Tải bản đầy đủ (.doc) (26 trang)

TIỂU LUẬN NHỮNG đặc TRƯNG KINH tế của QUÁ TRÌNH GIÁO dục ý NGHĨA TRONG sự NGHIỆP GIÁO dục đào tạo xây DỰNG QUÂN đội TA HIỆN NAY ở các NHÀ TRƯỜNG QUÂN sự

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (152.21 KB, 26 trang )

NHỮNG ĐẶC TRƯNG KINH TẾ CỦA QUÁ TRÌNH GIÁO DỤC. Ý NGHĨA
TRONG SỰ NGHIỆP GIÁO DỤC- ĐÀO TẠO XÂY DỰNG QUÂN ĐỘI TA HIỆN
NAY Ở CÁC NHÀ TRƯỜNG QUÂN SỰ.

MỞ ĐẦU

Để tồn tại và phát triển con người luôn luôn truyền thụ cho nhau những
hiểu biết, năng lực và phẩm chất cần thiết cho cuộc sống. Việc truyền thụ này
được thực hiện thơng qua hoạt động giáo dục, nhờ đó con người có thể tiếp
thu được những kinh nghiệm xã hội, những giá trị văn hoá và tinh thần của
dân tộc và của nhân loại, góp phần phát triển kinh tế- xã hội.
Cịn mục đích phát triển kinh tế của bất kỳ một quốc gia, xã hội nào
cũng là nâng cao chất lượng cuộc sống của con người. Theo tổ chức Chương
trình phát triển của Liên Hiệp Quốc (UNDP), chất lượng cuộc sống con người
được đánh giá trước hết ở các tiêu chí thu nhập, giáo dục, sức khoẻ và dinh
dưỡng, mức nghèo khổ, tình trạng mơi trường, sự bình đẳng, mức độ tự do cá
nhân và sự phong phú về văn hoá. Như vậy, giáo dục là một trong những mục
đích phát triển kinh tế. Phát triển kinh tế để được ấm no hơn, để có điều kiện
học hành tốt hơn, để có cuộc sống văn hố phong phú hơn.
Ngày nay, trong xã hội hiện đại giáo dục giữ vai trị quan trọng, có tính
quyết định đến sự phồn vinh của một quốc gia, dân tộc. Nhiều nước, trong đó
có Việt Nam ta coi giáo dục- đào tạo là quốc sách hàng đầu. Bởi giáo dục
không chỉ là mục tiêu, mà còn là động lực của sự phát triển kinh tế. Trong
thời đại ngày nay, nguồn gốc của sự giàu có khơng chỉ là tài ngun thiên
nhiên, vốn, kỹ thuật mà yếu tố ngày càng quan trọng và quyết định là nguồn
lực con người, là tiềm năng sáng tạo của con người. Nhờ có giáo dục mà mỗi
con người có năng lực trí tuệ và được sử dụng trong suốt cuộc đời lập nghiệp
của mỗi cá nhân. Nói rộng ra, quốc gia nào có khối lượng tri thức hàm chứa
trong lực lượng lao động của mình nhiều hơn, cao hơn thì quốc gia đó có cơ



hội lớn trong việc dẫn đầu phát triển kinh tế. Đối với nước ta, đầu tư cho giáo
dục- đào tạo là đầu tư cho phát triển. Phát triển sự nghiệp giáo dục, tăng
cường hiệu lực quản lý giáo dục- đào tạo nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân
lực, bồi dưỡng nhân tài phục vụ cơng cuộc cơng nghiệp hố, hiện đại hoá đất
nước. Đáp ứng yêu cầu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, vì mục tiêu dân giàu,
nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Như vậy, giữa giáo dục và kinh tế có mối quan hệ mật thiết tác động
qua lại tương hỗ lẫn nhau. Hiện nay giáo dục đang thu hút và tiêu dùng một
nguồn lực rất lớn của xã hội đó là con người, cơ sở vật chất và tài chính…Để
sử dụng có hiệu quả các nguồn lực trên, đòi hỏi chúng ta phải nắm vững
những đặc trưng kinh tế của các nguồn lực này, để trên cơ sở đó chúng ta xây
dựng chiến lược, kế hoạch hợp lý đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp giáo dụcđào tạo trong công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Trước yêu cầu xây dựng Quân đội ta ngày càng cách mạng, chính quy,
tinh nhuệ, từng bước hiện đại. Các nhà trường Quân đội là một bộ phận trong
hệ thống giáo dục quốc dân trong những năm qua đã đổi mới công tác giáo
dục đào tạo, nhằm nâng cao chất lượng giáo dục đào tạo, gắn đào tạo với
nghiên cứu khoa học, gắn nhà trường với đơn vị và đã đào tạo được một đội
ngũ cán bộ có học vấn tương ứng với chức vụ, đội ngũ nhân viên chun mơn
kỹ thuật có tay nghề thực hành cao đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.
Để nâng cao hiệu quả chất lượng giáo dục đào tạo trong các nhà trường
quân đội, đòi hỏi các nhà trường hiện nay phải tính tốn một cách khoa học
hợp lý để sử dụng các nguồn lực giáo dục có hiệu quả. Vậy, những đặc trưng
kinh tế nào tác động ảnh hưởng có hiệu quả đến chất lượng giáo dục của các
nhà trường quân đội; các giải pháp giải quyết vấn đề này như thế nào và nó có
ý nghĩa gì trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay. Những vấn
đề trên sẽ được làm rõ trong khuôn khổ bài tiểu luận này.


NỘI DUNG


1.Những đặc trưng kinh tế của quá trình giáo dục trong nhà trường quân
sự.
Hệ thống các nhà trường quân đội là một bộ phận trong hệ thống giáo
dục quốc dân, có chức năng, nhiệm vụ đặc biệt quan trọng trong việc đào tạo,
bồi dưỡng đội ngũ cán bộ- sỹ quan. Cho nên, các nhà trường quân sự đều phải
tuân thủ theo những quy định chung của Luật Giáo dục, tuy nhiên do đặc thù
của mình nên các nhà trường qn sự có những nét riêng trong q trình giáo
dục- đào tạo. Bởi, nó xuất phát từ đặc điểm, tính chất của nhà trường quân sự
được duy trì và tổ chức hết sức chặt chẽ cả về kế hoạch cho đến tổ chức thực
hiện; cả về quy chế cho đến cơng tác quản lý giáo dục- đào tạo. Tính chất chặt
chẽ cịn được biểu hiện ở việc duy trì kỷ luật quân đội, nghiêm minh cả ở phía
nhà trường và của cả học viên; sự nghiêm minh này còn được thông qua hệ
thống các tổ chức Đảng, tổ chức chỉ huy, hội đồng quân nhân, với cơ cấu quản
lý hệ, lớp, tổ hay tiểu đội, trung đội, đại đội, tiểu đoàn với một đội ngũ cán bộ
quản lý chuyên trách hay kiêm nhiệm…Với tính đặc thù trên trong q trình
giáo dục- đào tạo các nhà trường quân sự luôn chịu sự chi phối, tác động của
các yếu tố, các lĩnh vực, các q trình xã hội như: kinh tế, chính trị, văn hố,
xã hội, khoa học, cơng nghệ…Thể hiện, trình độ phát triển, tính chất, điều
kiện kinh tế- xã hội quy định trình độ, tính chất, hiệu quả giáo dục ở nhà
trường quân sự. Mục đích phát triển xã hội- kinh tế quy định mục đích giáo
dục, ngược lại mục đích giáo dục phải phục vụ cho chiến lược phát triển xã
hội- kinh tế, phát triển con người. Chính vì vậy mà quá trình giáo dục- đào tạo
một mặt phản ánh trình độ phát triển cả chế độ kinh tế- xã hội, mặt khác tác
động tích cực trở lại đối với xã hội, góp phần nâng cao dân trí, đào tạo nhân
lực và bồi dưỡng nhân tài cho đất nước, cho sự nghiệp xây dựng Quân đội
nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại. Vậy, những


đặc trưng kinh tế nào đã tác động đến quá trình giáo dục trong các nhà trường

quân sự?
1.1. Đội ngũ người học (học viên).
Quá trình giáo dục- đào tạo trong nhà trường quân sự là quá trình
truyền thụ và lĩnh hội các kinh nghiệm xã hội, kinh nghiệm hoạt động quân
sự. Do vậy, chất lượng và hiệu quả của hoạt động truyền thụ và hoạt động lĩnh
hội cũng chính là chất lượng hiệu quả của quá trình đào tạo của nhà trường.
Thực chất truyền thụ là hoạt động của nhà giáo dục (giáo viên, giảng viên)
nhằm trang bị cho người học (học viên) các kiến thức, kỹ năng và thái độ.
Chất lượng hoạt động truyền thụ phụ thuộc vào khả năng, tài nghệ chun
mơn, sự hiểu biết, trình độ tổ chức phương pháp truyền đạt của người giáo
viên. Còn lĩnh hội là hoạt động tiếp thu của học viên, biến những gì mà mình
tiếp nhận được trong nhà trường thành “tài sản”, năng lực của cá nhân. Chất
lượng của hoạt động lĩnh hội phụ thuộc vào khả năng nhận thức của mỗi
người, do vậy người học (học viên) phải thật sự là chủ thể của q trình sư
phạm, khơng ai có thể thay thế được chính họ trong q trình chiếm lĩnh các
kiến thức, trau dồi các phẩm chất nhân cách cần thiết. Bởi học viên trong nhà
trường quân sự, là những học viên đã trưởng thành về mặt nhân cách, một bộ
phận đã có kinh nghiệm trong thực tiễn quản lý, lãnh đạo, chỉ huy, giảng dạy
ở các đơn vị trong toàn quân. Khi về các nhà trường học họ là học viên vừa là
người học, vừa là người tập dượt nghiên cứu khoa học, đồng thời là người cán
bộ quân đội tương lai đảm nhiệm một chức vụ, chức danh nhất định sau này
(chỉ huy, lãnh đạo, giáo viên, kỹ sư quân sự…). Cho nên, học viên trong nhà
trường quân sự là nhân tố chủ yếu, là vốn lao động dự trữ của xã hội và Quân
đội. Được Quân đội giao cho nhà trường đào tạo họ trở thành cán bộ quân đội,
đội ngũ nhân viên chuyên môn, kỹ thuật cao đáp ứng yêu cầu xây dựng quân
đội ngày càng cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại. Trong
quá trình học tập các học viên phải hoàn thành nhiệm vụ học tập, rèn luyện


theo chương trình đào tạo của nhà trường; thực hiện tốt chức trách của người

học viên, chấp hành nghiêm quy chế đào tạo, nội quy của nhà trường, rèn
luyện phẩm chất chính trị, đạo đức cách mạng, tác phong chính quy, kỷ luật
quân đội; tôn trọng giáo viên, bảo vệ và sử dụng có hiệu quả, an tồn mọi cơ
sở vật chất, trang thiết bị phục vụ giáo dục- đào tạo, nghiên cứu khoa học và
phục tùng sự phân công công tác sau khi tốt nghiệp ra trường.
Biểu hiện những đặc trưng kinh tế đối với người học (học viên) ở các
nhà trường quân sự :
Thực tế trong những năm qua các nhà trường quân sự đã thực hiện
nhiều biện pháp tích cực và linh hoạt nhằm tạo nguồn đào tạo sỹ quan trong
quân nhân, thiếu sinh quân dân tộc ít người, thanh niên học sinh, nguồn ở phía
Nam…; chất lượng và số lượng người đăng ký dự thi và được tuyển chọn tốt
hơn, đông hơn trước. Nguồn đào tạo cán bộ trung cấp, cao cấp đã từng bước
được gắn với quy hoạch sử dụng cán bộ, bảo đảm chất lượng nhất là chất
lượng chính trị và đã qua chiến đấu. Đồng thời đã cố gắng tạo nguồn để đào
tạo cán bộ sau đại học. Đã đào tạo, bồi dưỡng được một số lượng lớn cán bộ
và nhân viên chuyên môn, kỹ thuật các loại, đáp ứng được một phần quan
trọng yêu cầu về số lượng và từng bước nâng cao chất lượng. Phần lớn sỹ
quan tốt nghiệp ra trường đã đảm nhiệm được chức vụ ban đầu, có khả năng
phát triển lên chức vụ tiếp theo. Có bản lĩnh chính trị vững vàng trước tình
hình phức tạp, có phẩm chất tốt, có trình độ kiến thức tương đối cơ bản và có
năng lực hồn thành các nhiệm vụ được giao. Nghị quyết 93/ ĐUQSTW chỉ
rõ: “Từ năm 1988 đến nay đã nâng tỷ lệ được đào tạo cơ bản trong đội ngũ
cán bộ từ 43,3% lên 59,4%, đưa tỷ lệ đã qua đào tạo hệ cơ bản tại các học
viện và trường trung cao từ 5,3% lên 10,3%, đưa số có trình độ đại học từ
13,1% lên 15,9%, giữ được tỷ lệ cán bộ đã qua chiến đấu 35,3%”. Chẳng hạn,
Học viện Chính trị quân sự từ khi được hợp nhất với Trường sỹ quan Chính
trị quân sự (1995) lưu lượng học viên đào tạo đại học hàng năm tăng lên, từ


năm học 1996-1997 đến nay thường xuyên duy trì ở mức độ cao (khoảng

2500-3000 học viên). Theo báo cáo, Tổng kết 10 năm thực hiện Nghị quyết
93/ ĐUQSTW của Học viện Chính trị qn sự năm 2004 thì kết quả và chất
lượng đào tạo, tính từ năm 1994 đến tháng 10/2004, Học viện đã đào tạo
được: “6275 cán bộ chính trị các cấp có trình độ đại học, gồm: 2016 cán bộ
chính trị cấp phân đội, 3509 cán bộ chính trị cấp trung đoàn…Trong giai đoạn
này, Học viện cũng đã đào tạo được 101 cán bộ chính trị và các giảng viên
KHXH- NV cho Quân đội nhân dân cách mạng Lào” 1. Tuy nhiên so với yêu
cầu nhiệm vụ trong tình mới, cơng tác đào tạo cán bộ, đội ngũ nhân viên,
chuyên môn kỹ thuật ở một số đơn vị chưa coi trọng đúng mức việc phát hiện
và bồi dưỡng nhân tài, tài năng; chất lượng và hiệu quả đào tạo, bồi dưỡng
cán bộ còn thấp, kiến thức cơ bản chưa sâu,chưa vững chắc,hiểu biết về chủ
nghĩa Mác- Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, về khoa học xã hội, nhân văn và
về nghệ thuật quân sự còn hạn chế, khả năng tư duy, năng lực, hành động độc
lập sáng tạo và quản lý bộ đội còn yếu. Đội ngũ nhân viên chuyên môn, kỹ
thuật thiếu đồng bộ, tay nghề còn hạn chế, thiếu thợ giỏi và kỹ thuật viên vũ
khí, đạn.
Tóm lại, đội ngũ người học (học viên) là nhân tố chủ yếu của nhà
trường, là vốn lao động dự trữ của xã hội và Quân đội. Do vậy, nhà trường
quân sự phải trang bị, cung cấp cho người học (học viên) hệ thống các kiến
thức hiện đại, bao gồm trong đó các kiến thức khoa học cơ bản, cơ sở chuyên
ngành, các kiến thức của khoa học tự nhiên, xã hội, quản lý, quân sự…Bên
cạnh đó phải trang bị cho học viên hệ thống các kỹ xảo, kỹ năng tương ứng
với chức trách nhiệm vụ trong tương lai, hệ thống các kỹ năng hoạt động sáng
tạo trong điều kiện hoạt động quân sự. Đồng thời giáo dục người học hình
thành thế giới quan khoa học, lý tưởng, niềm tin và phẩm chất đạo đức cách
1

Xem: Báo cáo Tổng kết 10 năm thực hiện Nghị quyết 93/ ĐUQSTW của Học viện Chính
trị quân sự, năm 2004.



mạng của người cán bộ quân đội. Hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao trong
mọi tình huống. Góp phần xây dựng quân đội ngày càng vững mạnh toàn
diện.
1.2. Đội ngũ giáo viên.
Đội ngũ giáo viên là lực lượng nòng cốt trong nhà trường, là một bộ
phận của đội ngũ lao động trong nền kinh tế, lao động của giáo viên có những
đặc thù riêng, do đặc thù của nghề sư phạm quy định. Điều này được thể hiện
rõ nét trong điều 15, Luật Giáo dục năm 2005: “Nhà giáo giữ vai trò quyết
định trong việc bảo đảm chất lượng giáo dục” 2. Giáo viên cịn là một tài sản
trí tuệ lớn, góp phần tạo nên những thành cơng của nền giáo dục nước nhà,
tạo nền móng vững chắc cho giáo dục Việt Nam ở thế kỷ XXI. Còn đội ngũ
giáo viên trong các nhà trường quân sự có một vai trò rất quan trọng, là những
người trực tiếp tiến hành các hoạt động sư phạm quân sự. Trong quá trình
giáo dục, ngồi vai trị là người truyền thụ các kiến thức khoa học, rèn luyện
hình thành các kỹ năng, kỹ xảo nghề nghiệp cho người học, còn là người quản
lý hoạt động của người học trên lớp học, giáo dục cho người học hình thành
nhân cách của người sỹ quan. Hay nói cách khác, người giáo viên trên lớp học
phải đảm nhiệm cả hai vai: người thầy và người chỉ huy. Hai vai này hồ
quyện vào nhau song cũng có lúc có tính riêng rẽ theo từng hoạt động của quá
trình dạy học. Đối tượng tác động của người giáo viên là những học viên
thông qua hệ thống kiến thức và sự phát triển trí tuệ và nhân cách của người
học (học viên). Trước khi lên lớp giáo viên nghiên cứu các tài liệu, nắm vững
và gia công tài liệu đó theo chiến thuật sư phạm, bằng phương pháp giảng dạy
để chuyển tải nội dung, tác động đến quy luật tâm lý nhận thức của học viên,
làm cho học viên phát triển theo mục đích giáo dục. Phương thức tác động
của giáo viên là thông qua con đường dạy học và giáo dục nhân cách đó là
2

Luật Giáo dục và Nghị định quy định chi tiết hướng dẫn thi hành, Nxb Lao động- xã

hội, H.2006, Tr.14.


con đường ngắn nhất và có hiệu quả nhất giúp cho học viên tránh được những
vấp váp trong cuộc sống. Con người được đào tạo chính quy bao giờ cũng
thành đạt hơn những người không được học tập chu đáo. Thực tế đội ngũ nhà
giáo quân đội bước đầu được tiêu chuẩn hoá, từng bước được củng cố, đào
tạo bồi dưỡng nâng cao kiến thức, trình độ sư phạm, phát triển mạnh cả về số
lượng, cơ cấu, chất lượng. Thực hiện tốt vai trò giảng dạy trang bị kiến thức
cơ bản đảm bảo cho đội ngũ sỹ quan ra trường có trình độ học vấn tương ứng.
Cụ thể:
Về số lượng, hệ thống nhà trường quân đội hiện nay gồm 10 học viện, 9
trường sỹ quan, 12 trường quân sự quân khu, quân đoàn, 2 trường cao đẳng,
10 trường trung cấp kỹ thuật. Trong những năm qua từng bước được kiện toàn
về tổ chức biên chế, đội ngũ giáo viên được sắp xếp tương đối đầy đủ đáp ứng
yêu cầu vừa tăng về quy mô, vừa đáp ứng nhu cầu học tập của cán bộ, đảm
bảo tính kế thừa, tính hệ thống trong đào tạo, từng bước hoà nhập với hệ
thống giáo dục quốc dân, tham gia đào tạo phục vụ cho cơng cuộc cơng
nghiệp hố, hiện đại hố đất nước. Theo biên chế đội ngũ nhà giáo là 7115,
hiện có 6720, thừa 573, thiếu 1178. Trong đó, khối học viện biên chế là 3627,
hiện có 3153, thừa 123, thiếu 594. Khối trường sỹ quan, biên chế 1542, hiện
có 1413, thừa 117, thiếu 246. Khối trường cao đẳng, biên chế là 339, hiện có
283, thừa 4, thiếu 60. Khối trường quân khu, qn đồn, biên chế 807, hiện có
908, thừa 271, thiếu 79. Khối trường THCN, biên chế là 1106, hiện có 962,
thừa 58, thiếu 194. Như vậy, so với biên chế đã được xác định, số lượng giáo
viên các học viện, trường vừa thừa, vừa thiếu, có bộ mơn thừa, có bộ mơn
thiếu song khơng thể chuyển đổi cho nhau.
Về cơ cấu đội ngũ, cơ bản cơ cấu đội ngũ nhà giáo các học viện, trường
có cơ cấu về ngành, chuyên ngành, cơ cấu trình độ học vấn, cơ cấu về độ tuổi,
tổ chức các bộ môn, các khoa theo các lĩnh vực kiến thức đáp ứng được yêu

cầu giảng dạy (khối học viện, trường sỹ quan: giáo viên quân sự 39,01%; giáo


viên KHXH&NV 16,48%; giáo viên hậu cần 3,31%; giáo viên ngành y
5,85%; giáo viên kỹ thuật 21,32%; giáo viên khoa học cơ bản 14,03%). Tuy
nhiên, hiện nay số giảng viên có trình độ học vấn cao GS, PGS, TS ở khối các
trường sỹ quan đang cịn rất ít (có 02 PGS, tỉ lệ giáo viên có trình độ học vấn
tiến sỹ mới đạt 0,64%). Số nhà giáo có trình độ GS, PGS, TS, chuyên gia đầu
ngành đã ít lại ở độ tuổi quá cao, tuổi bình quân là 55,6 tuổi, đây là một hẫng
hụt lớn trong đội ngũ nhà giáo toàn quân, cần phải khắc phục trong thời gian
tới.
Về chất lượng, những năm qua, đội ngũ nhà giáo các học viện, trường
quân đội đã phát huy tinh thần trách nhiệm cao, hoàn thành tốt nhiệm vụ
giảng dạy và nghiên cứu khoa học, chất lượng giáo dục đào tạo có bước
chuyển biến tích cực. Nhìn chung, đội ngũ nhà giáo có bản lĩnh chính trị vững
vàng, tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, với Đảng, với nhân dân; yên tâm xây
dựng quân đội, yêu ngành, yêu nghề, có tâm huyết với sự nghiệp giáo dục đào
tạo, trước sự biến động của tình hình thế giới và trong nước khơng giao động
về lập trường chính trị tư tưởng, giữ vững định hướng chính trị trong giảng
dạy và nghiên cức khoa học. Phẩm chất đạo đức trong sáng, lối sống lành
mạnh, cần cù, giản dị, luôn giữ tư cách nhà giáo, giải quyết đúng mối quan hệ
trong quá trình dạy học, trong sáng vơ tư khơng vụ lợi, khơng bị thối hố
biến chất trước sự tác động của mặt trái của cơ chế kinh tế thị trường đang có
xu thế thâm nhập vào lĩnh vực giáo dục đào tạo. Trình độ học vấn, trình độ
đào tạo theo chức vụ, kinh nghiệm lãnh đạo chỉ huy thực tế đơn vị, trình độ
nghiệp vụ sư phạm, ngoại ngữ, tin học của đội ngũ nhà giáo từng bước được
nâng cao theo yêu cầu chuẩn hoá của Nhà nước và Bộ Quốc phịng.
Về trình độ học vấn, hiện nay đội ngũ nhà giáo ngày càng được đào tạo
cơ bản có trình độ học vấn cao đáp ứng yêu cầu giảng dạy ở các bộ môn, đảm
nhiệm ở các bậc học khác nhau. Cụ thể, trình độ học vấn đại học, sau đại học

là 97,96%, riêng sau đại học là 41,26%, thạc sỹ 31,34%, tiến sỹ 9,92%. Số


nhà giáo có trình độ GS là 17, PGS 129. Khối học viện, đại học và sau đại học
là 99,43%, trong đó SĐH 48,71%, thạc sỹ 33,49%, tiến sỹ 15,22%. Khối
trường sỹ quan, đại học và SĐH 95,75%, trong đó SĐH 18,46%, thạc sỹ
17,82%, tiến sỹ 0,64%. Như vậy, về cơ bản trình độ học vấn của đội ngũ giáo
viên bước đầu đáp ứng được yêu cầu giảng dạy các bậc học đang đào tạo
trong quân đội. Tuy nhiên, trình độ học vấn của đội ngũ nhà giáo các học viện
không đều; một số học viện, trường sỹ quan đào tạo trình độ đại học, tỉ lệ nhà
giáo có trình độ SĐH, đặc biệt là trình độ tiến sỹ, GS, PGS còn rất thấp, nhiều
học viện trường sỹ quan chưa có PGS, tiến sỹ, đây là vấn dề khó khăn cần
phải khắc phục trong thời gian tới mới theo kịp các trường đại học trong hệ
thống giáo dục quốc dân.
Về trình độ sư phạm, các học viện, trường quân đội đã tích cực đào tạo,
bồi dưỡng nhà giáo về trình độ sư phạm với nhiều hình thức, trình độ khác
nhau vừa theo quy định của Nhà nước vừa có tính đặc thù của nhà giáo quân
đội. Hiện nay, đội ngũ nhà giáo quân đội đã được đào tạo, bòi dưỡng nghiệp
vụ sư phạm đạt 92,32%. Trong đó, khối học viện 99,71%; khối các trường sỹ
quan 98,44%; khối trường cao đẳng 67,49%... Tuy nhiên, cũng như quy trình
xây dựng đội ngũ giáo viên của các trường trong hệ thống giáo dục quốc dân,
quân đội chưa có ngành đào tạo giáo viên ở trình độ đại học, chưa có các khoa
sư phạm, chương trình đào tạo sư phạm cho đội ngũ giáo viên chưa được
chuẩn hoá nên chưa đáp ứng yêu cầu trình độ sư phạm cho các nhà giáo quân
đội hiện nay.
Về trình độ đào tạo theo chức vụ, đây là tiêu chí đánh giá chất lượng
đội ngũ nhà giáo mang tính đặc thù trong quân đội. Để giảng dạy trong
chương trình đào tạo sỹ quan cấp phân đội cũng như cấp cao hơn, đòi hỏi
người giáo viên phải qua đào tạo về chỉ huy ở trình độ bằng hoặc trên cấp đào
tạo. Đây là một tiêu chí rất khó khăn trong thực hiện, đặc biệt với các học

viện đào tạo về chỉ huy cấp cao như: Học viện Quốc phòng, Học viện Lục


quân. Trình độ đào tạo về chức vụ của đội ngũ giáo viên hiện nay: cấp f6,99%; cấp trung đoàn-31,33%; cấp phân đội- 35,44%.
Về kinh nghiệm lãnh đạo chỉ huy các cấp, vận dụng kinh nghiệm thực
tiễn vào trong quá trình huấn luyện là một u cầu cao có tính đặc thù trong
huấn luyện của các nhà trường quân đội; có vận dụng các kinh nghiệm thực
tiễn vào bài giảng thì chất lượng huấn luyện mới cao. Để làm dược điều đó,
cán bộ giảng dạy phải trải qua hoạt động thực tiễn lãnh đạo chỉ huy ở đơn vị
cơ sở, thơng qua hoạt động mà tích luỹ thành kinh nghiệm. Vấn đề kinh
nghiệm lãnh đạo, chỉ huy tham mưu là hết sức quan trọng. Hiện nay, số giáo
viên đã trải qua các cương vị lãnh đạo, chỉ huy đơn vị đạt tỉ lệ: cấp f 0,025%,
cấp e 11,13%, cấp phân đội 37,4%.
Về trình độ tin học, ngoại ngữ, thực tế chỉ rõ trong những năm qua
trình độ tin học, ngoại ngữ của đội ngũ nhà giáo được nâng lên, song so với
yêu cầu thì vẫn chưa đáp ứng được. Thể hiện, sử dụng phương tiện dạy học
hiện đại còn lúng túng; trình độ ngoại ngữ chưa đủ để giao tiếp, đọc sách để
nghiên cứu tham khảo nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ theo chuyên
ngành giảng dạy.
Về kinh nghiệm chiến đấu, vận dụng kinh nghiệm chiến đấu vào huấn
luyện trong nhà trường là nét độc đáo của huấn luyện quân sự . Hiện nay số
nhà giáo trong các học viện, trường quân đội tuổi càng cao và ít đi, tất cả chỉ
còn 1559 nhà giáo đã trải qua chiến đấu, chiếm 23,19%. Cụ thể, khối học viện
còn 903 nhà giáo, chiếm 28,03%. Khối trường sỹ quan còn 189 nhà giáo,
chiếm 13,37%.
Tuy nhiên, qua thực tế kiểm nghiệm đội ngũ nhà giáo ở các nhà trường
quân đội còn bộc lộ những tồn tại:
Đội ngũ nhà giáo vẫn nằm trong tình trạng thiếu về số lượng, chất lượng
còn nhiều hạn chế về cơ cấu trình độ học vấn, trình độ nghề, độ tuổi; mặc dù



đã từng bước được khắc phục song do tăng nhanh về quy mô, yêu cầu nâng
cao chất lượng đào tạo nên vẫn còn mất cân đối.
Còn nhiều nhà giáo chưa được đào tạo chuyên ngành một cách cơ bản,
số giảng viên, giáo viên được đào tạo về sư phạm còn ít, trình độ tin học,
ngoại ngữ yếu, kiến thức chưa toàn diện, đa số chưa qua chiến đấu, số đạt
chuẩn trình độ thấp, phần đơng số GS, PGS cao tuổi, lực lượng cán bộ khoa
học kế tiếp mỏng.
Trong thực hành giảng dạy, khả năng vận dụng các phương pháp mới
còn hạn chế, số nhà giáo sử dụng trang thiết bị dạy học hiện đại chưa nhiều.
Do đặc điểm đào tạo của các nhà trường quan đội những năm qua nên đội ngũ
nhà giáo nhìn chung vào nghề muộn, tuổi đời cao nhưng thâm niên giảng dạy
ít nên chưa tích luỹ được nhiều kinh nghiệm.
Từ thực trạng về đội ngũ nhà giáo trên, để nâng cao chất lượng hiệu
quả giáo dục đào tạo, cần nắm vững những biểu hiện đặc trưng kinh tế sau:
Phối hợp tổng thể các biện pháp hành chính sư phạm, kích thích vật chất,
khích lệ tinh thần để tạo năng suất lao động cao của đội ngũ giáo viên. Đây là,
đặc trưng kinh tế giữ vai trò hết sức quan trọng trong việc nâng cao chất
lượng, hiệu quả giáo dục đào tạo, do vậy cần sử dụng tốt các biện pháp hành
chính sư phạm như: chuẩn hố tỷ lệ giáo viên trên học viên, làm sao giảm tỷ
lệ hiện nay từ 1/30 xuống còn 1/20 vào năm 2010; chuẩn hố giờ cơng lao
động, ngày cơng lao động và định mức lao động sao cho phù hợp với thực
tiễn. Sử dụng các biện pháp kích thích về vật chất và tinh thần để nâng cao
năng suất và chất lượng lao động đội ngũ giáo viên. Thông qua việc đề nghị
khen thưởng kịp thời những giáo viên có thành tích trong cơng tác giảng dạy,
có như vậy mới khuyến khích giáo viên hăng say trong cơng việc và ngày
càng yêu ngành, yêu nghề hơn, hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao.
Định mức lao động sư phạm phù hợp cho đội ngũ giáo viên theo từng
cấp học, bậc học, ngành học: Trước hết phải lượng hoá một cách khoa học



công lao động của giáo viên, kể cả lao động sống và lao động quá khứ; cả lao
động hiện hữu và lao động vơ hình, để trên cơ sở đó bảo đảm tính cơng bằng
trong lao động sư phạm, có như vậy mới phát huy được năng suất lao động
của giáo viên, mới đảm bảo tái sản xuất sức lao động và đảm bảo hiệu quả
kinh tế khuyến khích giáo viên tăng hiệu quả lao động. Đồng thời phải tổ
chức giao việc, phân công công việc cho giáo viên thật sự khoa học, có kế
hoạch hợp lý có như vậy cơng việc giao cho giáo viên vừa có hiệu quả, kết
quả tạo điều kiện cho giáo viên hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao.
Trên cơ sở phát huy tính chủ động, sáng tạo của giáo viên, giáo dục, động
viên giáo viên thực hiện nghiêm túc pháp luật Nhà nước, quy chế, quy định
của ngành và của từng trường. Đồng thời bảo đảm tốt các chế độ chính sách,
chăm lo tốt đời sống vật chất, tinh thần cho giáo viên. Trả công (lương) lao
động cho giáo viên kịp thời, công bằng và chu đáo.
Bước vào thế kỷ XXI, chất lượng nguồn nhân lực giữ vai trò quyết định
trong việc phát huy nội lực, phát triển đất nước, hợp tác và cạnh tranh khi
nước ta hội nhập khu vực và quốc tế , là thành viên của tổ chức thương mại
thế giới (WTO), điều đó địi hỏi phải tiếp tục nâng cao dân trí. Để nâng cao
dân trí , địi hỏi chúng ta phải tiếp tục đào tạo, xây dựng đội ngũ giáo viên vừa
“hồng” vừa “chuyên”, đó là khâu đột phá có ý nghĩa quyết định, góp phần
triển khai thực hiện thắng lợi chiến lược phát triển giáo dục mà Đảng ta đã đề
ra. Đại hội lần thứ IX của Đảng chỉ rõ: “Phát triển đội ngũ giáo viên, coi trọng
chất lượng và đạo đức sư phạm, cải thiện chế độ đãi ngộ. Bảo đảm về cơ bản
đội ngũ giáo viên đạt chuẩn quốc gia và tỷ lệ giáo viên so với học sinh theo
yêu cầu của từng cấp học. Có cơ chế, chính sách bảo đảm đủ giáo viên cho
các vùng miền núi cao, hải đảo”3. Đối với các nhà trường quân đội, trên cơ sở
quy hoạch xây dựng hệ thống nhà trường, để kiện toàn, phát triển đội ngũ nhà
giáo quân đội đến năm 2010. Ngày 25/6/2005, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng đã
3


Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội lần thứ IX, Nxb CTQG, H.2001, Tr.204.


ký quyết dịnh số 85/QĐ-BQP về việc phê duyệt đề án “Kiện toàn, phát triển
đội ngũ nhà giáo quân đội đến năm 2010”. Đây là căn cứ pháp lý quan trọng,
phương hướng chiến lược để xây dựng đội ngũ nhà giáo quân đội, góp phần
nâng cao chất lượng đào tạo cán bộ, nhân viên chuyên môn kỹ thuật của các
nhà trường quân đội. Đề án chỉ rõ, mục tiêu chung là: “ Kiện toàn, phát triển
đội ngũ nhà giáo quân đội đủ về số lượng, hợp lý về cơ cấu và chuẩn hoá về
chất lượng, đáp ứng yêu cầu về quy mô, ngành nghề, cấp học, bậc học và chất
lượng giáo dục- đào tạo trong các nhà trường quân đội”. Về mục tiêu cụ thể:
về số lượng, phấn đấu bổ sung đủ 100% số lượng nhà giáo còn thiếu theo biên
chế mới (năm 2007 đủ số lượng, 2010 đủ 20% dự trữ) theo hướng hợp lý hoá
cơ cấu ngành nghề, cơ cấu trình độ, có dự trữ để đảm bảo quân số vừa giảng
dạy, nghiên cứu khoa học, vừa đi đào tạo bồi dưỡng, đi thực tế đơn vị; về
trình độ học vấn, phấn đấu tỷ lệ nhà giáo có trình độ SĐH của các học viện
đạt 60% trở lên, trong đó có 40% thạc sỹ, 20% tiến sỹ, các trường sỹ quan,
cao đẳng có 30- 40% trở lên có trình độ SĐH, trong đó có 25- 30% thạc sỹ, 510% tiến sỹ…
Để các mục tiêu đó được thực hiện có hiệu quả và nâng cao chất lượng
giáo dục đào tạo ở các nhà trường lên một bước cần thực hiện tốt một số giải
pháp về đặc trưng kinh tế sau:
Tiếp tục nâng cao năng suất lao động và chất lượng lao động của đội
ngũ giáo viên thông qua sử dụng tổng thể các biện pháp: Trước hết sử dụng có
hiệu quả các biện pháp về hành chính sư phạm, thơng qua việc chuẩn hố tỷ
lệ giáo viên trên học viên (1/20); chuẩn hố giờ cơng, ngày cơng, định mức
lao động phù hợp làm cho giáo viên có thời gian rỗi làm các cơng việc của gia
đình chăm sóc con cái. Đồng thời sử dụng các biện pháp kích tích về vật chất
và tinh thần để gây hứng thú cho giáo viên, làm cho giáo viên ngày càng yêu
ngành, yêu nghề hơn, dạy ngày tốt hơn góp phần nâng cao năng suất và chất
lượng lao động của đội ngũ giáo viên.



Xây dựng định mức lao động sư phạm phù hợp cho đội ngũ giáo viên
theo từng cấp học, ngành học, bậc học: Trên cơ sở lượng hoá một cách khoa
học công lao động của giáo viên kể cả lao động sống và lao động quá khứ, cả
lao động hiện hữu và lao động vơ hình. Để đảm bảo cho người giáo viên còn
tái sản xuất sức lao động, đảm bảo tính cơng bằng trong lao động sư phạm và
đảm bảo hiệu quả kinh tế khuyến khích người giáo viên tăng hiệu quả lao
động. Căn cứ vào chương trình, nội dung giáo dục đề ra xây dựng kế hoạch
phân công công việc, giao việc cho giáo viên một cách hợp lý, khoa học, để
tạo điều kiện cho giáo viên phát huy tinh thần trách nhiệm hoàn thành nhiệm
vụ được giao.
Tăng cường giáo dục quán triệt và tổ chức cho giáo viên thực hiện
nghiêm hiến pháp và pháp luật của Nhà nước, quy chế, quy định của ngành,
của trường, Luật Giáo dục. Trả công lao động cho giáo viên kịp thời, công
bằng. Bảo đảm tốt các chế độ chính sách, thường xuyên chăm lo đời sống vật
chất, tinh thần cho giáo viên. Nhất là có chính sách đãi ngộ đối với các nhà
giáo nhân dân, nhà giáo ưu tú, giáo sư, phó giáo sư, tiến sỹ; có chính sách thu
hút người tài, giỏi vào đội ngũ nhà giáo quân đội. Cải cách chế độ tiền lương,
phụ cấp bảo đảm cho giáo viên có mức thu nhập phù hợp với năng suất lao
động và trình độ của từng người để họ có thể dồn tâm lực vào trong nhiệm vụ
chính là giảng dạy và nghiên cứu khoa học mà không phải lo toan, xoay xở
cho đời sống quá nhiều, hoàn thành nhiệm vụ được giao.
Tóm lại, đội ngũ giáo viên là nhân tố quyết định chất lượng của giáo
dục và được xã hội tôn vinh. Xuất phát từ yêu cầu nâng cao chất lượng giáo
dục đào tạo đáp ứng nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình
mới, vấn đề xây dựng đội ngũ giáo viên hiện nay là có tính chiến lược và cấp
thiết. Để xây dựng đội ngũ giáo viên có đủ số lượng, cơ cấu hợp lý, có chất
lượng đạt chuẩn quốc gia và quy định của Bộ Quốc phòng đòi hỏi phải quản
lý chặt đội ngũ giáo viên, nắm vững trình độ mọi mặt của giáo viên, nhất là



chất lượng, hiệu quả hoạt động giảng dạy và nghiên cứu khoa học của đội ngũ
giáo viên. Đồng thời giúp chúng ta nắm vững những biểu hiện đặc trưng kinh
tế của đội ngũ giáo viên, để trên cơ sở đó đề ra các giải pháp hữu hiệu phát
huy được tính năng động sáng tạo của đội ngũ giáo viên trong việc góp phần
nâng cao chất lượng, hiệu quả giáo dục đào tạo của các nhà trường quân đội,
đáp ứng yêu cầu xây dựng quân đội nhân dân cách mạng, chính quy, tinh
nhuệ, từng bước hiện đại trong giai đoạn cách mạng mới.
1.3. Cơ sở vật chất sư phạm của nhà trường.
Đảng và Nhà nước ta luôn xác định: Giáo dục và đào tạo là quốc sách
hàng đầu; đầu tư cho giáo dục và đào tạo là đầu tư cho phát triển. Phát triển
sự nghiệp giáo dục, tăng cường hiệu lực quản lý giáo dục nhằm nâng cao dân
trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài phục vụ công cuộc cơng nghiệp hố,
hiện đại hố đất nước, đáp ứng u cầu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc vì mục
tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Trong những
năm qua, các nhà trường quân đội đã đổi mới công tác giáo dục- đào tạo.Việc
đổi mới về mục tiêu, chương trình, nội dung và phương pháp dạy học đặt ra
yêu cầu phải phát triển cơ sở vật chất, trang thiết bị cho phù hợp, để nâng cao
chất lượng giáo dục- đào tạo.
Vậy, cơ sở vật chất giáo dục- đào tạo của nhà trường quân đội là toàn
bộ những điều kiện về trang thiết bị giảng dạy, học tập, tài liệu, sách giáo
khoa, giáo trình và vũ khí, trang bị chiến đấu, vật tư cần thiết cho việc thực
hiện quá trình đào tạo. Cơ sở vật chất giáo dục- đào tạo là lao động đã được
vật chất hoá của xã hội, làm phương tiện phục vụ cho mục đích đào tạo, nó
vừa có mối liên hệ bên trong với các nhân tố (mục tiêu, nội dung, chương
trình, phương pháp, hình thức, kết quả) của quá trình đào tạo. Đồng thời vừa
có mối liên hệ bên ngồi với nguồn vốn cố định chung của nền kinh tế, và
việc bảo vệ nguồn vốn đó phải tuân thủ theo yêu cầu quản lý tài sản của Nhà
nước. Cơ sở vật chất sư phạm của nhà trường có vị trí vai trò hết sức quan



trọng trong quá trình đào tạo, là một nhân tố phản ánh tiềm lực đào tạo của
nhà trường và còn được xem là một tiêu chí để đánh giá chất lượng đào tạo
của nhà trường. Lý luận dạy học và thực tiễn đã khẳng định: Thiết bị dạy học
là “mắt xích” của chính thể: mục tiêu, nội dung, phương pháp và trang thiết bị
dạy học là điều kiện để thực hiện nguyên lý giáo dục: “Học đi đôi với hành, lý
luận gắn liền với thực tiễn”. Nghị quyết Trung ương hai (khoá VIII) chỉ rõ:
“Từng bước áp dụng các phương pháp tiên tiến và phương tiện hiện đại vào
quá trình dạy- học”4. Nghị quyết 93/ ĐUQSTW cũng chỉ rõ: “Thường xuyên
điều động bổ sung những trang bị kỹ thuật mới cần thiết cho các trường, bảo
đảm trang bị cho công tác giáo dục đào tạo tại trường không lạc hậu mà đi
trước đơn vị và tương ứng với các trường ngồi qn đội. Đầu tư hợp lý một
phần kinh phí cho việc tạo nguồn” 5. Thực tế hiện nay, trang thiết bị đào tạo ở
các nhà trường quân đội còn nhiều bất cập, chưa đáp ứng về số lượng, chất
lượng thấp, nhiều bất cập về sự đồng bộ của trang bị và chủng loại trang bị,
chưa được đầu tư theo kịp với sự phát triển của nhiệm vụ huấn luyện, SSCĐ
của các đơn vị. Các chương trình phần mềm ứng dụng vào trong dạy học còn
rất hạn chế. Nhiều trường giáo viên giảng dạy chủ yếu với phấn, bảng, chưa
được đầu tư trang thiết bị dạy học hiện đại. Nguyên nhân dẫn đến thực trạng
trên là do nhận thức về vai trị, vị trí trang thiết bị đào tạo của nhà trường ở
một số trường chưa đúng mức. Ngân sách đầu tư cho giáo dục- đào tạo còn
thấp, chưa đáp ứng yêu cầu về quy mô phát triển nhiệm vụ đào tạo. Phân cấp
trang bị nhà trường còn phân tán, cho nên khơng sao tránh khỏi tình trạng
thiếu đồng bộ, thiếu chiều sâu trong bảo đảm cơ sở vật chất, trang bị. Việc
quản lý, khai thác sử dụng trang thiết bị nhà trường của giáo viên ở các
trường còn hạn chế, chưa phát huy hiệu quả.
4

Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Hội nghị lần thứ hai BCHTW (khoá VIII), Nxb CTQG,

H.1997,Tr.41.
5
Đảng uỷ Quân sự Trung ương, Nghị quyết 93/ĐUQSTW về tiếp tục đổi mới công tác đào
tạo cán bộ,…
Nxb QĐND, H.1994, Tr..20.


Từ thực trạng trên, để cơ sở vật chất sư phạm của nhà trường phát huy
được hiệu quả trong việc nâng cao chất lượng giáo dục đào tạo cần nắm
vững các biểu hiện đặc trưng kinh tế sau:
Chỉ số phòng học đạt tiêu chuẩn trên các phòng học, biểu hiện của nó là
phịng học đó phải đủ tiêu chuẩn về diện tích và phải phù hợp với số lượng
người học. Các phịng học đó phải đủ ánh sáng, khơng được tối. Phịng học
phải thơng thống; thiết bị trong phịng học phải đầy đủ (phấn, bảng, bàn ghế,
tranh ảnh minh hoạ cho bài giảng, máy chiếu phim phục vụ bài giảng…)
Chỉ số giờ hữu ích của các phịng học (phịng đa năng, phòng chuyên
dụng), phải được sử dụng một cách tốt nhất, theo đúng chương trình, nội dung
đã đề ra và các phòng học này phải phát huy được hiệu quả là làm cho học
viên nắm chắc nội dung của bài học, biết sử dụng phương tiện khi học các nội
dung thực hành ở phòng học chuyên dụng, khi kiểm tra đánh giá kết quả đạt
điểm cao.
Chỉ số lần sử dụng các phương tiện dạy học như: (Tài liệu, sách giáo
khoa, giáo trình, thư viện, phịng đọc đủ các đầu loại sách và tài liệu) và các
phương tiện thiết bị khác phải được học viên sử dụng nhiều lần, thường xuyên
mượn tài liệu về nghiên cứu phục vụ cho công tác học tập. Kết quả là học
viên cho đến giáo viên đều nắm vững kiến thức, học viên khi kiểm tra đánh
giá kết quả đạt khá, giỏi. Khi ra trường về đơn vị công tác biết vận dụng kiến
thức được học tập và nghiên cứu vào thực hiện chức trách nhiệm vụ được
giao.
Nắm vững định mức tiêu chuẩn vật chất và sử dụng nó một cách có

hiệu quả, yêu cầu trong quá trình sử dụng phải đúng thủ tục nguyên tắc, nhất
là khi sử dụng chi tiêu, phải thực hành tiết kiệm, kiên quyết chống lãng phí,
tham ơ, sử dụng khơng đúng mục đích gây lãng phí, thất thốt tiền của và tài
sản của Nhà nước. Phải có thái độ giữ tốt dùng bền, an toàn, tiết kiệm khi sử
dụng các trang thiết bị cơ sở vật chất sư phạm của nhà trường.


Thực tiễn, đã chứng minh trong những năm qua Học viện Chính trị
quân sự đã xây dựng mới và nâng cấp hệ thống giảng đường, bảo đảm đủ
giảng đường và các đồ dùng dạy học thông thường; đã trang bị mới và hiện
đại hố một số phịng học chun dùng bao gồm: 3phòng học tin học, 2 phòng
học ngoại ngữ với 88 ca bin, 1phòng học cơ yếu, 3 phòng học đa chức năng,
có trang bị máy tính để sử dụng phần mềm dạy học và máy chiếu giao diện;
1phòng ngắm bắn bằng trang thiết bị ngắm bắn LASER . Các giảng đường
thông thường cũng được trang bị mới bảng từ, đèn chiếu, hệ thống âm thanh,
phấn không bụi. Thư viện được quan tâm đầu tư nâng cấp, hiện nay thư viện
điện tử đã đi vào hoạt động cung cấp nhiều thông tin, tư liệu mới cho người
học và người dạy, phục vụ ngày càng tốt hơn nhu cầu học tập và nghiên cứu
của giáo viên và học viên. Làm cho chất lượng giáo dục và đào tạo của Học
viện ngày một nâng lên đáp ứng yêu cầu phát triển đội ngũ cán bộ quân đội cả
về phẩm chất chính trị, trình độ kiến thức và năng lực cơng tác, ngang bằng
trình độ đào tạo của các trường đại học quốc gia, góp phần xây dựng qn đội
cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại.
Ngày nay, việc đầu tư cho giáo dục- đào tạo là đầu tư cho phát triển. Vì
vậy, phát triển cơ sở vật chất trang thiết bị sư phạm nhà trường phải được ưu
tiên hàng đầu và đi trước đơn vị một bước. Để cơ sở vật chất, trang thiết bị sư
phạm nhà trường phát huy được hiệu quả trong việc nâng cao chất lượng giáo
dục đào tạo, yêu cầu các nhà trường phải nắm vững các quan điểm định
hướng phát triển cơ sở vật chất sư phạm nhà trường. Tăng đầu tư ngân sách
để phát triển trang thiết bị dạy học, tập trung đầu tư nâng cấp hồn chỉnh

trang thiết bị ở các phịng học thơng thường hiện có để đáp ứng u cầu đào
tạo các bậc học, ưu tiên trang bị cho các phòng đa năng, phòng chuyên dùng
và thiết bị dạy học dùng chung có tần xuất sử dụng cao, phục vụ nhiều ngành,
nhiều người. Sử dụng rộng rãi phương tiện kỹ thuật dạy học hiện đại, kết hợp
với phương tiện kỹ thuật truyền thống vừa đảm bảo tính kinh tế vừa bảo đảm


tính hiện đại vừa bảo đảm thiết thực và hiệu quả sử dụng cao, từng bước
nghiên cứu, ứng dụng sản xuất trang thiết bị đào tạo trong các trường. Quá
trình phát triển cơ sở vật chất sư phạm phải gắn với quá trình đào tạo sử dụng,
thường xuyên tổ chức bồi dưỡng cho giáo viên, cán bộ quản lý về sử dụng
khai thác các phương tiện kỹ thuật dạy học, có như vậy mới nâng cao năng
lực khai thác sử dụng các phương tiện đó và góp phần nâng cao chất lượng và
hiệu quả dạy và học. Đồng thời có kế hoạch bồi dưỡng, đào tạo đội ngũ nhân
viên kỹ thuật và ban hành các quy định về sử dụng, quản lý cơ sở vật chất,
trang thiết bị sư phạm của nhà trường.
Tóm lại, cơ sở vật chất trang thiết bị sư phạm nhà trường khơng chỉ có
vai trị quan trọng trong việc trợ giúp cho phương pháp dạy học mà hiện nay
nó cịn đáp ứng nhu cầu nâng cao chất lượng, hiệu quả giáo dục và đào tạo.
Việc đổi mới, phát triển cơ sở vật chất sư phạm liên quan tới nhiều yếu tố,
trong đó có yếu tố kinh tế và hiệu quả sử dụng nó. Do vậy, địi hỏi chúng ta
trong quá trình phát triển cơ sở vật chất sư phạm phải tính đến hiệu quả kinh
tế, hay nói cách khác là phải nắm chắc những biểu hiện đặc trưng kinh tế của
cơ sở vật chất sư phạm. Để trên cơ sở đó quản lý, sử dụng, khai thác nó một
cách có hiệu quả, đáp ứng yêu cầu mục tiêu giáo dục đào tạo của nhà trường,
góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả giáo dục đào tạo trong giai đoạn mới.
2. Ý nghĩa trong sự nghiệp giáo dục- đào tạo xây dựng quân đội ta hiện
nay.
Chúng ta đang sống trong kỷ nguyên mới, kỷ nguyên của nền kinh tế tri
thức, đòi hỏi mỗi con người phải được đào tạo và tu dưỡng rèn luyện tốt hơn

để có thể đáp ứng những yêu cầu của sự biến đổi thế giới. Trước u cầu của
sự nghiệp cơng nghiệp hố, hiện đại hoá đất nước, đang đặt ra cho chúng ta
phải đổi mới mạnh mẽ sự nghiệp giáo dục- đào tạo, để tạo nên những con
người mang đậm đà bản sắc văn hoá dân tộc: kiên định giữ vững nền độc lập
dân tộc, tự hào dân tộc, yêu quê hương, thương đồng bào…phát triển đất


nước theo lý tưởng XHCN; có trình độ khoa học, cơng nghệ; có sức khoẻ,
được đào tạo có tay nghề, có tư duy tốt, linh hoạt, sáng tạo, thích nghi, có nếp
sống và làm việc văn minh, làm việc có hiệu quả, làm giàu cho mình, cho đất
nước; có tinh thần công dân: sống và làm việc theo hiến pháp và pháp luật, có
thế giới quan Mác- Lê Nin- Hồ Chí Minh; có tình nghĩa cao đẹp, có tinh thần
làm chủ; có cuộc sống văn hố phong phú; biết tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân
loại để làm giàu tri thức cho bản thân. Để làm được việc đó, bên cạnh đẩy
mạnh sự nghiệp giáo dục đào tạo, chúng ta phải tính đến hồn cảnh kinh tế
của đất nước, có nghĩa là phát triển giáo dục- đào tạo gắn liền với nhu cầu
phát triển kinh tế- xã hội “Học đi đôi với hành, giáo dục kết hợp với lao động
sản xuất, nhà trường gắn với xã hội”.
Những đặc trưng kinh tế của q trình giáo dục có vị trí, vai trò, ý
nghĩa hết sức to lớn đối với việc nâng cao chất lượng, hiệu quả giáo dục- đào
tạo của các nhà trường trong hệ thống giáo dục quốc dân nói chung, các nhà
trường quân đội nói riêng, thể hiện của nó:
Nó giúp cho cấp uỷ, lãnh đạo, chỉ huy các nhà trường quân đội cũng
như các đơn vị trong toàn quân phải chủ động trong việc xây dựng kế hoạch
tạo nguồn đào tạo, phải có kế hoạch lựa chọn nguồn. Phải thường xuyên đổi
mới nội dung, hình thức, phương pháp tạo nguồn và phải kết hợp chặt chẽ với
cấp uỷ, chính quyền địa phương trong cơng tác tạo nguồn. Để nguồn đào tạo
đạt đúng yêu cầu đề ra, đó là có trình độ học vấn, sức khoẻ, phẩm chất chính
trị tốt và có lai lịch gia đình rõ ràng.
Nó giúp cho các nhà trường xây dựng được kế hoạch đào tạo, bồi

dưỡng đội ngũ giáo viên có trình độ kiến thức, phương pháp và kinh nghiệm
thực sự đáp ứng được yêu cầu của mục tiêu đào tạo. Là những người không
chỉ giỏi về chuyên môn, chuyên ngành đào tạo mà cịn là những người đóng
góp tích cực, có hiệu quả vào đổi mới chương trình, nội dung, phương pháp
dạy học của nhà trường.


Nó giúp cho các nhà trường xây dựng kế hoạch đầu tư có hiệu quả khi
mua sắm, xây dựng cơ sở vật chất, trang thiết bị sư phạm phục vụ cho công
tác giảng dạy và nghiên cứu khoa học trong nhà trường. Biết đầu tư có trọng
tâm, trọng điểm, tránh tình trạng đầu tư tràn lan, gây hậu quả lãng phí, khi sử
dụng khơng phát huy được hiệu quả.
Hiện nay, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc XHCN trong tình hình mới đòi hỏi
phải tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng công tác giáo dục- đào tạo, bồi
dưỡng đội ngũ cán bộ và nhân viên chuyên môn, kỹ thuật, làm cơ sở cho việc
xây dựng quân đội cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, hoàn
thành tốt nhiệm vụ trong mọi tình huống. Do vậy, các nhà trường trong quân
đội một bộ phận của hệ thống giáo dục quốc dân, phải nắm vững những biểu
hiện đặc trưng kinh tế của giáo dục, để trên cơ sở đó làm tốt cơng tác đổi mới
nội dung, chương trình, phương pháp, phương tiện dạy học một cách có hiệu
quả, có như vậy mới nâng cao được chất lượng giáo dục- đào tạo của nhà
trường lên một bước.
Các nhà trường quân đội thường xuyên quán triệt và thực hiện tốt quan
diểm của Đảng “cùng với khoa học công nghệ, giáo dục và đào tạo là quốc
sách hàng đầu”, nắm vững nhiệm vụ giáo dục- đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán
bộ và nhân viên chuyên môn, kỹ thuật là một trong những nhiệm vụ trọng tâm
quan trọng hàng đầu của sự nghiệp xây dựng lực lượng vũ trang.
Các nhà trường trong quân đội cần kết hợp chặt chẽ với các nhà trường
ngoài quân đội, tận dụng chỗ mạnh của các trường ngoài quân đội trong
nhiệm vụ đào tạo, bồi dưỡng cán bộ và nhân viên chuyên môn, kỹ thuật cho

quân đội.
Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ phải đón trước và phục vụ đắc lực cho các
yêu cầu, nhiệm vụ phát triển của quân đội, gắn với tổ chức biên chế, trang bị,
phương thức tác chiến và phù hợp với xu thế tiến bộ, tiếp cận với khoa học và
công nghệ hiện đại. Gắn nhà trường với đơn vị, lấy nhà trường làm nơi dự trữ


cán bộ. Xây dựng nhà trường chính quy, có mơi trường văn hoá lành
mạnh.Đồng thời đào tạo, bồi dưỡng cán bộ theo chức vụ và có trình độ học
vấn tương ứng (đại học, sau đại học), có trình độ tồn diện cả về phẩm chất
chính trị, kiến thức, năng lực và phong cách, bảo đảm sỹ quan làm tốt chức vụ
ban đàu, có khả năng phát triển, hồn thành nhiệm vụ trong mọi tình huống.
Trong quá trình giáo dục- đào tạo các nhà trường quân đội cần thực
hiện tốt các yêu cầu sau:
Các nhà trường trong quá trình giáo dục đào tạo phải cân đối mục tiêu
đào tạo của nhà trường với yêu cầu nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của
qn đội trong tình hình mới, đó là bảo vệ Tổ quốc là bảo vệ vững chắc độc
lập chủ quyền, thống nhất toàn vẹn lãnh thổ; bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân
dân và chế độ XHCN, bảo vệ sự nghiệp đổi mới, cơng nghiệp hố, hiện đại
hố đất nước; bảo vệ lợi ích quốc gia, dân tộc; bảo vệ an ninh chính trị, trật tự
an tồn xã hội và nền văn hố; giữ vững ổn định chính trị và mơi trường hồ
bình, phát triển đất nước theo định hướng XHCN.
Các nhà trường phải gắn mơ hình mục tiêu đào tạo với giáo dục nhân
cách làm cho người học (học viên) vừa có kiến thức, kỹ xảo, kỹ năng nghề
nghiệp quân sự, phát triển khả năng tư duy sáng tạo, vừa có những phẩm chất
nhân cách cần thiết (lý tưởng, niềm tin, văn hoá, đạo đức, lối sống…) để đáp
ứng yêu cầu của xã hội của quân đội; đào tạo với sử dụng khi ra trường bố trí
đúng người, đúng việc, đúng chức danh, chuyên ngành đào tạo, bố trí chức vụ
ban đầu phù hợp, bảo đảm ở từng chức vụ trong thời gian cần thiết để có thể
tích kuỹ kinh nghiệm, sau đó tiếp tục cho di đào tạo, bồi dưỡng theo khả năng

phát triển của cán bộ. Có chính sách, chế độ để vừa khuyến khích, vừa bắt
buộc cán bộ phải học xong những chương trình quy định, tránh tình trạng bố
trí khơng đúng chức danh đào tạo; số lượng đào tạo phải đi đôi với chất lượng
sau khi ra trường.


Các nhà trường phải biết cân đối quy mô phát triển của nhà trường với
cơ sở vật chất đảm bảo cho quy mơ đó, có nghĩa là nhà trường phải làm tốt
công tác tạo nguồn, thực hiện tuyển sinh theo quy chế của Nhà nước, bảo đảm
các tiêu chuẩn về chính trị, văn hố, sức khoẻ. Có chính sách khuyến khích
học sinh phổ thơng trung học ở các vùng cao, vùng sâu có lực học khá giỏi,
hạnh kiểm tốt. Cùng với công tác tạo nguồn các nhà trường phải nhanh chóng
kiện tồn và phát triển đội ngũ nhà giáo, đảm bảo nhà trường có đủ giáo viên
theo quy định của biên chế, đồng thời có đủ lượng dự trữ 20% vào năm 2010.
Đội ngũ nhà giáo các trường quân sự phải được chuẩn hố theo quy định, đó
là có bằng tốt nghiệp cử nhân cấp phân đội đối với giáo viên khoa học quân
sự của các trường quân sự tỉnh, QK, qn đồn; có bằng tốt nghiệp đào tạo
chỉ huy- tham mưu cấp chiến thuật- chiến dịch (cấp e, f) đối với giáo viên
ngành khoa học quân sự huấn luyện đối tượng cấp chiến thuật- chiến dịch của
các học viện, trường sỹ quan; có bằng tốt nghiệp đào tạo chỉ huy- tham mưu
cấp chiến dịch- chiến lược đối với giáo viên ngành khoa học quân sự huấn
luyện đối tượng đào tạo chỉ huy tham mưu cấp chiến dịch- chiến lược của
Học viện Quốc phòng. Đồng thời cơ sở vật chất của nhà trường phải đảm bảo
cho công tác giảng dạy, đó là có đủ phịng học thơng thường, thống mát, đủ
diện tích theo quy định; có phịng học đa năng, chuyên dùng, đủ trang thiết bị
phục vụ giảng dạy; thư viện, phịng đọc đủ tài liệu phục vụ cơng tác học tập
và nghiên cứu khoa học.
Trong quá trình giáo dục đào tạo các nhà trường phải biết tiết kiệm sức
người, sức của, tổ chức giáo dục đào tạo chặt chẽ, có kế hoạch phân cơng cụ
thể, hợp lý đúng thời gian quy định, có như vậy mới phát huy được tính năng

động sáng tạo của các chủ thể trong quá trình giáo dục đào tạo. Quá trình đầu
tư mua sắm cơ sở vật chất, trang thiết bị sư phạm nhà trường phải hợp lý, chi
tiêu tiết kiệm nguồn vốn ngân sách được cấp phát. Khai thác sử dụng trang
thiết bị một cách có hiệu quả, phát huy được hiệu quả của nó trong cơng tác


giảng dạy. Biết tận dụng mọi điều kiện để huy động nguồn vốn, ngân sách
phục vụ cho công tác giảng dạy đạt hiệu quả cao. Kiên quyết đấu tranh với
mọi biểu hiện chi tiêu khơng đúng mục đích, làm thất thốt vật tư, tài chính;
sử dụng trang thiết bị khơng phát huy được hiệu quả.
Trong quá trình giáo dục- đào tạo các nhà trường phải biết phát huy tốt
mọi hoạt động khác để nâng cao tính thiết thực và hiệu quả của giáo dục và
đào tạo, nhất là tổ chức các cuộc hội thảo, nói chuyện chuyên đề, nghiên cứu
khoa học…để trên cơ sở đó khuyến khích học viên hăng say tìm tịi tài liệu,
tích cực tham gia, góp phần nâng cao chất lượng giáo dục- đào tạo của nhà
trường. Song trong quá trình tổ chức các hoạt động tránh làm ảnh hưởng đến
kết quả học tập.
Tóm lại, những biểu hiện đặc trưng kinh tế của quá trình giáo dục có vị
trí, vai trị hết sức quan trọng, ảnh hưởng trực tiếp đến việc nâng cao chất
lượng, hiệu quả giáo dục- đào tạo của các nhà trường. Song giáo dục cũng giữ
một vai trị quan trọng, có tính chất quyết định đến sự phồn vinh của một
quốc gia, trong đó có Việt Nam ta. Do vậy, giáo dục khơng chỉ là mục tiêu mà
còn là động lực của sự phát triển kinh tế, để phát triển giáo dục phục vụ nâng
cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, Nhà nước ngày càng đầu tư
nhiều tiền của cho lĩnh vực này. Chúng ta có thể thấy rằng ngành giáo dục
đang sử dụng một khối lượng lớn của cải vật chất của xã hội bao gồm cả nhân
lực, vật lực và tài lực để thực hiện chức năng tái sản xuất mở rộng sức lao
động lành nghề. Vì các hoạt động giáo dục diễn ra trong nhà trường luôn ln
có quan hệ mật thiết với nhau, phụ thuộc vào nhau. Mặc dù giáo dục là một
lĩnh vực hoạt động đặc thù nhưng nó là một hệ thống mở. Điều đó có nghĩa là

giáo dục khơng chỉ chịu sự tác động của mơi trường bên ngồi mà bản thân
giáo dục cũng có tác động và ảnh hưởng rất lớn đến mơi trường bên ngồi.
Cho nên, trong q trình giáo dục các nhà trường, phải tính đến các nhân tố
ảnh hưởng đến hiệu quả kinh tế giáo dục, để trên cơ sở đó đề ra các biện pháp


×