Tải bản đầy đủ (.pdf) (104 trang)

Tư tưởng hồ chí minh về giáo dục và ý nghĩa trong đổi mới căn bản toàn diện giáo dục việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.04 MB, 104 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

PHẠM THU HÀ

TƢ TƢỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ GIÁO DỤC VÀ
Ý NGHĨA TRONG ĐỔI MỚI CĂN BẢN TOÀN DIỆN
GIÁO DỤC VIỆT NAM HIỆN NAY

LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÀNH CHÍNH TRỊ HỌC

HÀ NỘI - 2015


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

PHẠM THU HÀ

TƢ TƢỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ GIÁO DỤC VÀ
Ý NGHĨA TRONG ĐỔI MỚI CĂN BẢN TOÀN DIỆN
GIÁO DỤC VIỆT NAM HIỆN NAY

LUẬN VĂN THẠC SĨ
Chuyên ngành: Hồ Chí Minh học
MÃ SỐ: 60.31.02.04
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: TS. TỐNG ĐỨC THẢO

HÀ NỘI - 2015



LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan những nội dung trình bày trong luận văn này là kết quả thu
hoạch tài liệu và nghiên cứu của cá nhân tôi và chưa được công bố trên các công
trình khác. Tôi cũng xin khẳng định luận văn đã được trích dẫn đầy đủ, cụ thể chính
xác kết quả nghiên cứu của các tác giả khác. Và tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm
về những thông tin, dữ liệu đã công bố trong luận văn này./.
Hà Nội, ngày 25 tháng 12 năm 2015
Tác giả luận văn

Phạm Thu Hà


LỜI CẢM ƠN
1. Tôi xin chân thành cảm ơn Khoa Khoa học Chính trị, Trường Đại học
Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội - nơi đã cho tôi thêm
những kiến thức khoa học để tôi có thể nâng cao trình độ của mình trong con đường
học tập và nghiên cứu khoa học.
2. Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới TS. Tống Đức Thảo - Người đã
hướng dẫn, giúp đỡ tôi hoàn thành bản Luận văn này. Thầy đã thường xuyên động
viên, khích lệ và giúp đỡ tôi, tiếp thêm cho tôi nghị lực và niềm tin để tôi cố gắng
tiếp tục học tập và nghiên cứu.
3. Tôi xin gửi lời cảm ơn sâu sắc tới Trung tâm Nghiên cứu Giáo dục Dân
tộc - Viện Khoa học Giáo dục Việt Nam - nơi tôi công tác, đã luôn tạo điều kiện
thuận lợi cho tôi trong công tác để tôi có thể toàn tâm, toàn ý tập trung vào quá trình
học tập và làm Luận văn.
4. Tôi cũng xin gửi lời cảm ơn chân thành nhất tới các Thầy giáo, Cô giáo đã
quan tâm giúp đỡ tôi trên hành trình khoa học. Xin cảm ơn những người mà tôi
chưa hề gặp mặt, nhưng những tư tưởng, công trình nghiên cứu của họ đã có sự tác
động mạnh mẽ và sâu sắc tới tôi, tới quá trình nghiên cứu của tôi, giúp tôi có niềm
tin và động lực để hoàn thành công trình khoa học này.

5. Cuối cùng, tôi xin gửi tới gia đình, đồng nghiệp, bạn bè lời biết ơn sâu sắc
đã cổ vũ, khích lệ và ủng hộ tôi trong quá trình thực hiện bản Luận văn này.
Xin chân thành cảm ơn!


MỤC LỤC

MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
1. Tính cấp thiết của đề tài ............................................................................ 1
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài ................................................ 3
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn ......................................................... 6
3.1. Mục đích nghiên cứu .......................................................................... 6
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu.......................................................................... 6
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu............................................................. 6
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn .......................... 6
5.1. Cơ sở lý luận ...................................................................................... 6
5.2. Phương pháp nghiên cứu ................................................................... 7
6. Những đóng góp của đề tài ....................................................................... 7
7. Ý nghĩa của luận văn ................................................................................. 7
7.1. Ý nghĩa lý luận ................................................................................... 7
7.2. Ý nghĩa thực tiễn ................................................................................ 7
8. Kết cấu của luận văn ................................................................................. 7
Chương 1: MỘT SỐ NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA TƢ TƢỞNG HỒ
CHÍ MINH VỀ GIÁO DỤC ....................................................................... 8
1.1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về mục tiêu và vai trò của nền giáo dục mới ... 9
1.1.1. Mục tiêu của giáo dục ..................................................................... 9
1.1.2. Vai trò của giáo dục ...................................................................... 15
1.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về tính chất của nền giáo dục mới ................. 26
1.2.1. Xây dựng nền giáo dục mang tính nhân dân ................................ 26
1.2.2. Xây dựng nền giáo dục mang tính dân tộc ................................... 30

1.2.3. Xây dựng nền giáo dục mang tính khoa học ................................. 33
1.3. Tư tưởng Hồ Chí Minh về nội dung, phương pháp giáo dục và phát
triển đội ngũ giáo viên................................................................................. 35
1.3.1. Nội dung giáo dục toàn diện ......................................................... 35
1.3.2. Phương pháp giáo dục toàn diện .................................................. 42


1.3.3. Phát triển đội ngũ giáo viên .......................................................... 49
Tiểu kết Chương 1 ................................................................................... 55
Chương 2: Ý NGHĨA TƢ TƢỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ GIÁO DỤC ĐỐI
VỚI ĐỔI MỚI CĂN BẢN TOÀN DIỆN GIÁO DỤC VIỆT NAM HIỆN
NAY ................................................................................................................ 56
2.1. Yêu cầu của đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục Việt Nam hiện nay 56
2.1.1. Nguyên nhân đổi mới .................................................................... 56
2.1.2. Nội dung đổi mới giáo dục ............................................................ 60
2.2. Ý nghĩa lý luận của tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục đối với đổi mới
căn bản, toàn diện giáo dục Việt Nam ........................................................ 67
2.2.1.. Tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục là cơ sở lý luận quan trọng để
đổi mới giáo dục thành công................................................................... 67
2.2.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục tạo cơ sở xây dựng triết lý giáo
dục Hồ Chí Minh nói riêng và triết lý giáo dục Việt Nam thời đại Hồ Chí
Minh nói chung ....................................................................................... 69
2.3. Ý nghĩa thực tiễn của tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục đối với đổi
mới căn bản, toàn diện giáo dục Việt Nam hiện nay .................................. 72
2.3.1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục đã chỉ đạo nhân dân ta xây
dựng thành công nền giáo dục mới ......................................................... 72
2.3.2. Nâng cao nhận thức về mục tiêu và vai trò của giáo dục đối với sự
phát triển đất nước theo hướng bền vững ............................................... 77
2.3.3. Đổi mới nội dung chương trình, phương pháp giáo dục nhằm phát
triển toàn diện con người ........................................................................ 81

2.3.4. Nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý giáo dục
nhằm đáp ứng quá trình đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục............... 87
Tiểu kết Chương 2 ................................................................................... 91
KẾT LUẬN .................................................................................................... 92
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 94


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong những đánh giá cả tổ chức UNESCO khi tôn vinh Chủ tịch Hồ Chí
Minh là nhà văn hóa kiệt xuất, có một khía cạnh rất đáng quan tâm đó là sự đóng
góp quan trọng trong lĩnh vực giáo dục. Hồ Chí Minh là số ít trong các lãnh tụ trên
thế giới quan tâm đến giáo dục từ khi bắt đầu bước chân vào con đường hoạt động
cách mạng, thể hiện một cách nhất quán, xuyên suốt đến tận cuối đời. Di sản Hồ
Chí Minh về giáo dục, góp phần đưa sự nghiệp cách mạng, kháng chiến và bước
đầu xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc đến thắng lợi, và đang tiếp tục soi sáng
sự nghiệp đổi mới giáo dục của chúng ta ngày nay.
Trong những năm qua, Đảng ta đã nêu ra một loạt quan điểm về giáo dục,
phù hợp với yêu cầu và đường lối đổi mới kinh tế xã hội của Đảng. Đại hội lần thứ
VII của Đảng khẳng định: “Khoa học và công nghệ cùng với giáo dục đào tạo là
quốc sách hàng đầu để phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao trình độ quản lý của nhà
nước và năng lực lãnh đạo của Đảng” [12, tr.187]. Sau đó Đảng ta đã xây dựng sứ
mạng của giáo dục là “Nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài”. Về
đầu tư, Đảng coi “đầu tư cho giáo dục là loại đầu tư cơ bản, đầu tư cho phát triển,
tạo động lực và đòn bẩy thúc đẩy toàn bộ nền kinh tế - xã hội” [13, tr.380]. Nhưng
nhìn lại, những quan điểm đúng đắn đó chưa được cụ thể hóa và quán triệt đầy đủ
trong hành động. Vì vậy giáo dục chưa thực sự có chuyển biến: chất lượng giáo dục
kém, công tác quản lý giáo dục còn nhiều bất cập, cơ chế, chính sách cho giáo dục
còn chậm đổi mới... Tình trạng yếu kém, lạc hậu về giáo dục đang là nỗi bức xúc
của xã hội và là nguyên nhân sâu xa dẫn đến sự yếu kém, lạc hậu trong phát triển

kinh tế nói chung do chưa đáp ứng được yêu cầu tạo ra nguồn nhân lực chất lượng
cao để tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Đặc biệt đặt giáo dục
trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế sâu rộng, giữa một thế giới đầy
biến động, nhiều cơ hội và thách thức, dân tộc Việt Nam đang đối mặt với những
yêu cầu gay gắt về kinh tế, văn hóa, khoa học, công nghệ, quốc phòng, an ninh... Vì
vậy sứ mạng và mục tiêu của giáo dục Việt Nam trong 10, 15 năm tới là gì? Tất

1


nhiên phải tiếp thu, kế thừa những giá trị đã có nhưng vẫn rất cần nghiên cứu, bổ
sung để có một xác định cụ thể, đầy đủ, phù hợp với hoàn cảnh mới, yêu cầu mới.
Xuất phát từ tình hình trên, ngày 04 tháng 11 năm 2013, Nghị quyết số 29NQ/TW của Hội nghị lần thứ 8, Ban chấp hành Trung ương khóa XI về đổi mới
căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại
hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập
quốc tế được ban hành. Nghị quyết đã nêu ra thành tựu cũng như hạn chế và nguyên
nhân của việc thực hiện nghị quyết Trung ương II khóa VIII và các chủ trương của
Đảng, Nhà nước về định hướng chiến lược phát triển giáo dục - đào tạo trong thời kì
công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Từ đó đưa ra quan điểm chỉ đạo định hướng đổi mới
căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo: “Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào
tạo là đổi mới những vấn đề lớn, cốt lõi, cấp thiết, từ quan điểm, tư tưởng chỉ đạo
đến mục tiêu, nội dung, phương pháp, cơ chế, chính sách, điều kiện đảm bảo thực
hiện; đổi mới từ sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước đến hoạt động
quản trị của các cơ sở giáo dục, đào tạo và việc tham gia của gia đình, cộng đồng,
xã hội và bản thân người học; đổi mới ở tất cả các bậc học, ngành học”. Với mục
tiêu tổng quát là: “Tạo chuyển biến căn bản, mạnh mẽ về chất lượng, hiệu quả giáo
dục, đào tạo; đáp ứng ngày càng tốt hơn công cuộc xây dựng, bảo vệ Tổ quốc và
nhu cầu học tập của nhân dân. Giáo dục con người toàn diện và phát huy tốt nhất
tiềm năng, khả năng sáng tạo của mỗi cá nhân, yêu gia đình, yêu Tổ quốc, yêu đồng
bào, sống tốt và làm việc hiệu quả. Xây dựng nền giáo dục mở, thực học, thực

nghiệp, dạy tốt, học tốt, quản lý tốt; có cơ cấu và phương thức giáo dục hợp lý, gắn
với xây dựng xã hội học tập; đảm bảo các điều kiện nâng cao chất lượng, chuẩn
hóa, hiện đại hóa, dân chủ hóa, xã hội hóa và hội nhập quốc tế hệ thống giáo dục và
đào tạo; giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa và bản sắc dân tộc. Phấn đấu đến
năm 2030, nền giáo dục Việt Nam đạt trình độ tiên tiến trong khu vực”.
Công cuộc đổi mới căn bản toàn diện nền giáo dục không thể thành công nếu
thiếu nghiên cứu thấu đáo và có hệ thống cả về cơ sở lý luận khoa học và cơ sở thực
tiễn, thiếu sự chỉ đạo nhất quán. Cơ sở lý luận đúng đắn sẽ định hướng cho hoạt

2


động giáo dục tránh khỏi tình trạng mò mẫm, tự phát. Cơ sở lý luận càng đúng đắn,
phù hợp thì càng có ý nghĩa to lớn làm cơ sở khoa học để xác định đường lối, chiến
lược giáo dục cũng như các nội dung cụ thể, càng định hướng cho hoạt động giáo
dục một cách đúng đắn và hiệu quả. Theo tôi, Nghị quyết số 29-NQ/TW cơ bản là
sự vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục trong tình hình mới. Bởi
vậy, trong lúc Đảng, Nhà nước ta, nhân dân ta đang nỗ lực thực hiện Nghị quyết
Trung ương 8 khóa XI về đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục, thì việc trở lại với
những luận điểm cốt lõi trong tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục là việc làm không
chỉ có ý nghĩa trong việc hưởng ứng phong trào “Học tập và làm theo tấm gương
đạo đức Hồ Chí Minh” mà còn có ý nghĩa tạo cơ sở lý luận cho công cuộc đổi mới
giáo dục Việt Nam hiện nay. Tư tưởng Hồ Chí Minh nói chung và tư tưởng Hồ Chí
Minh về giáo dục nói riêng luôn là cơ sở lý luận vững chắc để Đảng, Nhà nước ta,
nhân dân ta tiến hành hiện thực hóa những mục tiêu cách mạng nước nhà. Đổi mới
toàn diện, căn bản giáo dục nước ta hiện nay, việc bám sát, vận dụng sáng tạo
những tư tưởng cốt lõi về giáo dục của Người là một nguyên tắc. Với những lý do
trên, tác giả lựa chọn đề tài: “Tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về giáo dục và ý nghĩa
trong đổi mới căn bản toàn diện giáo dục Việt Nam hiện nay” làm luận văn
Thạc sỹ chuyên ngành Chính trị học.

2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Để thấy được ý nghĩa của tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục trong công
cuộc đổi mới căn bản toàn diện giáo dục Việt Nam thì trước hết ta cần tìm hiểu
những nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục. Tư tưởng Hồ Chí
Minh về giáo dục là một bộ phận quan trọng trong hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh,
có rất nhiều công trình nghiên cứu về vấn đề này dưới nhiều góc độ khác nhau. Bởi
vậy, các công trình nghiên cứu liên quan đến đề tài có thể phân loại như sau:
- Các công trình nghiên cứu toàn diện về tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục
Người khởi đầu cho việc nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục phải
kể đến GS. Nguyễn Lân với cuốn sách “Hồ Chủ tịch - Nhà giáo dục vĩ đại”. Tác

3


phẩm nghiên cứu những luận điểm lớn, ý kiến lớn của Hồ Chí Minh về giáo dục
trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam.
Sau này có một số cuốn sách như: “Hồ Chí Minh với ngành giáo dục” của
Nguyễn Vũ (tuyển chọn), “Tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục” của Lê Văn Yên
(chủ biên), “Hồ Chí Minh với công tác giáo dục trong nhà trường” của Nhà xuất
bản Lao động… Các cuốn sách này trích dẫn các bài nói, bài viết của Hồ Chí Minh
về giáo dục và tập hợp các bài nghiên cứu khá sâu sắc về tư tưởng Hồ Chí Minh về
giáo dục: nguồn gốc hình thành, mục đích, nội dung, phương pháp giáo dục của tư
tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục, giáo dục thanh niên, bồi dưỡng chăm lo thế hệ
cách mạng cho đời sau.
Gần đây có một số công trình nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục
và sự vận dụng vào phát triển giáo dục - đào tạo như: “Tư tưởng Hồ Chí Minh về
giáo dục và sự vận dụng của Đảng Cộng sản Việt Nam trong sự nghiệp đổi mới”
của TS. Nguyễn Văn Chung. Cuốn sách phân tích toàn diện về tư tưởng Hồ Chí
Minh về giáo dục với cách tiếp cận khá mới mẻ. Tác giả trình bày từ nguồn gốc,
quá trình hình thành và phát triển, nội dung cơ bản và sự vận dụng, phát triển tư

tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục trong tình hình mới. Còn có cuốn “Tư tưởng Hồ
Chí Minh vể giáo dục và vận dụng vào đào tạo đại học hiện nay” của TS. Hoàng
Anh (chủ biên). Nội dung cuốn sách trình bày nguồn gốc, quá trình hình thành và
phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục theo từng thời kỳ gắn với cuộc đời
hoạt động cách mạng của Người cũng như đất nước. Cuốn sách phân tích tương đối
toàn diện, có hệ thống nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục và nêu bật tầm
quan trọng của việc vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục vào nâng cao chất
lượng đào tạo đại học hiện nay. Từ việc phân tích một số vấn đề trong công tác đào
tạo đại học hiện nay như chất lượng sinh viên, đội ngũ giảng viên, nội dung, chương
trình đào tạo, phương pháp giảng dạy, các tác giả đã đề xuất một số giải pháp vận
dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục vào nâng cao chất lượng đào tạo đại học
hiện nay.

4


- Các công trình nghiên cứu chuyên khảo về nội dung cơ bản trong tư
tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục
Bên cạnh những công trình nghiên cứu toàn diện về tư tưởng Hồ Chí Minh
về giáo dục thì còn có những cuốn sách đi sâu vào nghiên cứu chuyên sâu về một
vấn đề trong tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục như: Cuốn “Tư tưởng Hồ Chí Minh
về người thầy và việc xây dựng đội ngũ giảng viên đại học hiện nay” của TS. Ngô
Văn Hà đã trình bày vai trò của người thầy giáo với giáo dục, yêu cầu về phẩm chất
đạo đức và năng lực đối giáo viên trong tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục từ đó có
những vận dụng vào việc xây dựng đội ngũ giảng biên đại học hiện nay.
Cuốn sách “Tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục thanh niên” của TS. Đoàn
Nam Đàn trình bày những vấn đề về nguồn gốc, quá trình hình thành tư tưởng Hồ
Chí Minh về giáo dục thanh niên, việc vận dụng tư tưởng giáo dục thanh niên của
Người trong điều kiện hiện nay và những biện pháp nhằm phát triển toàn diện, phát
huy năng lực của thanh niên phục vụ hiệu quả sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại

hoá đất nước.
Ngoài ra còn có Báo cáo tổng hợp đề tài “Cơ sở triết học của tư tưởng Hồ
Chí Minh về giáo dục” của GS.VS. Phạm Minh Hạc. Báo cáo đã trình bày sâu sắc
nội dung và cơ sở triết học của hai vấn đề mang tính cốt lõi trong tư tưởng Hồ Chí
Minh về giáo dục là: học để phục vụ Tổ quốc, phục vụ nhân dân và luận điểm “ai
cũng được học hành”.
Gần đây, khi giáo dục Việt Nam đứng trước nhiều thách thức mới, khái niệm
“triết lý giáo dục” được đưa ra nghiên cứu, đánh giá, tranh luận rất nhiều. Và một
lần nữa, chúng ta lại quay trở về với tư tưởng Hồ Chí Minh trong đó có “triết lý
giáo dục Hồ Chí Minh”. Đây là một vấn đề mới nên chỉ có một số bài viết đi vào
tìm hiểu triết lý giáo dục Hồ Chí Minh như: “Triết lý giáo dục Hồ Chí Minh” của
Phạm Minh Hạc trong cuốn “Triết lý giáo dục thế giới và Việt Nam”, “Đôi nét về
triết lý giáo dục của Bác” của Nguyễn Thị Hài (Viện Khoa học giáo dục Việt Nam),
“Mấy nét về triết lý giáo dục trong tư tưởng Hồ Chí Minh” của GS. Phạm Xuân
Nam, “Từ một số ý kiến của Hồ Chí Minh về giáo dục, từ triết lý giáo dục của thời

5


đại, suy nghĩ về giáo dục Việt Nam hiện nay” của PGS. Lê Khánh Bằng, “Triết lý
giáo dục Hồ Chí Minh” của GS. Song Thành. Các bài viết này nhìn chung đã bước
đầu nghiên cứu mang tính chất khái lược, định hướng và đề xuất nghiên cứu về nội
dung của triết lý giáo dục Hồ Chí Minh.
Như vậy cho đến nay có khá nhiều công trình nghiên cứu về toàn diện cũng
như chuyên khảo nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục tuy nhiên theo tinh
thần của Nghị quyết số 29-NQ/TW của Hội nghị lần thứ 8 thì chưa có công trình
nào nghiên cứu về vấn đề giá trị cốt lõi, ý nghĩa của tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo
dục để công cuộc đổi mới căn bản toàn diện giáo dục có thể vận dụng và phát triển.
Bản luận văn này hy vọng góp một phần nhỏ bé vào việc tạo cơ sở lý luận định
hướng xây dựng triết lý giáo dục Việt Nam trong thời đại mới.

3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
3.1. Mục đích nghiên cứu
Làm rõ những giá trị cốt lõi trong tư tưởng giáo dục của Hồ Chí Minh và ý
nghĩa trong công cuộc đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục Việt Nam hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để thực hiện mục đích trên, luận văn có nhiệm vụ sau:
- Làm rõ những nội dung cốt lõi của tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục.
- Rút ra ý nghĩa lý luận và thực tiễn của những nội dung cốt lõi trong tư
tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục đối với đổi mới căn bản toàn diện giáo dục Việt
Nam hiện nay.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu dưới góc độ lý luận về những nội dung cốt lõi của tư
tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục từ đó rút ra ý nghĩa trong công cuộc đổi mới giáo
dục hiện nay.
5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu của luận văn
5.1. Cơ sở lý luận
Luận văn này được thực hiện trên cơ sở lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm, đường lối, chính sách, pháp luật của Đảng và
Nhà nước ta về giáo dục.

6


5.2. Phương pháp nghiên cứu
- Đề tài nghiên cứu dựa trên phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện
chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử.
- Sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể như: phương pháp lịch sử - logic,
phương pháp phân tích - tổng hợp, phương pháp so sánh… để hoàn thành mục tiêu và
nhiệm vụ nghiên cứu.
6. Những đóng góp của đề tài

- Khẳng định lại những nội dung cốt lõi của tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo
dục.
- Góp phần hình thành nên hệ thống những luận điểm của triết lý giáo dục
Hồ Chí Minh.
- Góp phần xây dựng cơ sở lý luận cho đổi mới căn bản toàn diện giáo dục
Việt Nam hiện nay.
7. Ý nghĩa của luận văn
7.1. Ý nghĩa lý luận
- Góp phần làm sáng tỏ thêm tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục và ý nghĩa
trong đổi mới căn bản toàn diện giáo dục Việt Nam.
- Góp phần tạo cơ sở lý luận để xây dựng triết lý giáo dục cho Việt Nam
trong thời đại Hồ Chí Minh.
7.2. Ý nghĩa thực tiễn
Kết quả của luận văn có thể làm tài liệu tham khảo trong nghiên cứu, giảng
dạy những vấn đề lý luận liên quan thuộc chuyên ngành Tư tưởng Hồ Chí Minh.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của
luận văn gồm 2 chương và 6 tiết:

7


Chương 1
MỘT SỐ NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA TƢ TƢỞNG HỒ CHÍ MINH
VỀ GIÁO DỤC
Tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục là một hệ thống các quan điểm toàn diện
và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của giáo dục Việt Nam, từ giáo dục dân chủ
nhân dân tiến lên giáo dục xã hội chủ nghĩa. Đó là tư tưởng về vai trò, vị trí, mục
tiêu, nội dung, phương pháp giáo dục. Đối tượng nghiên cứu của tư tưởng Hồ Chí
Minh về giáo dục là hệ thống những quan điểm, lý luận về giáo dục Việt Nam của

Người gắn liền với quá trình cách mạng Việt Nam. Việc nghiên cứu tư tưởng Hồ
Chí Minh về giáo dục được vận dụng vào thực tiễn giáo dục Việt Nam, làm cho
giáo dục nước ta ngày một lớn mạnh và cũng góp phần làm cho tư tưởng của Người
được phong phú và phát triển.
Tư tưởng Hồ Chí Minh nói chung và tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục nói
riêng được hình thành và phát triển trên cơ sở thực tiễn xã hội cuối thế kỷ XIX đầu
thế kỷ XX - thời kỳ có nhiều biến động với những bước chuyển sâu sắc trên các lĩnh
vực của đời sống xã hội. Về nguồn gốc hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo
dục: Sinh ra trong một gia đình nhà Nho, lớn lên trên một mảnh đất giàu truyền
thống văn hóa và tinh thần hiếu học, từ nhỏ, Hồ Chí Minh đã sớm được tiếp thu
những truyền thống văn hóa đậm tính nhân văn và tinh thần yêu nước sâu sắc của
dân tộc Việt Nam. Bên cạnh đó, tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục còn được kế
thừa, tiếp thu tư tưởng văn hóa phương Đông (đặc biệt là tư tưởng của Nho, Lão,
Phật), tư tưởng của các nhà Khai sáng Pháp, chủ nghĩa Tam dân của Tôn Dật Tiên.
Quan trọng hơn cả đó là sự ảnh hưởng của chủ nghĩa Mác - Lênin đã nâng tư tưởng
Hồ Chí Minh về giáo dục lên một trình độ mới mang tầm vóc thời đại. Bằng năng
lực và hoạt động thực tiễn của mình, Hồ Chí Minh đã xây dựng ở Việt Nam một
nền giáo dục mới - nền giáo dục xã hội chủ nghĩa - mà ở đó con người được phát
triển toàn diện.

8


1.1. Tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về mục tiêu và vai trò của nền giáo dục mới
1.1.1. Mục tiêu của giáo dục
1.1.1.1. Xây dựng động cơ đúng đắn cho người học
Giáo dục là sự truyền đạt và lĩnh hội những kinh nghiệm lịch sử - xã hội của
các thế hệ loài người, mỗi giai đoạn lịch sử khác nhau, việc xây dựng động cơ học
tập đúng đắn cho người học là hết sức quan trọng bởi nó sẽ tạo hứng thú cho người
học, làm cho quá trình dạy học đạt được hiệu quả cao nhất. Đối với Hồ Chí Minh,

động lực, mục tiêu của sự học là phục vụ Tổ quốc, phục vụ nhân dân. Tư tưởng học
để phục vụ Tổ quốc, phục vụ nhân dân của Hồ Chí Minh được thể hiện nhất quán
thông qua những chỉ thị, những lời căn dặn và hành động thực tiễn của Người.
Trong thực tế lịch sử xã hội, mỗi một thời kỳ lịch sử xã hội khác nhau tùy
thuộc vào trình độ phát triển kinh tế xã hội và nhận thức, con người ta đề cao sự học
không giống nhau. Dân tộc Việt Nam trong thời đại phong kiến đã từng ảnh hưởng
bởi quan niệm "học nhi ưu tắc sĩ" (học để làm quan), cái học đó đã đào tạo ra một
tầng lớp quan lại bằng con đường khoa bảng, và xã hội nông nghiệp đề cao cái học
để "vinh thân phì gia", để một người làm quan cả họ được nhờ. Trước Hồ Chí Minh,
thân phụ và các bậc tiền bối của Người ít nhiều đã chịu ảnh hưởng sự học đó. Đến
Hồ Chí Minh, Người nhận thức được lợi ích của việc học lớn hơn nhiều. Học để
phục vụ Tổ quốc, phục vụ nhân dân tức là làm việc, là lãnh nhận sứ mệnh trước
quốc dân, đồng bào, là cống hiến, đặt cái lợi nhân quần của Tổ quốc nhân dân lên
hết thảy. Đó là ý nghĩa đích thực của sự học của quan điểm khoa học và cách mạng,
tiến bộ và nhân văn. Ở cương vị chủ tịch Đảng, chủ tịch nước, đi nhiều, hễ có dịp là
Hồ Chí Minh dạy nhân dân về lợi ích của sự học mới, về ý nghĩa của sự học cao
cả ấy.
Trong lời ghi ở trang đầu quyển sổ vàng của trường Nguyễn Ái Quốc trung
ương, Người viết: "Học để làm việc, làm người, làm cán bộ. Học để phụng sự Đoàn
thể, giai cấp và nhân dân, Tổ quốc và nhân loại” [44, tr.208]. Phát biểu trong Hội
nghị toàn quốc lần thứ nhất về công tác huấn luyện và học tập, năm 1950, Hồ Chí
Minh, đặt câu hỏi: học để làm gì? và Hồ Chí Minh đã nói nhiều về mục đích của sự

9


học, song đúc kết lại vẫn là cái học để làm việc, để phụng sự Tổ quốc và nhân dân.
Nói chuyện tại Đại hội giáo dục phổ thông toàn quốc, 1956, Hồ Chí Minh đã chỉ rõ:
"Dạy và học cần phải theo nhu cầu của dân tộc, của Nhà nước. Thầy dạy tốt, trò học
tốt, cung cấp đủ cán bộ cho nông nghiệp, công nghiệp, cho các ngành kinh tế và văn

hóa. Đó là nhiệm vụ vẻ vang của các thầy giáo, cô giáo” [48, tr.291]. Trong thư gửi
các học sinh trường Sư phạm miền núi Trung ương nhân dịp trường khai giảng,
năm 1955, Người viết: "Nhiệm vụ của các cháu là thi đua học tập để sau này góp
phần vào việc mở mang quê hương của mình và việc xây dựng nước Việt Nam yêu
quý của chúng ta” [47, tr.375]. Trong Thư gửi các cháu lưu học sinh Việt Nam học
ở Moscow, Người căn dặn: "Các cháu học kỹ thuật và học tiếng Nga cần nhận rõ
mình học cốt để phục vụ Tổ quốc, phục vụ nhân dân. Học ngành nào cũng cần phải
căn cứ vào nhu cầu của Tổ quốc, của nhân dân mà định, không thể tùy theo sở thích
của riêng mình” [48, tr.48]. Trong một lần khác, nói chuyện tại lớp đào tạo hướng
dẫn viên các trại hè cấp I năm 1956, Người nói: "Mục đích của giáo dục bây giờ là
phục vụ nhân dân, phục vụ Tổ quốc...” [48, t.48]. Có thể thấy, xuyên suốt tư tưởng
Hồ Chí Minh không có sự học nào hơn là sự học là để làm người, giúp đời, phụng
sự Tổ quốc và Nhân dân. Đó cũng chính là sự học của người cách mạng, của đạo
đức xã hội chủ nghĩa, của những con người thấm đẫm trong mình lý tưởng cộng
sản.
Tiếp thu tinh thần hiếu học của cha ông, song đến lượt mình, ở Hồ Chí Minh,
sự học của dân tộc Việt Nam, của người Việt Nam đã mang nội dung ý nghĩa mới,
học không phải chăm chắm trong bầu trời cá nhân chật hẹp "vinh thân phì gia", mũ
cao áo dài, cân đai võng lọng mà học có một mục đích ý nghĩa cao đẹp, tràn đầy lý
tưởng nhân văn cao cả, để làm người phục vụ Tổ quốc, phục vụ nhân dân, làm lợi
cho dân, cho nước. Chính thấm nhuần cái lý tưởng học đó mà hàng vạn thanh niên
trí thức dưới chế độ mới, kể cả những trí thức được đào tạo ở Pháp (chế độ thực dân
cũ) đã ra sức phấn đấu học hỏi, nắm bắt khoa học kỹ thuật phục vụ sự nghiệp kháng
chiến và xây dựng xã hội chủ nghĩa, nhiều người đã từ bỏ trời Tây hoa lệ, trở về
sống đồng cam cộng khổ cùng nhân dân phụng sự sự nghiệp kháng chiến kiến quốc,

10


tiêu biểu như bác sĩ Đặng Văn Ngữ, Kỹ sư Phạm Quang Lễ (anh hùng Trần Đại

Nghĩa) và nhiều trí thức dưới chế độ cũ đã sẵn sàng ra tay giúp nước như Tiến sỹ
Nho học Huỳnh Thúc Kháng, nhân sĩ Vũ Đình Hòe...
Không chỉ dừng lại ở tư tưởng chỉ đạo, Hồ Chí Minh là một tấm gương sáng
về việc nỗ lực học tập để phục vụ Tổ quốc, phục vụ nhân dân. Hồ Chí Minh ra đi từ
buổi nhân dân, đất nước còn đắm chìm trong đêm đen nô lệ, Người không có điều
kiện để nuôi chí học hành, sau này khi nói chuyện với sinh viên quốc tế họp tại Việt
Nam năm 1961, Người thổ lộ "Về văn hóa: Tôi chỉ học hết lớp tiểu học". Người
sớm dấn thân vào lao động và tranh đấu, nhưng bản thân Người đã có ý thức học
tập từ rất sớm. Sau này, Người đã từng kể lại: "...Vào trạc 13 tuổi, lần đầu tiên tôi
đã được nghe những từ Pháp : tự do, bình đẳng, bác ái. Thế là tôi muốn làm quen
với văn minh Pháp, tìm xem những gì ẩn giấu đằng sau những từ ấy", và đó cũng là
nguyên nhân Người đi về phía trời Tây để học hỏi, tìm con đường khả dĩ cứu nước,
cứu dân. Trong hoàn cảnh lao động kham khổ, thiếu thốn, có những lúc bị tù đày,
Người luôn có ý thực tự học tự bồi dưỡng, từ ngoại ngữ, đến các tri thức văn hóa,
khoa học. Đi đến đâu, Hồ Chí Minh đều học và sử dụng được ngoại ngữ, thông hiểu
văn hóa để hòa nhập và hoạt động. Bản thân Người không được đào tạo một cách
bài bản, chính thống qua trường lớp, cấp học, nhưng những tri thức người có được
hết sức sâu sắc và toàn diện. Người còn căn dặn cán bộ phải học ở trường, học ở
sách vở, học lẫn nhau và học ở nhân dân. Chính nhờ học qua sách báo, qua bè bạn,
Hồ Chí Minh đã tiếp cận với chủ nghĩa Mác - Lênin. Người đã được giác ngộ và
tìm thấy con đường cứu nước chân chính cho dân tộc: "Đây là cái cần thiết cho
chúng ta, đây là con đường giải phóng chúng ta!". Từ đó, Người tin theo Lênin, tin
theo Quốc tế thứ Ba, vì đã chỉ ra cho Người con đường tranh đấu cho độc lập tự do
của dân tộc mình.
Tinh hoa của sự học của Hồ Chí Minh được thẩm thấu và tỏa ra ở cốt cách
văn hóa thanh cao, lịch thiệp, trong trí thông minh xuất chúng, ở lối ứng xử tinh tế,
hấp dẫn. Tất cả nhờ Người luôn ý thức tự học và hành. Hồ Chí Minh luôn tâm đắc
câu nói của Lênin: học nữa, học mãi, và chính Người cho rằng, học để tiến bộ mãi!

11



Chính nhờ cái học thấu đáo, năng lực tự học xuất chúng đó, đã làm cho Hồ Chí
Minh hội tụ được những tinh túy văn hóa Đông, Tây, đem hết tài học, lực học, kiến
học phục vụ sự nghiệp cách mạng của dân tộc của nhân dân.
1.1.1.2. Phát triển hoàn toàn con người
Con người là phạm trù trung tâm trong triết lý giáo dục Hồ Chí Minh. Cơ sở
phương pháp luận của vấn đề giáo dục con người phát triển toàn diện theo tư tưởng
Hồ Chí Minh là triết lý giáo dục phương Đông. Con người là trung tâm của vũ trụ,
là cầu nối của trời và đất:
Trời có bốn mùa: Xuân, Hạ, Thu, Đông
Đất có bốn phương: Đông, Tây, Nam, Bắc.
Người có bốn đức tính: Cần, Kiệm, Liêm, Chính.
Thiếu một mùa, thì không thành trời.
Thiếu một phương, thì không thành đất.
Thiếu một đức, thì không thành người. [44, tr.117]
Hồ Chí Minh quan niệm bản chất con người là những phẩm chất bên trong
mà cụ thể là: Cần, Kiệm, Liêm, Chính, thiếu một phẩm chất thì không thành người.
Theo Hồ Chí Minh, mục tiêu cuối cùng của mọi cuộc cách mạng xã hội là vấn đề
con người. Đồng thời, Người cũng rất coi trọng vai trò của giáo dục đến sự phát
triển của con người. Quá trình giáo dục phát triển toàn diện con người có quan hệ
biện chứng với quá trình thực hiện các mục tiêu của cách mạng xã hội. Mục tiêu
phát triển toàn diện con người phải tương thích với mục tiêu phát triển của xã hội
trong từng giai đoạn lịch sử cụ thể. Tiếp thu sáng tạo các luận điểm về phát triển
toàn diện con người của Mác, Ăng ghen và Lênin, dựa trên sự phân tích đặc điểm
xã hội và con người Việt Nam, Hồ Chí Minh đã chỉ ra mục tiêu, nội dung, con
đường, biện chứng giáo dục con người Việt Nam phát triển hoàn toàn.
Khi bàn về giáo dục con người phát triển toàn diện, Hồ Chí Minh thường
dùng thuật ngữ “con người phát triển hoàn toàn” và thuật ngữ “giáo dục toàn diện”.
Ngay trong thư gửi học sinh nhân ngày khai trường năm học đầu tiên của nước Việt

Nam độc lập, tháng 9 năm 1945, Hồ Chí Minh đã viết: “Từ giờ phút này trở đi, các

12


cháu bắt đầu được hưởng một nền giáo dục hoàn toàn Việt Nam..., một nền giáo dục
nó sẽ đào tạo các cháu nên những công dân có ích cho nước Việt Nam, một nền
giáo dục làm phát triển hoàn toàn những năng lực sẵn có của các cháu” [42, tr.34].
Có thể coi đây như bản tuyên ngôn của một nền giáo dục mới, “nền giáo dục làm
phát triển hoàn toàn những năng lực sẵn có” của người học.
Trong tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc”, Hồ Chí Minh đã viết: cán bộ phải
biết gắn lý luận với thực tiễn mới là “người cán bộ hoàn toàn”, trí thức phải biết
thực hành mới là “người trí thức hoàn toàn”. Trong nhiều bài nói và viết khác nhau
về giáo dục, Hồ Chí Minh thường sử dụng thuật ngữ phát triển hoàn toàn.
Trong điều kiện lịch sử của cách mạng Việt Nam, mục tiêu của nền giáo dục
mới, nền giáo dục hoàn toàn Việt Nam chỉ nên đặt ra mức độ phát triển hoàn toàn
con người. Bởi vì, theo quan điểm của Mác và Lênin thì con người phát triển toàn
diện phải là sản phẩm của một chế độ xã hội phát triển ở trình độ cao. Dựa theo
quan điểm đó, chúng ta dễ dàng thấy rằng xã hội Việt Nam chưa đủ điều kiện để đặt
ra mục tiêu phát triển toàn diện con người. Trong bài nói chuyện ở lớp đào tạo
hướng dẫn viên các trại hè cấp I, ngày 12 tháng 6 năm 1956, Hồ Chí Minh đã nhắc
ngành giáo dục rằng: “Kháng chiến phải mấy năm. Vội không được. Giáo dục cũng
phải theo hoàn cảnh, điều kiện. Phải ra sức làm, nhưng vội không được. Từ đây ra
cửa thì thứ nhất là bước thứ nhất, thứ hai mới đến bước thứ hai, rồi thứ ba mới là
bước thứ ba. Vội thì ngã. Làm phải có kế hoạch, có từng bước” [48, tr.345]. Luận
điểm này của Hồ Chí Minh hoàn toàn thống nhất với luận điểm của Lênin trong tác
phẩm “Bệnh ấu trĩ tả khuynh trong phong trào cộng sản”, khi phê phán sự nóng vội
trong việc giáo dục con người phát triển toàn diện.
Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, giáo dục phát triển hoàn toàn con người, trước
hết là phát triển những năng khiếu, những tố chất sẵn có của người đi học. Phát triển

hoàn toàn con người khác với phát triển toàn diện. Con người phát triển toàn diện
không chỉ phát triển những khả năng sẵn có, những tố chất bẩm sinh mà còn được
phát triển về mọi mặt, biết làm mọi việc. Dưới chủ nghĩa cộng sản, sự phát triển cao
của sản xuất xã hội sẽ tạo nên môi trường giáo dục tốt đẹp tác động vào con người,

13


làm cho con người có thể phát triển cả những phẩm chất mà bản thân cá nhân con
người đó không có năng khiếu hay tố chất. Khi đó người ta sẽ chuyển sang giáo
dục, huấn luyện, đào tạo những con người phát triển về mọi mặt, được chuẩn bị về
mọi mặt và biết làm mọi việc. Đó là con người phát triển toàn diện.
Giáo dục phát triển hoàn toàn con người, còn được hiểu là giáo dục phải huy
động hết mọi tiềm năng có thể của cá nhân và xã hội cho sự phát triển của con
người. Phát triển hoàn toàn con người, nghĩa là con người đó và xã hội đó có khả
năng đến đâu phải sử dụng bằng hết và phải sử dụng một cách hiệu quả nhất trong
công tác giáo dục. Điều đó chỉ có chế độ xã hội mới với quan hệ xã hội bình đẳng,
quan hệ tốt đẹp giữa người với người thì mới thực hiện được.
Giáo dục phát triển hoàn toàn con người, nghĩa là quá trình giáo dục phát
triển con người phải phù hợp với nhịp độ phát triển của xã hội, phải hướng tới các
mục tiêu là cho con người tốt đẹp hơn. Trong mỗi giai đoạn phát triển của xã hội,
trong những điều kiện xã hội lịch sử khác nhau thì mục tiêu giáo dục phát triển hoàn
toàn con người cũng khác nhau.
Năm 1945, khi mới giành được chính quyền, bên cạnh việc thực hiện nhiệm
vụ chống thù trong, giặc ngoài, củng cố chính quyền, Hồ Chí Minh cùng Trung
ương Đảng lãnh đạo, chỉ đạo giải quyết những nhu cầu cấp thiết của nhân dân như
chống giặc đói, giặc dốt, coi việc thực hiện các nhiệm vụ đó cũng cấp thiết như
chống giặc ngoại xâm. Mục tiêu của giáo dục lúc bấy giờ chủ yếu là xóa nạn mù
chữ, làm cho người dân biết đọc, biết viết chữ quốc ngữ.
Từ sau năm 1954, khi miền Bắc đã hoàn toàn được giải phóng, chuẩn bị các

bước đi vào xây dựng chủ nghĩa xã hội thì mục tiêu phát triển hoàn toàn con người
đã có bước phát triển mở rộng hơn. Trong thư gửi Hội nghị giáo dục toàn quốc,
tháng 3 năm 1955, Hồ Chí Minh đã viết: “Trách nhiệm nặng nề và vẻ vang của
người thầy học là: chăm lo dạy dỗ con em của nhân dân thành người công dân tốt,
người chiến sỹ tốt, người cán bộ tốt của nước nhà” [47, tr.388]. Như vậy, con người
mới được phát triển hoàn toàn trong một nền giáo dục mới, một chế độ xã hội mới
là “người công dân tốt, người lao động tốt, người chiến sỹ tốt, người cán bộ tốt của

14


nước nhà”. Đó là nấc thang tiến tới mục tiêu phát triển toàn diện con người dưới chế
độ cộng sản.
Khi bàn về giáo dục con người phát triển hoàn toàn, Hồ Chí Minh không phủ
định quan điểm giáo dục con người phát triển toàn diện. Hồ Chí Minh gắn vấn đề
giáo dục con người phát triển toàn diện là một mục tiêu của cách mạng xã hội chủ
nghĩa: Muốn có chủ nghĩa xã hội thì phải có con người xã hội chủ nghĩa. Con người
vừa là mục tiêu, vừa là động lực của cách mạng. Cách mạng xã hội chủ nghĩa không
giống với các cuộc cách mạng trước đó, nó không chỉ thay chế độ xã hội này bằng
chế độ xã hội khác mà nó phải tiếp tục giải phóng hoàn toàn con người. Cách mạng
xã hội chủ nghĩa không chỉ giải phóng con người thoát khỏi sự áp bức của kẻ thù
ngoại xâm và kẻ thù giai cấp mà còn giải phóng con người khỏi giặc dốt, khỏi sự
ràng buộc của các lễ nghi phong kiến và các phong tục, tập quán lạc hậu. Dựa theo
quan điểm khoa học về bản chất con người là tổng hòa các mối quan hệ xã hội, thì
giải phóng hoàn toàn con người có nghĩa là phải cải tạo, xóa bỏ nhưng mỗi quan hệ
xã hội cũ đã lỗi thời, lạc hậu đã ăn sâu trong tiềm thức, trong cách nghĩ, cách làm
của con người, xây dựng những mối quan hệ xã hội mới bình đẳng, tốt đẹp tạo co
hội cho con người phát triển hoàn toàn. Theo Hồ Chí Minh, mục tiêu và nhiệm vụ
của cách mạng là giải phóng hoàn toàn con người, là phải trả lại cho con người
những khả năng đích thực để vươn lên tự khẳng định mình, làm chủ xã hội, làm chủ

tự nhiên. Như vậy, giải phóng hoàn toàn con người còn chứa đựng một mục tiêu cao
hơn nữa, đó là tạo cơ hội cho con người phát triển hoàn toàn. Tư tưởng về giáo dục
con người phát triển hoàn toàn là sự tiếp nối của tư tưởng về giải phóng hoàn toàn
con người, là mục tiêu của cách mạng xã hội chủ nghĩa. Điều đó cũng có nghĩa
rằng, mục tiêu giáo dục phát triển hoàn toàn con người vừa là mục tiêu chiến lược
của giáo dục, vừa là mục tiêu chiến lược của cách mạng xã hội chủ nghĩa.
1.1.2. Vai trò của giáo dục
1.1.2.1. Nâng cao dân trí, xây dựng nền văn hóa Việt Nam
Giáo dục giữ vai trò quan trọng mang tính quyết định trong việc nâng cao
dân trí, tạo nên sức mạnh của dân tộc. Hồ Chí Minh nói: Một dân tộc dốt là một dân

15


tộc yếu, tức là nói đến vai trò của giáo dục đối với việc nâng cao dân trí. Trong thực
tiễn chỉ đạo cách mạng, Hồ Chí Minh đã đặt nhiệm vụ diệt giặc dốt ngang hàng với
nhiệm vụ diệt giặc ngoại xâm. Bởi vì diệt giặc dốt là con đường nâng cao dân trí,
tạo nên sức mạnh của dân tộc để diệt ngoại xâm. Người chỉ ra: “Muốn giữ vững nền
độc lập, muốn làm cho dân mạnh nước giàu thì mọi người Việt Nam phải hiểu biết
quyền lợi của mình, bổn phận của mình, phải có kiến thức để tham gia vào công
cuộc xây dựng nước nhà, và trước hết phải biết đọc, biết chữ quốc ngữ” [42, t.40].
Người đã chỉ rõ mối quan hệ giữa giặc dốt là kẻ thù bên trong với giặc ngoại xâm là
kẻ thù bên ngoài: “Dốt nát cũng là kẻ địch. Địch dốt nát giúp cho địch ngoại xâm.
Địch thực dân dựa vào địch dốt nát để thi hành chính sách ngu dân. Địch dốt nát
dựa vào địch thực dân để đưa nước ta vào nơi mù quáng” [43, t.469]. Trong điều
kiện đất nước còn vô vàn những khó khăn cần giải quyết nhưng Hồ Chí Minh vẫn
chủ trương ưu tiên cho giáo dục, đặt giáo dục là quốc sách hàng đầu. Trong thực
tiễn, phong trào bình dân học vụ, xóa nạn mù chữ đã được lan tỏa khắp các thôn
làng trên phạm vi toàn quốc. Các lớp học không chỉ có tác dụng nâng cao dân trí mà
còn góp phần tuyên truyền cho chính sách của một chính quyền mới, chế độ xã hội

mới. Đó là động lực cho sự củng cố chính quyền cách mạng, phát triển xã hội.
Trong kháng chiến chống thực dân Pháp, các cơ quan lãnh đạo của Đảng và
Chính phủ, nhiều trường học phải sơ tán trong rừng nhưng Hồ Chí Minh vẫn quyết
tâm phát triển giáo dục kháng chiến kiến quốc, tạo thành phong trào “Thi đua diệt
giặc dốt” ngay trong điều kiện chiến tranh. Trong kháng chiến chống Mỹ, Hồ Chí
Minh đã kêu gọi: “Dù khó khăn đến đâu cũng phải thi đua dạy tốt và học tốt”.
Trong điều kiện vô cùng khó khăn, ác liệt của cuộc kháng chiến nhưng giáo dục vẫn
vươn lên tự khẳng định mình, cung cấp nguồn nhân lực đáp ứng cho nhu cầu xã hội.
Quyết tâm và hành động đó đã thể hiện tư tưởng Hồ Chí Minh về vai trò quốc sách
hàng đầu của giáo dục.
Dưới sự chỉ đạo của Hồ Chí Minh, giáo dục thực sự trở thành quốc sách hàng
đầu. Giáo dục là phương tiện xây dựng, củng cố chính quyền cách mạng, là nhân tố

16


quyết định việc thực hiện mục tiêu xây dựng lại đất nước ta “đàng hoàng hơn, to
đẹp hơn” sau ngày chiến thắng.
Bên cạnh vai trò nâng cao dân trí, theo Hồ Chí Minh, giáo dục còn góp phần
xây dựng nền văn hóa Việt Nam, giáo dục là bộ phận trọng yếu của cách mạng tư
tưởng - văn hóa. Cách mạng tư tưởng - văn hóa là sự biến đổi trước hết về bản chất
của tư tưởng và văn hóa nhằm xác lập hệ tư tưởng mới với đạo đức và lối sống mới,
xây dựng nền văn hóa mới trong toàn bộ tiến trình cách mạng xã hội chủ nghĩa do
Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Nội dung cơ bản của cách mạng xã hội chủ
nghĩa trên lĩnh vực tư tưởng văn hóa ở Việt Nam là giáo dục hệ tư tưởng của giai
cấp công nhân; nâng cao trình độ dân trí và đẩy mạnh sự nghiệp giáo dục, phát triển
khoa học, kỹ thuật, công nghệ; xây dựng nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân
tộc; xây dựng con người phát triển toàn diện; tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng
trong cách mạng tư tưởng - văn hóa.
Thực chất cuộc cách mạng tư tưởng - văn hóa là cuộc cách mạng về con

người. Hồ Chí Minh đã khẳng định rằng: “Muốn tiến lên chủ nghĩa xã hội phải có
con người xã hội chủ nghĩa, muốn có người xã hội chủ nghĩa, phải có tư tưởng xã
hội chủ nghĩa...” [50, tr.11]. Luận điểm này đã được Hồ Chí Minh nhắc lại nhiều lần
và trở thành một chiến lược của Đảng ta về xây dựng chủ nghĩa xã hội và về giáo
dục. Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, văn hóa là lĩnh vực ngang hàng với chính trị, kinh
tế, xã hội, có mối quan hệ mật thiết với chính trị, kinh tế, xã hội. Chính trị, xã hội có
được giải phóng thì văn hóa mới được giải phóng. Chính trị giải phóng mở đường
cho văn hóa phát triển. Xây dựng kinh tế để tạo điều kiện cho việc xây dựng và phát
triển văn hóa. Kinh tế thuộc cơ sở hạ tầng, văn hóa thuộc kiến trúc thượng tầng, cơ
sở hạ tầng của xã hội có kiến thiết thì văn hóa mới kiến thiết được và có đủ điều
kiện để phát triển. Văn hóa không thể đứng ngoài mà phải đứng ở trong kinh tế và
chính trị. Văn hóa phải phục vụ nhiệm vụ chính trị, thúc đẩy xây dựng và phát triển
kinh tế. Tuy nhiên, lĩnh vực tư tưởng - văn hóa lại có những đặc thù riêng, có những
đòi hỏi riêng, ở đây không chỉ có khoa học mà phải kết hợp khoa học với nghệ
thuật, không thể dùng sức mạnh quyền lực mà phải thông qua còn đường giáo dục.

17


Khẳng định giáo dục là một bộ phận trọng yếu của cách mạng tư tưởng - văn
hóa bởi vì chỉ có thông qua giáo dục mới có thể làm thay đổi tư tưởng, lối sống và
hình thành những nét văn hóa của con người. Giáo dục đóng vai trò chủ yếu trong
việc giúp con người xóa bỏ tán dư của hệ tư tưởng cũ, lỗi thời, lạc hậu, xây dựng hệ
tư tưởng mới, con người mới. Cuộc đấu tranh giữa hệ tư tưởng cũ, lỗi thời, lạc hậu
với hệ tư tưởng mới cách mạng, khoa học là cuộc đấu tranh gay go, quyết liệt, lâu
dài, không thể dùng sức mạnh vũ trang để cưỡng bức mà phải thông qua con đường
giáo dục, nâng cao dân trí để mỗi người dân phải tự ý thức, tự thay đổi tư duy của
chính mình.
Giáo dục là con đường chủ yếu để tác động vào nhận thức, tư tưởng, làm đổi
mới tư duy. Giáo dục là con đường chủ yếu để truyền thụ những luận điểm cơ bản

của chủ nghĩa Mác - Lênin đến các thế hệ người dân. Trong thực tiễn cách mạng,
Hồ Chí Minh đã truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin vào Việt Nam thông qua con
đường giáo dục với nhiều hình thức tổ chức khác nhau. Giáo dục không chỉ trang bị
kiến thức mà còn giúp con người nâng cao nhận thức, hướng dẫn cách thức chuyển
hóa kiến thức hiểu biết về chủ nghĩa Mác - Lênin thành niềm tin, thành quan điểm
và thái độ. Đó là cơ sở nền tảng tri thức, phương pháp luận cho sự hình thành con
người mới, tư tưởng mới.
1.1.2.2. Tạo nguồn nhân lực để xây dựng chủ nghĩa xã hội
Giáo dục giữ vai trò quyết định trong việc đào tạo nguồn nhân lực, đáp ứng
nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội. Hồ Chí Minh khẳng định: “Không có giáo dục,
không có cán bộ thì cũng không nói gì đến kinh tế, văn hóa” [48,tr.345]. Khi miền
Bắc tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội, Hồ Chí Minh đã chỉ ra một vấn đề có tính
quy luật là: “Muốn có chủ nghĩa xã hội phải có con người xã hội chủ nghĩa”. Con
người là nhân tố quyết định của mọi sự phát triển kinh tế - xã hội. Trình độ phát
triển kinh tế - xã hội của đất nước phụ thuộc vào trình độ được giáo dục, đào tạo của
con người. Giáo dục là con đường chủ yếu để hình thành nên các phẩm chất đạo
đức, nhân cách của con người theo chuẩn mực giá trị của xã hội. Giáo dục mang lại
cho con người tri thức, sự hiểu biết, trí thông minh. Giáo dục rèn luyện cho con

18


người kỹ năng, kỹ xảo hoạt động nghề nghiệp. Nhờ có giáo dục mà con người có
được các phẩm chất và năng lực cần thiết để trở thành nguồn nhân lực chất lượng
cao cho sự phát triển kinh tế - xã hội.
Hồ Chí Minh chỉ ra rằng việc cần thiết khi cả nước bắt tay vào công cuộc
khôi phục kinh tế, phát triển văn hóa, xã hội là: “phải đào tạo cán bộ, cán bộ phải có
văn hóa làm gốc. Nếu ta muốn dùng máy móc mà máy móc ngày một thêm tinh
xảo, thì công nhân cũng phải có trình độ kỹ thuật rất cao không kém gì kỹ sư, phải
biết tính toán nhiều” và ngày nay, “nông dân có ruộng đất, lại có tổ đổi công cho

nên nông dân phải biết văn hóa, như có quyển sổ, phải ghi tổ có mấy người, không
biết chữ thì không làm được, rồi phải biết chia công chấm điểm, lại càng phải có
văn hóa” [48, tr.388]. Người khuyên mọi người có nhiệm vụ giúp đồng bào chưa
biết chữ dạy cho biết chữ rồi học thêm. Cho nên chúng ta “phải học thêm nữa để
dạy nữa. Dân tộc tiến lên, cán bộ cũng phải tiến lên. Cán bộ phải tiền trước để đưa
dân tộc tiến lên mãi” [48, tr.371], phải đào tạo ra những “thầy thuốc để săn sóc sức
khỏe cho nhân dân; cần có thầy giáo để dạy văn hóa và đào tạo cán bộ; cần có kỹ sư
để xây dựng kinh tế,... Vì lẽ đó, trong sự nghiệp cách mạng, trong sự nghiệp xây
dựng xã hội chủ nghĩa, lao động trí óc có một vai trò quan trọng và vẻ vang” [48,
tr.376].
Hồ Chí Minh đã gắn tương lai của dân tộc với phát triển giáo dục: “Non sông
Việt Nam có trở nên tươi đẹp hay không, dân tộc Việt Nam có bước tới đài vinh
quang để sánh vai với các cường quốc năm châu được hay không, chính là nhờ một
phần lớn ở công học tập của các em” [42, tr.35]. Từ đó, Hồ Chí Minh khuyên các
nhà giáo, cán bộ “phải tiến bộ cho kịp thời đại thì mới làm được nhiệm vụ. Chớ tự
túc, tự mãn, cho là giỏi rồi thì dừng lại...phải cố gắng học tập để cải tạo mình, cải
tạo tư tưởng của mình, cải tạo con em và giúp vào việc cải tạo xã hội” [50, tr.266].
Với tư tưởng này, giáo dục đã thực sự không chỉ góp phần nâng cao dân chí mà còn
góp phần tạo nguồn nhân lực chất lượng đáp ứng cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc.

19


×