát triển nông thôn cần phải nỗ lực hơn nữa, tìm mọi cách tăng
nguồn vốn này nhằm củng cố sức mạnh cho ngân hàng và giữ thế chủ động trong
kinh doanh, đáp ứng nhu cầu vốn ngày một tăng của nền kinh tế.
Bảng 6: Tình hình phát hành giấy tờ có giá năm 2009
Đơn vị: Triệu đồng
Chỉ tiêu
VND
Ngoại tệ quy VND
Tổng số
Giấy tờ có giá
499.174
102
499.276
1. Kỳ phiếu
63.441
102
63.543

2. Trái phiếu
435.733
0
435.733
Nguồn: Bảng báo cáo tài chính của ngân hàng trong những năm 2009 -2011

24
24


Bảng 7: Tình hình phát hành giấy tờ có giá bình quân năm 2011
Đơn vị: Triệu đồng
Chỉ tiêu
VND
Ngoại tệ quy VND
Tổng số
Giấy tờ có giá
571.389
2.281
573.670
1. Kỳ phiếu
136.143
0
136.143
2. TráI phiếu
434.823
0
434.823
3.Chứng chỉ TG
423

2.281
2.704
Nguồn: Bảng báo cáo tài chính của ngân hàng trong những năm 2009 -2011
Như vậy, ta có thể thấy sự phát triển của viêc phát hành giấy tờ có giá qua
bảng số liệu trên năm 2009 và số liệu báo cáo bình quân năm 2011.
- Thứ nhất là Kỳ phiếu: đây là hình thức ngân hàng chủ động phát hành
phiếu nợ để huy động vốn thường nhằm mục đích đã định.
Kỳ phiếu thường có lãi suất lớn hơn tiền gửi tiết kiệm nhưng không linh hoạt
bằng tiền gửi tiết kiệm. Do vậy, kỳ phiếu chỉ chiếm một phần nhỏ tổng nguồn
huy động phát hành giấy tờ có giá.Cụ thể, năm 2009, tổng nguồn huy động của
giấy tờ có giá đạt 499.276 triệu đồng. Trong đó, nguồn vốn huy động qua phát
hành kỳ phiếu chỉ là 63.543 triệu đồng ( chiếm 12,73%) bao gồm :huy động bằng
VND là 63.441 triệu đồng và ngoại tệ quy VND là 102 triệu đồng.
Tuy vậy, nguồn vốn qua phát hành kỳ phiếu bình quân năm 2011 đã có sự
chuyển biến đáng kể: 136.143 triệu đồng , chiếm 23,7% Tổng nguồn huy động.
Ngân hàng phát hành kỳ phiếu có mục đích để phục vụ cho những cơng trình
trọng điểm của nhà nước, cho nhu cầu của toàn hệ thống. Với lăi suất uyển
chuyển biến động theo thời gian, kỳ phiếu đã thực sự tạo sự chủ động cho Ngân
hàng. Do huy động với lãi suất cao nên chỉ khi nào ngân hàng xét thấy thực sự cần
vốn đầu tư hay có thể đảm bảo lợi ích đầu ra cao hơn thì ngân hàng mới phát hành
kỳ phiếu. Chính vì vậy, nguồn này chiếm 1 tỷ trọng không lớn trong tổng nguồn
huy động và không thường xuyên.
Kỳ phiếu ngân hàng tuy chiếm 1 tỷ trọng nhỏ nhưng giúp cho ngân hàng
đa dạng hố hình thức huy động vốn, từng bước nâng cao khả năng phục vụ khách
hàng với một chất lượng cao hơn, đối tượng rộng rãi hơn.

25
25



×