Tải bản đầy đủ (.docx) (21 trang)

HTCTVN từ 1992 đến nay và vấn đề đổi mới HTCTVN hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (111.99 KB, 21 trang )

MỤC LỤC

CHƯƠNG 1: SƠ LƯỢC VỀ HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ VIỆT NAM.......................3
1.1 Khái quát về hệ thống chính trị.......................................................................3
1.2. Khái quát về hệ thống chính trị Việt Nam......................................................5
CHƯƠNG 2: HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ VIỆT NAM TỪ 1992 ĐẾN NAY VÀ
VẤN ĐỀ ĐỔI MỚI HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ HIỆN NAY...................................10
2.1. Sơ lược về hệ thống chính trị 1992..............................................................10
2.2. Những thành tựu nổi bật trong việc đổi mới, kiện toàn tổ chức, bộ máy của
hệ thống chính trị ở nước ta thời gian qua...........................................................19
CHƯƠNG 3: MỤC TIÊU VÀ GIẢI PHÁP TIẾP TỤC ĐỔI MỚI, SẮP XẾP TỔ
CHỨC BỘ MÁY HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ TINH GỌN, HOẠT ĐỘNG HIỆU
LỰC, HIỆU QUẢ....................................................................................................27
3.1. Mục tiêu........................................................................................................27
3.2 Nhiệm vụ, giải pháp......................................................................................28
KẾT LUẬN.............................................................................................................33
TÀI LIỆU THAM KHẢO.......................................................................................34

1


CHƯƠNG 1: SƠ LƯỢC VỀ HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ VIỆT NAM
1.1 Khái quát về hệ thống chính trị
1.1.1 Khái niệm hệ thống chính trị
Chính trị hiểu theo nghĩa chung nhất là một lĩnh vực hoạt động của đời sống
xã hội, bao gồm các hoạt động và các mối quan hệ giữa các chủ thể trong đời sống
xã hội liên quan đến việc nhận diện và giải quyết các vấn đề chung của tồn xã hội,
nhất là những vấn đề có tính tranh chấp, xung đột mang tính phổ biến trong các
mối quan hệ xã hội. Để có thể giải quyết được các vấn đề trên, một quyền lực
chung được thiết lập có sức mạnh cưỡng chế nhằm duy trì trật tự, hịa bình và cơng
lý trong xã hội, đảm bảo các quyền, tự do của công dân. Nhà nước được tổ chức để


thực thi quyền lực này. Do vậy, quyền lực nhà nước có nguồn gốc từ Nhân dân.
Trong các xã hội có giai cấp, các giai cấp tùy vào khả năng và tương quan
lực lượng của mình đều tìm cách để giành quyền lực nhà nước để hiện thực hóa lợi
ích của giai cấp mình, trên cơ sở và nhân danh thực hiện mục tiêu chung của xã
hội. Chính vì vậy, ở cách tiếp cận này, chính trị được khái quát là quan hệ giữa các
giai cấp, các tầng lớp trong việc giành, giữ và thực thi quyền lực nhà nước.
Từ đó có thể hiểu, hệ thống chính trị là một chỉnh thể các tổ chức chính trị
hợp pháp trong xã hội, bao gồm các Đảng chính trị, Nhà nước và các tổ chức chính
trị - xã hội được liên kết với nhau trong một hệ thống cấu trúc, chức năng với các
cơ chế vận hành và mối quan hệ giữa chúng nhằm thực thi quyền lực chính trị.
1.1.2. Cấu trúc của hệ thống chính trị
- Hệ thống chính trị là một chỉnh thể các tổ chức chính trị (hợp pháp) thực
thi những chức năng nhất định trong xã hội, gồm có:
+ Đảng chính trị: Đảng cầm quyền là lực lượng chủ yếu thực thi quyền lực
nhà nước, quyết định chính sách quốc gia. Các đảng khác (trong mơ hình hệ thống
chính trị có nhiều đảng) đóng vai trị hợp tác, tham gia phản biện, giám sát, kể cả

2


tìm cách hạn chế, ngăn cản hoạt động của đảng cầm quyền nhằm bảo vệ lợi ích của
đảng mình.
+ Nhà nước: được cấu thành bởi 3 cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp.
Ba cơ quan này thực thi quyền lực nhà nước. Quyền lực nhà nước khác với quyền
lực của các tổ chức chính trị khác ở tính “độc quyền cưỡng chế hợp pháp”.
+ Các tổ chức chính trị - xã hội: là những tổ chức của công dân được lập ra
nhằm thực hiện một mục tiêu nhất định, có thể tác động đến việc thực hiện quyền
lực của Đảng cầm quyền, Nhà nước để bảo vệ lợi ích của tổ chức mình và lợi ích
của các thành viên. Mức độ sự tác động này phụ thuộc vào vị trí, khả năng, nguồn
lực của tổ chức đó trong xã hội.

- Sự tương tác của các thể chế chính trị
Sự tương tác của các thể chế chính trị theo các cơ chế và mối quan hệ đã
được xác lập, chủ yếu trên cơ sở của luật pháp. Theo đó, các tổ chức này có sự liên
kết tương hỗ, hỗ trợ hoặc đối trọng, ngăn cản nhau trong các quá trình nhất định
nhằm thực thi quyền lực chính trị, đạt được mục đích chung của hệ thống và xã hội
cũng như lợi ích của các tổ chức thành viên của hệ thống chính trị.
Chẳng hạn, trong hệ thống chính trị, các đảng chính trị thường đề ra cương
lĩnh, mục tiêu, đường lối phát triển đất nước để vận động, thuyết phục Nhân dân
ủng hộ, bỏ phiếu nhằm giành được đủ phiếu bầu trở thành đảng cầm quyền hoặc
đảng đối lập có vị trí trong bộ máy nhà nước.
Khi trở thành đảng cầm quyền, đảng cầm quyền sẽ thể chế hóa cương lĩnh,
mục tiêu, đường lối chính trị của đảng thành luật pháp, chương trình, dự án, chính
sách và tổ chức thực hiện. Các đảng đối lập và các tổ chức chính trị - xã hội,
phương tiện truyền thơng có thể tham gia vào quá trình này để giám sát, phản biện
chính sách của đảng cầm quyền tùy theo vị trí, nguồn lực mà họ có, nhằm làm tăng
tính cẩn trọng, hợp lý của chính sách được ban hành hoặc phản đối, ngăn cản chính
3


sách nhằm bảo vệ lợi ích của mình hoặc của người dân và xã hội theo quan điểm
của họ.
1.2. Khái quát về hệ thống chính trị Việt Nam
1.2.1. Các thành tố trong hệ thống chính trị Việt Nam
Hệ thống chính trị Việt Nam gồm có:
- Đảng Cộng sản Việt Nam
- Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
- Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội gồm có: Cơng
đồn Việt Nam, Đồn Thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, Hội Liên hiệp Phụ nữ
Việt Nam, Hội Cựu chiến binh Việt Nam, Hội Nơng dân Việt Nam.
Trong hệ thống chính trị Việt Nam, Đảng Cộng sản Việt Nam vừa là một tổ

chức thành viên của Mặt trận, vừa là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội, là hạt
nhân của hệ thống chính trị; Nhà nước là trung tâm của hệ thống chính trị.
Thuật ngữ “hệ thống chính trị” được chính thức sử dụng ở Việt Nam từ Nghị
quyết Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VI (1989). Việc
chuyển từ “hệ thống chun chính vơ sản” sang “hệ thống chính trị” có ý nghĩa
nhấn mạnh đến sự tương tác, hợp tác của các chủ thể trong đời sống chính trị - xã
hội, nhằm tạo nên sức mạnh hợp lực của toàn hệ thống và khả năng thích nghi của
hệ thống với những thay đổi của mơi trường xã hội.
1.2.3. Đặc điểm của hệ thống chính trị Việt Nam
Hệ thống chính trị Việt Nam cũng được tổ chức theo những mơ hình phổ biến của
hệ thống chính trị các nước trên thế giới. Mặt khác hệ thống chính trị Việt Nam
cũng có những đặc điểm riêng.
Thứ nhất, hệ thống chính trị Việt Nam do duy nhất một Đảng Cộng sản lãnh
đạo. Khơng tồn tại các đảng chính trị đối lập. Đặc điểm này thể hiện tính phổ biến
của hệ thống chính trị ở các nước xã hội chủ nghĩa, vừa thể hiện tính đặc thù xuất
phát từ điều kiện thực tế cụ thể ở Việt Nam. Bởi vì, ngay từ khi ra đời, Đảng Cộng
4


sản Việt Nam đã được sự tín nhiệm của Nhân dân, được Nhân dân ủng hộ, tơn vinh
ở vị trí lãnh đạo và thực tế Đảng đã xứng đáng với vị trí được tơn vinh này[6].
Thứ hai, hệ thống chính trị Việt Nam là hệ thống chính trị được xây dựng
trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, có tham
khảo kinh nghiệm của thế giới. Tồn bộ hệ thống chính trị đều được tổ chức và
hoạt động trên nền tảng tư tưởng là chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí
Minh. Đảng ta xác định “Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là nền
tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động cách mạng”.
Thứ ba, do lịch sử hình thành gắn với các cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc,
Mặt trận tổ quốc và các tổ chức thành viên do Đảng thành lập và lãnh đạo, có mối
quan hệ gắn bó, mật thiết với Đảng và Nhà nước. Các tổ chức thành viên của hệ

thống chính trị đều do Đảng Cộng sản Việt Nam sáng lập: Nhà nước là hình thức tổ
chức quyền lực của Nhân dân - do Đảng lập ra. Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức
chính trị - xã hội do Đảng sáng lập có nhiệm vụ chính trị là tổ chức tập hợp, đồn
kết quần chúng, đại diện ý chí và nguyện vọng của quần chúng.
Thứ tư, hệ thống chính trị Việt Nam là một hệ thống mang tính thống nhất và
tập trung quyền lực. Tính thống nhất của hệ thống chính trị xuất phát từ nguồn gốc
quyền lực của nhân nhân ủy quyền cho Đảng, Nhà nước để thực hiện mục đích
chung. Mục đích chính trị của tồn bộ hệ thống là: xây dựng thành công chủ nghĩa
xã hội và chủ nghĩa cộng sản ở Việt Nam và mục tiêu cụ thể được xác định là dân
giàu, nước mạnh, dân chủ, cơng bằng, văn minh.
Thứ năm, trong hệ thống chính trị Việt Nam, các thành viên có địa vị pháp lý
vững chắc. Do vị trí, chức năng của mỗi thành viên trong hệ thống chính trị được
quy định trong Hiến pháp và các đạo luật, như: Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam,
Luật Cơng đồn, Luật Thanh niên…

5


CHƯƠNG 2: HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ VIỆT NAM TỪ 1992 ĐẾN NAY VÀ
VẤN ĐỀ ĐỔI MỚI HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ HIỆN NAY
2.1. Sơ lược về hệ thống chính trị 1992
Từ năm 1946 đến nay, nước ta đã có 4 bản Hiến pháp. Hiến pháp năm 1946
là bản Hiến pháp đầu tiên, ra đời trong bối cảnh một nước Việt Nam vừa giành
được độc lập. Hiến pháp năm 1946 được xây dựng trên ba nguyên tắc cơ bản: đoàn
kết toàn dân, khơng phân biệt giống nịi, trai, gái, giai cấp, tơn giáo; bảo đảm các
quyền lợi dân chủ; thực hiện chính quyền mạnh mẽ và sáng suốt của nhân dân. Các
hiến pháp năm 1959, 1980 và 1992 được sửa đổi, bổ sung trên cơ sở những biến
đổi về sự phát triển kinh tế, chính trị, xã hội trên mỗi bước đường của các giai đoạn
cách mạng, nhưng vẫn kế thừa những giá trị đã được thử thách theo thời gian, kết
tinh bền vững.

Hiến pháp năm 1992 ra đời trên cơ sở sửa đổi căn bản, toàn diện Hiến pháp
năm 1980. Sau 11 năm phát huy hiệu lực, khơng ít các quy định của Hiến pháp
năm 1980 khơng cịn phù hợp với tình hình kinh tế, xã hội của đất nước đang biến
chuyển nhanh chóng. Trước Đại hội VI của Đảng (tháng 12-1986), nền kinh nước
ta là nền kinh tế kế hoạch hóa, chỉ có hai thành phần kinh tế là kinh tế nhà nước và
kinh tế tập thể. Từ sau Đai hội VI của Đảng trở đi, nền kinh nước ta chuyển sang
nền kinh tế sản xuất hàng hóa nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường,
có sự điều tiết vĩ mô (sự quản lý cuả Nhà nước). Cũng từ đây, thuật ngữ "chun
chính vơ sản" được thay thế bằng "hệ thống chính trị", được xác định hồn thiện
hơn, bao gồm Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc cùng các tổ chức thành viên và
các tổ chức chính trị - xã hội; tự do, dân chủ được phát huy rộng rãi; về xã hội, đời
sống nhân dân đã có bước cải thiện, các quyền lợi, trước hết là quyền lợi kinh tế,
được bảo đảm hơn, và một số phong trào đã đạt kết quả khả quan như xóa đói,
6


giảm nghèo, đền ơn đáp nghĩa... Thực tiễn đó địi hỏi phải có một bản hiến pháp
mới phù hợp hơn để thúc đẩy sự phát triển tiến bộ của xã hội, xây dựng cuộc sống
ấm no, tự do, hạnh phúc cho tồn dân ở một trình độ cao hơn. Đại hội VI của Đảng
là bước ngoặt vĩ đại, mở ra một thời kỳ mới của đất nước ta. Tại Đại hội VI, Đảng
ta đã đưa ra đường lối đổi mới toàn diện đất nước, bao gồm đổi mới tư duy, đổi
mới công tác tổ chức - cán bộ, đổi mới phương thức lãnh đạo và phong cách công
tác của Đảng..., đặc biệt là đổi mới tư duy, trước hết là tư duy kinh tế; với chủ
trương phải nắm vững các quy luật khách quan, hành động theo quy luật và tính
quy luật, và phải lấy dân làm gốc. Về phương châm, phải "nhìn thẳng vào sự
thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự thật". Đại hội VI của Đảng đã đánh giá,
phân tích sâu sắc những thành tựu và những hạn chế, khuyết điểm của thời kỳ thực
thi cơ chế quản lý tập trung quan liêu, bao cấp kéo dài. Đại hội khẳng định, nước ta
đang ở chặng đường đầu tiên của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, bởi vậy, cần
tiếp tục xây dựng những tiền đề cần thiết cho sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại

hóa đất nước; đổi mới chính sách kinh tế gắn với đổi mới chính sách xã hội, coi sự
tác động qua lại giữa hai loại chính sách này là nhân tố cơ bản để bảo đảm quyền
làm chủ của nhân dân. Đây là lần đầu tiên trong quan niệm về chủ nghĩa xã hội,
chính sách xã hội và mối tương quan của nó với chính sách kinh tế được đặt đúng
tầm vóc; nền dân chủ xã hội chủ nghĩa được mở rộng, tư duy độc lập được phát
huy, sự sáng tạo của các tầng lớp nhân dân được đề cao; mục tiêu xây dựng một xã
hội "dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh" được xác lập.
Trên nền tảng đó, Quốc hội khóa VIII, Kỳ họp thứ 5, ngày 30-6-1989, đã ra
Nghị quyết thành lập Ủy ban sửa đổi Hiến pháp năm 1980 để hiến định đường lối
đổi mới trong giai đoạn cách mạng mới. Ban dự thảo Hiến pháp gồm 28 thành
viên, do Chủ tịch Hội đồng Nhà nước làm Chủ tịch. Cuối năm 1991, dự thảo lần
thứ ba được hoàn thành và được đưa ra trưng cầu ý kiến nhân dân. Trên cơ sở tổng
hợp ý kiến của các tầng lớp nhân dân và sự chỉ đạo của Bộ Chính trị, Ban Chấp
7


hành Trung ương Đảng (khóa VII), dự thảo Hiến pháp lần thứ tư đã được hồn
thiện và được trình tại Quốc hội khóa VIII, Kỳ họp thứ 11 xem xét. Sau nhiều ngày
thảo luận sôi nổi, với tinh thần trách nhiệm cao, dự thảo tiếp tục được hoàn chỉnh
với chất lượng tốt nhất trong bối cảnh lúc bấy giờ. Hiến pháp năm 1992 đã được
thông qua với 12 chế định: Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam - Chế độ
chính trị; Chế độ kinh tế; Văn hóa, giáo dục, khoa học, công nghệ; Bảo vệ Tổ quốc
Việt Nam xã hội chủ nghĩa; Quyền và nghĩa vụ cơ bản của cơng dân; Quốc hội;
Chủ tịch nước; Chính phủ; Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân; Tòa án nhân
dân và Viện kiểm sát nhân dân; Quốc kỳ, quốc ca, quốc huy, thủ đô và ngày quốc
khánh; Hiệu lực của Hiến pháp và việc sửa đổi Hiến pháp.
Quá trình xây dựng Hiến pháp năm 1992, có thể nói, là một cuộc sinh hoạt
chính trị dài ngày của tồn Đảng, toàn dân, toàn quân, thật sự dân chủ trong thảo
luận. Các ý kiến thảo luận, đóng góp được chắt lọc một cách đầy đủ, nghiêm túc về
tất cả các vấn đề, từ những quan điểm chung cho đến các vấn đề cụ thể; từ chế định

về chế độ chính trị cho đến tất cả các chế định tiếp theo thuộc nội dung Hiến pháp.
Đây là Hiến pháp của thời kỳ đổi mới, là sản phẩm trí tuệ của tồn xã hội, thể hiện
ý chí và nguyện vọng của đơng đảo các tầng lớp nhân dân.
2.2. Những thành tựu nổi bật trong việc đổi mới, kiện toàn tổ chức, bộ
máy của hệ thống chính trị ở nước ta thời gian qua
Trong mấy nhiệm kỳ Đại hội Đảng gần đây, Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị
đã có nhiều chủ trương nhằm đổi mới, kiện toàn tổ chức bộ máy hệ thống chính trị gắn
với tinh giản biên chế, cải cách tiền lương và tập trung lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện, như:
Nghị quyết Trung ương 7 (khóa VIII) “Một số vấn đề về tổ chức, bộ máy của hệ thống
chính trị và tiền lương, trợ cấp xã hội thuộc ngân sách nhà nước”; Nghị quyết Trung
ương 5 (khóa IX) về “Đổi mới và nâng cao chất lượng hệ thống chính trị cơ sở xã,
phường, thị trấn”; Nghị quyết Trung ương 4 (khóa X) về “Đổi mới, kiện tồn tổ chức
bộ máy các cơ quan đảng, định hướng đổi mới, kiện toàn tổ chức bộ máy các cơ quan
8


Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội”; Kết luận số 64-KL/TW
của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XI) “Một số vấn đề về tiếp tục đổi mới,
hồn thiện hệ thống chính trị từ Trung ương đến cơ sở”; Nghị quyết số 39-NQ/TW của
Bộ Chính trị về “Tinh giản biên chế và cơ cấu lại đội ngũ cán bộ, công chức, viên
chức”.v.v..
Quá trình thực hiện các nghị quyết của Đảng đã thu được những kết quả quan
trọng, đã bước đầu hình thành nhận thức lý luận về tổ chức bộ máy hệ thống chính
trị theo quan điểm đổi mới, định hướng tư tưởng cho những giải pháp nhằm đổi
mới tổ chức bộ máy hệ thống chính trị ở nước ta trong điều kiện mới. Cơ cấu tổ
chức bộ máy trong hệ thống chính trị đã được sắp xếp lại một bước, có nhiều tiến
bộ.
Nghị quyết Đại hội XII của Đảng khẳng định, trong nhiệm kỳ qua “Công tác xây
dựng Đảng, xây dựng hệ thống chính trị được chú trọng và đạt kết quả quan trọng”.
Hệ thống các cơ quan, tổ chức đảng từ Trung ương đến cơ sở tiếp tục được sắp xếp,

kiện toàn, số lượng các ban đảng giảm, từng bước tinh gọn hơn, chức năng, nhiệm vụ,
quyền hạn của mỗi tổ chức đã được điều chỉnh, bổ sung phù hợp hơn, giảm bớt trùng
lắp, chồng chéo. Tổ chức các cơ quan của Quốc hội được kiện toàn, hoạt động của
Quốc hội đã có nhiều đổi mới, chất lượng được nâng cao hơn. Tổ chức bộ, ngành trực
thuộc Chính phủ giảm, chức năng, nhiệm vụ được bổ sung, điều chỉnh; hiệu lực, hiệu
quả từng bước được nâng lên. Tổ chức của tòa án nhân dân, viện kiểm sát nhân dân
các cấp đã được triển khai theo yêu cầu cải cách tư pháp. Mặt trận Tổ quốc và các
đồn thể chính trị - xã hội từ Trung ương tới cơ sở được kiện tồn, phương thức hoạt
động có đổi mới. Chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức trong hệ thống
chính trị được nâng lên một bước đáp ứng tốt hơn yêu cầu nhiệm vụ. Những tiến bộ
và kết quả đó đã góp phần vào sự ổn định chính trị, phát triển kinh tế - xã hội của đất
nước trong những năm qua. Hệ thống chính trị cơ bản ổn định, phù hợp với Cương
lĩnh và Hiến pháp; bảo đảm vai trò lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước, phát
9


huy quyền làm chủ của nhân dân, góp phần quan trọng vào những thành tựu to lớn, có
ý nghĩa lịch sử của công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

2.2.1 Hạn chế, yếu kém
Bên cạnh những thành tựu, một số mặt công tác xây dựng Đảng, xây dựng hệ thống
chính trị chuyển biến cịn chậm. Nghị quyết Hội nghị Trung ương 6 khóa XII của
Đảng về Tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn,
hoạt động hiệu lực, hiệu quả đã chỉ ra tương đối đầy đủ những hạn chế, yếu kém
trong tổ chức bộ máy hệ thống chính trị nước ta. Cụ thể là:
Tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị vẫn cịn cồng kềnh, nhiều tầng nấc, nhiều
đầu mối; hiệu lực, hiệu quả hoạt động chưa đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ. Chức
năng, nhiệm vụ, quyền hạn, tổ chức bộ máy, mối quan hệ của một số cơ quan, tổ
chức chưa thật rõ, còn chồng chéo, trùng lắp.
Việc phân công, phân cấp, phân quyền giữa các ngành, các cấp và trong từng cơ quan,

tổ chức chưa hợp lý, mạnh mẽ và đồng bộ; cịn tình trạng bao biện, làm thay hoặc bỏ
sót nhiệm vụ. Kiện tồn tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị gắn với tinh giản biên
chế, cơ cấu lại đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức đạt kết quả thấp; tỉ lệ người phục
vụ cao, nhất là ở khối văn phòng; số lãnh đạo cấp phó nhiều; việc bổ nhiệm cấp "hàm"
ở một số cơ quan Trung ương chưa hợp lý.
Cơ chế kiểm soát quyền lực hiệu quả chưa cao; việc cơng khai, minh bạch và trách
nhiệm giải trình cịn hạn chế. Cải cách hành chính, nhất là cải cách thủ tục hành
chính chuyển biến chậm, khơng đồng bộ, chưa đáp ứng yêu cầu. Tuy đã quan tâm
đầu tư nhiều cho kết cấu hạ tầng công nghệ thông tin phục vụ quản lý nhưng hiệu
quả tác động vào việc tinh gọn tổ chức bộ máy, nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt
động và tinh giản biên chế chưa tương xứng. Số người hưởng lương, phụ cấp từ
ngân sách nhà nước rất lớn, nhất là ở các đơn vị sự nghiệp công lập, người hoạt
10


động không chuyên trách cấp xã và ở thôn, tổ dân phố; chính sách tiền lương cịn
bất cập.
Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm, mối quan hệ công tác của cấp ủy
cấp tỉnh, cấp ủy cấp huyện chưa cụ thể hóa đầy đủ; thiếu quy định khung quy chế
làm việc của cấp ủy các cấp. Số lượng, cơ cấu, chất lượng cấp ủy viên, ủy viên ban
thường vụ cấp ủy các cấp còn một số bất cập. Năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu
của khơng ít cấp ủy, tổ chức đảng còn yếu, nhất là ở một số cơ sở và trong doanh
nghiệp nhà nước, đơn vị sự nghiệp công lập; việc quản lý đảng viên ở nhiều nơi
thiếu chặt chẽ; công tác xây dựng tổ chức đảng, phát triển đảng viên ở một số địa
bàn và trong các doanh nghiệp, đơn vị sự nghiệp ngoài nhà nước cịn khó khăn.
Nhiều trưởng thơn, tổ trưởng tổ dân phố không phải là đảng viên. Tổ chức, hoạt
động của một số ban chỉ đạo và ban bảo vệ, chăm sóc sức khoẻ cán bộ có mặt cịn
bất cập.
Năng lực quản lý, điều hành và hiệu lực, hiệu quả hoạt động của một số cơ quan
nhà nước cả ở Trung ương và địa phương còn hạn chế. Sự phối hợp giữa các cấp,

các ngành, các địa phương có lúc, có nơi thiếu chặt chẽ. Chưa phân định thật rõ
tính đặc thù của chính quyền đơ thị, nơng thơn, hải đảo.
Các đơn vị hành chính địa phương nhìn chung quy mơ nhỏ, nhiều đơn vị không
bảo đảm tiêu chuẩn theo quy định, nhất là cấp huyện, cấp xã. Số lượng, cơ cấu đại
biểu dân cử chưa phù hợp, chất lượng còn hạn chế. Hoạt động của hệ thống chính
trị ở xã, phường, thị trấn nhiều nơi còn lúng túng, hiệu quả thấp, chưa đủ sức giải
quyết được những vấn đề phức tạp nảy sinh. Số người hưởng lượng, phụ cấp lớn,
nhưng hiệu quả hoạt động thấp.
Việc thành lập văn phịng đồn đại biểu Quốc hội cấp tỉnh làm phát sinh một số bất
cập trong công tác cán bộ, quản lý cán bộ. Nhiều tổ chức phối hợp liên ngành, ban
quản lý dự án trùng lắp về chức năng, nhiệm vụ, hiệu quả hoạt động chưa cao.
11


Tổ chức bộ máy, phương thức hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các đồn thể chính
trị - xã hội chậm đổi mới, một số nhiệm vụ còn trùng lắp, vẫn cịn tình trạng "hành
chính hóa", "cơng chức hóa". Cơ cấu cán bộ, công chức, viên chức giữa các cấp và
trong từng cơ quan chưa hợp lý; năng lực, trình độ của đội ngũ cán bộ chuyên trách
cấp cơ sở còn hạn chế. Nội dung và phương thức hoạt động có lúc, có nơi chưa thiết
thực, hiệu quả, thiếu sâu sát cơ sở. Cơ chế phân bổ ngân sách nhà nước đối với Mặt
trận Tổ quốc, các đoàn thể chính trị - xã hội cịn bất cập; một số quy định về tổ chức,
hoạt động và cơ chế quản lý tài chính, tài sản đối với tổ chức cơng đoàn chưa phù
hợp. Tổ chức hội quần chúng lập nhiều ở các cấp, nhưng cơ sở vật chất và kinh phí
hoạt động chủ yếu vẫn dựa vào ngân sách nhà nước.
Chất lượng tham mưu, đề xuất của các cơ quan, tổ chức đảng với Trung ương, Bộ
Chính trị, Ban Bí thư trên một số lĩnh vực còn hạn chế. Phương thức lãnh đạo của
Đảng chậm được đổi mới. Một số vấn đề về thẩm quyền lãnh đạo, chỉ đạo của Bộ
Chính trị, Ban Bí thư, của cấp uỷ, ban thường vụ và thường trực cấp uỷ Đảng các
cấp, trách nhiệm, quyền hạn của người đứng đầu cấp uỷ chưa đủ rõ nên cịn vướng
mắc trong thực tiễn và khó xem xét trách nhiệm cá nhân.

Việc sắp xếp tổ chức bộ máy chưa thật gắn kết với điều chỉnh chức năng, nhiệm vụ
tinh giản biên chế và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức. Một bộ phận
cán bộ, công chức không đáp ứng được yêu cầu nhưng chưa có cơ chế để thay thế kịp
thời. Chính sách đối với cán bộ, cơng chức cịn nhiều bất cập, nhất là về tiền lương,
nhà ở. Chưa xác định được căn cứ khoa học để giao biên chế cho phù hợp, cơng tác
quản lý biên chế nhìn chung cịn lỏng lẻo, thiếu đồng bộ; công tác kiểm tra, thanh tra,
giám sát chưa thường xuyên, hiệu quả kém. Tinh giản biên chế đạt kết quả thấp,
không thực hiện được mục tiêu đề ra. Chi lương và phụ cấp chiếm phần lớn trong
tổng kinh phí hoạt động của cơ quan, đơn vị.

12


CHƯƠNG 3: MỤC TIÊU VÀ GIẢI PHÁP TIẾP TỤC ĐỔI MỚI, SẮP XẾP
TỔ CHỨC BỘ MÁY HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ TINH GỌN, HOẠT ĐỘNG
HIỆU LỰC, HIỆU QUẢ
3.1. Mục tiêu
Mục tiêu tổng quát: Tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống
chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả và phù hợp với thể chế kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa nhằm tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng;
nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước và chất lượng hoạt động của
Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể chính trị - xã hội; phát huy quyền làm chủ của nhân
dân. Tinh giản biên chế gắn với cơ cấu lại, nâng cao chất lượng, sử dụng hiệu quả
đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức; giảm chi thường xuyên và góp phần cải cách
chính sách tiền lương.
Mục tiêu cụ thể: Đến năm 2021: (1) Cơ bản hoàn thành việc sắp xếp, kiện
toàn một số tổ chức và các đầu mối bên trong của từng tổ chức theo hướng giảm
đầu mối, giảm tối đa cấp trung gian, giảm cấp phó. Sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện
một số quy định liên quan đến chức năng, nhiệm vụ, tổ chức bộ máy của hệ thống
chính trị để kịp thời khắc phục tình trạng trùng lắp, chồng chéo chức năng, nhiệm

vụ, lĩnh vực quản lý; (2) Thực hiện thí điểm một số mơ hình mới về tổ chức bộ
máy và kiêm nhiệm chức danh để tinh gọn đầu mối, nâng cao hiệu lực, hiệu quả
hoạt động, góp phần làm rõ về lý luận và thực tiễn; (3) Sắp xếp thu gọn hợp lý các
13


đơn vị hành chính cấp xã chưa đạt 50% tiêu chuẩn theo quy định về quy mơ dân
số, diện tích tự nhiên và giảm số lượng thôn, tổ dân phố; (4) Giảm tối thiểu 10%
biên chế so với năm 2015.
Từ năm 2021 đến năm 2030: (1) Hoàn thành việc nghiên cứu và tổ chức thực
hiện mơ hình tổ chức tổng thể của hệ thống chính trị phù hợp với yêu cầu, điều
kiện cụ thể của nước ta trong giai đoạn mới; giảm biên chế; (2) Phân định rõ chức
năng, nhiệm vụ, quyền hạn của từng cơ quan, tổ chức, khắc phục được tình trạng
chồng chéo, trùng lắp hoặc bỏ sót chức năng, nhiệm vụ giữa các cơ quan, tổ chức
trong hệ thống chính trị; (3) Tiếp tục cụ thể hố, thể chế hoá chủ trương, nghị
quyết, kết luận của Đảng về đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy bằng các quy định
của Đảng, pháp luật của Nhà nước; (4) Phân định rõ và tổ chức thực hiện mơ hình
chính quyền nông thôn, đô thị, hải đảo và đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt; (5)
Cơ bản hồn thành việc sắp xếp thu gọn các đơn vị hành chính cấp huyện, xã và
thơn, tổ dân phố theo tiêu chuẩn quy định.
Đối với các đơn vị sự nghiệp công lập từ nay đến năm 2030: Thực hiện có
hiệu quả theo lộ trình, mục tiêu và nhiệm vụ, giải pháp của Nghị quyết Trung ương
6 khoá XII về "Tiếp tục đổi mới hệ thống tổ chức và quản lý, nâng cao chất lượng
và hiệu quả hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công lập".
3.2 Nhiệm vụ, giải pháp
Nhiệm vụ, giải pháp về đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy hệ thống chính trị
được đề ra trong nhiều nghị quyết chuyên đề và kết luận của Đảng thời kỳ đổi mới.
Ban Chấp hành Trung ương khóa IX, X, XI, XII đã có các nghị quyết, kết luận về
tổ chức bộ máy hệ thống chính trị, bao gồm:
Nghị quyết số 10-NQ/TW, ngày 09/2/2007 về đổi mới, kiện toàn tổ chức bộ

máy các cơ quan Đảng, định hướng đổi mới tổ chức bộ máy Nhà nước, Mặt trận
Tổ quốc và các đồn thể chính trị - xã hội nêu quan điểm: “Kiện toàn tổ chức bộ
máy nhằm đảm bảo các cơ quan trong hệ thống chính trị hoạt động có hiệu lực,
14


hiệu quả, tinh gọn, khắc phục tình trạng quan liêu, trùng lặp, chồng chéo về chức
năng, nhiệm vụ hoặc tổ chức không phù hợp với chức năng, nhiệm vụ. Phân định
rõ chức năng, nhiệm vụ, trách nhiệm của mỗi tổ chức, bảo đảm hiệu lực, hiệu quả
hoạt động của cả hệ thống chính trị”.
Nghị quyết số 17-NQ/TW, ngày 01/8/2007 về đẩy mạnh cải cách hành chính,
nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý của bộ máy nhà nước đã chỉ rõ: "Tiếp tục hồn
thiện chức năng, nhiệm vụ của Chính phủ theo hướng xây dựng hệ thống cơ quan
hành pháp thống nhất, thông suốt, hiện đại và đúng với vai trị là cơ quan hành chính
nhà nước cao nhất. Thực hiện nhất quán nguyên tắc: một việc chỉ giao cho một cơ
quan, một người chịu trách nhiệm chính. Chính phủ tập trung thực hiện tốt hơn nữa
chức năng quản lý nhà nước trên tất cả các lĩnh vực mà pháp luật đã quy định. Xác
định rõ phạm vi và nội dung quản lý nhà nước về kinh tế, xã hội cho phù hợp với yêu
cầu phát triển”. "Tiếp tục hình thành Bộ quản lý đa ngành, đa lĩnh vực; giảm phù
hợp số đầu mối các Bộ, cơ quan ngang Bộ; khắc phục tình trạng bỏ trống hoặc trùng
lắp về chức năng, nhiệm vụ, giữa các Bộ, ngành; không giữ các cơ quan thuộc Chính
phủ có chức năng quản lý nhà nước; chỉ duy trì một số cơ quan cần thiết thuộc Chính
phủ là đơn vị sự nghiệp".
Trên cơ sở các nghị quyết và kết luận của Trung ương, để tiếp tục sắp xếp, đổi
mới tổ chức bộ máy hệ thống chính trị hoạt động hiệu lực, hiệu quả, Nghị quyết
Hội nghị Trung ương 6 (khóa XII) đã cụ thể hóa thành các nhiệm vụ, giải pháp như
sau:
3.2.1. Nhiệm vụ, giải pháp chung đối với tồn bộ hệ thống chính trị
- Thực hiện Đảng thống nhất lãnh đạo xây dựng và quản lý tổ chức bộ máy,
biên chế của toàn hệ thống chính trị, ở Trung ương trực tiếp là Bộ Chính trị, ở địa

phương trực tiếp là ban thường vụ cấp ủy cấp tỉnh.
- Khẩn trương nghiên cứu, hoàn thiện và tổ chức thực hiện mơ hình tổ chức
tổng thể của hệ thống chính trị phù hợp với yêu cầu xây dựng, hoàn thiện Nhà
15


nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa và chủ động, tích cực hội nhập quốc tế.
- Tập trung rà sốt, sắp xếp, kiện tồn, tinh gọn đầu mối bên trong các tổ chức
của hệ thống chính trị gắn với tinh giản biên chế, cơ cấu lại và nâng cao chất lượng
đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức. Kiên quyết giảm và không thành lập mới các
tổ chức trung gian; giải thể hoặc sắp xếp lại các tổ chức hoạt động không hiệu quả.
Việc sắp xếp lại tổ chức bộ máy không được tăng thêm đầu mối và biên chế;
trường hợp đặc biệt cần tăng thêm đầu mối từ cấp vụ, cục hoặc tương đương trở
lên phải có ý kiến của Bộ Chính trị.
- Rà sốt, bổ sung, hồn thiện chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, mối quan hệ
công tác giữa các tổ chức trong hệ thống chính trị, khắc phục tình trạng trùng lắp,
chồng chéo để một tổ chức, một người có thể đảm nhiệm nhiều việc, nhưng một
việc chỉ do một tổ chức, một người chủ trì và chịu trách nhiệm chính. Thực hiện
tinh giản biên chế theo đúng mục tiêu đã đề ra. Quy định và quản lý chặt chẽ biên
chế đối với các tổ chức trong hệ thống chính trị trên cơ sở phân loại tổ chức, tiêu
chuẩn chức danh cán bộ, công chức, viên chức và xác định vị trí việc làm một cách
khoa học, sát thực tế. Quy định số lượng biên chế tối thiểu được thành lập tổ chức,
số lượng lãnh đạo cấp phó tối đa của một tổ chức phù hợp với đặc điểm của từng
cấp, từng ngành, từng địa phương. Quy định cụ thể tiêu chuẩn, điều kiện, chính
sách để giảm phạm vi, đối tượng bổ nhiệm cấp "hàm"; giảm tỉ lệ người phục vụ
trong từng cơ quan, nhất là khối văn phịng.
- Rà sốt, sửa đổi, bổ sung, hồn thiện các quy định của Đảng, Nhà nước về tổ
chức bộ máy của các cấp, các ngành, các địa phương, bảo đảm đồng bộ, thống nhất.
Mạnh dạn thí điểm một số mơ hình mới về thu gọn tổ chức bộ máy và kiêm nhiệm

chức danh để tinh gọn đầu mối, nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động; kịp thời sơ kết,
tổng kết và mở rộng dần những mơ hình phù hợp, hiệu quả.
16


- Xây dựng, hoàn thiện và thực hiện cơ chế cạnh tranh lành mạnh, công khai,
minh bạch, dân chủ trong bổ nhiệm, đề bạt cán bộ và tuyển dụng công chức, viên
chức để thu hút người thực sự có đức, có tài vào làm việc trong các tổ chức của hệ
thống chính trị. Tiến hành sơ kết, tổng kết và đổi mới việc thi tuyển, bổ nhiệm, sử
dụng, đánh giá và thực hiện chế độ, chính sách đãi ngộ đối với cán bộ, công chức,
viên chức; đẩy mạnh cải cách tiền lương. Thực hiện nghiêm chế độ miễn nhiệm, bãi
nhiệm, từ chức, cho thôi việc hoặc thay thế kịp thời những người kém năng lực, phẩm
chất đạo đức, không đáp ứng u cầu, tiêu chuẩn của chức danh, khơng hồn thành
nhiệm vụ được giao. Tiếp tục đổi mới nội dung, phương pháp đào tạo, bồi dưỡng, cập
nhật kiến thức cho cán bộ, công chức, viên chức.
- Thực hiện phân cấp, phân quyền mạnh mẽ, hợp lý giữa Trung ương và địa
phương, giữa cấp trên và cấp dưới, gắn quyền hạn với trách nhiệm; đồng thời, xây
dựng cơ chế kiểm soát quyền lực chặt chẽ bằng các quy định của Đảng, pháp luật
của Nhà nước, bảo đảm dân chủ, công khai, minh bạch, đề cao trách nhiệm giải
trình và tăng cường kiểm tra, giám sát việc thực hiện. Khuyến khích sự năng động,
sáng tạo và phát huy tính tích cực, chủ động của các cấp, các ngành, các địa
phương trong việc xây dựng, kiện toàn tổ chức, tinh gọn bộ máy, tinh giản biên
chế.
- Xây dựng chương trình, kế hoạch cụ thể, sát thực để tăng cường lãnh đạo,
chỉ đạo, thực hiện kiểm tra, thanh tra, giám sát việc chấp hành các quy định về sắp
xếp tổ chức bộ máy, tinh giản biên chế trong hệ thống chính trị. Biểu dương, khen
thưởng kịp thời những tổ chức, cá nhân thực hiện có hiệu quả; xử lý nghiêm minh
những tổ chức, cá nhân, nhất là người đứng đầu không thực hiện hoặc thực hiện
không đúng quy định, không đạt mục tiêu tinh gọn bộ máy, tinh giản biên chế. Đây
là một trong những tiêu chí quan trọng để kiểm điểm, đánh giá, giới thiệu bầu cử,

bổ nhiệm, miễn nhiệm cán bộ.
17


- Tiếp tục cải cách hành chính mạnh mẽ, ứng dụng sâu rộng khoa học - công
nghệ, nhất là công nghệ thơng tin; đẩy mạnh xây dựng chính phủ điện tử, đơ thị
thơng minh; tổng kết, đánh giá để có giải pháp sử dụng hiệu quả hạ tầng công nghệ
thông tin, chống lãng phí, góp phần tinh gọn bộ máy và tinh giản biên chế. Đầu tư
thỏa đáng các nguồn lực cho công tác nghiên cứu khoa học về tổ chức bộ máy,
cơng tác cán bộ của hệ thống chính trị. Nghiên cứu sửa đổi quy định và thực hiện
việc phân bổ ngân sách chi thường xuyên đối với các tổ chức, cơ quan, đơn vị
trong hệ thống chính trị.
- Đẩy mạnh cơng tác tun truyền, giáo dục chính trị, tư tưởng, tạo sự thống
nhất nhận thức và hành động trong Đảng, sự đồng thuận trong xã hội. Bố trí đủ
nguồn lực và có cơ chế, chính sách phù hợp đối với những cán bộ, công chức, viên
chức chịu tác động trực tiếp trong quá trình sắp xếp, cơ cấu lại tổ chức bộ máy.
Cảnh giác và chủ động có các giải pháp ngăn chặn các hoạt động chống phá của
các thế lực thù địch và phần tử xấu.

18


KẾT LUẬN
Trong điều kiện mới hiện nay, việc nghiên cứu, tham khảo có chọn lọc kinh
nghiệm của các nước trong xây dựng hệ thống chính trị khơng chỉ là u cầu xuất
phát từ thực tiễn hiện nay của Việt Nam sau hơn 30 năm tiến hành đổi mới đất
nước mà còn là xu hướng chung của thế giới. Trong bối cảnh đó, Việt Nam phải
chịu những sức ép khơng nhỏ từ cả bên ngoài và nội tại để đổi mới, hoàn thiện và
nâng cao hơn nữa hiệu quả, hiệu lực của hệ thống chính trị, bảo đảm hội nhập quốc
tế thành công. Sự phát sinh và diễn biến phức tạp của các vấn đề khi hội nhập quốc

tế, đòi hỏi hệ thống chính trị phải đủ mạnh và linh hoạt để kịp thời ứng phó với
những vấn đề xuất hiện trong quá trình hội nhập, đáp ứng mục tiêu và nhu cầu phát
triển bền vững của dân tộc, đất nước trong bối cảnh mới.
Tuy nhiên, trước sự phong phú và đa dạng của các mơ hình hệ thống chính
trị trên thế giới (cả về thực tiễn và lý luận), để đảm bảo khơng chệch hướng về mặt
chính trị, định hướng phát triển; kế thừa và vận dụng linh hoạt những kinh nghiệm
quốc tế trong xây dựng hệ thống chính trị, Đảng ta khi nghiên cứu và tham khảo có
chọn lọc kinh nghiệm của các nước cần phải dựa trên các cơ sở sau: Bảo đảm sự
biện chứng giữa cái phổ biến và cái đặc thù, cái lịch sử và cái lô-gic một cách cụ
thể trên phương diện đổi mới hệ thống chính trị là nguyên tắc cần được tuân thủ
hết sức nghiêm ngặt. Trong đó, tính phù hợp và hiệu quả là mục tiêu, là thước đo
trình độ của việc đổi mới một cách tổng thể và trực tiếp đổi mới chính trị./.
19


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đảng CSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV, Nxb Sự
thật, HN, 1976, tr.5.
2. Giáo Trình: Đường Lối Cách Mạng Của Đảng Cộng Sản Việt Nam.
Do NXB Chính Trị Quốc Gia phát hành.
3. - Cổng TTĐT HV chính trị KV2.
4. - website Hội đồng lý luận TƯ.

20


21




×