Tải bản đầy đủ (.doc) (17 trang)

Biện pháp ngăn chặn trong luật tố tụng hình sự

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (131.24 KB, 17 trang )

1


MỤC LỤC
NỘI DUNG................................................................................................................4
1./ Lý thuyết chung về các biện pháp ngăn chặn trong Luật tố tụng Hình sự........4
1.1./ Khái niệm Biện pháp ngăn chặn:...............................................................4
1.2./ Mục đích của các biện pháp ngăn chặn:....................................................4
1.3./ Căn cứ áp dụng biện pháp ngăn chặn:.......................................................4
2./ Các biện pháp ngăn chặn trong Luật tố tụng Hình sự 2015 và ý nghĩa................7
2.1./ Các biện pháp ngăn chặn trong Luật tố tụng Hình sự 2015:..........................7
2.2./ Ý nghĩa của các biện pháp ngăn chặn:............................................................9
KẾT LUẬN..............................................................................................................11
3./ Một số khó khăn vướng mắc và giải pháp trong áp dụng biện pháp ngăn chặn
vào thực tế................................................................................................................11
3.1./ Một số khó khăn, vướng mắc khi áp dụng một số biện pháp ngăn chặn
theo quy định pháp luật hiện hành...................................................................11
3.2./ Một số kiến nghị, đề xuất.......................................................................15
TÀI LIỆU THAM KHẢO.......................................................................................16

2


MỞ ĐẦU
Điều 79 Bộ luật tố tụng hình sự (BLTTHS) quy định các biện pháp và các
căn cứ áp dụng biện pháp ngăn chặn như sau:
“Để kịp thời ngăn chặn tội phạm hoặc khi có căn cứ chứng tỏ bị can, bị cáo sẽ gây
khó khăn cho việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc sẽ tiếp tục phạm tội, cũng như khi
cần bảo đảm thi hành án, Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Toà án trong phạm vi
thẩm quyền tố tụng của mình hoặc người có thẩm quyền theo quy định của Bộ luật
này có thể áp dụng một trong những biện pháp ngăn chặn sau đây: bắt, tạm giữ,


tạm giam, cấm đi khỏi nơi cư trú, Bảo lãnh, đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo
đảm”.
Cùng với quy định tại Điều 79 BLTTHS, tại các điều luật quy định về các
biện pháp ngăn chặn cụ thể của BLTTHS cũng quy định điều kiện để áp dụng các
biện pháp ngăn chặn như bắt bị can, bị cáo để tạm giam, bắt người trong trường
hợp khẩn cấp (Điều 81), bắt người phạm tội quả tang hoặc đang bị truy nã (Điều
82), tạm giữ (Điều 86), tạm giam (Điều 88), cấm đi khỏi nơi cư trú (Điều 91), Bảo
lãnh (Điều 92), đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm (Điều 93), bắt, tạm giữ,
tạm giam đối với người chưa thành niên (Điều 303).
So với BLTTHS năm 1988, BLTTHS năm 2003 đã quy định chặt chẽ hơn
căn cứ và điều kiện áp dụng các biện pháp ngăn chặn, đề cao hơn trách nhiệm của
các cơ quan có thẩm quyền trong việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn, nhất là
trách nhiệm của Viện kiểm sát, qua đó bảo đảm thực hiện tốt hơn những nguyên
tắc của tố tụng hình sự, trong đó có ngun tắc “Tơn trọng và bảo vệ các quyền cơ
bản của công dân” (Điều 4), nguyên tắc “Bảo đảm quyền bất khả xâm phạm về
thân thể của công dân” (Điều 6) và nguyên tắc “Bảo hộ tính mạng, sức khoẻ, danh
dự, nhân phẩm, tài sản của công dân” (Điều 7).
Tuy nhiên, nghiên cứu tổng thể các quy định của BLTTHS và qua thực tiễn áp
dụng pháp luật cho thấy, một số quy định về các biện pháp ngăn chặn của BLTTHS
còn chưa phù hợp với thực tiễn, chưa tuân thủ đầy đủ các ngun tắc của tố tụng
hình sự, trong đó có ngun tắc Bảo đảm quyền bất khả xâm phạm về thân thể của
cơng dân và gây khó khăn trong việc giải quyết các vụ án vụ án hình sự của các cơ
quan tiến hành tố tụng. Trước tình hình đó, nghiên cứu các quy định của BLTTHS
nói chung, các quy định về về các biện pháp ngăn chặn nói riêng để kiến nghị sửa
đổi, bổ sung cho phù hợp, bảo đảm thực hiện tốt hơn các nguyên tắc tố tụng hình
sự, đồng thời tạo điều kiện thuận lợi hơn cho các cơ quan tiến hành tố tụng giải
quyết vụ án được kịp thời, chính xác là yêu cầu bức thiết.
.

3



NỘI DUNG

1./ Lý thuyết chung về các biện pháp ngăn chặn trong Luật tố tụng Hình
sự
1.1./ Khái niệm Biện pháp ngăn chặn:
Biện pháp ngăn chặn được hiểu là các biện pháp mang tính chất cưỡng chế
về mặt tố tụng áp dụng khi có đủ căn cứ đối với bị can, bị cáo hoặc người chưa bị
khởi tố trong trường hợp khẩn cấp hoặc phạm tội quả tang, để ngăn chặn những
hành vi nguy hiểm của họ trong xã hội, ngăn ngừa họ tiếp tục phạm tội, trốn tránh
pháp luật hoặc có hành động gây cản trở cho việc điều tra, truy tố, xét xử và thi
hành án.
Biện pháp ngăn chặn được quy định trong bộ luật tố tụng hình sự gồm: bắt
người, tạm giữ, tạm giam, cấm đi khỏi nơi cư trú, Bảo lãnh, đặt tiền hoặc tài sản để
bảo đảm.
1.2./ Mục đích của các biện pháp ngăn chặn:
Việc thực hiện các biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự nhằm các mục
đích sau:
+ Để kịp thời ngăn chặn tội phạm hoặc khi có căn cứ chứng tỏ bị can, bị cáo sẽ gây
khó khăn cho việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc sẽ tiếp tục phạm tội;
+ Bảo đảm thi hành án.
1.3./ Căn cứ áp dụng biện pháp ngăn chặn:
Muốn áp dụng biện pháp ngăn chặn phải dựa vào pháp luật, tuân thủ nghiêm
chỉnh các quy định của pháp luật, đảm bảo việc ra quyết định áp dụng biện pháp
ngăn chặn có căn cứ pháp luật và thật sự cần thiết. Điều 109 Bộ luật tố tụng hình
sự năm 2015 quy định căn cứ áp dụng biện pháp ngăn chặn gồm:
1.3.1./ Để kịp thời ngăn chặn tội phạm
Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội gây ra hoặc đe doạ gây ra thiệt hại
cho một hoặc nhiều quan hệ xã hội là khách thể được luật hình sự bảo vệ. Việc kịp thời

ngăn chặn tội phạm, không để tội phạm xảy ra hoặc không để người phạm tội có điều
kiện kết thúc hành vi phạm tội của minh gây ra hậu quả nguy hại cho xã hội là việc làm
cần thiết và cấp bách.

4


Vì vậy, BLTTHS quy định việc kịp thời ngăn chặn tội phạm là một trong các căn
cứ áp dụng biện pháp ngăn chặn. Căn cứ này thường được áp dụng để giữ người
trong trường hợp khẩn cấp khi xác định được một trong các trường hợp quy định tại
điểm a khoản 1 Điều 110 BLTTHS như khi có căn cứ để xác định người đó đang chuẩn
bị thực hiện tội phạm rất nghiêm trọng hoậc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng hoặc bắt
người phạm tội quả tang trong trường hợp người đó đang thực hiện tội phạm hoặc
ngay sau khi thực hiện tội phạm thì bị phát hiện hoặc bị đuổi bắt (khoản 1 Điều 111
BLTTHS).

1.3.2./ Khi có căn cứ chứng tỏ người bị buộc tội sẽ gây khó khăn
cho việc điều tra, truy tố, xét xử
Việc bị can, bị cáo có mặt theo giấy triệụ tập của cơ quan điều tra, viện kiểm sát,
toà án cũng như việc quản lí giám sát được bị can, bị cáo về con người cũng như hành
vi của họ sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động điều tra, truy tố, xét xử. Neu bị can,
bị cáo ttốn ưánh hoặc có những hành vi cản trở hoạt động điều tra, truy tố, xét xử thì
việc xác định sự thật khách quan của vụ án sẽ gặp rất nhiều khó khăn. Vì vậy, BLTTHS
quy định khi có căn cứ chứng tỏ người bị buộc tội sẽ gây khó khăn cho việc điều tra,
truy tố, xét xử là một trong các căn cứ áp dụng biện pháp ngăn chặn.
Đối tượng để áp dụng căn cứ này thường là bị can, bị cáo, người bị truy nã. Tuy
nhiên, trong trường hợp khẩn cấp hoặc phạm tội quả tang cịn có thể áp dụng đối với
những người chưa bị khởi tố về hình sự khi có căn cứ để cho rằng họ sẽ gây khó khăn
cho việc điều tra, khám phá tội phạm.
Căn cứ chứng tỏ người bị buộc tội sẽ gây khó khăn cho việc điều tra, truy tố, xét

xử được thể hiện qua việc họ đang bỏ trốn, chuẩn bị trốn, làm giả chứng cứ, tiêu huỷ
chứng cứ, có sự câu kết, bàn bạc giữa những người đồng phạm nhằm trốn tránh pháp
luật, mua chuộc, đe doạ, không chế người làm chứng, bị hại V.V..

1.3.3./ Khi có căn cứ chứng tỏ người bị buộc tội sẽ tiếp tục phạm tội
Đối với người bị bắt, bị can, bị cáo có biểu hiện tiếp tục phạm tội thì việc áp dụng
biện pháp cách li họ với xã hội hoặc hạn chế các điều kiện để họ không thể tiếp tục
phạm tội là rất cần thiết. BLTTHS quy định khi có căn cứ chứng tỏ người bị bụộc tội sẽ
tiếp tục phạm tội là căn cứ để áp dụng biện pháp ngăn chặn.
Khi áp dụng căn cứ này cần phân biệt với căn cứ "để kịp thời ngăn chặn tội
phạm". Cả hai căn cứ đều nhằm ngăn chặn không để tội phạm xảy ra. Tuy nhiên, điểm
khác nhau giữa hai căn cứ này là "để kịp thời ngăn chặn tội phạm" được áp dụng với
những người chưa bị khởi tố về hình sự đối với hành vi được xác định là lí do dẫn đến
việc áp dụng biện pháp ngăn chặn đối với họ, còn để ngăn chặn việc "người bị buộc tội
sẽ tiếp tục phạm tội" thường được áp dụng với các bị can, bị cáo (những người đã bị

5


khởi tố về hình sự hoặc đã bị tồ án quyết định đưa ra xét xử) khi có căn cứ cho rằng
họ sẽ tiếp tục phạm tội.
Những căn cứ chứng tỏ người bị buộc tội sẽ tiếp tục phạm tội có thể xác định
trên các phương diện sau:
- Về nhân thân người bị bắt, bị can, bị cáo: Người bị bắt, bị can, bị cáo là những
đối tượng có nhân thân xấu. Ví dụ: bị can, bị cáo là những đối tượng thuộc diện lưu
manh, côn đồ, hung hãn... Bị can, bị cáo là những người đã có nhiều tiền án, tiền sự
hoặc những đối tượng phạm tội có tính chất chuyên nghiệp như chuyên sống bằng các
nghề cướp giật, frộm cắp, lừa đảo...
- Về hành vi của người bị buộc tội: người bị buộc tội đã có những biểu hiện sẽ
tiếp tục phạm tội thể hiện như đe doạ trả thù người tố giác, đe doạ trả thù bị hại, người

làm chứng và đã có sự chuẩn bị cơng cụ, phương tiện hoặc các điều kiện cần thiết cho
việc thực hiện tội phạm và xét thấy người bị buộc tội có khả năng thực hiện được sự đe
doạ đó.

1.3.4./ Để bảo đảm thỉ hành án
Thi hành án là giai đoạn của tố tụng hình sự nhằm thực hiện các bản án, quyết
định đã có hiệu lực pháp luật của toà án. Thi hành các bản án hoặc quyết định của tồ
án có liên quan trực tiếp đến người bị kết án. Sự có mặt của người bị kết án khi bản án
được thi hành là rất cần thiết, đặc biệt là đối với người bị toà án quyết định áp dụng
hình phạt tù. Nếu người bị kết án trốn tránh hoặc có hành vi gây khó khăn cho các cơ
quan có thẩm quyền trong việc thi hành án thì việc thi hành án sẽ không đạt kết quả. Do
vậy, BLTTHS quy định để bảo đảm thi hành án frong các trường hợp nhất định là căn
cứ áp dụng biện pháp ngăn chặn. Toà án thường áp dụng căn cứ này frong những
trường họp sau:
Đối với bị cáo không bị tạm giam nhung bị toà án cấp sơ thẩm kết tội, tun hình
phạt tù mà có căn cứ cho rằng nếu khơng hạn chế tự do của bị cáo thì bị cáo có thể
trốn hoặc tiếp tục phạm tội, hội đồng xét xử có thể quyết định bắt tạm giam bị cáo ngay
tại phiên toà để bảo đảm thi hành án.
Đối với bị cáo không bị tạm giam nhưng bị tồ án cấp phúc thẩm tun hình phạt
tù thì hội đồng xét xử ra quyết định bắt tạm giam ngay để bảo đảm thi hành án, trừ
trường hợp bị cáo có lí do để hỗn thi hành án phạt tù.

6


2./ Các biện pháp ngăn chặn trong Luật tố tụng Hình sự 2015 và ý nghĩa
2.1./ Các biện pháp ngăn chặn trong Luật tố tụng Hình sự 2015:
- Biện pháp đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm: Biện pháp này là
biện pháp ngăn chặn để thay thế biện pháp tạm giam. Trong trường hợp bị can, bị
cáo chấp hành đầy đủ các nghĩa vụ đã cam đoan thì cơ quan tiến hành tố tụng có

trách nhiệm trả lại cho họ số tiền hoặc tài sản đã đặt.
- Biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú: Biện pháp này chỉ áp dụng đối với bị
can, bị cáo có nơi cư trú rõ ràng. Chính quyền xã, phường, thị trấn nơi bị can, bị
cáo cư trú có trách nhiệm quản lý, theo dõi họ. Bị can, bị cáo vi phạm lệnh cấm đi
khỏi nơi cư trú sẽ bị áp dụng biện pháp ngăn chặn khác.
Biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú là biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình
sự do cơ quan điều tra, viện kiểm sát, tòa án áp dụng để buộc bị can, bị cáo khơng
được đi khỏi nơi cư trú của mình và phải có mặt khi có giấy triệu tập.
Biện pháp này chỉ áp dụng đối với bị can, bị cáo phạm tội ít nghiêm trọng,
lần đầu, có nơi cư trú rõ ràng, có thái độ khai báo thành khẩn, trong trường hợp bị
can, bi cáo không bị bắt để tạm giam hoặc đã bị tạm giam nhưng được co quan
điều tra, viện kiểm sát, tịa án cho tại ngoại khi có đủ cơ sở cho rằng họ sẽ không
bỏ trốn, không gây cản trở cho việc điều tra, truy tố và xét xử hoặc tiếp tục phạm
tội.
Khi áp dụng biện pháp này, cơ quan điều tra , viện kiểm sát hoặc tòa án buộc
bị can, bị cáo làm giấy cam đoan khơng đi khỏi nơi cư trú của mình và phải có mặt
khi có giấy triệu tập. Trong trường hợp bị can, bị cáo có lý do chính đáng phải tạm
thời đi khỏi nơi cư trú thì phải được sự đồng ý của chính quyền xã, phường, thị
trấn nơi người đó cư trú và phải có giấy phép của cơ quan đã áp dụng biện pháp
ngăn chặn.
Nếu bị can, bị cáo vi phạm cam đoan sẽ bị áp dụng biện pháp ngăn chặn
chặn
Người ra lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú phải thông báo về việc áp dụng biện
pháp này cho chính quyền xã, phường, thị trấn để quản lý, theo dõi.
- Biện pháp tạm giam: Các trường hợp áp dụng biện pháp tạm giam bao gồm:
bị can, bị cáo phạm tội đặc biệt nghiêm trọng; phạm tội rất nghiêm trọng hoặc bị
can, bị cáo phạm tội nghiêm trọng, phạm tội ít nghiêm trọng mà Bộ luật hình sự
2015 quy định hình phạt tù trên hai năm và có căn cứ cho rằng người đó có thể trốn
hoặc cản trở việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc có thể tiếp tục phạm tội. Đối với bị
7



can, bị cáo là phụ nữ có thai hoặc đang nuôi con dưới ba mươi sáu tháng tuổi, là
người già yếu, người bị bệnh nặng mà nơi cư trú rõ ràng thì khơng tạm giam mà áp
dụng biện pháp ngăn chặn khác, trừ trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 88 Bộ
luật tố tụng hình sự 2015 . Lưu ý rằng: Chế độ tạm giữ, tạm giam khác với chế độ
đối với người đang chấp hành hình phạt tù.
Tạm giam là biện pháp cách ly bị can, bị cáo với xã hội trong thời gian nhất
định nhằm ngăn chặn hành vi trốn tránh pháp luật, cản trở việc điều tra, truy tố, xét
xử hoặc có thể tiếp tục phạm tội của bị can, bị cáo, bảo đảm cho việc điều tra, truy
tố, xét xử được thuận lợi.
Đây là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc, ảnh hưởng trực tiếp đến quyền tự
do thân thể của công dân. Đối với bị can, bị cáo là phụ nữ có thai hoặc đang trong
thời kỳ nuôi con dưới 36 tháng tuổi hoặc là người già yếu, người đang bệnh nặng,
có nơi cư trú rõ ràng thì khơng bị tạm giam mà áp dụng biện pháp ngăn chặn khác.
Chỉ trong những trường hợp đặc biệt như phạm tội nghiêm trọng, phạm tội rất
nghiêm trọng, phạm tội đặc biệt nghiêm trọng và có căn cứ cho rằng nếu khơng
tạm giam thì người đó có thể trốn hoặc cản trở việc điều tra, xét xử hoặc có thể tiếp
tục phạm tội thì mới tạm giam họ.
Việc tạm giam phải có lệnh của người có thẩm quyền ra lệnh bắt bị can, bị cáo
để tạm giam. Lệnh tạm giam của Trưởng cơng an, Phó trưởng cơng an cấp huyện,
Thủ trưởng, Phó Thủ tướng cơ quan điều tra cấp tỉnh trở lên. Thủ trưởng, Phó thủ
trưởng Cơ quan điều tra các cấp trong quân đội nhân dân phải được Viện kiểm sát
cùng cấp phê duyệt trước khi thi hành.
- Biện pháp Bảo lãnh: Bảo lãnh là biện pháp ngăn chặn để thay thế biện pháp
tạm giam. Điều kiện của chủ thể nhận Bảo lãnh quy định tại khoản 4 Điều 92 Bộ
Luật tố tụng hình sự 2015. Bị can, bị cáo được nhận Bảo lãnh sẽ bị áp dụng biện
pháp ngăn chặn khác nếu cá nhân hoặc tổ chức nhận Bảo lãnh vi phạm nghĩa vụ đã
cam đoan.
- Biện pháp tạm giữ: Biện pháp tạm giữ được áp dụng trong trường hợp:

người bị bắt trong trường hợp khẩn cấp, phạm tội quả tang, người phạm tội tự thú,
đầu thú hoặc đối với người bị bắt theo quyết định truy nã. Tổng thời hạn tạm giữ
(bao gồm thời hạn tạm giữ thông thường và thời hạn gia hạn tạm giữ) là 9 ngày.
Thời gian tạm giữ được trừ vào thời hạn tạm giam, một ngày tạm giữ được tính
bằng một ngày tạm giam. Trong khi tạm giữ, nếu không đủ căn cứ khởi tố bị can
thì người bị tạm giữ phải được trả tự do ngay.
Biện pháp ngăn chặn tạm giữ được áp dụng đối với người bị bắt trong trường
hợp khẩn cấp hoặc phạm tội tang để cách ly họ với xã hội trong một thời gian cần
8


thiết nhằm ngăn chặn người đó tiếp tục phạm tội, cản trở điều tra và xác định sự
liên quan của người này đối với tội phạm.
- Biện pháp bắt giữ gồm các trường hợp: bắt bị can, bị cáo để tạm giam; bắt
người trong trường hợp khẩn cấp; bắt người phạm tội quả tang hoặc đang bị truy
nã. Việc bắt người phải tiến hành đúng thẩm quyền theo luật định, trừ trường hợp
bắt người phạm tội quả tang hoặc đang bị truy nã. Phải có biên bản về việc bắt
người và phải thơng báo ngay cho gia đình người đã bị bắt, chính quyền xã,
phường, thị trấn hoặc cơ quan, tổ chức nơi người đó cư trú hoặc làm việc biết.
Bắt giữ là biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự được áp dụng đối với
người đang thực hiện tội phạm hoặc ngay sau khi thực hiện tội phạm thì bị phát
hiện, người thực hiện tội phạm đang bị đuổi bắt hoặc người đang bị truy nã để
ngăn chặn tội phạm, đảm bảo cho hoạt động phát hiện, xử lý tội phạm hoặc đảm
bảo thi hành án. Bất kỳ người nào cũng có quyền bắt giữ các đối tượng nêu trên và
dẫn giản đến cơ quan công an. Viện kiểm sát hoặc Ủy ban nhân dân nơi gần nhất.
Trong khi bắt giữ có quyền tước vũ khí của người bị bắt.
2.2./ Ý nghĩa của các biện pháp ngăn chặn:
Quy định và áp dụng những biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự có ý
nghĩa lớn trong việc đấu tranh chống và phòng ngừa tội phạm:
- Những biện pháp ngăn chặn thể hiện sự kiên quyết của nhà nước trong việc

đấu tranh phòng, chống tội phạm.
Tội phạm về bản chất là hành vĩ nguy hiểm cho xã hội, gây ra hoặc đe doạ
gây ra thiệt hại cho những quan hệ xã hội quan trọng được luật hình sự bảo vệ. Tội
phạm trực tiếp hoặc gián tiếp xâm hại đến sự bền vững và ổn định của chế độ nhà
nước, chế độ kinh tế-chính trị và xã hội, đến tính mạng, sức khoẻ, tự do, danh dự,
nhân phẩm và tài sản của công dân cũng như các quy tắc của cuộc sống xã hội - xã
hội chủ nghĩa. Do đó, Nhà nước ta coi việc đấu tranh phòng, chống tội phạm, ngăn
chặn kịp thời, xử lí nghiêm minh nhằm tiến tới loại trừ hiện tượng phạm tội ra khỏi
đời sống xã hội là một trong những nhiệm vụ quan trọng nhất và phải được tiến
hành một cách kiên quyết, triệt để, không khoan nhượng. Việc quy định và đảm
bảo thực hiện các biện pháp ngăn chặn trong BLTTHS là biểu hiện cụ thể quan
điểm đó của Nhà nước.
- Những biện pháp ngăn chặn bảo đảm cho hoạt động của các cơ quan có
thẩm quyền tiến hành tố tụng được thuận lợi; góp phần quan trọng nâng cao hiệu
quả của cơng cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm.
9


Thông thường, người phạm tội ý thức rất rõ về hậu quả pháp lí mà mình phải
chịu do việc thực hiện tội phạm nên họ tìm đủ mọi cách để vừa có thể nhanh chóng
đạt được mục đích phạm tội lại vừa có thể che giấu, trốn tránh sự phát hiện và
trừng phạt của pháp luật. Do đó, việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn cần thiết
nhằm ngân chặn kịp thời và có hiệu quả ngay từ đầu các hành vi thực hiện tội
phạm hoặc hành vi trốn tránh, gây khó khăn cho việc xử lí người phạm tội là một
tất yếu khách quan. Mặt khác, việc quy định và áp dụng các biện pháp ngăn chặn
hỗ trợ rất nhiều cho các hoạt động của các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố
tụng, giúp cho các hoạt động này được tiến hành thuận lợi và đạt hiệu quả cao. Bởi
lẽ, với tính đặc thù của các biện pháp này là “cưỡng chế nhằm ngăn chặn” đã góp
phần hạn chế đến mức thấp nhất những khó khăn mà người phạm tội có thể gây ra
cho q trình giải quyết vụ án.

- Những biện pháp ngăn chặn chỉ được áp dụng đối với đối tượng nhất định
trong những trường hợp nhất định khi có căn cứ pháp luật quy định nên đã bảo
đảm sự dân chủ, tôn trọng quyền con người, quyền công dân được hiến pháp quy
định như quyền bất khả xâm phạm về thân thể, quyền tự do cư trú và tự do đi lại...;
Quy định và áp dụng những biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự
không chỉ đơn thuần là tạo điều kiện thuận lợi cho các cơ quan nhà nước có thẩm
quyền thực hiện tốt nhiệm vụ theo chức năng của mình mà cịn nhằm đảm bảo sự
tôn trọng và thực hiện đầy đủ các quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân đã được
quy định trong hiến pháp. Điều này thể hiện ở chỗ việc áp dụng hay không áp dụng
biện pháp ngăn chặn nào đó trong đấu tranh phịng chống tội phạm không xuất
phát từ ý muốn chủ quan, bởi sự áp đặt từ phía các cơ quan nhà nước có thẩm
quyền mà là từ các quy định của pháp luật, xuất phát từ pháp luật và đáp ứng sự
đòi hỏi của thực tiễn. Sự tuân thủ các quy định của pháp luật tố tụng hình sự khi áp
dụng, thay đổi hay huỷ bỏ biện pháp ngăn chặn nào đó về các phương diện như:
đối tượng, căn cứ, thẩm quyền, thủ tục áp dụng... trước hết là xuất phát từ sự tơn
trọng các quyền và lợi ích hợp pháp của con người (đối tượng của các biện pháp
ngăn chặn). Mọi trường họp thực hiện không đúng các quy định pháp luật trong
việc áp dụng biện pháp ngăn chặn đều phải bị phát hiện và khắc phục kịp thời. Mọi
hành vi trái pháp luật khi áp dụng biện pháp ngăn chặn gây hậu quả nghiêm trọng
về tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm của cơng dân đều bị xử lí nghiêm
minh. Như vậy, xét một cách toàn diện, quy định và đảm bảo áp dụng nghiêm
chỉnh những biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự là thể hiện tập trung và rõ
nét nhất sự dân chủ, tính ưu việt của chế độ Nhà nước ta.
10


KẾT LUẬN
3./ Một số khó khăn vướng mắc và giải pháp trong áp dụng biện pháp ngăn
chặn vào thực tế
Theo quy định tại Điều 109 BLTTHS năm 2015 có những căn cứ khi áp

dụng biện pháp ngăn chặn: Để kịp thời ngăn chặn tội phạm; Khi có căn cứ chứng
tỏ người bị buộc tội sẽ gây khó khăn cho việc điều tra, truy tố, xét xử; Khi có căn
cứ chứng tỏ bị can, bị cáo sẽ tiếp tục phạm tội; Để bảo đảm thi hành án.
Các biện pháp ngăn chặn được quy định trong BLTTHS năm 2015: Điều
110: Giữ người trong trường hợp khẩn cấp; Điều 111: Bắt người phạm tội quả tang;
Điều 112: Bắt người đang bị truy nã; Điều 113: Bắt bị can, bị cáo để tạm giam;
Điều 117: Tạm giữ; Điều 119: Tạm giam; Điều 121: Bảo lĩnh; Điều 122: Đặt tiền
để bảo đảm; Điều 123: Cấm đi khỏi nơi cư trú; Điều 124: Tạm hoãn xuất cảnh.
3.1./ Một số khó khăn, vướng mắc khi áp dụng một số biện pháp ngăn
chặn theo quy định pháp luật hiện hành
Thứ nhất, về thẩm quyền ra lệnh giữ người trong trường hợp khẩn cấp.
Theo quy định tại khoản 2 Điều 110 BLTTHS năm 2015, những người sau
đây có quyền ra lệnh giữ người trong trường hợp khẩn cấp: …c) Người chỉ huy tàu
bay, tàu biển khi tàu bay, tàu biển đã rời khỏi sân bay, bến cảng.
Theo quy định tại khoản 4 Điều 110 BLTTHS năm 2015, thì những người có
thẩm quyền quy định tại điểm a, b khoản 2 Điều này có quyền ra quyết định tạm
giữ, ra lệnh bắt người bị giữ hoặc trả tự do ngay cho người đó.
Riêng đối với những người quy định tại điểm c khoản 2 Điều này, sau khi
giữ người trong trường hợp khẩn cấp, phải giải ngay người bị giữ kèm theo tài liệu
liên quan đến việc giữ người trong trường hợp khẩn cấp đến Cơ quan điều tra nơi
có sân bay hoặc bến cảng đầu tiên tàu trở về. Trong thời hạn 12 giờ kể từ khi tiếp
nhận người bị giữ, Cơ quan điều tra phải lấy lời khai ngay và những người quy
định tại điểm a khoản 2 Điều này phải ra quyết định tạm giữ, ra lệnh bắt người bị
giữ trong trường hợp khẩn cấp hoặc trả tự do ngay cho người đó. Điều này cho
thấy những người quy định tại điểm c khoản 2 Điều 110 BLTTHS năm 2015 không
được quyền ra quyết định tạm giữ.
Tuy nhiên, tại khoản 2 Điều 117 BLTTHS năm 2015 quy định: “Những
người có thẩm quyền ra lệnh giữ người quy định tại khoản 2 Điều 110 của Bộ luật
này có quyền ra quyết định tạm giữ” là trái với quy định tại khoản 4 Điều 110.
Thứ hai, trong giai đoạn xét xử, tại khoản 2 Điều 278 quy định “Thời hạn

tạm giam để chuẩn bị xét xử không được quá thời hạn chuẩn bị xét xử quy định tại
11


khoản 1 Điều 277”. So sánh với các quy định tại Điều 277 Bộ luật này thì quy định
này chưa phù hợp, vì tại khoản 1 Điều 277 quy định thời hạn từ ngày thụ lý đến
ngày ra quyết định đưa vụ án ra xét xử; khoản 3 quy định thời hạn từ ngày có quyết
định đưa vụ án ra xét xử đến ngày mở phiên tòa. Như vậy, theo quy định tại khoản
2 Điều 278 thì thời gian từ khi có quyết định đưa vụ án ra xét xử đến ngày mở
phiên tịa khơng được áp dụng biện pháp tạm giam.
Thứ ba, đối với người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp thì thời hạn bị giữ
có được tính vào thời hạn tạm giữ?
Đối với người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, thời gian bắt, giữ được ghi
trong biên bản giữ người, lệnh giữ người, lệnh bắt người bị giữ trong trường hợp
khẩn cấp và quyết định tạm giữ có cùng thời gian hay khơng?
Ví dụ: Trong vụ án giết người xảy ra ngày 11/5/2019 tại ấp 2, xã T, thị xã Đ,
tỉnh B cho thấy, biên bản giữ người trong trường hợp khẩn cấp được Cơ quan điều
tra lập vào lúc 22 giờ 20 phút ngày 14/5/2019, đến 01 giờ 00 ngày 15/5/2019 ra
quyết định tạm giữ, ra lệnh bắt người bị giữ và biên bản bắt người bị giữ trong
trường hợp khẩn cấp lúc 11 giờ 00’ ngày 15/5/2019.
Như vậy, tính từ khi giữ người trong trường hợp khẩn cấp đến khi ra quyết
định tạm giữ, ra lệnh bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp là không quá 12
giờ, đảm bảo theo quy định của pháp luật. Tuy nhiên, từ khi giữ người trong trường
hợp khẩn cấp đến khi ra quyết định tạm giữ là gần 3 giờ và từ khi ra quyết định
tạm giữ đến khi ra lệnh bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp là 09 giờ. Thời
gian tạm giữ được trừ vào thời gian tạm giam, nhưng thời gian bị giữ khi chưa có
quyết định tạm giữ thì như thế nào? Nếu khơng được tính vào thời hạn tạm giữ để
được trừ vào thời hạn tạm giam thì ảnh hưởng đến quyền của người bị tạm giữ.
Đây là vấn đề vướng mắc trong thực tiễn áp dụng luật; bởi lẽ, thời điểm giữ người
trong trường hợp khẩn cấp phát sinh trước khi có quyết định tạm giữ.

Thứ tư, việc áp dụng biện pháp ngăn chặn “Tạm hoãn xuất cảnh” trong giai
đoạn xét xử sơ thẩm.
Hiện nay, việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn vẫn sử dụng các biểu mẫu
quy định trong Nghị quyết số 03/2004/NQ-HĐTP của Hội đồng Thẩm phán
TANDTC và hướng dẫn tại Công văn số 319/TA ngày 26/6/2006 của Tòa án quân
sự Trung ương. Nhưng khi áp dụng biện pháp ngăn chặn “Tạm hoãn xuất cảnh” thì
hiện nay chưa có biểu mẫu và hướng dẫn để áp dụng.
Thứ năm, khi Viện kiểm sát chuyển hồ sơ vụ án để Tòa án xét xử theo
thẩm quyền. Khi thụ lý hồ sơ vụ án mà biện pháp ngăn chặn vẫn cịn (trừ biện pháp
ngăn chặn “Tạm giam”) thì Tịa án thực hiện như thế nào?
Ví dụ: Ngày 20/6/2019 Viện kiểm sát ra Cáo trạng truy tố bị can A về tội
“Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 BLHS, bị cáo bị áp dụng
12


biện pháp ngăn chặn “Cấm đi khỏi nơi cư trú” đến ngày 12/7/2019. Ngày
22/6/2019 VKS chuyển hồ sơ cho Tòa án thụ lý giải quyết. Theo quy định tại
khoản 1 Điều 278 BLTTHS, sau khi thụ lý hồ sơ vụ án thì Thẩm phán chủ tọa
phiên tịa quyết định việc áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp ngăn chặn, biện
pháp cưỡng chế, trừ việc áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp tạm giam do Chánh
án, Phó Chánh án Tòa án quyết định. Như vậy, Tòa án áp dụng biện pháp ngăn
chặn đối với bị can A thì Tịa án có phải tiếp tục thực hiện đầy đủ các thủ tục, điều
kiện cam đoan của bị can quy định về biện pháp ngăn chặn này hay không? Đây
cũng là vấn đề cần được cơ quan chuyên môn cấp trên hướng dẫn để thực hiện.
Thứ sáu, về biện pháp ngăn chặn “Cấm đi khỏi nơi cư trú” đối với quân
nhân đang thực hiện nghĩa vụ quân sự.
Theo quy định tại khoản 1 Điều 16 của Luật cư trú năm 2013: “Nơi cư trú
của người đang làm nghĩa vụ quân sự hoặc đang phục vụ có thời hạn trong Cơng
an nhân dân là nơi đơn vị của người đó đóng quân”.
Vậy nơi đơn vị của người đó đóng quân được hiểu như thế nào? Có người

cho rằng, nơi đơn vị của người đó đóng quân là địa phương của đơn vị đó đóng
quân (xã, phường, thị trấn). Cũng có người lại cho rằng, nơi đơn vị của người đó
đóng qn chính là doanh trại đơn vị đang quản lý, rèn luyện quân nhân đang thực
hiện nghĩa vụ quân sự. Nên vấn đề này cần có cách hiểu thống nhất để áp dụng
biện pháp ngăn chặn “Cấm đi khỏi nơi cư trú” đối với quân nhân tại ngũ được thực
hiện đảm bảo.
Thứ bảy, hiện nay việc thực hiện biện pháp tạm giam vẫn theo hướng dẫn
của nghị quyết số: 04/2004/NQ-HĐTP ngày 05/11/2004 của Hội đồng Thẩm phán
Tòa án nhân dân tối cao. Tuy nhiên, trong q trình thực hiện, vẫn cịn khó khăn
trong quan điểm của người áp dụng.
Ví dụ: Vụ án “Đào ngũ” được Tòa án thụ lý ngày 27/02/2020, bị cáo B bị
Viện kiểm sát áp dụng biện pháp tạm giam đến ngày 29/3/2020 nên Tòa án tiếp tục
sử dụng biện pháp tạm giam đối với bị cáo B của Viện kiểm sát. Vì vụ án có tính
chất phức tạp nên ngày 25/3/2020 theo đề nghị của Thẩm phán chủ tọa phiên tòa
vụ án được gia hạn thời hạn xét xử là 15 ngày kể từ ngày 28/3/2020. Việc áp dụng
biện pháp ngăn chặn trong thời hợp này có hai quan điểm như sau:
Quan điểm thứ nhất, trong trường hợp này vụ án được gia hạn thời hạn
chuẩn bị xét xử 15 ngày và 15 ngày chuẩn bị mở phiên tòa, vậy lệnh tạm giam tiếp
theo phải là 30 ngày kể từ ngày gia hạn (ngày 28/3/2020).
Quan điểm thứ hai cho rằng, thời hạn tạm giam trong trường hợp này là 28
ngày, kể từ ngày 30/3/2020. Tức là phải trừ đi 2 ngày kể từ khi quyết định gia hạn
đến hết lệnh tạm giam của Viện kiểm sát (29/3/2020).
Theo quan điểm của em, cả 2 trường hợp quyết định tạm giam trên đều
13


không vi phạm thời hạn chuẩn bị xét xử nhưng đối chiếu quan điểm thứ nhất thì
lệnh tạm giam kể từ ngày 28/3/2020 thì chồng lệnh của viện kiểm sát, vì đến ngày
29/3/2020 mới hết lệnh tạm giam. Như vậy, tôi cho rằng áp dụng biện pháp tạm
giam theo quan điểm thứ hai là phù hợp hơn.

Cũng trong vụ án này: Ngày 10/4/2020, Thẩm phán ra quyết định đưa vụ án
ra xét xử nhưng do trở ngại khách quan (tình hình bệnh dịch Covid19) nên tịa án
mở phiên tịa trong thời hạn 30 ngày (vào ngày 08/5/2020). Trong khi đó, lệnh tạm
giam đối với bị cáo hết vào ngày 26/4/2020, thì việc ra lệnh tạm giam đối với bị
cáo lại có những quan điểm khác nhau.
Quan điểm thứ nhất, do trở ngại khách quan nên thời gian mở phiên tòa kéo
dài thêm 15 ngày, vì vậy căn cứ Điều 277, 278 BLTTHS năm 2015 và quy định tại
Nghị quyết số 04/2004NQ-HĐTP thì trong trường hợp này, thời hạn tạm giam
được tính từ ngày 27/4/2020 đến ngày 08/5/2020, tức là 12 ngày.
Quan điểm thứ 2 cho rằng, đây là vụ án ít nghiêm trọng nên kể từ ngày thụ
lý đến khi đưa vụ án ra xét xử là 45 ngày, do đó thời hạn tạm giam là 45 ngày (đã
cộng 15 ngày khi ra quyết định đưa vụ án ra xét xử); vụ án này được gia hạn 15
ngày nên thời hạn tạm giam là 60 ngày. Vì lý do trở ngại khách quan nên Thẩm
phán ra Quyết định đưa vụ án ra xét xử trong thời hạn 30 ngày. Vậy tổng thời giam
tạm giam đối với bị cáo trong vụ án này là 75 ngày kể từ ngày thụ lý. Từ ngày thụ
lý 27/02/2020 đến ngày 26/4/2020 thì tạm giam bị cáo được 60 ngày, vì vậy thời
hạn tạm giam tiếp theo là 15 ngày kể từ ngày 27/4/2020.
Quan điểm thứ ba, trong trường hợp này thì việc áp dụng lệnh tạm giam căn
cứ vào khoản 3 Điều 277 và Cơng văn số 74/TA-NCTH của Tịa án qn sự Trung
ương ngày 05/02/2018, thì việc tạm giam kể từ ngày 27/4/2020 cho đến khi kết
thúc phiên tòa sơ thẩm.
Theo quan điểm của em, căn cứ vào nội dung Điều 277, Điều 278 BLTTHS
và nghị quyết số 04/2004/NQ-HĐTP ngày 05/11/2004 của Hội đồng Thẩm phán
TANDTC, thì lệnh tạm giam tiếp theo đối với bị cáo trong ví dụ trên là 15 ngày, kể
từ ngày 27/4/2020 (theo quan điểm thứ hai).
Thứ tám, khi vụ án được đưa ra xét xử, tại phiên tòa căn cứ vào Điều 297
BLTTHS năm 2015 thì thẩm phán chủ tọa phiên tòa thay mặt Hội đồng xét xử ra
quyết định hỗn phiên tịa. Thời hạn hỗn phiên tịa sơ thẩm không được quá 30
ngày kể từ ngày ra quyết định hỗn phiên tịa. Vậy trong trường hợp này, nếu bị
cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giam, thì lệnh tạm giam tiếp theo được

thực hiện như thế nào? Và căn cứ vào những quy định nào để ra lệnh tạm giam tiếp
theo? Thời hạn hoãn phiên tịa có được tính vào thời hạn chuẩn bị xét xử hay
không? Đây cũng là vấn đề mà một số người áp dụng còn boăn khoăn muốn được
cơ quan cơ quan cấp trên hướng dẫn, giải đáp.
Thứ chín, đối với vụ án có nhiều bị can bị truy tố về nhiều tội phạm khác
14


nhau, các bị can bị áp dụng biện pháp ngăn chặn “Tạm giam” thì việc tạm giam đối
với từng bị can được thực hiện như thế nào?
Theo hướng dẫn tại Nghị quyết số 04/2004/NQ-HĐTP ngày 05/11/2004 của
Hội đồng Thẩm phán TANDTC tại điểm đ, tiểu mục 2.2 mục 2 cụ thể như sau:
Trường hợp trong vụ án có nhiều bị can bị truy tố về nhiều tội phạm khác
nhau (tội phạm ít nghiêm trọng, tội phạm nghiêm trọng, tội phạm rất nghiêm trọng,
tội phạm đặc biệt nghiêm trọng), thì thời hạn tạm giam đối với từng bị can không
được quá thời hạn chuẩn bị xét xử đối với tội phạm nặng nhất mà bị can đó bị truy
tố. Như vậy, trên tinh thần của nghị quyết hướng dẫn thì áp dụng biện pháp tạm
giam đối với từng bị can theo tội phạm nặng nhất mà từng bị can đó bị truy tố.
Nhưng trong thực tiễn thì có nơi lại áp dụng biện pháp tạm giam trong trường hợp
trên là căn cứ vào tội nặng nhất trong vụ án để ra quyết định tạm giam đối với các
bị cáo bị tạm giam là khơng phù hợp.
Trong trường hợp, vụ án có nhiều bị can cùng bị truy tố về một tội phạm
nhưng theo các khoản khác nhau, khung hình phạt khác nhau thì việc áp dụng biện
pháp ngăn chặn tạm giam như thế nào? Hiện nay, chưa có hướng dẫn cụ thể để
thực hiện cho thống nhất.
3.2./ Một số kiến nghị, đề xuất
Về thẩm quyền quyết định tạm giữ người trong trường hợp khẩn cấp theo
khoản 2 Điều 117 BLTTHS năm 2015 cần quy định loại trừ những người được quy
định tại điểm c khoản 2 Điều 110 BLTTHS năm 2015.
Cần sửa khoản 2 Điều 278 theo hướng “Thời hạn tạm giam để chuẩn bị xét

xử không được quá thời hạn chuẩn bị xét xử quy định tại Điều 277 của Bộ luật
này.”
Về thời hạn quyết định tạm giữ đối với người bị giữ trong trường hợp khẩn
cấp phải được tính từ khi lập biên bản giữ người trong trường hợp khẩn cấp, có
như thế mới đảm bảo quyền của người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp.
Cần thay thế Nghị quyết số: 03/2004/NQ-HĐTP ngày 02/10/2004 ngày
02/10/2004; Nghị quyết số: 04/2004/NQ-HĐTP ngày 05/11/2004 của Hội đồng
Thẩm phán TANDTC và Ban hành các biểu mẫu mới về các biện pháp ngăn chặn
để phù hợp với quy định của Bộ luật Tố tụng mới và với thực tiễn xét xử của
ngành./.

15


TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Giáo trình luật tố tụng hình sự
Trường Đại học Luật Hà Nội
NXB. Công an nhân dân – Năm 2011.
2. Bộ luật tố tụng hình sự 2003.
3. Các biện pháp ngăn chặn bắt, tạm giữ tạm giam trong Tố tụng hình sự Việt
Nam - Thực trạng, nguyên nhân và giải pháp : Luận án tiến sĩ Luật học / Nguyễn
Văn Điệp ; Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Văn Hiện, PGS.TS. Võ Khánh
Vinh .
4. Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về biện pháp ngăn chặn tạm giữ trong Tố
tụng hình sự Việt Nam : Khoá luận tốt nghiệp / Đỗ Thị Hương Ly; Người hướng
dẫn: TS. Đỗ Thị Phượng, Hà Nội, 2011
5. Trang web:
- />-
-


16


17



×