Tải bản đầy đủ (.doc) (112 trang)

LUẬN văn THẠC sĩ phát huy nhân tố con người ở lữ đoàn 242 quân khu 3 trong bảo vệ tuyến đảo đông bắc hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (526.4 KB, 112 trang )

MỤC LỤC

Trang
MỞ ĐẦU

3

Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN PHÁT HUY NHÂN TỐ
CON NGƯỜI Ở LỮ ĐOÀN 242 QUÂN KHU 3 TRONG
BẢO VỆ TUYẾN ĐẢO ĐÔNG BẮC

12

1.1. Thực chất phát huy nhân tố con người ở Lữ đoàn 242
Quân khu 3 trong bảo vệ tuyến đảo Đông Bắc
1.2. Những vấn đề có tính quy luật phát huy nhân tố con người ở
Lữ đoàn 242 Quân khu 3 trong bảo vệ tuyến đảo Đông Bắc

12
30

Chương 2: THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP CƠ BẢN PHÁT
HUY NHÂN TỐ CON NGƯỜI Ở LỮ ĐỒN 242
QN KHU 3 TRONG BẢO VỆ TUYẾN ĐẢO
ĐƠNG BẮC HIỆN NAY

45

2.1. Thực trạng và yêu cầu phát huy nhân tố con người ở
Lữ đoàn 242 Quân khu 3 trong bảo vệ tuyến đảo Đông
Bắc hiện nay


2.2. Giải pháp cơ bản nhằm khắc phục những hạn chế và phát

45

huy mặt tích cực về phát huy nhân tố con người ở Lữ đoàn
242 Quân khu 3 trong bảo vệ tuyến đảo Đông Bắc hiện nay
KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC

69
94
95
101

DANH MỤC CÁC CƠNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ
ĐƯỢC CÔNG BỐ

113


MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài
Nhân tố con người có vị trí vai trị quyết định xu hướng vận động phát
triển của thế giới. Ph.Ăngghen cho rằng, con người và vũ khí là hai chất liệu
nền tảng tạo nên sức mạnh chiến đấu của quân đội. Trong bối cảnh tình hình
chính trị thế giới, khu vực và Biển Đơng diễn biến nhanh chóng, tiềm ẩn
nhiều nhân tố phức tạp, khó lường, để bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền,
thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ; giữ vững chủ quyền biển đảo, biên giới, vùng

trời. Theo đó, để tăng cường sức mạnh bảo vệ tuyến đảo Đông Bắc trong
giai đoạn hiện nay, cần đặc biệt coi trọng phát huy nhân tố con người ở Lữ
đoàn 242 Quân khu 3.
Tuyến đảo Đơng Bắc có vị trí quan trọng, khơng những về kinh tế, chính
trị, văn hóa, khoa học kỹ thuật mà còn là địa bàn chiến lược quân sự là tuyến
đầu, tiền tiêu của Tổ quốc, có đường bờ biển dài 250 km; với hơn 3600 hịn đảo
lớn nhỏ; phía đơng bắc giáp với Trung Quốc; phía nam giáp với vịnh Bắc Bộ;
phía tây giáp với tỉnh Lạng Sơn. Ngồi Biển Đông Trung Quốc đang thực hiện
việc tôn tạo các đảo nhân tạo trái với luật pháp quốc tế, đưa gian khoan Hải
Dương 981 vào khu đặc quyền kinh tế của ta... Nếu có chiến tranh xảy ra, chắc
chắn chúng ta phải đối mặt với cuộc chiến tranh bằng vũ khí cơng nghệ cao của
địch. Do đó, phát huy nhân tố con người ở Lữ đồn 242 Qn khu 3 khơng
những có ý nghĩa quyết định đối với nhiệm vụ trước mắt, mà cịn có ý nghĩa
chiến lược lâu dài đối với nhiệm vụ phịng thủ bảo vệ tuyến đảo Đơng Bắc.
Lữ đồn 242 Qn khu 3 đóng qn trên các đảo, với nhiệm vụ chính trị
trung tâm phịng thủ bảo vệ tuyến đảo Đơng Bắc. Do đó, địi hỏi ở nơi đây
khơng chỉ hiện đại về vũ khí trang bị kỹ thuật, mà quan trọng bậc nhất là hiện
đại về con người và tổ chức. Thực tiễn xây dựng, chiến đấu và trưởng thành
của bộ đội Lữ đoàn 242 Quân khu 3 đã khẳng định vị trí đặc biệt quan trọng
trong bảo vệ chủ quyền tuyến đảo Đông Bắc trước các thế lực thù địch với
3


sức mạnh vượt trội về vũ khí trang bị và tiềm lực kinh tế. Điều đó, đặt ra cho
Quân khu 3 nói chung và Lữ đồn 242 nói riêng nhiệm vụ rất nặng nề; nghiên
cứu cách thức, biện pháp đúng đắn, nhằm khơi dậy mọi khả năng tích cực,
năng động, sáng tạo, làm chuyển biến cả về nhận thức và hành động; nâng cao
chất lượng chiến đấu, ổn định về chính trị, tổ chức, chấp hành nghiêm kỷ luật,
xây dựng Lữ đồn vững mạnh về mọi mặt. Theo đó, phát huy nhân tố con
người ở Lữ đoàn 242 Quân khu 3 là góp phần nâng cao sức mạnh chiến đấu

tổng hợp, khơng để bất ngờ trước mọi tình huống, làm chỗ dựa vững chắc cho
ngư dân và các thành phần kinh tế sản xuất, khai thác tài nguyên biển, đồng
thời khẳng định chủ quyền biển, đảo Đông Bắc Tổ quốc.
Trước những diễn biến phức tạp trong thời gian qua, khu vực tuyến đảo
Đơng Bắc và tình hình chất lượng nhân tố con người ở Lữ đoàn 242 Quân khu
3, bên cạnh những mặt tích cực, tiến bộ vẫn cịn những hạn chế, bất cập. Do
đó, việc nghiên cứu, luận giải nhân tố con người nơi đây trên cơ sở khoa học
là nhiệm vụ đặc biệt quan trọng có tính cấp thiết cả về lý luận và thực tiễn.
Chính vì những lý do trên thôi thúc tác giả lựa chọn vấn đề: “Phát huy nhân
tố con người ở Lữ đoàn 242 Quân khu 3 trong bảo vệ tuyến đảo Đông Bắc
hiện nay” làm đề tài nghiên cứu.
2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
Con người là chủ thể của mọi quá trình lịch sử, là trung tâm nghiên cứu
của rất nhiều lĩnh vực. Lịch sử nhân loại khẳng định, chừng nào cịn xã hội
lồi người, thì người ta cịn nghiên cứu đến vấn đề con người, vì con người
vừa là mục tiêu, vừa là động lực phát triển để xây dựng xã hội mới. Đặc biệt,
nghiên cứu về con người trong bảo vệ Tổ quốc XHCN, bảo vệ chủ quyền biển
đảo là một cơng việc phức tạp, khó khăn và nhiều thách thức, đồng thời có ý
nghĩa rất to lớn trên cả phương diện khoa học và thực tiễn, nên luôn thu hút
sự quan tâm nghiên cứu của rất nhiều nhà khoa học.

4


* Các cơng trình nghiên cứu về con người Việt Nam trong cơng cuộc
xây dựng đất nước
Cơng trình khoa học cấp nhà nước, tác giả Đoàn Nam Đàn (2017), “Sự
phát triển nhận thức của Đảng về phát huy nhân tố con người trong phát triển
đất nước” [4], tác giả phân tích trên cơ sở khoa học lý luận và thực tiễn về vấn
đề giải phóng, phát triển tồn diện con người là mục tiêu cao nhất trong suốt tiến

trình cách mạng do Đảng ta lãnh đạo, đặc biệt khi tiến hành công cuộc đổi mới,
gắn với phát triển nền kinh tế tri thức. Trong tiến trình phát triển ấy, vấn đề con
người không chỉ với tư cách mục tiêu phát triển, mà còn với tư cách là động lực
quan trọng trong việc xây dựng một nước Việt Nam “dân giàu, nước mạnh, dân
chủ, công bằng, văn minh”; tác giả Lê Hữu Tầng (1996), “Vấn đề phát huy và sử
dụng đúng đắn vai trò động lực của con người trong sự phát triển kinh tế - xã
hội” [46], tác giả đề cập đến một số vấn đề lý luận và thực tiễn về con người,
nhân tố con người trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội, sự tác động, ảnh
hưởng ngược lại của hoàn cảnh xã hội nước ta với sự phát triển của con người,
tìm ra giải pháp, sử dụng đúng đắn tính tích cực chính trị, xã hội của con người
với tư cách là động lực trực tiếp trong sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của
đất nước; tác giả Nguyễn Thị Phi Yến (2007)“Tìm hiểu vai trò quản lý nhà
nước đối với việc phát huy nhân tố con người trong phát triển kinh tế”[64].
Trong đề tài này tác giả đi sâu phân tích, luận giải và làm rõ vai trò quản lý,
điều hành của nhà nước về phát huy một cách toàn diện con người, nhân tố
con người. Trong đó, tập trung phát triển cả về thể chất, năng lực, trí tuệ cùng
hoạt động sáng tạo khác vì sự phát triển và tiến bộ xã hội.
Tập san Triết học Trường đại học tổng hợp Lơmơnơxốp, “Vị trí của lợi
ích trong định hướng hoạt động của con người” [60]. Cơng trình này đi sâu
nghiên cứu, tìm ra giải pháp của vấn đề sử dụng đúng đắn vai trò động lực
của con người trong sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, với tư
cách con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực và chỉ ra việc phát huy nhân
tố con người chịu sự tác động mạnh mẽ của các nhân tố như nhu cầu, lợi ích,

5


dân chủ... Do vậy, họ cho rằng muốn phát huy nhân tố con người phải vận
dụng có hiệu quả các nhân tố đó; tác giả Nguyễn Văn Tài (2010), “Phát huy
tính tích cực xã hội của đội ngũ cán bộ nước ta hiện nay” [43]. Cơng trình đi

sâu phân tích, làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn của đường lối công tác cán bộ
của Đảng, đề xuất một số giải pháp cơ bản góp phần kiện tồn, nâng cao chất
lượng đội ngũ cán bộ nước ta đáp ứng yêu cầu của thực tiễn.
* Trong quân đội có các đề tài nghiên cứu về con người, nhân tố con
người nhằm nâng cao sức mạnh chiến đấu của quân đội
Lê Đức Tuyên (2012), “Phát huy nhân tố con người trong huấn luyện
bay của học viên phi công quân sự ở Trường Sỹ quan Không quân hiện nay”,
Luận văn Thạc sỹ Triết học [48], Luận văn chỉ ra khái niệm nhân tố con người
trong huấn luyện bay của học viên phi cơng qn sự, phân tích mối liên hệ
biện chứng giữa các nhân tố hình thành nên nhân tố con người, đồng thời đưa
ra giải pháp cơ bản nhằm bồi dưỡng, phát triển nhân tố con người trong huấn
luyện bay của học viên phi công quân sự ở Trường Sỹ quan Khơng qn hiện
nay; tác giả Trần Huỳnh Hồng Vũ (2014), “Phát huy nhân tố con người lực
lượng vũ trang Quân khu 9 trong thực hiện nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc hiện
nay” [62], tác giả làm rõ khái niệm nhân tố con người Quân khu 9 trong bảo
vệ Tổ quốc hiện nay, Luận án nhấn mạnh đến hoạt động nhận thức và hoạt
động thực tiễn của cán bộ, chiến sĩ lực lượng vũ trang Quân khu 9 tạo nên
nhân tố con người tích cực, chủ động, sáng tạo trong bảo vệ Tổ quốc; tác giả
Nguyễn Văn Tài (1998), “Tích cực hóa nhân tố con người của đội ngũ sĩ
quan trong Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay” [41]. Chỉ ra nhân tố con
người của đội ngũ sĩ quan trong Quân đội là một hệ thống các yếu tố, các đặc
trưng cơ bản quy định vai trị chủ thể tích cực, chủ động, sáng tạo. Trong đó,
tính tích cực xã hội là nhân tố cơ bản của tính tích cực hóa nhân tố con người,
đây là một phẩm chất xã hội căn bản nối liền khả năng hoạt động có tính chất
cải tạo hiện thực của họ và thể hiện tính tích cực, chủ động, sáng tạo trong

6


nhận thức và hoạt động thực tiễn về lĩnh vực bảo vệ Tổ quốc; là sự thống nhất

hữu cơ giữa mục đích với hành động cần thiết đáp ứng yêu cầu xây dựng quân
đội cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại. Hay nói cách khác,
đó là sự thể hiện năng lực “nội sinh” mạnh mẽ của con người.
Tác giả Hoàng Quang Đạt (1996), “Nâng cao chất lượng nhân tố con
người trong sức mạnh chiến đấu của Quân đội ta hiện nay”[8]. Đề tài đi sâu
phân tích, và làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn nâng cao chất lượng nhân tố
con người trong sức mạnh chiến đấu của Quân đội ta hiện nay; đặt con người
là trung tâm, chủ yếu quyết định, đồng thời phát hiện những động lực, kích
thích, thúc đẩy nhân tố con người để tạo ra những tiền năng và hiện thực hóa
những tiềm năng đó nhằm hồn thành nhiệm vụ với u cầu ngày càng cao
của quân đội. Từ đó đề xuất một số biện pháp cơ bản nhằm nâng cao nguồn
lực con người và phát huy nguồn lực đó trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc;
tác giả Nguyễn Văn Hòa (2011), “Tích cực hóa nhân tố con người của đội
ngũ giảng viên trong nhà trường quân đội” [16]. Với tư cách luận giải, phân
tích, tìm ra những vấn đề có tính quy luật, trong đó chỉ ra vấn đề lợi ích, dân
chủ và trí tuệ đây là những giá trị cơ bản, phổ quát của con người, là cơ sở mà
thơng qua đó việc phát huy và sử dụng đúng đắn, sẽ kích thích, thúc đẩy tính
tích cực chính trị - xã hội của đội ngũ giảng viên trong nhà trường quân đội,
tạo nên động lực sâu sa, bền vững của sự nghiệp xây dựng qn đội, đồng
thời cơng trình trên làm sáng tỏ vai trò nhân tố con người của đội ngũ giảng
viên trong sự thống nhất hai phương diện. Họ vừa là nguồn nhân lực đặc biệt,
vừa là kiểu nhân cách tiêu biểu của người cán bộ cách mạng trong sự nghiệp
xây dựng quân đội.
Đây là những đề tài khoa học đã phân tích một cách có hệ thông, việc
phát huy nhân tố con người trong QĐND Việt Nam, với từng lĩnh vực, ở đó các
tác giả phân tích, làm rõ nhân tố con người với từng nhiệm vụ cụ thể. Nhưng
đều khẳng định, nhân tố con người là chủ thể quyết định mọi thắng lợi của
7



cánh mạng. Do đó, phải nâng cao chất lượng nhân tố con người là vấn đề cơ
bản, lâu dài, đặc biệt trong giai đoạn hiện nay phát huy nhân tố con người đang
trở thành vấn đề có tính cấp thiết. Bởi vì, đứng trước những thực trạng, những
tác động tiêu cực của mặt trái nền kinh tế thị trường, âm mưu thủ đoạn của các
thế lực thù địch, sự phát triển của các loại vũ khí trang bị ngày càng hiện đại
với sức huy diệt lớn. Từ đó, đã đề cập các giải pháp như: việc bồi dưỡng phẩm
chất chính trị, đạo đức lối sống, trí tuệ, tác phong cơng tác và kỹ năng chiến
đấu cho cán bộ, chiến sĩ, kết hợp với xây dựng tổ chức quân đội vững mạnh,
chú trọng xây dựng sức mạnh tổng hợp của toàn xã hội để nâng cao chất lượng
nhân tố con người.
* Các đề tài, cơng trình liên quan đến nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền
biển, đảo Tổ quốc
Phùng Quang Thanh (2009), “Chiến lược bảo vệ biển gắn với phát
triển kinh tế biển” [53]. Trong đề tài này tác giả khẳng định vấn đề phát
triển kinh tế, xã hội phải gắn liền xây dựng và bảo vệ Tổ quốc XHCN, mà
biển, đảo là một địa phận của quốc gia dân tộc, chỉ ra mối quan hệ biện
chứng giữa bảo vệ biển với phát triển kinh tế; tác giả Nguyễn Văn Tôn
(2009), “phát huy vai trò nhân tố con người Bộ đội Hải quân trong bảo vệ
quần đảo Trường Sa hiện nay”; Luận văn thạc sĩ Triết học [47], đã phân
tích, làm rõ vị trí, vai trị, đặc điểm nhân tố con người của bộ đội Hải quân
tạo nên sức mạnh chiến đấu tổng hợp trong bảo vệ quần đảo Trường Sa.
Tác giả Trần Đại Nghĩa (2010), “Cơng tác đảng, cơng tác chính trị trong
nhiệm vụ sẵn sàng chiến đấu bảo vệ quần đảo Trường Sa của các đơn vị
thuộc Quân chủng Hải quân hiện nay”[37]. Luận văn làm rõ vai trò lãnh
đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với nhiệm vụ huấn luyện chiến đấu
và sẵn sàng chiến đấu trong bảo vệ quần đảo Trường Sa. Đặc biệt, khẳng
định yếu tố chính trị, tinh thần góp phần quan trọng để cán bộ, chiến sĩ
Trường Sa hoàn thành nhiệm vụ; tác giả Nguyễn Văn Hiến (2009),
8



“Nghiên cứu hoạt đông tác chiến bảo vệ chủ quyền biển, đảo của Hải quân
nhân dân Việt Nam”, Đề tài khoa học cấp Bộ quốc phịng [14]. Đề tài nói
đến tính cấp thiết phải nâng cao sức mạnh chiến đấu của bộ đội Hải quân
trong bảo vệ chủ quyền biển, đảo hiện nay.
Tóm lại, các đề tài trên, đã làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận và thực
tiễn về đặc điểm, nhiệm vụ, vai trò nhân tố con người trong bảo vệ chủ
quyền biển, đảo và các yếu tố tạo nên sức mạnh chiến đấu của bộ đội Hải
quân trong bảo vệ quần đảo Trường Sa. Các đề tài đề cập ở nhiều khía
cạnh, nhiều cấp độ khác nhau về con người nói chung và nhân tố con người
trong bảo vệ quần đảo Trường Sa nói riêng. Đặc biệt, các đề tài đã đánh giá
một cách sâu sắc, có ý nghĩa rất lớn đối với nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền
quần đảo Trường Sa. Tuy nhiên, đối tượng của các đề tài trên chưa tiếp cận
nhân tố con người trong bảo vệ tuyến đảo Đông Bắc của Tổ quốc.
Nhiệm vụ bảo vệ vững chắc chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc đang là vấn
đề đặc biệt quan tâm của cả hệ thống chính trị, trong đó tuyến đảo Đông Bắc là
một bộ phận quan trọng không thể tách rời hệ thống chủ quyền biển đảo Việt
Nam. Để góp phần phát triển thêm một bước lý luận về phát huy nhân tố con
người, mà đặc biệt là làm rõ những đặc điểm, những tính chất đặc thù, có tính quy
luật về phát huy nhân tố con người ở Lữ đoần 242 Qn khu 3 trong bảo vệ
tuyến đảo Đơng Bắc hiện nay, trên cơ sở đó đưa ra những giải pháp cơ bản nhằm
phát huy nhân tố con người nơi đây. Theo đó tác giả quyết định chọn đề tài “Phát
huy nhân tố con người ở Lữ đoàn 242 Quân khu 3 trong bảo vệ tuyến đảo
Đông Bắc hiện nay”.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
* Mục đích nghiên cứu
Làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn, qua đó nhằm phát huy nhân
tố con người ở Lữ đoàn 242 Quân khu 3 trong bảo vệ tuyến đảo Đông Bắc
hiện nay.
9



* Nhiệm vụ nghiên cứu
Phân tích làm rõ vấn đề về phát huy nhân tố con người
Phân tích, luận giải những vấn đề có tính quy luật phát huy nhân tố con
người ở Lữ đoàn 242 Quân khu 3 trong bảo vệ tuyến đảo Đông Bắc.
Đánh giá đúng thực trạng, chỉ rõ nguyên nhân, đề xuất những giải pháp
cơ bản phát huy nhân tố con người ở Lữ đoàn 242 Quân khu 3 trong bảo vệ
tuyến đảo Đông Bắc hiện nay.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu
Những vấn đề bản chất có tính quy luật nhằm phát huy nhân tố con
người ở Lữ đoàn 242 Quân khu 3 trong bảo vệ tuyến đảo Đông Bắc.
* Phạm vi nghiên cứu
Lữ đoàn 242 Quân khu 3 trong bảo vệ tuyến đảo Đông Bắc hiện nay;
phạm vi khảo sát ở Lữ đoàn 242 Quân khu 3 và một số đơn vị thực hiện
nhiệm vụ trên tuyến đảo Đông Bắc.
Thời gian khảo sát từ năm 2012 đến nay.
5. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu
* Cơ sở lý luận
Đề tài dựa trên cơ sở lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, đường lối, quan điểm của Đảng về phát huy nhân tố con người trong
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN, trong nâng cao sức mạnh
chiến đấu của Lữ đoàn 242 Quân khu 3 về bảo vệ vững chắc tuyến đảo Đông
Bắc; đồng thời kế thừa những thành tựu khoa học của các cơng khác có liên
quan đến đề tài.
* Cơ sở thực tiễn
Thực tiễn tính chất, nhiệm vụ và nhân tố con người ở Lữ đoàn 242 Quân
khu 3 trong bảo vệ tuyến đảo Đông Bắc hiện nay; các báo cáo sơ kết, tổng kết
về thực hiện nhiệm vụ của Lữ đoàn, kết quả điều tra xã hội học của tác giả.

10


* Phương pháp nghiên cứu
Đề tài sử dụng các phương pháp nghiên cứu: Phương pháp luận duy vật
biện chứng và duy vật lịch sử; phân tích và tổng hợp, lịch sử và lơgic, trừu
tượng hóa, khái qt hóa; tổng kết thực tiễn, điều tra xã hội học, phương pháp
chuyên gia…
6. Ý nghĩa của luận văn
Góp phần làm sâu sắc thêm về vấn đề phát huy nhân tố con người và đề
xuất giải pháp cơ bản phát huy nhân tố con người ở Lữ đoàn 242 Quân khu 3
trong bảo vệ tuyến đảo Đơng Bắc hiện nay.
Đề tài có thể dùng làm tài liệu tham khảo để nghiên cứu, tài liệu phục
vụ giảng dạy và học tập trong các nhà trường, đặc biệt là Trường Quân sự tỉnh
Quảng Ninh và Trường Quân sự Quân khu 3.
7. Kết cấu của luận văn
Luận văn gồm Mở đầu, 2 chương (4 tiết), kết luận, danh mục tài liệu tham
khảo, phụ lục và danh mục cơng trình khoa học của tác giả đã cơng bố.

11


Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN PHÁT HUY NHÂN TỐ CON NGƯỜI Ở LỮ
ĐOÀN 242 QUÂN KHU 3 TRONG BẢO VỆ TUYẾN ĐẢO ĐÔNG BẮC

1.1. Thực chất phát huy nhân tố con người ở Lữ đoàn
242 Quân khu 3 trong bảo vệ tuyến đảo Đông Bắc
1.1.1. Quan niệm nhân tố con người
Lịch sử triết học trước Mác chưa đưa ra quan niệm đầy đủ đúng đắn về

nhân tố con người trong tiến trình vận động, phát triển của lịch sử xã hội. Đặc
biệt, họ không phát hiện ra vai trò to lớn của quần chúng nhân dân, lực lượng
chân chính nhất sáng tạo ra lịch sử.
Hiện nay, khái niệm nhân tố con người được nhiều ngành khoa học
nghiên cứu, khai thác dưới các góc độ tiếp cận khác nhau tùy vào mục đích
nghiên cứu. Nhân tố con người khai thác dưới góc độ triết học, đó là sử kế
thừa, phát triển sáng tạo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin; với tư cách
hoạt động ý thức, là chủ thể sáng tạo ra lịch sử.
Tác giả A.K.Ledov viết: Con người trong mọi biểu hiện của nó vốn có
những đặc trưng, nhân cách nhất định: “Quan niệm chính trị, đạo đức, triết
học…” được con người lĩnh hội và trở thành thế giới quan, các quy phạm ứng
xử, quan điểm sống của họ; nghĩa là những đặc trưng bản chất, những thuộc
tính, phẩm chất khơng tách rời con người. Tất cả những phẩm chất đa dạng
biểu hiện trong các dạng thức hoạt động khác nhau của con người, trong quan
hệ của nó với những người khác, với thế giới xung quanh đều bao hàm trong
khái niệm “nhân tố con người”. Khái niệm đó thể hiện tính tích cực xã hội của
“cá nhân”. Hay nói cách khác, nhân tố con người là hệ thống các yếu tố, các
đặc trưng của chủ thể tích cực, tự giác, sáng tạo của con người. Các đặc trưng
đó bao gồm một chỉnh thể thống nhất giữa mặt hoạt động thực tiễn với tổng
hòa các đặc trưng về phẩm chất, năng lực của con người trong một quá trình
biến đổi và phát triển xã hội nhất định.
12


Thời kỳ đổi mới ở Việt Nam, vấn đề “nhân tố con người” được nhiều
ngành, nhiều nhà khoa học quan tâm nghiên cứu. Một số cơng trình, đề tài
nghiên cứu xem xét nhân tố con người trong một chỉnh thể thống nhất nói lên
chủ thể (con người) mang những đặc trưng về phẩm chất, năng lực, đồng thời
là chủ thể tiếp thu, sáng tạo giá trị xã hội.
Từ hướng tiếp cận như trên có thể hiểu: Nhân tố con người là tổng hịa

các phẩm chất, năng lực chính trị - xã hội của chủ thể trong mối quan hệ
giữa nhận thức và hoạt động thực tiễn phản ánh quá trình có mục đích của
con người trong tiến trình phát triển xã hội.
Quan niệm trên khái quát những phẩm chất xã hội căn bản nhất - những
“tố chất người” quy định vai trò của chủ thể với nội dung phản ánh, có tính hệ
thống, tính lịch sử, tính cụ thể và phát triển của bản chất người. Mối quan hệ
biện chứng giữa nhận thức với hoạt động thực tiễn, được chứng minh thơng
qua tính tích cực, tự giác, sáng tạo của con người nhằm thỏa mãn nhu cầu cá
nhân và xã hội.
Nhân tố con người với tư cách là chủ thể hoạt động, một nguồn nhân
lực mà thông qua hoạt động thực tiễn; nhiệm vụ, trách nhiệm cá nhân, giữ vai
trò quyết định mọi sự vận động, phát triển lịch sử xã hội. Hoạt động thực tiễn
của con người là nơi thể hiện các đặc trưng trí tuệ, phẩm chất, năng lực, tính
cách của con người trong những điều kiện lịch sử - cụ thể, mặt khác thơng
qua đó những đặc trưng về trí tuệ, phẩm chất, năng lực và tính cách của con
người được hình thành và phát triển. Đây là cơ sở, điều kiện không thể thiếu
cho mọi hoạt động sáng tạo của con người.
Trong cấu trúc, nhân tố con người gồm 2 phương diện cơ bản:
Thứ nhất, phản ánh hoạt động của con người, bao gồm hoạt động lý
luận và hoạt động thực tiễn; hoạt động vật chất và hoạt động tinh thần. Thông
qua hoạt động của con người, được coi là chủ thể quyết định sử vận động,
phát triển lịch sử xã hội.
13


Thứ hai, phản ánh những đặc trưng về trí tuệ, phẩm chất, năng lực, tính
cách con người. Những phẩm chất chính trị, đạo đức hình thành nên ở con
người thơng qua lý tưởng, niềm tin, thái độ lao động, ý thức tổ chức kỷ luật ….
Và đó cịn là năng lực của con người, hình thành tri thức khoa học, tri thức
nghề nghiệp, phương pháp tư duy, năng lực tổ chức thực tiễn.

Hai phương diện cơ bản trên tạo nên “nhân tố con người” hợp thành
chỉnh thể thống nhất, thường xuyên biến đổi và phát triển gắn với điều kiện
nhất định. Các mối quan hệ trên vừa làm tiền đề, điều kiện cho nhau tạo động
lực bên trong của sự phát triển nhân tố con người với vai trò là chủ thể tích
cực, tự giác, sáng tạo.
Như vậy, nhân tố con người là một khái niệm rất rộng được các nhà khoa
học tiếp cận, nghiên cứu dưới nhiều lĩnh vực khác nhau. Họ tìm kiếm phương
hướng, biện pháp nhằm phát huy tính tích cực xã hội của con người trong đời
sống thực tiễn, xuất phát từ hoạt động thực tiễn và vai trò của con người trong
cải tạo thế giới.
Về thực chất, nhân tố con người chính là sức mạnh của nhân tố chủ thể
trong quan hệ với nhân tố khách thể; thông qua hoạt động thực tiễn, chủ thể
khẳng định và thể hiện “bản chất người” của chính mình. Hay nói cách khác,
đó là thể chất, năng lực, trí tuệ, phẩm chất đạo đức của chủ thể với các nhân
tố bên ngồi có thể là tích cực, hay tiêu cực tác động trực tiếp hay gián tiếp
vào quá trình phản ánh có mục đích nhằm cải tạo thế giới. Tuy nhiên, nhân tố
con người khơng đồng nhất với chính bản thân con người (hay chủ thể), từ
con người ở đây là nói đến mặt sinh học và xã hội nằm trong chính bản thân
con người. Cịn về nhân tố con người là nhấn mạnh đến vai trò của con người,
chủ thể của một quá trình phát triển xã hội với những tiềm năng khơng cạn
kiệt. Do đó, nhân tố con người được coi là nguồn “nội sinh” quyết định sự
phát triển. Đồng thời, nhân tố con người cũng không đồng nhất với nhấn tố
khách thể; nghĩa là, nhân tố người (chủ thể người), với các nhân tố khác (nhân
14


tố kỹ thuật, nhân tố tư nhiên...). Cho nên, quá trình nghiên cứu “phát huy nhân
tố con người” yêu cầu đặt ra khơng chỉ để tìm phương hướng khai thác, sử
dụng mà còn phải chăm lo, bồi dưỡng nhằm tạo ra giá trị vật chất và giá trị
tinh thần để phát triển xã hội.

1.1.2. Quan niệm nhân tố con người ở Lữ đoàn 242 Quân khu 3
trong bảo vệ tuyến đảo Đơng Bắc
Lữ đồn 242 Qn khu 3, thực hiện nhiệm vụ phịng thủ bảo vệ tuyến
đảo Đơng Bắc, một địa bàn có vị trí chiến lược về quốc phịng - an ninh và
kinh tế - xã hội của đất nước. Đây là một địa điểm du lịch lý tưởng của du
khách trong và ngồi nước, dưới lịng biển có nhiều tài nguyên, khoáng sản
phong phú, đa dạng: chứa đựng nguồn than lớn, hải sản có nhiều lồi q
hiếm tập trung với mật độ lớn. Về quốc phòng - an ninh là cửa ngõ, tiền tiêu
của Tổ quốc, trong lịch sử dựng nước và giữ nước trên tuyến biển đảo Đông
Bắc đã chứng kiến nhiều chiến công của dân tộc Việt Nam, như : Chiến thắng
Bạch Đằng của Ngô Quyền năm 938, chiến thắng oanh liệt năm 1288 của
Trần Hưng Đạo, chống quân Tống xâm lược…; thời kỳ chống thực dân Pháp,
Đế quốc Mỹ, nhiệm vụ và chiến công của Lữ đoàn là: Tiêu diệt sinh lực địch,
bắt địch phải dừng chân tại chỗ, đánh địch đổ bộ đường không, đường biển,
ngăn chặn các mũi tiến công của địch từ hướng biển Đơng Bắc [36, tr.120].
Do đó, Lữ đồn 242 Quân khu 3 từ trong khánh chiến đến xây dựng CNXH
luôn được sự quan tâm đặc biệt của Bộ Quốc phịng, Qn khu 3 và Đảng bộ
Chính quyền tỉnh Quảng Ninh.
Lữ đoàn 242 Quân khu 3 từ khi thành lập cho tới nay, với nhiệm vụ
chính trị trọng tâm bảo vệ vững chắc tuyến đảo Đông Bắc Tổ quốc. Để đáp
ứng với tính chất, u cầu nhiệm vụ Lữ đồn 242 Quân khu 3 về tổ chức, biên
chế, có sự thay đổi cho phù hợp với tính đặc thù của đơn vị làm nhiệm vụ
ngồi biển đảo Đơng Bắc trong tình hình mới. Biên chế các tiểu đồn khối

15


đảo khác hẳn so với mẫu biên chế của các đơn vị khác trong tồn qn đó là:
Qn số, phương tiện vũ khí trang bị với nhiều quân binh chủng khác nhau.
Bảo vệ tuyến đảo Đông Bắc là nhiệm vụ của tồn Đảng, tồn qn và

tồn dân ta, trong đó cán bộ, chiến sĩ ở Lữ đoàn 242 Quân khu 3 là lực lượng
lòng cốt, để ngăn chặn, đẩy lùi nguy cơ can thiệp quân sự và sung đột vũ trang,
xâm hại đến chủ quyền biển đảo, vùng trời, vùng biển thuộc quyền quản lý của
Việt Nam. Đối tượng tác chiến đa dạng, phức tạp. Đặc biệt, trong thời gian gần
đây Trung Quốc có hàng loạt các hoạt động tạo ra nguy cơ và thách thức lớn về
tranh chấp biển đảo, sự bất ổn về chính trị, quốc phịng - an ninh, biểu hiện trực
tiếp nhất là trên quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa của chúng ta.
Chiến đấu và sẵn sàng chiến đấu bảo vệ toàn vẹn chủ quyền biển đảo,
thềm lục địa tuyến đảo Đông Bắc, chống mọi hành động phá hoại, vi phạm chủ
quyền quốc gia, bảo vệ cơng cuộc lao động hịa bình của nhân dân trên tuyến
biển đảo Đơng Bắc Tổ quốc. Do đó, hơn lúc nào hết việc phát huy nhân tố con
người ở Lữ đồn 242 Qn khu 3 ln là sự cần thiết.
Lữ đồn 242 là lực lượng nịng cốt trong bảo vệ tuyến đảo Đông Bắc. Về
tổ chức biên chế gồm: 4 phịng, 5 tiểu đồn, 8 đại đội trực thuộc. Các đơn vị
trong Lữ đồn đóng qn phân tán rộng khắc trên tuyến đảo Đông Bắc, cho
nên về biên chế quân số, vũ khí trang bị kỹ thuật giữa các đơn vị trong Lữ đồn
cũng khác nhau, tùy vào tính chất nhiệm vụ, địa danh đóng quân, phạm vi hiệp
đồng quân binh chủng với các lực lượng của các đơn vị trên từng đảo.
Ngồi ra có sự tham gia phối thuộc, hiệp đồng của các đơn vị như lực
lượng vũ trang địa phương tỉnh Quảng Ninh; Thông tin - Rađar thuộc binh
chủng Thơng tin; Tiểu đồn Phịng khơng thuộc Qn chủng Phịng khơng Khơng qn; Đồn Biên phịng, Cảnh sát biển và nhân dân đang công tác, sinh
sống trên các đảo, ngư dân đang đánh bắt hải sản….Vậy, để hoàn thành các
nhiệm vụ trên tuyến đảo Đông Bắc, trước hết cần nâng cao chất lượng những

16


con người đang trực tiếp công tác nơi đây. Trong đó Lữ đồn 242 Qn khu 3
là đối tượng trực tiếp nhất mà tác giả luận văn nghiên cứu.
Trong xây dựng, chiến đấu và trưởng thành cán bộ, chiến sĩ Lữ đoàn 242

Quân khu 3 đã xây dựng nên truyền thống “Đoàn kết, bám trụ, kiên cường giữ
đảo”. Truyền thống đó được biểu hiện ở lịng trung thành vơ hạn với Đảng, với
Tổ quốc và nhân dân; chủ động, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm; dũng cảm, kiên
cường, mưu trí trong thực hiện nhiệm vụ, đó là đặc điểm sâu sắc nhất, cơ sở
trực tiếp nhất để phát huy nhân tố con người ở Lữ đoàn 242 Quân khu 3.
Về tính chất nhiệm vụ: Trước u cầu của cơng cuộc xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc hiện nay, Đảng ta nhận thức sâu sắc và thể hiện rõ quan điểm về
phát triển kinh tế độc lập tự chủ, trong đó phát triển kinh tế biển là then chốt,
bảo vệ vững chắc độc lập chủ quyền biên giới quốc gia trong quá trình phát
triển và hội nhập quốc tế.
Bảo vệ vững chắc chủ quyền biển đảo là nghĩa vụ và trách nhiệm thiêng
liêng của mỗi công dân Việt Nam đối với vận mệnh lịch sử dân tộc, là nhân tố
quan trọng bảo đảm cho dân tộc ta phát triển bền vững. Đó là ý chí sắt đá,
quyết tâm khơng gì lay chuyển được của dân tộc Việt Nam nói chung, bộ đội
Lữ đồn 242 Qn khu 3 nói riêng dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt
Nam. Tình hình quốc phòng an ninh trong thời gian qua, cụ thể trên hướng
biển; có những tranh chấp về biển đảo mà trực tiếp nhất là Trung Quốc bất
chấp dư luận thế giới, luật pháp quốc tế về luật biển ngang nhiên tôn tạo, xâm
lấn, vi phạm chủ quyền trên quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của chúng ta. Do
đó, nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền trên biển trong giai đoạn hiện nay càng khó
khăn và phức tạp. Đặc biệt, nhiệm vụ của Lữ đoàn 242 Quân khu 3, với địa
bàn hoạt động rộng, các Tiểu đoàn hoạt động phân tán trên vùng biển đảo Đơng
Bắc của Tổ quốc, khi có tình huống xảy ra thường tác chiến tự chủ, độc lập. Vì
vậy, địi hỏi cán bộ, chiến sĩ Lữ đồn phải có bản lĩnh chính trị vững vàng, ý
chí quyết tâm cao, tích cực, chủ động, sáng tạo, mưu trí, dũng cảm, sức khỏe

17


dẻo dai, trình độ chun mơn tốt, hậu phương gia đình vững chắc mới hồn

thành nhiệm vụ đặt ra.
u cầu nhiệm vụ: Tiếp tục xây dựng Lữ đoàn theo hướng cách mạng,
chính quy, tinh nhuệ và từng bước hiện đại, có khả năng thích ứng với mơi
trường biển đảo, xử lý linh hoạt, chính xác các tình huống có thể xảy ra. Nâng
cao tinh thần cảnh giác, sẵn sàng chiến đấu cao; xây dựng đơn vị huấn luyện
giỏi, kỷ luật nghiêm, nền nếp chính quy tốt. Khơng ngừng nâng cao chất
lượng công tác hậu cần, kỹ thuật bảo vệ vững chắc chủ quyền, mơi trường hịa
bình, ổn định trên tuyến đảo Đơng Bắc. Theo đó, Lữ đồn 242 Qn khu 3
muốn hồn thành nhiệm vụ phịng thủ bảo vệ vững chắc tuyến đảo Đơng Bắc
trong tình hình mới, từ đó đặt ra cần phải làm tốt việc phát huy nhân tố con
người nơi đây.
Nhân tố con người ở Lữ đoàn 242 Quân khu 3 trong bảo vệ tuyến đảo
Đông Bắc
Nhân tố con người ở Lữ đoàn 242 Quân khu 3, mang đầy đủ phẩm chất
nhân tố con người Việt Nam, người quân nhân cách mạng, đó là tinh thần yêu
nước nồng nàn, ý chí tự lực tự cường, lao động cần cù, sáng tạo, biết ứng xử linh
hoạt, có tinh thần đoàn kết cộng đồng, nhân ái, bao dung, độ lượng, coi trọng
nghĩa tình “lá lành đùm lá rách, thương người như thể thương thân”…; đặc trưng
nhân tố người quân nhân cách mạng trong QĐND Việt Nam, đã là Bộ đội Cụ Hồ thì
khơng thể khơng nhắc tới truyền thống “Trung với Đảng, hiếu với dân, sẵn sàng
chiến đấu hy sinh vì độc lập tự do của Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội. Nhiệm vụ
nào cũng hồn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh
thắng” [33, tr.303 - 304], đó là những phẩm chất cao quý nhất, mà chỉ “Bộ
đội Cụ Hồ” mới có.
Bộ đội Lữ đoàn 242 Quân khu 3 ngoài những phẩm chất trên cịn có
những nét đặc trưng riêng mang tính đặc thù, vì họ là cán bộ, chiến sĩ được
rèn luyện, huấn luyện và chiến đấu trong môi trường khắc nhiệt nhất; ở nơi
chỉ có biển, đảo và sóng gió. Họ thường xuyên phải đối mặt với những trận
18



bão cát, những trận gió rét; trong sinh hoạt cuộc sống hàng ngày cán bộ, chiến
sĩ Lữ đồn cịn khó khăn, vất vả, thiếu thốn về mọi mặt, họ phải trải qua sự
khắc nhiệt của môi trường biển đảo, sống xa gia đình, người thân, ít có điều
kiện về thăm gia đình; đời sống cơ sở hạ tầng cịn rất nhiều khó khăn thiếu
thốn thậm chí có những chốt trực vẫn cịn nhà lá, nhà cấp 4 ...; q trình thực
hiện nhiệm vụ ngoài biển đảo cán bộ, chiến sĩ hàng ngày, hàng giờ luôn phải
đối mặt với hiểm nguy, với yêu cầu nhiệm vụ ngày càng đòi hỏi phải được
nâng cao. Từ tính đặc thù của mơi trường cơng tác, tính chất nhiệm vụ và
hồn cảnh sống trên biển đảo đã quy định tâm lý, lối sống của cán bộ, chiến sĩ
Lữ đồn, chính trong gian khổ, nguy hiểm, bản lĩnh của người lính biển đảo
được rèn luyện, thử thách và trưởng thành, tạo nên nhân tố đặc trưng bộ đội
Lữ đoàn 242 Quân khu 3 Đoàn kết, bám trụ, kiên cường giữ đảo. Điều đó,
chứng minh truyền thống của Lữ đoàn 242 Quân khu 3, đúng như C.Mác
khẳng định: “Con người tạo ra hoàn cảnh, trong chừng mực nào thì hồn cảnh
cũng tạo ra con người trong chừng mực ấy” [29, tr.55].
Đồn kết, ln là nhân tố khơng thể thiếu với bất kỳ một tổ chức nào,
nếu tổ chức đó muốn tồn tại và phát triển. Đặc biệt, đối với Lữ đồn 242
Qn khu 3 với tính chất đặc thù cơng tác ngồi biển đảo, hàng ngày phải đối
mặt với hiểm nguy, môi trường sống khắc nhiệt của sóng biển, cát bụi và ln
đối mặt với đối tượng tác chiến có tiềm lực về kinh tế, quân sự, âm mưu tinh
vi và xảo quyệt... Chính vì lẽ đó, nhân tố đoàn kết là sức mạnh cả về vật chất,
tinh thần để vươn lên hoàn thành mọi nhiệm vụ được giao. Cùng với nhân tố
“đoàn kết” là tinh thần “bám trụ” của cán bộ, chiến sĩ Lữ đoàn nơi đầu sóng,
ngọn gió, đó là sự thể hiện quyết tâm vững vàng khơng gì có thể lay chuyển
được, khi cán bộ, chiến sĩ đã được giáo dục, rèn luyện, thử thách trong môi
trường khắc nhiệt nhất, nhận thức sâu sắc nhất về quyền, nghĩa vụ, trách
nhiệm của bản thân với Tổ quốc và tình u biển đảo từ đó yếu tố ý thức
chuyển hóa thành giá trị vật chất để cán bộ, chiến sĩ Lữ đồn cho dù khó khăn,
19



hiểm nguy đến mấy vẫn vững vàng hiên ngang bám trụ với biển đảo để chiến
thắng kẻ thù. Hơn thế, truyền thống “kiên cường” là nét đặc sắc vốn có của
người lính bộ đội Cụ Hồ được cán bộ, chiến sĩ Lữ đồn 242 Qn khu 3 tơ
thắm thêm, khẳng định chắc chắn hơn bằng những chiến thắng oanh liệt, lừng
nẫy với ý chí quặt cường, gan dạ, dũng cảm chiến đấu khơng sơ hy nơi đầu
sóng, ngọn gió, giữ chọn biên cương, chủ quyền tuyến đảo Đông Bắc Tổ quốc.
Cho đến ngày nay, nơi đây vẫn còn tiềm ẩn nhiều yếu tố bất ổn về
quốc phòng - an ninh, khi mà các nước lớn có âm mưu xâm lược biển đảo,
cuộc sống nơi đây vẫn gặp mn vàn khó khăn... Thế nhưng cán bộ, chiến sĩ
Lữ đoàn vẫn kiên cường cầm chắc cây súng bảo vệ vững chắc chủ quyền
tuyến đảo Đông Bắc Tổ quốc. Đồng thời, những đặc trưng đó cũng là điều
kiện để khẳng định tố chất của người lính đảo Đơng Bắc “Đồn kết, bám trụ,
kiên cường giữ đảo”.
Tính đặc thù của bộ đội Lữ đồn 242 Quân khu 3 được hình thành và
phát triển cũng khác so với bộ đội Hải quân đang thực hiện nhiệm vụ trên quần
đảo Trường Sa, Hoàng Sa của Tổ quốc. Lữ đoàn 242 chịu sự lãnh đạo, quản lý
trực tiếp của Đảng ủy, Bộ tư Lệnh Quân khu 3, một đơn vị binh chủng hợp
thành. Do đó, mức độ quan tâm và đầu tư của trên theo mức lực lượng vũ trang
địa phương, vũ khí trang bị chủ yếu là vũ khí bộ binh, vũ khí hỏa lực hạng
trung, tầu suồng loại nhỏ, chính sách đãi ngộ được sự ưu tiên của Đảng, Nhà
nước, và Đảng ủy, chính quyền nhân dân tỉnh Quảng Ninh, tuy nhiên chỉ là một
phần rất nhỏ so với các đơn vị làm nhiệm vụ trên quần đảo Trường Sa, Hồng
Sa. Trong khi đó về yêu cầu nhiệm vụ, môi trường công tác như nhau, thậm chí
về chế độ xây dựng nền nếp chính quy, tần xuất áp lực trong huấn luyện chiến
đấu còn nặng hơn so với bộ đội Trường Sa, Hoàng Sa… Nhưng cán bộ, chiến
sĩ trên tuyến đảo Đơng Bắc khơng vì thế mà khơng hồn thành nhiệm vụ,
ngược lại bản lĩnh của họ cơ bản ln vững vàng, có ý chí quyết tâm cao, khả
năng hoàn thành khá tốt mọi nhiệm vụ được giao.

20


Từ cơ sở lý luận và thực tiễn, qua phân tích ở trên quan niệm: Nhân tố
con người ở Lữ đồn 242 Qn khu 3 là tổng hịa các đặc trưng về thể chất,
năng lực, trí tuệ, phẩm chất đạo đức cách mạng quy định vai trị của chủ thể
tích cực, tự giác, sáng tạo trong nhận thức và hoạt động thực tiễn bảo vệ
tuyến đảo Đông Bắc Tổ quốc.
Quan niệm nhân tố con người ở Lữ đoàn 242 Quân khu 3 được khái
quát từ những phẩm chất sinh học và phẩm chất xã hội của chủ thể trong thực
hiện nhiệm vụ trên tuyến đảo Đông Bắc, nhưng quan trọng và căn bản nhất đó
là tố chất người lính biển đảo Đơng Bắc, những phẩm chất riêng có tạo nên
tính đặc thù của nhân tố con người Lữ đoàn 242 Quân khu 3. Những đặc
trưng đó được thể hiện trong nhận thức và năng lực hoạt động thực tiễn.
Nhận thức được vị trí, vai trị của biển đảo Việt Nam là một vấn đề có ý
nghĩa cực kỳ quan trọng đối với công cuộc xây dựng và phát triển đất nước.
Đặc biệt, đối với tuyến đảo Đơng Bắc đó là khu vực phát triển kinh tế biển và
có vị trí chiến lược quan trọng về quốc phòng an ninh, là khu vực để chúng ta
khẳng định chủ quyền, quyền chủ quyền; ngồi ra biển đảo Việt Nam cịn có
vị trí quan trọng về quân sự đối với các nước trong khu vực và các nước lớn;
lịch sử cho thấy trong 14 cuộc chiến tranh xâm lược của kẻ thù đối với chúng
ta, thì có 10 cuộc bắt đầu từ hướng biển, mặt khác cán bộ, chiến sĩ Lữ đoàn
thấm nhuần lời dậy của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Ngày trước ta chỉ có đêm và
rừng. Ngày nay ta có ngày, có trời, có biển. Bờ biển ta dài, tươi đẹp. Ta phải
biết giữ gìn lấy nó” [21, tr.5]. Từ chân lý, tầm vóc vĩ đại của biển đảo Việt
Nam mà cán bộ, chiến sĩ Lữ đoàn hàng ngày, hàng giờ bỏ qua những lợi ích
cá nhân, hy sinh vì lợi ích xã hội, ra sức rèn luyện tu dưỡng cả về phẩm chất
đạo đức cách mạng, năng lực, trí tuệ, khả năng thích ứng với mơi trường khắc
nghiệt nhất ở ngồi biển đảo Đơng Bắc... Đó là những đặc trưng rất đặc thù
của cán bộ, chiến sĩ ở Lữ đoàn 242 Quân khhu 3.


21


Nhân tố con người ở Lữ đoàn 242 Quân khu 3 thơng qua hoạt động
thực tiễn, đó là lao động qn sự, mà trước hết ln vì lợi ích xã hội, lợi ích
quốc gia, dân tộc được diễn ra trong những điều kiện hồn cảnh khó khăn của
mơi trường sống, của địa hình phức tạp trên các đảo, khu vực làm nhiệm vụ
rộng lớn trên biển với những tình huống diễn biến nhanh chóng mau lẹ, khắc
nghiệt, khó lường, phải đối mặt với nhưng âm mưu thủ đoạn của các thế lực
thù địch, của những kẻ có ý định xâm lược nước ta... Trong những hoạt động
của bộ đội Lữ đồn, trong đó hoạt động về huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu và
chiến đấu hy sinh bảo vệ vững chắc tuyến đảo Đông Bắc là đặc trưng nổi bật
nhất trong nhân tố con người nơi đây, khẳng định đó là một dạng lao động
đặc thù, chấp nhận hy sinh, thể hiện lịng dũng cảm, tính tích cực, tự giác,
sáng tạo trong thực hiện mọi nhiệm vụ ở tuyến đảo Đông Bắc.
Nhân tố con người ở Lữ đoàn 242 Quân khu 3 thông qua phẩm chất
cách mạng của cán bộ, chiến sĩ. Là những người được tuyển chọn, được rèn
luyện, thử thách trong thực tiễn, nhất là trong thời gian công tác ở biển đảo
Đông Bắc; là môi trường cán bộ, chiến sĩ được rèn dũa, huấn luyện tạo nên
những tố chất riêng biệt của người chiến sĩ hải đảo Đông Bắc.
Trong những tố chất đó, thì phẩm chất chính trị - tinh thần được đặt lên
hàng đầu. Chính tri - tinh thần không những làm tăng lên sức mạnh của từng
nhân tố trong chủ thể, mà còn gắn kết các nhân tố với nhau, tạo lên sức mạnh
tổng hợp. Cùng với phẩm chất chính trị - tinh thần, truyền thống đoàn kết phải
được phát huy mọi lúc, mọi nơi, mọi hồn cảnh. Cán bộ, chiến sĩ gắn bó
thương u lẫn nhau, thiết tha gắn bó với đảo, với biển. Phải hết lịng thương
u đồng đội, đồn kết giúp đỡ nhau về mọi mặt, khắc phục khó khăn gian
khổ, vượt qua hoàn cảnh, hoàn thành mọi nhiệm vụ được giao... Những thành
tích đó, được đúc kết thành truyền thống của Lữ đoàn “Đoàn kết, bám trụ,

kiên cường giữ đảo”.

22


Nhân tố con người ở Lữ đoàn 242 Quân khu 3 thông qua năng lực hoạt
động thực tiễn. Năng lực cán bộ, chiến sĩ Lữ đồn được hình thành trong quá
trình đào tạo, huấn luyện và quá trình tự rèn luyện của mỗi cán bộ, chiến sĩ
ứng với tính chất và yêu cầu về nhiệm vụ tạo lên tinh thần thép, có trình độ kỹ
chiến thuật cao, khả năng sử dụng thành thạo các loại vũ khí trang bị, có sức
khoẻ tốt, khả năng thích ứng với mọi điều kiện hồn cảnh.
Ngồi những đặc trưng, nhân cách trên địi hịi về tính tự giác, năng
động, sáng tạo ngày một cao của bộ đội hải đảo Đông Bắc là phương thức để
chiến thắng kẻ thù có vũ khí hiện đại, tiềm lực kinh tế lớn hơn ta. “Chiến
tranh hiện đại cũng như kỹ thuật hiện đại thì địi hỏi phải có nhân lực có chất
lượng cao” [15, tr.193], cũng đúng với tư tưởng Hồ Chí Minh về đường lối
quân sự “người trước, súng sau”. Điều đó cho thấy vai trị vơ cùng quan trọng
của nhân tố con người, mà cụ thể là nhân tố con người bộ đội Lữ đoàn 242
trên tuyến đảo Đông Bắc.
Như vậy, nhân tố con người ở Lữ đồn 242 Qn khu 3 có vai trị vơ
cùng quan trọng để tạo nên sức mạnh chiến đấu tổng hợp; họ ln là lực
lượng nịng cốt trong bảo vệ tuyến đảo Đông Bắc và trong thế trận chiến tranh
nhân dân trên biển đảo hiện nay. Song, vấn đề đặt ra là phải biết phát hiện, bồi
dưỡng, sử dụng đúng đắn nhân tố con người ở Lữ đoàn 242 Quân khu 3; để
biến đổi tính tích cực, chủ động, sáng tạo đúng phương hướng thì những
phẩm chất xã hội của chủ thể mới bộc lộ ra, tạo sự cải biến tích cực trong sự
nghiệp bảo vệ chủ quyền biển đảo Đông Bắc Tổ quốc hiện nay.
1.1.3. Quan niệm phát huy nhân tố con người ở Lữ đoàn 242 Quân
khu 3 trong bảo vệ tuyến đảo Đông Bắc Tổ quốc
Theo từ điển tiếng việt “Phát huy là làm cho cái hay, cái tốt tỏa tác dụng

và tiếp tục nảy nở thêm” [57, tr.742], thực tiễn xã hội cũng cho thấy phát huy
“cái hay”, “cái tốt” luôn gắn liền với khắc phục hạn chế, yếu kém, các yếu tố
tiêu cực; bởi lẽ nếu khơng khắc phục có hiệu quả các yếu tố trên thì “cái hay,
23


cái tốt” khơng thể phát huy tối đa. Vì vậy, cùng với phát huy các yếu tố tích
cực là quá trình tìm cách khắc phục hạn chế, yếu kém, các yếu tố tiêu cực
trong mỗi chủ thể, trong từng hoàn cảnh, từng nhiệm vụ cụ thể.
Khi tiếp cận vấn đề phát huy nhân tố con người, các nhà khoa học
thường nhấn mạnh mặt chủ quan, coi đó là q trình “Phát hiện, bồi dưỡng,
chăm lo làm bộc lộ, phát triển và sử dụng những tiềm năng sáng tạo của con
người”; có tác giả thì lại cho rằng coi thực chất phát huy nhân tố con người là
“Phát hiện, bồi dưỡng, phát huy cái “năng lực người” (năng lực suy nghĩ và
hành động tự giác, độc lập, sáng tạo...) của con người trong cuộc sống cộng
đồng” [62, tr.102]. Nhưng theo tác giả luận văn nói về nhân tố con người thì
ngồi mặt chủ quan cũng cần coi trọng mặt khách quan, nhấn mạnh tính tích
cực, tự giác gắn liền với tính định hướng, tính mục tiêu với phương pháp phù
hợp từng đối tượng, nhằm phát huy vai trò của chủ thể trong hoạt động thực tiễn.
Thực tiễn cho thấy, phát huy nhân tố con người và q trình tích cực hóa
hoạt động của con người. Hai khái niệm này, phản ánh khái quát quá trình
hoạt động khác nhau của con người nhưng giữa chúng thống nhất với nhau.
Con người trong quan hệ với thế giới luôn là chủ thể nhận thức và cải tạo thế
giới, đặc trưng đó bắt nguồn từ tiềm năng sáng tạo, khả năng hội tụ sức mạnh
của con người (chủ quan) với điều kiện tự nhiên (khách quan) để cải tạo thế
giới. Con người luôn ẩn chứa sức mạnh tiềm năng to lớn nhưng nó chỉ được
giải phóng khi có sự nỗ lực của chủ thể (chủ quan).
Vậy, nhân tố con người Lữ đoàn 242 Quân khu 3 là những cán bộ, chiến
sĩ đang thực hiện nhiệm vụ trên tuyến đảo Đông Bắc Tổ quốc. Họ là chủ thể
trong bảo vệ chủ quyền biển đảo Đông Bắc.

Từ cách tiếp cận trên chỉ ra rằng, phát huy nhân tố con người ở Lữ đoàn
242 Quân khu 3 trong bảo vệ tuyến đảo Đông Bắc, trước hết phải căn cứ vào
tính chất, u cầu nhiệm vụ, hồn cảnh, mơi trường cơng tác để tìm ra quy
luật, phát hiện tiềm năng, bồi dưỡng, kích thích tính tích cực, chủ động, tự
24


giác, sáng tạo của chính họ trong thực tiễn bảo vệ tuyến đảo Đông Bắc gắn
với từng giai đoạn lịch sử cụ thể. Cùng với q trình đó, là khắc phục những
yếu kém, khuyết điểm, những yếu tố tiêu cực trong thực hiện nhiệm vụ.
Phát huy nhân tố con người ở Lữ đoàn 242 Quân khu 3 là một quá trình vận
động, phát triển và hồn thiện theo tính chất, yêu cầu nhiệm vụ của Lữ đoàn,
nhiệm vụ của quân đội trong từng điều kiên, hoàn cảnh cụ thể. Vậy, phát huy
nhân tố con người ở Lữ đoàn 242 Quân khu 3 là quá trình phát hiện, bồi dưỡng,
chăm lo, tạo điều kiện để các phẩm chất, năng lực của cán bộ, chiến sĩ Lữ đồn
242 Qn khu 3 tích cực, chủ động, sáng tạo nhằm phát huy cao nhất những tiềm
năng nội sinh trong thực hiện nhiệm vụ bảo vệ tuyến đảo Đông Bắc Tổ quốc.
Phát huy nhân tố con người ở Lữ đoàn 242 Quân khu 3, là q trình tác
động có mục đích, hợp quy luật. Q trình đó bao gồm việc phát hiện những
yếu tố, những khâu then chốt, phù hợp với tính chất nhiệm vụ để hướng dẫn
cán bộ, chiến sĩ vào những hành động tích cực, tự giác, sáng tạo trong hoạt
động thực tiễn bảo vệ tuyến đảo Đông Bắc hiện nay. Đồng thời, đó cũng là
q trình kích thích, ni dưỡng và phát triển những nhân tố đặc trưng, tiêu
biểu của người chiến sĩ biển đảo Đông Bắc, đồng thời hạn chế những yếu tố
cản trở việc phát huy nhân tố con người ở nơi đây trong thực hiện nhiệm vụ
bảo vệ tuyến đảo Đông Bắc hiện nay.
Như vậy, đặc trưng chủ yếu đầu tiên trong khái niệm phát huy nhân tố
con người ở Lữ đoàn 242 Quân khu 3 trong bảo vệ tuyến đảo Đơng Bắc, là tìm
kiếm, phát hiện những tiềm năng tích cực của cán bộ, chiến sĩ. Những tiềm
năng to lớn trong hoạt động tác chiến trên biển đảo, với tính đặc thù mơi trường

sống, chiến trường hải đảo Đơng Bắc, từng bước thích nghi với những điều
kiện nơi đây, cả những thuận lợi và khó khăn, giải quyết hài hồ các nhu cầu
trong sinh hoạt, xây dựng mơi trường văn hoá, từng bước khắc phục mặt hạn
chế, tiêu cực, ảnh hưởng bởi mặt trái cơ chế thị trường, tính chất khó khăn,
khắc nghiệt của mơi trường tự nhiên và đối tượng tác chiến, để nâng cao chất
lượng môi sinh và mức sống hàng ngày. Từ đó, nâng cao thể lực, trí lực, đời

25


sống văn hố chính trị - tinh thần, gắn bó với đảo, sẵn sàng chiến đấu bảo vệ
biển đảo thân yêu của Tổ quốc trước các thế lực thù địch trên tuyến đảo Đông
Bắc. Đồng thời nâng cao và phát huy những tiềm năng, nguồn lực nội sinh (tâm
lực, trí lực, thể lực...) của chính nhân tố con người cán bộ, chiến sĩ ở Lữ đoàn
242 Quân khu 3 và định hướng sử dụng các nhân tố đó phù hợp tính chất,
nhiệm vụ, với từng điều kiện hồn cảnh nhất định, sử dụng đúng đắn tính tích
cực, chủ động, sáng tạo nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động thực
hiện nhiệm vụ trên tuyến đảo Đông Bắc. Nhân tố con người Lữ đoàn 242 Quân
khu 3 là một tiềm năng, nguồn lực nội sinh có khả năng tiềm tàng, ẩn ở bên
trong, chưa có điều kiện trở thành hiện thực. Chính vì vậy, cùng với tính chất,
u cầu nhiệm vụ trên tuyến đảo Đông Bắc, cùng với sự tác động đúng quy
luật của các nhân tố tích cực, chủ động, sáng tạo làm cho nguồn lực nội sinh đó
được bộc lộ, phát triển thành năng lực xuất sắc, sáng tạo... thì có nghĩa tiềm
năng đã trở thành hiện thực.
Tuy nhiên, muốn nguồn lực nội sinh nhân tố con người Lữ đoàn 242
Quân khu 3 bộc lộ thành năng lực, năng khiếu, tài năng phù hợp với tính chất
yêu cầu nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền tuyến đảo Đông bắc thì phải có điều kiện
nhất định, đó là sự quan tâm của các cấp, các ngành, lãnh đạo các cơ quan, đơn
vị và đặc biệt là sự tu dưỡng, rèn luyện và nhận thức đầy đủ về nhân tố con
người của mỗi cán bộ, chiến sĩ ở Lữ đoàn 242 Quân khu 3 trong bảo vệ tuyến

đảo Đông Bắc hiện nay.
Tóm lại, việc phát hiện những tiềm năng tích cực ở Lữ đồn 242 Qn
khu 3 có ý nghĩa như sự khai phá đầu tiên để hiểu biết được con người và mơi
trường nơi đây, thấy được những khó khăn vất vả, sự khắc nhiệt của cơng
việc. Cùng với đó, chỉ ra những yếu tố, những khâu then chốt để dẫn dắt, định
hướng bộ đội trong hoạt động thực tiễn và hoạt động nhận thức có tính tích
cực, chủ động, sáng tạo trong thực hiện nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền biển đảo
Đông Bắc và các nhiệm vụ khác như tìm kiếm cứu hộ, cứu nạn, tạo điều kiện
cho các thành phần phát triển kinh tế biển, đảo. Từ đó, cần có nhiều phương
26


×