Tải bản đầy đủ (.doc) (38 trang)

TIỂU LUẬN QUAN điểm LỊCH sử cụ THỂ và yêu cầu đổi mới căn bản TOÀN DIỆN GIÁO dục và đào tạo đáp ỨNG yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa TRONG điều KIỆN KINH tế THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG xã hội CHỦ NGHĨA

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (227.51 KB, 38 trang )

Môc lôc

Trang
2

MỞ ĐẦU

1.
1.1.
1.2.
1.3.

2.

Lý luận chung về quan điểm lịch sử cụ thể.
Cơ sở lý luận của quan điểm lịch sử cụ thể.
Nội dung của quan điểm lịch sử cụ thể.
Tác dụng của việc vận dụng quan điểm lịch sử cụ thể

4
4
7

trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn của con

9

người.
Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp
ứng u cầu cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều
kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và



2.1.

hội nhập quốc tế.
Quá trình phát triển giáo dục và đào tạo ở Việt Nam nhìn

2.2.

từ quan điểm lịch sử cụ thể.
Thực trạng phát triển giáo dục và đào tạo trong thời kì

2.3.

cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Một số giải pháp đổi mới căn bản, tồn diện giáo dục và
đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa
trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ

11

11
23

25

nghĩa và hội nhập quốc tế.
KẾT LUẬN

36


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

37

1


MỞ ĐẦU

Nếu nguồn nhân lực quyết định sự phát triển của quốc gia, thì giáo dục và
đào tạo là phương tiện chủ yếu quyết định chất lượng con người, là con đường cơ
bản để phát triển nguồn nhân lực. Mọi chiến lược phát triển kinh tế - xã hội sẽ
không thành công nếu không thực hiện tốt chiến lược giáo dục và đào tạo. Do đó,
phải làm cho các cấp, các ngành, mọi nhà, mọi người thấu triệt quan điểm “giáo
dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu”, “đầu tư cho giáo dục, đào tạo là đầu tư cho
phát triển, đầu tư cho tương lai”; giáo dục, đào tạo phải đi trước một bước... và
triển khai bằng các kế hoạch cụ thể để biến tư tưởng đó thành hành động sinh động
trong thực tế cuộc sống.
Trong giai đoạn đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội
nhập quốc tế, nguồn lực con người Việt Nam càng trở nên có ý nghĩa quan trọng,
quyết định sự thành công của công cuộc phát triển đất nước. Giáo dục và đào tạo
ngày càng có vai trị và nhiệm vụ quan trọng trong việc xây dựng một thế hệ người
Việt Nam mới, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội. Điều này đòi hỏi giáo
dục và đào tạo phải có chiến lược phát triển đúng hướng, hợp quy luật, xu thế và
xứng tầm thời đại. Trong nhiều năm qua Đảng ta đã luôn luôn nhấn mạnh quan
điểm “Giáo dục và đào tạo cùng với khoa học công nghệ là quốc sách hàng đầu, là
động lực của quá trình phát triển”... Tuy nhiên trong thực tiễn, quan điểm này chưa
được hiểu một cách đầy đủ để triển khai một cách thực sự hiệu quả ở mọi lĩnh vực.
Nền giáo dục Việt Nam hiện nay tồn tại nhiều bất cập và đổi mới giáo dục và đào
tạo là nhu cầu tất yếu để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, đáp ứng yêu cầu phát

triển kinh tế xã hội.

2


Cùng với sự vận động phát triển không ngừng của xã hội thì phát triển giáo
dục và đào tạo cũng phải ln ln đổi mới để thích nghi và đáp ứng tốt hơn nữa
những yêu cầu về hệ thống giáo dục trong xã hội mới. Do đó, đổi mới giáo dục và
đào tạo là một quá trình tất yếu và khơng ngừng, địi hỏi phải có sự nghiên cứu về
giáo dục và đào tạo trong sự vận động và phát triển trong từng giai đoạn cụ thể, biết
phân tích mỗi tình hình cụ thể trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn.
Cần phải thấy được các mối liên hệ, sự biến đổi của đổi mới giáo dục và đào tạo
theo thời gian, cũng như trong những không gian tồn tại khác nhau của mỗi mặt,
mỗi thuộc tính đặc trưng, tránh khuynh hướng giáo điều, chung chung, trừu tượng
không cụ thể. Đây cũng chính là nguyên tắc của quan điểm lịch sử cụ thể.
Mặt khác, nền giáo dục ở một số quốc gia trên thế giới đã có những bước
nhảy vọt, vượt xa rất nhiều so với nền giáo dục hiện nay ở nước ta. Yêu cầu đặt ra ở
đây là cần phải áp dụng quan điểm lịch sử cụ thể vào q trình phân tích, chắt lọc
những thành tựu, ưu điểm của các nền giáo dục tiên tiến trên thế giới, tìm ra những
hướng đi phù hợp với nền giáo dục Việt Nam, từ đó vận dụng một cách khéo léo
các thành tựu đó vào phát triển giáo dục và đào tạo của nước nhà. Chính vì vậy cần
phải vận dụng quan điểm lịch sử cụ thể vào q trình đổi mới căn bản, tồn diện
giáo dục và đào tạo, đáp ứng u cầu cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế.

3


1. Lý luận chung về quan điểm lịch sử cụ thể.
1.1. Cơ sở lý luận của quan điểm lịch sử cụ thể

Quan điểm lịch sử - cụ thể là một trong những quan điểm, nguyên tắc quan
trọng nhất của chủ nghĩa Mác - Lênin nói chung và chủ nghĩa duy vật biện chứng
nói riêng nhằm chỉ đạo con người trong quá trình hoạt động nhận thức và hoạt động
thực tiễn cải tạo thế giới vật chất. Quan điểm lịch sử - cụ thể được rút ra từ cơ sở lý
luận của triết học Mác - Lênin được hình thành trong q trình con người đi khám
phá nhằm mục đích giải thích và cải tạo thế giới vật chất. Quan điểm đó được rút ra
từ những cơ sở lý luận triết học sau đây:
Thứ nhất, Triết học Mác - Lênin đã khẳng định: thế giới vật chất luôn tồn tại
khách quan, vốn có, khơng do ai sinh ra và khơng tự mất đi, mà chỉ có thể chuyển
hố từ sự vật, hiện tượng này sang sự vật, hiện tượng khác. Mọi sự vật, hiện tượng
trong thế giới vật chất luôn luôn vận động, chuyển hố và phát triển khơng ngừng,
chúng ln tồn tại trong một không gian và một thời gian cụ thể, xác định. điều đó
có nghĩa là các sự vật, hiện tượng trong thế giới vật chất không phải là bất di bất
dịch,và có sẵn, mà chúng có một quá trình ra đời, phát triển và tự tiêu vong để
chuyển hố sang sự vật, hiện tượng khác. Khơng có sự vật, hiện tượng nào lại tồn
tại một cách hư vô, chung chung và trừu tượng. Như vậy, các sự vật, hiện tượng
trong thế giới vật chất dù là các sự vật, hiện tượng vô cơ, đến các sự vật, hiện tượng
hữu cơ, từ thế giới vi mô cho đến thế giới vĩ mô, từ thế giới thực vật, động vật cho
đến con người và xã hội đều tồn tại trong không gian và thời giai cụ thể, xác định,
đều có một lịch sử tồn tại, vận động, biến đổi và phát triển không ngừng. Do vậy,
khi xem xét các sự vật, hiện tượng trong thế giới vật chất luôn quán triệt quan điểm
lịch sử - cụ thể.
4


Thứ hai, các sự vật, hiện tượng trong thế giới vật chất luôn tồn tại trong các
mối quan hệ, tác động ràng buộc lẫn nhau, sự liên hệ, tác động, ràng buộc lẫn nhau
giữa các sự vật, hiện tượng là cơ sở để các sự vật, hiện tượng trong thế giới vật chất
tồn tại, vận động và phát triển không ngừng. Các mối liên hệ của các sự vật, hiện
tượng trong thế giới vật chất biểu hiện dưới nhiều hình thức rất phong phú, đa

dạng. Trong hoàn cảnh lịch sử khác nhau, trong những không gian và thời gian
khác nhau thì vị trí, vai trị của các mối liên hệ trong các sự vật, hiện tượng cũng
khác nhau, có những mối liên hệ ở trong giai đoạn này là những mối liên hệ chủ
yếu, có vai trị quyết định sự vận động phát triển của sự vật, hiện tượng nhưng khi
chuyển sang giai đoạn khác lại là thứ yếu, không có vai trị quyết định đối với sự
tồn tại và phát triển của sự vật, hiện tượng. Do vậy, trong hoạt động nhận thức và
hoạt động thực tiễn phải luôn quán triệt quan điểm lịch sử - cụ thể, phải nhận thức
sự vật, hiện tượng trong sự tồn tại khách quan vốn có của nó, phải xem xét sự vật,
hiện tượng trong các mối liên hệ và phải đánh giá đầy đủ, đúng đắn vị trí, vai trị
của từng mối liên hệ trong mối sự vật, hiện tượng của thế giới vật chất.
Hơn nữa, các sự vật, hiện tượng trong thế giới vật chất có nhiều mối liên hệ
khác nhau, rất phong phú và nhiều vẻ: có mối liên hệ bên trong và mối liên hệ bên
ngoài, mối liên hệ cơ bản và không cơ bản, mối liên hệ chủ yếu và thứ yếu… sự
phân biệt các mối liên hệ đó lại mạng tính tương đối, tuỳ thuộc vào những hoàn
cảnh lịch sử - cụ thể nhất định để xem xét. Có nhiều trường hợp, trong hồn cảnh
lịch sử này, có thể là mối liên hệ bên trong, chủ yếu và quyết định, nhưng khi
chuyển sang các hoàn cảnh lịch sử khác, vào thời điểm khác, trong một không gian
và thời gian khác thì chính những mối liên hệ đó lại trở thành thứ yếu, bên ngồi
khơng cơ bản khơng quyết định nữa…
Thứ ba, các sự vật, hiện tượng trong thế giới vật chất ln ln có một q
trình vận động, biến đổi không ngừng, sự vận động, biến đổi và phát triển đó xuất
5


hiện những nguyên nhân khác nhau, nảy sinh những mâu thuẫn khác nhau, có sự
tích luỹ về lượng và sự biến đổi, sự nhảy vọt về chất cũng khác nhau, do đó, trong
các hồn cảnh lịch sử khác nhau, sự phủ định của phủ định trong mỗi sự vật, hiện
tượng cũng diễn ra không giống nhau. Trong những điều kiện và hoàn cảnh lịch sử
cụ thể sẽ xuất hiện những nguyên nhân xác định, cụ thể, nảy sinh những mâu thuẫn
cụ thể. Do vậy, muốn nhận thức đúng bản chất của sự vật, hiện tượng, tìm ra phương hướng và giải pháp đúng cho hoạt động thực tiễn phải nhận thức đúng nguyên

nhân và các mâu thuẫn cụ thể của sự vật, phải đặt sự vật, hiện tượng trong một
hoàn cảnh lịch sử xác định để tìm ra những mặt những mối liên hệ, tác động qua lại
lẫn nhau giữa chúng trong không gian thời gian cụ thể. Thấy rõ quá trình phát triển
của từng mâu thuẫn, xem xét vai trò và mối quan hệ của từng mâu thuẫn, điều kiện
chuyển hoá giữa chúng, tạo ra những điều kiện thúc đẩy mâu thuẫn chín muồi tìm
phương thức phù hợp để giải quyết, khơng điều hồ mâu thuẫn. Phải tìm các hình
thức giải quyết mâu thuẫn linh hoạt phù hợp với từng loại mâu thuẫn và điều kiện
cụ thể.
Trong nhận thức và hoạt động thực tiễn phải tìm hiểu nguyên nhân, điều
kiện cụ thể đã sinh ra sự vật; muốn xoá bỏ một hiện tượng tiêu cực, khơng có lợi
cần xố bỏ nguyên nhân cụ thể sinh ra nó. Nhận thức các sự vật hiện tượng cần
phân tích các nguyên nhân, phân loại nguyên nhân chỉ ra mối quan hệ giữa các
nguyên nhân, chiều hướng tác động của các nguyên nhân để có biện pháp thích hợp
thúc đẩy các ngun nhân dẫn đến kết quả có lợi, hạn chế, hoặc triệt tiêu các
ngun nhân bất lợi.
Bên cạnh đó, trong q trình nhận thức và hoạt động thực tiễn cải tạo sự
vật phải xem xét nội dung cụ thể và hình thức cụ thể, để cải tạo sự vật phải đi từ nội
dung, tác động vào cả nội dung và hình thức của sự vật, hiện tượng. Cần tạo ra hình
thức cụ thể phù hợp với nội dung đang biến đổi để thúc đẩy sự vật theo nhu cầu
6


nhiệm vụ thực tiễn. Muốn hiểu biết đúng đắn về sự vật, nhận thức không dừng ở
hiện tượng mà phải đi từ hiện tượng để tìm ra bản chất. Phải xác định các hiện tượng điển hình trong hồn cảnh cụ thể để có kết luận chính xác bản chất sự vật ở
thời điểm xác đinh về không gian và thời gian cụ thể. Chống chủ nghĩa hình thức
coi nhẹ, khơng thấy hết vai trị quan trọng của nội dung. Trong nhận thức và trong
hoạt động thực tiễn, cần dựa vào hiện thực, khơng dựa vào khả năng, cần tính đến
các khả năng để có thể đề ra chủ trương, kế hoạch hành động cụ thể sát đúng. Sau
khi xác định được các khả năng phát triển của sự vật, cần kiên quyết thực hiện khả
năng đã lựa chọn, tạo ra các điều kiện cụ thể để hiện thực hoá nó.

Khi quán triệt phương pháp xem xét lịch sử cụ thể của chủ nghĩa Mác,
V.I.Lênin đã khẳng định: “Bản chất linh hồn sống của chủ nghĩa Mác là phân tích cụ
thể một tình hình cụ thể”.
Thứ tư, quan điểm lịch sử - cụ thể cũng đòi hỏi phải tránh khuynh hướng xem
xét sự vật, hiện tượng một cách giáo điều, chung chung và trừu tượng, xem xét một
cách đại khái, qua loa, không cụ thể, không đặt sự vật, hiện tượng trong một không
gian và thời giai cụ thể, không thấy được quá trình vận động biến đổi và phát triển của
mỗi sự vật, hiện tượng trong thế giới vật chất. Trong nhận thức và hoạt động thực tiễn
phải vừa thấy tính lịch sử cụ thể vừa thấy cả quá trình phát triển của sự vật. Mọi biểu
hiện xem xét các sự vật, hiện tượng mà không quán triệt đúng đắn quan điểm lịch sử
cụ thể là trái với phương pháp xem xét của chủ nghĩa Mác - Lênin.
1.2. Nội dung của quan điểm lịch sử cụ thể
Quan điểm lịch sử cụ thể là một phương pháp xem xét khoa học được rút ra
từ cơ sở lý luận của triết học Mác - Lênin. Nội dung của quan điểm lịch sử - cụ thể
chỉ ra rằng: khi xem xét sự vật, hiện tượng cần phải đặt sự vật, hiện tượng đó trong
một khơng gian và thời giai xác định, phải xuất phát từ hiện thực khách quan, từ sự
tồn tại cụ thể, trong hoàn cảnh lịch sử nhất định để nhận thức đúng đắn về sự vật,
7


hiện tượng. Phải luôn luôn lấy sự vật, hiện tượng cụ thể làm đối tượng nghiên cứu
và cải tạo, không được xuất phát từ những cơng thức có sẵn, từ ý muốn chủ quan
hoặc từ bên ngoài để áp đặt vào sự vật, hiện tượng. Mỗi sự vật, hiện tượng đều có
một q trình nhất định, một hồn cảnh lịch sử cụ thể xác định, do vậy, phải đặt sự
vật, hiện tượng trong một hoàn cảnh lịch sử nhất định với một quá trình hình thành,
phát triển và diệt vong của mỗi sự vật, hiện tượng.
Trong nhận thức và trong hoạt động thực tiễn cải tạo sự vật, hiện tượng phải
luôn nghiên cứu những phương thức tồn tại cụ thể của sự vật, hiện tượng, phải đặt
sự vật, hiện tượng đó vào một hồn cảnh, một mơi trường sống của chính nó để từ
đó nhận thức cho được đầy đủ những mối liên hệ bên trong, mối liên hệ bên ngoài,

những nguyên nhân chủ yếu cơ bản quyết định sự vận động phát triển của sự vật,
hiện tượng đó. Từ đó xác định được những mâu thuẫn cơ bản chủ yếu chi phối quá
trình phát triển của sự vật, hiện tượng.
Quan điểm lịch sử cụ thể còn chỉ rõ trong xem xét và cải tạo sự vật, hiện
tượng phải đảm bảo tính khách quan trong q trình xem xét, q trình nghiên cứu
và quá trình cải tạo sự vật, hiện tượng. Phải kết hợp phân tích cho được những nhân
tố bên trong, những mối liên hệ cơ bản và những mâu thuẫn chủ yếu tồn tại trong
mỗi sự vật, hiện tượng với những điều kiện và hoàn cảnh khách quan, với một quá
trình lịch sử đã và đang diễn ra của bản thân mỗi sự vật, hiện tượng. Không được
xuất phát từ những ảo tưởng xa xôi, viển vông hão huyền và xa rời hoàn cảnh lịch
sử cụ thể của mỗi sự vật, hiện tượng.
Mọi cương lĩnh, mọi nghị quyết và cả đường lối lãnh đạo, quan điểm chỉ đạo
phải luôn bám sát thực tiễn vận động biến đổi và phát triển của mỗi sự vật, hiện
tượng. Phải căn cứ vào hoàn cảnh lịch sử cụ thể của mỗi sự vật, hiện tượng để đề ra
nghị quyết, phương hướng chỉ đạo và cải tạo sự vật, hiện tượng một cách đúng đắn.
Mọi lý luận phải được khái quát từ thực tiễn đã và đang diễn ra trong cuộc sống
8


hiện thực, từ những hoàn cảnh lịch sử sinh động của đất nước, của xã hội. Lý luận
mà không xuất phát từ hoàn cảnh lịch sử cụ thể của sự vật, hiện tượng thì sẽ trở
thành lý luận sng, hồn tồn giáo điều, kinh viện, khơng có tác dụng cải tạo thực
tiễn.
1.3. Tác dụng của việc vận dụng quan điểm lịch sử cụ thể trong hoạt động
nhận thức và hoạt động thực tiễn của con người
Hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn là hai lĩnh vực hoạt động cơ bản
của con người trong quá trình đi khám phá và chinh phục thế giới vật chất, quá
trình cải tạo làm biến đổi giới tự nhiên, xã hội loài người và làm biến đổi chính bản
thân con người. Để cải tạo và biến đổi thế giới vật chất theo quy luật khách quan,
con người trước hết phải có những hiểu biết đúng đắn bản chất đích thực của thế

giới vật chất, nhận thức được những quy luật đã, đang chi phối quyết định sự vận
động phát triển của bản thân thế giới vật chất. Chỉ chừng nào con người nhận thức
được đúng đắn những quy luật khách quan, nhận thức đúng đắn bản chất của mỗi
sự vật, hiện tượng, thì chừng đó con người mới có thể cải tạo được thế giới vật
chất. Thơng qua q trình hoạt động thực tiễn cải tạo giới tự nhiên, cải tạo xã hội,
con người đã nhận thức được những quy luật khách quan chi phối sự vận động phát
triển của giới tự nhiên, và xã hội lồi người, từ đó rút ra được những quan điểm,
những nguyên tắc quan trọng nhất để chỉ đạo hoạt động nhận thức và hoạt động
thực tiễn của chính bản thân con người.
Trong hệ thống những quan điểm, những nguyên tắc mà con người đã khái
quát thông qua quá trình tổng kết những kinh nghiệm của lịch sử xã hội lồi người,
thì những quan điểm và những ngun tắc thuộc lĩnh vực nghiên cứu của triết học
là những quan điểm chung nhất, tạo thành thế giới quan, phương pháp luận chung
nhất và phổ biến nhất để chỉ đạo con người trong quá trình nhận thức và hoạt động
thực tiễn cải tạo thế giới vật chất. Do vậy, cùng với quan điểm toàn diện và quan
9


điểm phát triển, quan điểm lịch sử - cụ thể có một vai trị và có tác dụng rất lớn
trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn của con người.
Trong hoạt động nhận thức, quan điểm lịch sử - cụ thể giúp con người nhận
thức được đúng đắn tình hình, hồn cảnh lịch sử của sự vận động và phát triển của
mỗi sự vật, hiện tượng, nhận thức được cái bản chất, cái quy luật và các quá trình
phát triển của các sự vật, hiện tượng trong thế giới vật chất. Từ đó con người có thể
đánh giá được tình hình và hồn cảnh hiện tại, phân tích cụ thể một tình hình cụ
thể, dự kiến được sự vận động phát triển trong tương lai và có một cái nhìn đúng
đắn về những sự kiện lịch sử đã diễn ra, luôn coi trọng lịch sử của tự nhiên, xã hội
loài người đã trải qua.
Trong hoạt động thực tiễn, khi thấm nhuần quan điểm lịch sử - cụ thể trong
triết học, con người có thể đề ra được những chủ trương, biện pháp và các giải pháp

đúng đắn, hợp lý và thật sự khoa học để góp phần cải tạo thế giới vật chất vận động
và phát triển không ngừng. Mọi đường lối, và nghị quyết đề ra luôn bám sát được
yêu cầu của thực tiễn và phù hợp với hoàn cảnh cụ thể của đất nước và của xã hội.
Nếu phủ nhận quan điểm lịch sử - cụ thể thì con người sẽ đi đến chỗ bế tắc trong
cải tạo thực tiễn, những giải pháp đưa ra sẽ trở lên giáo điều, kinh viện, duy tâm và
siêu hình, từ đó gây cản trở q trình vận động phát triển của thế giới vật chất, thậm
chí nếu khơng biết vận dụng quan điểm lịch sử - cụ thể sẽ thủ tiêu và kéo lùi sự
phát triển của xã hội loài người.

10


2. Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng u cầu cơng
nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa và hội nhập quốc tế.
2.1. Quá trình phát triển giáo dục và đào tạo ở Việt Nam nhìn từ quan
điểm lịch sử cụ thể.
Ngay từ khi xuất hiện trên trái đất, để tồn tại con người phải lao động. Trong
lao động và trong cuộc sống hàng này con người nhận thức thế giới xung quanh,
dần dần tích luỹ được nhiều kinh nghiệm sống, kinh nghiệm lao động và chinh
phục thiên nhiên, từ đó nảy sinh nhu cầu truyền đạt những hiểu biết ấy cho nhau.
Đó chính là nguồn gốc phát sinh của hiện tượng giáo dục.
Lúc đầu, giáo dục xuất hiện như một hiện tượng tự phát, diễn ra đơn giản
theo lối quan sát - bắt chước, về sau giáo dục trở thành một hoạt động có ý thức.
Con người dần dần biết xác định mục đích, hồn thiện về nội dung và tìm ra các
phương thức để tổ chức q trình giáo dục có hiệu quả. Ngày nay giáo dục đã trở
thành một hoạt động được tổ chức đặc biệt, đạt tới trình độ cao, có chương trình kế
hoạch, có nội dung, phương pháp hiện đại, diễn ra theo một nhịp độ khẩn trương và
đã trở thành động lực thúc đẩy sự phát triển nhanh chóng của xã hội loài người.
Nghiên cứu giáo dục với tư cách là một hiện tượng xã hội đặc biệt ta thấy

giáo dục có những tính chất saụ đây: Giáo dục là một hiện tượng đặc biệt chỉ có ở
xã hội lồi người - tính nhân bản. Giáo dục xuất hiện, phát triển gắn bó cùng lồi
người, ở đâu có con người, ở đó có giáo dục - tính phổ biến. Khi nào cịn lồi người
lúc đó cịn giáo dục - tính vĩnh hằng. Giáo dục là một hình thái ý thức xã hội, là
hiện tượng văn minh của xã hội loài người. Về bản chất, giáo dục là sự truyền đạt
và tiếp thu kinh nghiệm lịch sử xã hội của các thế hệ; về mục đích, giáo dục là sự
định hướng của thế hệ trước cho sự phát triển của thế hệ sau; về phương thức giáo
dục là cơ hội giúp mỗi cá nhân đạt tới hạnh phúc và là cơ sở đảm bảo cho sự kết
11


thừa, tiếp nối và phát triển những thành quả văn hố của xã hội lồi người. Giáo
dục là hiện tượng có tính lịch sử, giáo dục ra đời theo nhu cầu của lịch sử xã hội,
một mặt nó phản ánh trình độ phát triển của lịch sử, bị quy định bởi trình độ phát
triển của lịch sử, mặt khác nó lại tác động tích cực vào sự phát triển của lịch sử.
Thực tế cho thấy ở mỗi giai đoạn phát triển của lịch sử nhân loại có một trang lịch
sử giáo dục.
Mỗi dân tộc, mỗi quốc gia đều có một truyền thống lịch sử, có nền văn hố
riêng, do đó ở mỗi quốc gia, thậm chí ở mỗi địa phương, mỗi cộng đồng dân cư có
những nét văn hóa truyền thống độc đáo, những sắc thái đặc trưng trong cuộc sống
sinh hoạt và lao động, chúng được truyền lại cho nhau thơng qua nội dụng, phương
pháp giáo dục, điều đó được thể hiện rõ nét trong sản phẩm giáo dục. Chúng ta vẫn
thường nói con người là sản phẩm của thời đại và dân tộc. Do vậy giáo dục có tính
dân tộc.
Từ những phân tích trên, ta có thể đi đến kết luận: Giáo dục là một hiên
tượng xã hôi đặc biệt, bản chất của nó là sự truyền đạt và lĩnh hội kinh nghịêm lịch
sử - xã hội của các thế hệ lồi người, nhờ có giáo dục mà các thế hệ nối tiếp nhau
phát triển, tinh hoa văn hoá dân tộc và nhân loại được kế thừa, bổ sung và trên cơ
sở đó mà xã hội lồi người không ngừng tiến lên.
Trong lịch sử dân tộc Việt Nam, tư tưởng và chính sách trọng dụng người có

học và nhân tài được đặt ra và thực hiện từ rất sớm. Điều đó được lưu truyền trên
các dịng chữ khắc trên tấm bia có từ năm 1442 tại Văn Miếu, Hà Nội: Hiền tài là
nguyên khí quốc gia. Nguyên khí mạnh thì thế nước mạnh và hưng thịnh. Ngun
khí suy thì thế nước yếu mà thấp kém … Để có được ngun khí mạnh, cố nhiều
nhân tài, từ xưa ơng cha ta ra sức “vun trồng kẻ sĩ, kén chọn người hiền tài”. Lịch
sử khoa cử ở nước ta ghi nhận sự thành công của kế sách này. Từ khoa thi đầu tiên
năm Ất Mão, niên hiệu Thái Minh thứ 4, đời Lý Nhân Tông (1075), đến khoa thi
12


cuối cùng năm Kỷ Mùi, niên hiệu Khải Định thứ 4 (1919), chỉ riêng đổ đại khoa
nước ta đã có 2893 vị. Trong đó, trạng nguyên 47 vị, bảng nhãn 48 vị, thám hoa 75
vị. Lịch sử dân tộc nhiều lần đã chứng minh, trong bất cứ hoàn cảnh nào, mỗi khi
người lãnh đạo đất nước quy tụ được nhiều nhân tài thì đất nước sẽ vượt qua mọi
khó khăn thách thức và bước tới đài vinh quang.
Bất kỳ ở một giai đoạn lịch sử nào, giáo dục - đào tạo ln đóng một vai tr ị
hết sức quan trọng đối với sự phát triển của mỗi cá nhân, tập thể, cộng đồng, dân
tộc và cả nhân loại. Từ xa xưa các học giả, các nhà lãnh đạo, quản lý ở trong nước
và trên thế giới đã từng luận bàn rất nhiều xung quanh vấn đề này. Theo C.Mác:
Giáo dục - đào tạo “Tạo ra cho nền kinh tế của một dân tộc những nhà khoa học,
chuyên gia, kỹ sư trên các lĩnh vực kinh tế và nhờ đó những tri thức ấy mới có thể
sáng tạo ra những kỹ thuật tiên tiến, những công nghệ mới. Nếu chúng ta khơng có
đội ngũ ấy thì sự nghiệp xây dựng CNXH chỉ là lời nói hnh hoang, rỗng tuếch”.
Cịn Ph.Ăngghen thì khẳng định: “Một dân tộc muốn đứng lên trên đỉnh cao của
nền văn minh nhân loại, dân tộc ấy phải có trí thức”. Như vậy cả C.Mác và
Ăngghen đều coi giáo dục - đào tạo là chìa khóa, là động lực đối với sự phát triển
của xã hội, đặc biệt là đối với quá trình xây dựng CNXH của một quốc gia, một dân
tộc.
Kế thừa quan điểm của C.Mác-Ăngghen và trên cơ sở thực trạng giáo dục đào tạo ở Nga trong những ngày đầu cách mạng tháng 10 thành cơng, Lênin đã sớm
khẳng định vai trị quan trọng của giáo dục - đào tạo trong việc đưa nước Nga thoát

khỏi nghèo nàn lạc hậu, tiến lên CNXH. Theo Lênin: “Muốn tạo lập chủ nghĩa xã
hội phải có một trình độ văn hoá nhất định”. “Việc nâng cao năng suất lao
động... trước hết phải nâng cao trình độ học vấn và văn hố của quần chúng nhân
dân” và “Nếu khơng có một mạng lưới giáo dục quốc dân ít nhiều phát triển thì
tuyệt nhiên khơng thể giải quyết mọi vấn đề trên quy mơ tồn dân”.
13


Trong q trình lãnh đạo cơng cuộc xây dựng CNXH, Lênin luôn coi sự
nghiệp giáo dục và đào tạo là nhiệm vụ hàng đầu, là điều kiện tiên quyết để nâng
cao năng suất lao động, để chiến thắng nghèo nàn lạc hậu. Chính vì vậy mà Người
chủ trương “Phải thực hiện một chế độ giáo dục không mất tiền và bắt buộc, phổ
thông và tổng hợp cho tất cả trẻ em trai gái dưới 17 tuổi” trên cơ sở nguyên
lý “Giảng dạy phải kết hợp chặt chẽ với lao động sản xuất xã hội, đào tạo những
thành viên phát triển tồn diện cho xã hội cộng sản”.
Có thể nói những quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về giáo dục - đào tạo
đã đề cập một cách sâu sắc, toàn diện cả về lý luận và chiến lược xây dựng, phát
triển một nền giáo dục quốc dân không chỉ đối với các nước đi lên CNXH mà với
tất cả các quốc gia và dân tộc trên thế giới.
Kế thừa truyền thống văn hoá lịch sử của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hố
của nhân loại mà điển hình là Chủ nghĩa Mác – Lênin, Chủ tịch Hồ Chí Minh ln
ln quan tâm và đề cao vai trị của giáo dục - đào tạo. Tư tưởng Hồ Chí Minh về
giáo dục và đào tạo xuất phát từ mục đích cao cả của sự nghiệp cách mạng mà
người theo đuổi, thể hiện nhất quán và xuyên suốt trong tư tưởng, trong cuộc đời
hoạt động của Người. Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn coi con người là vốn quý nhất, là
nhân tố quyết định của sự nghiệp cách mạng. Chính vì vậy mà toàn bộ tư tưởng và
cuộc đời hoạt động của người đều nhằm thực hiện mục tiêu giải phóng dân tộc, giải
phóng giai cấp, giải phóng xã hội, giải phóng con người, vì con người và cho con
người. Người từng nói: “Tơi chỉ có một ham muốn, ham muốn tột bậc là làm sao
cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai

cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành”.
Ngay sau khi cách mạng tháng Tám năm 1945 thành cơng Hồ Chủ tịch đã
kêu gọi tồn dân đồn kết chống: “Giặc đói, giặc dốt và giặc ngoại xâm” và ban
hành sắc lệnh thành lập Nha bình dân học vụ để tổ chức thực hiện việc chống mù
14


chữ. Người nói: “Một dân tộc dốt là một dân tộc yếu”. Do đó, “Muốn xây dựng
CNXH phải biến một đất nước dốt nát thành một nước có nền văn hoá cao, khoa
học phát triển”. Người cho rằng: “Học để làm việc, làm người, làm cán bộ. Học để
phụng sự đoàn thể, giai cấp và nhân dân, Tổ quốc và nhân loại”.
Chủ tịch Hồ Chí Minh ln tin tưởng và đặt niềm tin vững chắc vào thế hệ
trẻ đối với tiền đồ của dân tộc. Trong thư gửi học sinh nhân ngày khai trường đầu
tiên của nước Việt Nam độc lập (9/1945) Người viết: “Non sơng Việt Nam có trở
nên tươi đẹp hay khơng, dân tộc Việt Nam có bước tới đài vinh quang để sánh vai
với các cường quốc năm châu được hay khơng, chính là nhờ một phần lớn ở công
học tập của các cháu”. Người mong muốn mỗi người dân đều biết đọc, biết viết
chữ quốc ngữ để nâng cao dân trí, giữ vững nền độc lập và làm cho dân giàu nước
mạnh. Chính vì vậy mà trước lúc đi xa, người đã căn dặn: “Đảng cần chăm lo giáo
dục đạo đức cách mạng, đào tạo lớp ngươi thừa kế vừa hồng vừa chuyên. Bồi
dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau là một việc rất quan trọng và cần thiết”.
Tư Tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục - đào tạo luôn thể hiện yêu cầu giáo dục
tồn diện, đào tạo con người vừa có tài, có khả năng vươn lên chiếm lĩnh khoa học
kỹ thuật lại vừa có đức; trong đó, Người coi đức là cái gốc của người cách mạng.
Người coi đạo đức như gốc của cây, như nguồn của sơng: “Cũng như sơng thì có
nguồn mới có nước, khơng có nguồn thì sơng cạn. Cây phải có gốc, khơng có gốc
thì cây héo. Người cách mạng phải có đạo đức, khơng có đạo đức thì dù tài mấy
cũng khơng lãnh đạo được nhân dân.”.
Để đảm bảo cho sự nghiệp giáo dục phát triển, đào tạo nên những lớp người
vừa hồng, vừa chuyên, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ vấn đề then chốt có ý nghĩa

quyết định chất lượng giáo dục là phải xây dựng được một đội ngũ đông đảo người
làm công tác giáo dục thực sự yêu nghề, yêu người, hết lòng chăm sóc giáo dục học

15


sinh, khơng ngừng trau dồi đạo đức, nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ,
xứng đáng là tấm gương sáng cho học sinh noi theo.
Trong thư gửi hội nghị giáo dục toàn quốc (3/1965), Người chỉ rõ:“Trách
nhiệm nặng nề và vẻ vang của người dạy học là: Chăm lo dạy dỗ con em của nhân
dân thành người công dân tốt, người lao động tốt, người chiến sĩ tốt, người cán bộ
tốt của nước nhà”. Người cho rằng sự nghiệp “Trồng người” là rất lâu dài, khó
khăn và rất quan trọng. Do đó, trong một dịp đến thăm lớp bồi dưỡng chính trị cho
giáo viên tồn Miền Bắc (9/1958), Người căn dặn “Vì lợi ích mười năm thì phải
trồng cây; vì lợi ích trăm năm thì phải trồng người”.
Tư tưởng giáo dục của Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng với nhân cách cao đẹp
của Người đã thể hiện vấn đề cơ bản nhất, nổi bật nhất là vấn đề xây dựng và hồn
thiện con người thơng qua hoạt động giáo dục và tự giáo dục. Đối với Người, nhân
tố của con người với những tinh hoa như hiểu biết, năng lực, đạo đức là yếu tố then
chốt, có tính quyết định thành công của cách mạng, tiến bộ của xã hội, tiền đồ của
dân tộc và hạnh phúc của nhân dân … Người từng nói“Muốn xây dựng chủ nghĩa
xã hội, trước hết cần phải có con người xã hội chủ nghĩa”. Về cách học, Người
quan niệm “Phải lấy tự học làm cốt”. Nguyên lý giáo dục Người nêu lên cho nhà
trường XHCN là:“Học đi đôi với hành, giáo dục kết hợp với lao động sản xuất,
nhà trường gắn liền với xã hội”. Thực tiễn đã cho thấy, quá trình giáo dục tự giác
là quá trình giáo dục thường xuyên, là quá trình lâu dài và thiết thực nhất, bởi lẽ nó
gắn bó với cả cuộc đời của mỗi con người và “Việc học không bao giờ cùng, học
hành sáng tạo suốt đời”. Lý luận và thực tiễn về tư tưởng tự học, tự giáo dục của
Người được xem là tư tưởng chiến lược của việc tiếp tục đổi mới và phát triển giáo
dục - đào tạo trong thời kỳ đổi mới cơng nghiệp hố và hiện đại hố đất nước.

Từ những phân tích trên có thể nói những quan điểm của chủ nghĩa MácLênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục và đào tạo không những đã khẳng định
16


vai trị, vị trí, tầm quan trọng của giáo dục và đào tạo đối với quá trình phát triển
của mỗi quốc gia, dân tộc mà còn là cơ sở để Đảng ta vạch ra đường lối chiến lược
phát triển giáo dục - đào tạo trong thời kỳ đổi mới nhằm nâng cao dân trí, đào tạo
nhân lực, bồi dưỡng nhân tài đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện
đại hoá đất nước, đưa nước ta trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào
năm 2020.
Giáo dục và đào tạo là một vấn đề hết sức quan trọng trong đời sống chính trị
của mỗi nước, là biểu hiện trình độ phát triển của mỗi nước. Một xã hội được giáo
dục tốt là xã hội“Dựa trên trí thức”, phát huy được mọi tiềm năng của con người,
những con người tư duy sáng tạo, năng động luôn luôn tự điều chỉnh và phát triển.
Do đó xác định giáo dục và đào tạo là một nhiệm vụ quan trọng của cách mạng Việt
Nam.
Bắt đầu từ Nghị quyết của Đại hội lần thứ 4 của Đảng (1979) đã ra quyết
định số 14-NQTƯ về cải cách giáo dục với tư tưởng: Xem giáo dục là bộ phận
quan trong của cuộc cách mạng tư tưởng; thực thi nhiệm vụ chăm sóc và giáo dục
thế hệ trẻ từ nhỏ đến lúc trưởng thành; thực hiện tốt nguyên lý giáo dục học đi đôi
với hành, giáo dục kết hợp với lao động sản xuất, nhà trường gắn liền với xã hội.
Tư tưởng chỉ đạo trên được phát triển bổ sung, hoàn thiện cho phù hợp với
yêu cầu thực tế qua các kỳ Đại hội VII, VIII, IX, X, XI của Đảng cộng sản Việt
Nam. Cùng với khoa học và công nghệ, giáo dục và đào tạo đã được Đại hội VII
xem là quốc sách hàng đầu. Đó là một động lực thúc đẩy và là một điều kiện cơ bản
bảo đảm việc thực hiện những mục tiêu kinh tế - xã hội, xây dựng và bảo vệ đất
nước.
Đại hội Đảng lần thứ VIII khẳng định một lần nữa vai trò quan trọng của
khoa học công nghệ và giáo dục đào tạo "Cùng với khoa học và công nghệ, giáo
dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu". Coi trọng cả 3 mặt của giáo dục: mở rộng

17


qui mô, nâng cao chất lượng và phát huy hiệu quả để phát triển nguồn nhân lực đáp
ứng yêu cầu cơng nghiệp hố, hiện đại hố. Đổi mới hệ thống giáo dục chuyên
nghiệp và đại học, kết hợp đào tạo với nghiên cứu, tạo nguồn nhân lực đủ khả năng
tiếp cận với công nghệ tiên tiến. Sau khi Liên Xô và hệ thống xã hội chủ nghĩa ở
Đông Âu sụp đổ, Đảng ta đã có những chuyển hướng về hợp tác quốc tế trong đào
tạo cán bộ. Nghị quyết 02-NQ/HNTW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa
VIII đã nhấn mạnh quan điểm hợp tác đào tạo với các nước như sau: Dành ngân
sách nhà nước thỏa đáng để cử những người giỏi và có phẩm chất tốt đi đào tạo và
bồi dưỡng về những ngành nghề và lĩnh vực then chốt ở những nước có nền khoa
học, cơng nghệ phát triển. Khuyến khích đi học nước ngồi bằng con đường tự túc,
hướng vào những ngành mà đất nước đang cần, theo quy định của Nhà nước.
Thực hiện Nghị quyết này, Chính phủ đã dành 100 tỉ đồng đầu tư cho việc
đào tạo ở nước ngoài vào năm 2000 (tương đương với 7,12 triệu USD tại thời điểm
đó). Vấn đề nhân tài ngày càng trở nên bức thiết, đến Đại hội IX, Trung ương Đảng
một lần nữa nhấn mạnh rằng: "Có chính sách hỗ trợ đặc biệt những học sinh có
năng khiếu, hồn cảnh sống khó khăn được theo học ở các bậc học cao. Có quy
hoạch và chính sách tuyển chọn người giỏi, đặc biệt chú ý đến con em công nhân
và nông dân để đào tạo ở các bậc đại học và sau đại học. Tăng ngân sách nhà nước
cho việc cử người đi học ở các nước có nền khoa học và cơng nghệ tiên tiến.
Khuyến khích việc du học tự túc."
Đại hội Đảng lần thứ IX nêu rõ: "Tiếp tục nâng cao chất lượng giáo dục toàn
diện, đổi mới nội dung, phương pháp dạy và học, hệ thống trường lớp và hệ thống
quản lý giáo dục; thực hiện chuẩn hoá, hiện đại hoá, xã hội hoá" . Nâng cao chất
lượng, hiệu quả giáo dục.
Hội nghị Trung ương 6, khóa IX đó đề ra 3 nhiệm vụ để tiếp tục thực hiện
Nghị quyết Trung ương 2, khóa 8:
18



Một là, nâng cao chất lượng, hiệu quả giáo dục và đào tạo nhân tài. Trong
nhiệm vụ này, trọng tâm là đổi mới nội dung, chương trình, phương pháp giáo dục
theo hướng chuẩn hóa, hiện đại hóa, ứng dụng cụng nghệ thông tin vào các cấp
học, bậc học. Tiếp tục hồn thiện hệ thống cơ chế, chính sách tổ chức phát hiện,
đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng nhân tài.
Hai là, phát triển hợp lý quy mô giáo dục cả đại trà và mũi nhọn phục vụ quá
trình chuyển đổi cơ cấu ngành nghề, cơ cấu trình độ, cơ cấu xã hội; vấn đề bổ túc
trên tiểu học cho người lớn và phát triển giáo dục khơng chính quy; xây dựng hệ
thống trung tâm học tập cộng đồng.
Ba là, thực hiện công bằng xã hội trong giáo dục, tạo cơ hội học tập cho mọi
tầng lớp nhân dân, nhất là cơ hội học cao đẳng và đại học cho con em nơng dân và
các gia đình diện chính sách.
Đặc biệt, sự nghiệp Giáo dục và Giáo dục lý luận chính trị được Đại hội toàn
quốc lần thứ X đặc biệt quan tâm và nhấn mạnh hơn nữa nhằm giáo dục con người
phát triển toàn diện, nhất là thế hệ trẻ.
Đại hội X đã xác định mục tiêu giáo dục là nhằm bồi dưỡng thế hệ trẻ tinh
thần yêu nước, lòng tự tơn dân tộc, lý tưởng chủ nghĩa xã hội, lịng nhân ái, ý thức
tôn trọng pháp luật, tinh thần hiếu học, ý chí tiến thủ lập nghiệp, khơng cam chịu
nghèo nàn, đào tạo lớp người lao động có kiến thức cơ bản, làm chủ năng lực nghề
nghiệp, quan tâm hiệu quả thiết thực, nhảy cảm với chính trị, có ý chí vươn lên về
khoa học - cơng nghệ. Để cụ thể chủ trương đó, Đảng và Nhà nước ta đã chủ
trương phát triển giáo dục một cách tổng thể và toàn diện, bắt đầu từ chủ trương
phát triển giáo dục mầm non, thực hiện xoá mù chữ và phổ cập giáo dục tiểu học và
trung học cơ sở trên phạm vi cả nước, tạo môi trường thuận lơi dể cho mội người
học tập và học tập suốt đời. Điều hành hợp lý cơ cấu bậc học, cơ cấu ngành nghề,
cơ cấu vùng trong hệ thống Giáo dục và đào tạo, quan tâm đào tạo đội ngũ công
19



nhân kỹ thuât lành nghề, hướng vào mục tiêu phát triển kinh tế, thực hiện tốt chính
sách giáo dục gắn với phát triển kinh tế xã hội.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng Cộng sản Việt Nam diễn ra
từ ngày 12 đến ngày 19/01/2011 tại Thủ đơ Hà Nội. Đây là Đại hội có ý nghĩa trọng
đại, định hướng cho toàn Đảng, toàn dân ta tiếp tục đẩy mạnh tồn diện cơng cuộc
đổi mới, tạo nền tảng đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp
theo hướng hiện đại; đến giữa thế kỷ XXI nước ta trở thành một nước công nghiệp
hiện đại, theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Đại hội Đảng lần thứ XI trên cơ sở kế thừa những tư tưởng chỉ đạo có tầm
chiến lược của các kỳ đại hội trước, dựa trên những quan điểm gốc về giáo dục đào
tạo, phân tích những bài học kinh nghiệm rút ra từ thực tiễn, đã đề ra những
phương hướng mới về giáo dục đào tạo phù hợp với xu thế vận động của xã hội
Việt Nam và thời đại.
Trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội đã chỉ ra sứ mệnh của giáo dục và đào tạo là “nâng cao dân trí, phát triển nguồn
nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, góp phần quan trọng xây dựng nền văn hoá và con
người Việt Nam” . Đồng thời tiếp tục khẳng định: “Phát triển giáo dục và đào tạo
cùng với phát triển khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu; đầu tư cho giáo
dục và đào tạo là đầu tư cho phát triển”. Đây là những quan điểm gốc khẳng định
vai trò của giáo dục và là cơ sở lý luận định hướng cho sự phát triển của giáo dục
trong giai đoạn tiếp theo.
Chiến lược phát triển kinh tế – xã hội 2011 – 2020 đã chỉ ra mục tiêu chiến
lược của giáo dục và đào tạo, đồng thời xác định một trong ba khâu đột phá chiến
lược là “Phát triển nhanh nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao,
tập trung vào việc đổi mới toàn diện nền giáo dục quốc dân”. Để thực hiện các mục
tiêu đó, nghị quyết đã vạch ra các định hướng cho sự phát triển của giáo dục. Trong
20



đó tiếp tục khẳng định và nhấn mạnh “Phát triển giáo dục phải thực sự là quốc sách
hàng đầu”.
Báo cáo chính trị của BCHTƯ Đảng khố X tại Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ XI của Đảng đã xác định một trong những nhiệm vụ chủ yếu phát triển đất
nước trong 5 năm tới là: “Phát triển, nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo, chất
lượng nguồn nhân lực; phát triển khoa học, công nghệ và kinh tế tri thức”.
Hội nghị lần thứ tám Ban chấp hành Trung ương khóa XI tiếp tục nhận thức
sâu sắc vị trí, vai trò của giáo dục, đào tạo đối với sự phát triển của xã hội, Hội nghị
đã xác định : “Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng u cầu
cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa và hội nhập quốc tế”. Hội nghị đã xác định được mục tiêu tổng quát đó
là: Tạo chuyển biến căn bản, mạnh mẽ về chất lượng, hiệu quả giáo dục, đào tạo;
đáp ứng ngày càng tốt hơn công cuộc xây dựng, bảo vệ Tổ quốc và nhu cầu học tập
của nhân dân. Giáo dục con người Việt Nam phát triển toàn diện và phát huy tốt
nhất tiềm năng, khả năng sáng tạo của mỗi cá nhân; yêu gia đình, yêu Tổ quốc, yêu
đồng bào; sống tốt và làm việc hiệu quả. Xây dựng nền giáo dục mở, thực học,
thực nghiệp, dạy tốt, học tốt, quản lý tốt; có cơ cấu và phương thức giáo dục hợp
lý, gắn với xây dựng xã hội học tập; bảo đảm các điều kiện nâng cao chất lượng;
chuẩn hóa, hiện đại hóa, dân chủ hóa, xã hội hóa và hội nhập quốc tế hệ thống giáo
dục và đào tạo; giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa và bản sắc dân tộc. Phấn đấu
đến năm 2030, nền giáo dục Việt Nam đạt trình độ tiên tiến trong khu vực.
Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo là đổi mới những vấn đề lớn,
cốt lõi, cấp thiết, từ quan điểm, tư tưởng chỉ đạo đến mục tiêu, nội dung, phương
pháp, cơ chế, chính sách, điều kiện bảo đảm thực hiện; đổi mới từ sự lãnh đạo của
Đảng, sự quản lý của Nhà nước đến hoạt động quản trị của các cơ sở giáo dục-đào
tạo và việc tham gia của gia đình, cộng đồng, xã hội và bản thân người học; đổi
21


mới ở tất cả các bậc học, ngành học. Trong quá trình đổi mới, cần kế thừa, phát huy

những thành tựu, phát triển những nhân tố mới, tiếp thu có chọn lọc những kinh
nghiệm của thế giới; kiên quyết chấn chỉnh những nhận thức, việc làm lệch lạc. Đổi
mới phải bảo đảm tính hệ thống, tầm nhìn dài hạn, phù hợp với từng loại đối tượng
và cấp học; các giải pháp phải đồng bộ, khả thi, có trọng tâm, trọng điểm, lộ trình,
bước đi phù hợp.
Phát triển giáo dục và đào tạo là nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi
dưỡng nhân tài. Chuyển mạnh quá trình giáo dục từ chủ yếu trang bị kiến thức sang
phát triển toàn diện năng lực và phẩm chất người học. Học đi đôi với hành; lý luận
gắn với thực tiễn; giáo dục nhà trường kết hợp với giáo dục gia đình và giáo dục xã
hội. Phát triển giáo dục và đào tạo phải gắn với nhu cầu phát triển kinh tế-xã hội và
bảo vệ Tổ quốc; với tiến bộ khoa học và công nghệ; phù hợp quy luật khách quan.
Chuyển phát triển giáo dục và đào tạo từ chủ yếu theo số lượng sang chú trọng chất
lượng và hiệu quả, đồng thời đáp ứng yêu cầu số lượng.
Đổi mới hệ thống giáo dục theo hướng mở, linh hoạt, liên thông giữa các bậc
học, trình độ và giữa các phương thức giáo dục, đào tạo. Chuẩn hóa, hiện đại hóa
giáo dục và đào tạo. Chủ động phát huy mặt tích cực, hạn chế mặt tiêu cực của cơ
chế thị trường, bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa trong phát triển giáo dục và
đào tạo. Phát triển hài hòa, hỗ trợ giữa giáo dục cơng lập và ngồi cơng lập, giữa
các vùng, miền. Ưu tiên đầu tư phát triển giáo dục và đào tạo đối với các vùng đặc
biệt khó khăn, vùng dân tộc thiểu số, biên giới, hải đảo, vùng sâu, vùng xa và các
đối tượng chính sách. Thực hiện dân chủ hóa, xã hội hóa giáo dục và đào tạo. Chủ
động, tích cực hội nhập quốc tế để phát triển giáo dục và đào tạo, đồng thời giáo
dục và đào tạo phải đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế để phát triển đất nước.

22


2.2. Thực trạng phát triển giáo dục và đào tạo trong thời kì cơng nghiệp
hóa, hiện đại hóa.
Thực hiện các chủ trương của Đảng, Nhà nước về định hướng chiến lược

phát triển giáo dục - đào tạo trong thời kỳ cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa, lĩnh vực
giáo dục và đào tạo nước ta đã đạt được những thành tựu quan trọng, góp phần to
lớn vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Cụ thể là: Đã xây dựng được hệ
thống giáo dục và đào tạo tương đối hoàn chỉnh từ mầm non đến đại học. Cơ sở vật
chất, thiết bị giáo dục, đào tạo được cải thiện rõ rệt và từng bước hiện đại hóa. Số
lượng học sinh, sinh viên tăng nhanh, nhất là ở giáo dục đại học và giáo dục nghề
nghiệp. Chất lượng giáo dục và đào tạo có tiến bộ. Đội ngũ nhà giáo và cán bộ
quản lý giáo dục phát triển cả về số lượng và chất lượng, với cơ cấu ngày càng hợp
lý. Chi ngân sách cho giáo dục và đào tạo đạt mức 20% tổng chi ngân sách nhà
nước. Xã hội hóa giáo dục được đẩy mạnh; hệ thống giáo dục và đào tạo ngồi
cơng lập góp phần đáng kể vào phát triển giáo dục và đào tạo chung của toàn xã
hội. Công tác quản lý giáo dục và đào tạo có bước chuyển biến nhất định. Cả nước
đã hồn thành mục tiêu xóa mù chữ và phổ cập giáo dục tiểu học vào năm 2000;
phổ cập giáo dục trung học cơ sở vào năm 2010; đang tiến tới phổ cập giáo dục
mầm non cho trẻ 5 tuổi; củng cố và nâng cao kết quả xóa mù chữ cho người lớn.
Cơ hội tiếp cận giáo dục có nhiều tiến bộ, nhất là đối với đồng bào dân tộc thiểu số
và các đối tượng chính sách; cơ bản bảo đảm bình đẳng giới trong giáo dục và đào
tạo.
Những thành tựu và kết quả nói trên, trước hết bắt nguồn từ truyền thống
hiếu học của dân tộc; sự quan tâm, chăm lo của Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc
và các đoàn thể nhân dân, của mỗi gia đình và tồn xã hội; sự tận tụy của đội ngũ
nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục; sự ổn định về chính trị cùng với những thành
tựu phát triển kinh tế-xã hội của đất nước.
23


Tuy nhiên, chất lượng, hiệu quả giáo dục và đào tạo còn thấp so với yêu cầu,
nhất là giáo dục đại học, giáo dục nghề nghiệp. Hệ thống giáo dục và đào tạo thiếu
liên thơng giữa các trình độ và giữa các phương thức giáo dục, đào tạo; còn nặng lý
thuyết, nhẹ thực hành. Đào tạo thiếu gắn kết với nghiên cứu khoa học, sản xuất,

kinh doanh và nhu cầu của thị trường lao động; chưa chú trọng đúng mức việc giáo
dục đạo đức, lối sống và kỹ năng làm việc. Phương pháp giáo dục, việc thi, kiểm
tra và đánh giá kết quả còn lạc hậu, thiếu thực chất. Quản lý giáo dục và đào tạo
còn nhiều yếu kém. Đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục bất cập về chất
lượng, số lượng và cơ cấu; một bộ phận chưa theo kịp yêu cầu đổi mới và phát triển
giáo dục, thiếu tâm huyết, thậm chí vi phạm đạo đức nghề nghiệp. Đầu tư cho giáo
dục và đào tạo chưa hiệu quả. Chính sách, cơ chế tài chính cho giáo dục và đào tạo
chưa phù hợp. Cơ sở vật chất kỹ thuật còn thiếu và lạc hậu, nhất là ở vùng sâu,
vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn.
Những hạn chế, yếu kém nói trên do các nguyên nhân chủ yếu sau: Việc thể
chế hóa các quan điểm, chủ trương của Đảng và Nhà nước về phát triển giáo dục và
đào tạo, nhất là quan điểm "giáo dục là quốc sách hàng đầu" còn chậm và lúng
túng. Việc xây dựng, tổ chức thực hiện chiến lược, kế hoạch và chương trình phát
triển giáo dục-đào tạo chưa đáp ứng yêu cầu của xã hội. Mục tiêu giáo dục toàn
diện chưa được hiểu và thực hiện đúng. Bệnh hình thức, hư danh, chạy theo bằng
cấp... chậm được khắc phục, có mặt nghiêm trọng hơn. Tư duy bao cấp còn nặng,
làm hạn chế khả năng huy động các nguồn lực xã hội đầu tư cho giáo dục, đào tạo.
Việc phân định giữa quản lý nhà nước với hoạt động quản trị trong các cơ sở giáo
dục, đào tạo chưa rõ. Công tác quản lý chất lượng, thanh tra, kiểm tra, giám sát
chưa được coi trọng đúng mức. Sự phối hợp giữa các cơ quan nhà nước, tổ chức xã
hội và gia đình chưa chặt chẽ. Nguồn lực quốc gia và khả năng của phần đơng gia
đình đầu tư cho giáo dục và đào tạo còn thấp so với yêu cầu.
24


2.3. Một số giải pháp đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp
ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế.
Một là, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước đối với
đổi mới giáo dục và đào tạo.

Quán triệt sâu sắc và cụ thể hóa các quan điểm, mục tiêu, nhiệm vụ, giải
pháp đổi mới căn bản, toàn diện nền giáo dục và đào tạo trong hệ thống chính trị,
ngành giáo dục và đào tạo và toàn xã hội, tạo sự đồng thuận cao coi giáo dục và
đào tạo là quốc sách hàng đầu. Nâng cao nhận thức về vai trò quyết định chất lượng
giáo dục và đào tạo của đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục; người học là
chủ thể trung tâm của quá trình giáo dục; gia đình có trách nhiệm phối hợp với nhà
trường và xã hội trong việc giáo dục nhân cách, lối sống cho con em mình.
Đổi mới cơng tác thơng tin và truyền thơng để thống nhất về nhận thức, tạo
sự đồng thuận và huy động sự tham gia đánh giá, giám sát và phản biện của tồn xã
hội đối với cơng cuộc đổi mới, phát triển giáo dục.
Coi trọng công tác phát triển đảng, cơng tác chính trị, tư tưởng trong các
trường học, trước hết là trong đội ngũ giáo viên. Bảo đảm các trường học có chi bộ;
các trường đại học có đảng bộ. Cấp ủy trong các cơ sở giáo dục - đào tạo phải thực
sự đi đầu đổi mới, gương mẫu thực hiện và chịu trách nhiệm trước Đảng, trước
nhân dân về việc tổ chức thực hiện thắng lợi các mục tiêu, nhiệm vụ giáo dục, đào
tạo. Lãnh đạo nhà trường phát huy dân chủ, dựa vào đội ngũ giáo viên, viên chức
và học sinh, phát huy vai trò của các tổ chức đoàn thể và nhân dân địa phương để
xây dựng nhà trường.
Các bộ, ngành, địa phương xây dựng quy hoạch dài hạn phát triển nguồn
nhân lực, dự báo nhu cầu về số lượng, chất lượng nhân lực, cơ cấu ngành nghề,
trình độ. Trên cơ sở đó, đặt hàng và phối hợp với các cơ sở giáo dục, đào tạo tổ
25


×