Tải bản đầy đủ (.doc) (108 trang)

LUẬN văn THẠC sĩ phát triển lối sống xã hội chủ nghĩa của hạ sĩ quan, binh sĩ ở sư đoàn 316 quân khu 2 hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (548.56 KB, 108 trang )

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài
Sư đoàn 316 là đơn vị chủ lực làm nhiệm vụ huấn luyện, sẵn sàng cơ
động chiến đấu và thực hiện các nhiệm vụ đột xuất khác của Quân khu 2, trong
biên chế tổ chức của Sư đoàn lực lượng hạ sĩ quan, binh sĩ chiếm đa số, họ là
con em các dân tộc trên địa bàn đang thực hiện nghĩa vụ quân sự. Quán triệt
quan điểm, chủ trương Chỉ thị 917/199/CT-QP của Bộ trưởng Bộ Quốc phòng
“Về xây dựng đơn vị vững mạnh toàn diện”, nhận thức rõ đặc điểm về đối
tượng chỉ huy, quản lý và yêu cầu nhiệm vụ Đảng ủy, Ban chỉ huy Sư đoàn 316
đã đặc biệt quan tâm chăm lo phát triển đạo đức, lối sống xã hội chủ nghĩa của
hạ sĩ quan, binh sĩ bằng nhiều hình thưc, biện pháp phong phú. Kết quả hàng
năm, hạ sĩ quan, binh sĩ của sư đoàn cơ bản hoàn thành nghĩa vụ qn sự, có
nhiều đồng chí được kết nạp trở thành đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam và
tiếp tục được đào tạo chuyển thành quân nhân chuyên nghiệp cơng tác lâu dài
trong qn đội, có đồng chí xuất ngũ về tham gia cơng tác ở chính quyền địa
phương tiếp tục cống hiến xây dựng quê hương.
Tuy nhiên, bên cạnh những mặt đã đạt được cịn bộc lộ khơng ít những hạn
chế. Do thời gian nhập ngũ ngắn; ảnh hưởng của lối sống cũ của phong tục, tập
quán; thành phần đa dạng thuộc nhiều dân tộc, nhiều vùng miền khác nhau trình
độ nhận thức khơng đồng đều, chứa đựng nhiều sự khác biệt về phong tục tập
quán, sự khác biệt về lối sống vùng miền của hạ sĩ quan, binh sĩ làm ảnh hưởng
đến chất lượng phát triển lối sống xã hội chủ nghĩa và xây dựng tập thể qn nhân
đồn kết cịn có hạn chế ảnh hưởng trực tiếp tới chất lượng hoàn thành nhiệm vụ
của đơn vị.
Những năm tiếp theo, nhiêm vụ xây dựng Sư đoàn 316 vững mạnh toàn
diện, khả năng cơ động sẵn sàng chiến đấu cao tiếp tục được đặt lên hàng đầu.
Trong điều kiện tình hình thế giới và khu vực có nhiều diễn biến phức tạp, các thế
lực thù địch không ngừng chống phá cách mạng nước ta với nhiêu thủ đoạn tinh
3



vi và tính chất ngày càng quyết liệt hơn, trong đó có sự chống phá về đạo đức, lối
sống. Bên cạnh những thành tựu sau hơn 30 đổi mới thực hiện nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa, hội nhập quốc tế bên cạnh tác động tích cực
cũng tiềm ẩn nguy cơ làm mờ nhạt lối sống của thế hệ trẻ và truyền thống tốt đẹp
của dân tộc. Thêm vào đó, là những tác động tiêu cực của mặt trái nên kinh tế thị
trường, điều kiện kinh tế, chính trị, văn hóa, lối sống trên địa bàn Sư đồn đóng
qn có ảnh hưởng khơng nhỏ đến lối sống của cán bộ, chiến sĩ.
Từ những vấn đề cơ bản của lý luận và thực tiễn đã phân tích, việc phát
triển lối sống xã hội chủ nghĩa của hạ sĩ quan, binh sĩ ở Sư đoàn 316 Quân khu 2
là yêu cầu cấp bách hiện nay. Vì thế học viên lựa chon vấn đề “Phát triển lối sống
xã hội chủ nghĩa của hạ sĩ quan, binh sĩ ở Sư đoàn 316 Quân khu 2 hiện nay” làm
đề tài luận văn của mình.
2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
Xung quanh vấn đề lối sống liên quan đến đề tài, thời gian qua có một số
tác giả, cơng trình quan tâm nghiên cứu đề cập như:
* Cơng trình nghiên cứu về lối sống, lối sống xã hội chủ nghĩa
Lối sống là vấn đề có nội hàm rộng lớn, phức tạp, phản ánh sự phát triển
của con người và xã hội nên được nhiều nhà khoa học quan tâm nghiên cứu. Tiêu
biểu có một số cơng trình của các nhà khoa học Liên Xô (cũ) được dịch sang tiếng
Việt, như: E.V.Xtơrucốp (1977), “Lối sống XHCN, những vấn đề lý luận và giáo
dục - tư tưởng” [22]; G.E.Gledơman, M.N.Rútkêvích, X.X.Vítsơnhépxki (1982),
“Lối sống xã hội chủ nghĩa” [23]; V.I.Đơbrưnina (2002), “Lối sống Xô viết, hôm
nay và ngày mai” [48]. Các cơng trình trên đã đưa ra và phân tích sâu sắc khái
niệm lối sống, phân biệt với một số khái niệm khác liên quan, chỉ rõ mối quan hệ
giữa lối sống với phương thức sản xuất và các điều kiện của một hình thái kinh tế
- xã hội; từ đó làm rõ các vấn đề về khái niệm, cơ sở của lối sống xã hôi chủ
nghĩa; bản chất, biểu hiện, những vấn đề có tính quy luật và con đường, biện pháp
4



xây dựng, phát triển lối sống xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và vận dụng vào thực
tiễn các nước trên thế giới.
Đặc biệt, cơng trình “Lối sống Xơ viết, hôm nay và ngày mai”[48] của tác
giả V.I.Đôbrưnina đã đi sâu phân tích các vấn đề “Hai thế giới - hai lối sống”,
“Tính chất dân chủ của lối sống xã hội chủ nghĩa”, “Lao động và lối sống”,
“Văn hóa và lối sống” để làm rõ các vấn đề lý luận, thực tiễn về lối sống xã hội
chủ nghĩa; từ đó khẳng định việc xây dựng, phát triển lối sống xã hội chủ nghĩa
có ý nghĩa cấp bách và quan hệ chặt chẽ với các nhiệm vụ xây dựng cơ sở vật
chất - kỹ thuật, xây dựng các quan hệ xã hội và xây dựng con người mới của chủ
nghĩa cộng sản. Đây còn là nội dung quan trọng của cuộc đấu tranh giai cấp
nhằm phê phán những quan điểm, tư tưởng chống cộng và cơ hội - xét lại đang
xuyên tạc, bơi nhọ chính sách của các Đảng Cộng sản; đồng thời tuyên truyền
những thành tựu của chủ nghĩa xã hội hiện thực trong nhân dân.
Ở nước ta, vấn đề lối sống cũng đã được nhiều nhà khoa học nghiên cứu
ở các góc độ tiếp cận khác nhau. Nghiên cứu lối sống trong mối quan hệ với
đạo đức và các giá trị xã hội có cơng trình của Đào Trí Úc (1995) (chủ biên),
“Xây dựng ý thức và lối sống theo pháp luật”[47]. Tác giả Đào Trí Úc trên cơ
sở làm rõ một số vấn đề lý luận thực tiễn về lối sống đã phân tích sự ảnh hưởng
của phương thức sản xuất, hệ tư tưởng, văn hoá, đạo đức và tập quán truyền
thống; điều kiện phát triển đất nước; cơ chế quản lý kinh tế, quản lý xã hội đến ý
thức và lối sống theo pháp luật của con người Việt Nam; từ đó đề xuất các giải
pháp xây dựng ý thức và lối sống theo pháp luật trong xã hội hiện nay. Huỳnh
Khái Vinh (2001) (chủ biên), “Một số vấn đề về lối sống, đạo đức, chuẩn giá
trị xã hội” [54], tác giả đã trình bày phạm vi nghiên cứu và một số cách tiếp cận,
nghiên cứu về lối sống; phân tích sự tác động của các nhân tố chính trị, kinh tế, xã
hội và xu hướng chuyển đổi lối sống, đạo đức, chuẩn giá trị xã hội trong giai đoạn
đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và những nội dung kế thừa và
phát triển nếp sống, đạo đức và các giá trị truyền thống dân tộc trong xây dựng lối
5



sống, đạo đức, chuẩn giá trị xã hội mới ở nước ta hiện nay; Chu Khắc Thuật và
Nguyễn Văn Thủ (1998), “Văn hóa, lối sống với mơi trường” [43]; Nguyễn
Viết Chức (2001) (chủ biên), “Xây dựng tư tưởng, đạo đức, lối sống và đời
sống văn hóa ở thủ đơ Hà Nội trong thời kỳ đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước” [5]. Các cơng trình trên đã nghiên cứu lối sống trong mối
quan hệ với các lĩnh vực văn hóa, đạo đức, mơi trường; từ đó đưa ra các giải
pháp và kiến nghị trong xây dựng, phát triển các vấn đề trên ở nước ta.
Nghiên cứu lối sống ở phương diện lịch sử và tâm lý có cơng trình của
Thanh Lê (2004), “Giáo dục lối sống - nếp sống mới” [31], tác giả đã phân
tích khái niệm lối sống, cơ sở, đặc trưng của lối sống xã hội chủ nghĩa và so
sánh với đặc trưng của lối sống tư sản. Từ đó vận dụng vào xem xét lối sống
đô thị và xây dựng lối sống - nếp sống đơ thị, trực tiếp là ở thành phố Hồ Chí
Minh nước ta. Đỗ Huy (2008), “Lối sống dân tộc - hiện đại mấy vấn đề lý
luận và thực tiễn” [27], tác giả đã phân tích rõ điều kiện khách quan hình
thành lối sống dân tộc - hiện đại xã hội chủ nghĩa; bản chất và nội dung cơ
bản của lối sống dân tộc - hiện đại xã hội chủ nghĩa; sự vận động của lối sống
dân tộc - hiện đại ở Việt Nam trước và trong thời kỳ đổi mới; vai trò của lối
sống dân tộc - hiện đại với sự phát triển nhân cách người Việt Nam. Phạm
Minh Hạc (2001) (chủ biên), “Tâm lý người Việt Nam đi vào cơng nghiệp
hóa, hiện đại hóa - Những điều cần khắc phục” [24], tác giả đã chỉ ra những
mạnh, yếu trong lối sống truyền thống của người Việt Nam; từ đó khẳng định
những giá trị cần phải kế thừa, phát huy và những hạn chế cần khắc phục
trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Các cơng trình trên đã
đưa ra định nghĩa về lối sống; chỉ ra đặc điểm tư duy và lối sống truyền thống
của người Việt Nam; những ưu điểm và hạn chế trong lối sống truyền thống
của dân tộc; từ đó đề xuất các giải pháp phát triển lối sống mới – xã hội chủ
nghĩa, ở nước ta.
6



Nghiên cứu về phát triển lối sống của thanh niên và sinh viên có cơng trình của Phạm Hồng Tung
(2011), “Thanh niên và lối sống của thanh niên Việt Nam trong quá trình đổi mới và hội nhập quốc tế” [46], cơng
trình đã làm sáng tỏ các vấn đề lý luận và thực tiễn về lối sống của thanh niên; đánh giá thực trạng lối sống của
họ; đồng thời đề xuất một số giải pháp phát triển lối sống của thanh niên ở nước ta hiện nay, trong đó Phạm Hồng
Tung đã chỉ ra những đặc trưng cơ bản của thanh niên và lối sống của thanh niên hiện nay; xu hướng biến đổi lối
sống của thanh niên trong quá trình đổi mới đất nước và hội nhập quốc tế; những yếu tố tác động, có tính chất
định hướng trong quá trình biến đổi lối sống của thanh niên; từ đó đưa ra những khuyến nghị và giải pháp xây
dựng, phát triển lối sống thanh niên hiện nay.

Một số công trình nghiên cứu về sự suy thối về lối sống trong cán
bộ, đảng viên hiện nay, như bài viết của Ban Tổ chức Trung ương, Tạp chí
Cộng sản, Thành ủy thành phố Hồ Chí Minh, “Bàn về giải pháp ngăn
chặn, đẩy lùi suy thối tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống hiện nay”
[1]. Bài viết đã phân tích thực trạng suy thối và việc phịng chống sự suy
thối về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong cán bộ, đảng viên ở
nước ta hiện nay; trên cơ sở đó đề xuất mục tiêu, quan điểm, giải pháp và
những điều kiện thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ phịng, chống suy thối
tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong cán bộ, đảng viên, nhằm nâng
cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng và củng cố niềm tin của
đảng viên và nhân dân đối với Đảng hiện nay.
* Cơng trình nghiên cứu liên quan đến lối sống, lối sống xã hội chủ
nghĩa và phát triển lối sống xã hội chủ nghĩa của quân nhân trong quân đội
nhân dân Việt Nam
Nghiên cứu về lối sống của con người trong mơi trường qn sự là vấn
đề khó và phức tạp. Bởi hoạt động của con người bên cạnh tác động của những
quy luật chung còn bị chi phối bởi các quy luật đặc thù của tổ chức quân sự.
Một số cơng trình đã nghiên cứu việc phát triển lối sống của sĩ quan trẻ quân
đội và những ảnh hưởng của chủ nghĩa cá nhân, thực dụng đến nhân cách


7


người cán bộ quân đội ta. Tiêu biểu là công trình của tác giả Nguyễn Ngọc Ba
(2003), “Ảnh hưởng của chủ nghĩa thực dụng đến nhân cách người cán bộ
hậu cần quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay” [2]. Cơng trình đã phân tích
các vấn đề lý luận, thực tiễn về chủ nghĩa cá nhân và thực dụng; từ đó đưa ra
những giải pháp cơ bản để khắc phục ảnh hưởng của chủ nghĩa cá nhân, thực
dụng đến nhân cách người cán bộ quân đội hiện nay. Đặc biệt, cơng trình của
Viện Khoa học xã hội nhân văn qn sự - Bộ Quốc phòng do Phạm Xuân Hảo
(2010) (chủ biên), “Bồi dưỡng lối sống xã hội chủ nghĩa cho sĩ quan trẻ hiện
nay” [50], đã đề cập đến một số vấn đề về tính giai cấp, tính dân tộc, tính lịch
sử, cụ thể và phát triển của lối sống; phân tích những vấn đề cơ bản về bồi
dưỡng lối sống xã hội chủ nghĩa cho sĩ quan trẻ; từ đó đề xuất yêu cầu và
những giải pháp cơ bản nâng cao chất lượng bồi dưỡng lối sống xã hội chủ
nghĩa cho sĩ quan trẻ quân đội trong thời kỳ mới.

8


Nghiên cứu các cơng trình khoa học có liên quan cho thấy, mỗi cơng
trình khoa học có đối tượng phạm vi nghiên cứu và phương pháp tiếp cận khác
nhau, nhưng cơ bản đều nghiên cứu xoay quanh vấn đề lối sống, phát triển các
thành tố của lối sống, lối sống xã hội chủ nghĩa. Đó là những đóng góp vơ cùng
trân trọng, có ý nghĩa quan trọng trong tham khảo, nghiên cứu các vấn đề liên
quan tới phát triển lối sống xã hội chủ nghĩa ở đơn vị cơ sở nói chung và ở Sư
đồn 316, Qn khu 2 nói riêng. Tuy nhiên, quá trình nghiên cứu tổng quan
cho thấy, chưa có cơng trình nào tiếp cận, nghiên cứu về vấn đề phát triển lối
sống xã hội chủ nghĩa của hạ sĩ quan, binh sĩ. Với những lý do trên “Phát

triển lối sống xã hội chủ nghĩa của hạ sĩ quan, binh sĩ ở Sư đoàn 316 Quân
khu 2 hiện nay” là vấn đề có ý nghĩa rất lớn cả về lý luận và thực tiễn, đồng
thời nổi lên là vấn đề cấp thiết hiện nay để nghiên cứu.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
* Mục đích nghiên cứu

9


Làm rõ những vấn đề lý luận, thực tiễn và đề xuất giải pháp cơ bản phát
triển lối sống xã hội chủ nghĩa của hạ sĩ quan, binh sĩ ở Sư đoàn 316 Quân khu
2 hiện nay.
* Nhiệm vụ nghiên cứu
Làm rõ thực chất và những nhân tố quy định đến phát triển lối sống xã hội chủ nghĩa của hạ sĩ quan,
binh sĩ ở Sư đoàn 316 Quân khu 2.
Đánh giá thực trạng phát triển lối sống xã hội chủ nghĩa của hạ sĩ quan, binh sĩ ở Sư đoàn 316 Quân
khu 2 hiện nay.
Đề xuất giải pháp phát triển lối sống xã hội chủ nghĩa của hạ sĩ quan, binh sĩ ở Sư đoàn 316 Quân khu
2 hiện nay.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu

* Đối tượng nghiên cứu
Bản chất của sự phát triển lối sống xã hội chủ nghĩa của hạ sĩ quan, binh
sĩ ở Sư đoàn 316 Quân khu 2.
* Phạm vi nghiên cứu

10


Nghiên cứu được giới hạn ở phát triển lối sống xã hội chủ nghĩa của hạ

sĩ quan, binh sĩ ở Sư đoàn 316 Quân khu 2.
Số liệu phục vụ nghiên cứu của được giới hạn từ năm 2013 cho đến nay.
5. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu
* Cơ sở lý luận
Là những quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối của Đảng Cộng sản
Việt Nam về phát triển con người, văn hóa và lối sống; đồng thời dựa vào nghiên cứu các chỉ thị, nghị quyết của
Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng về xây dựng, phát triển con người, văn hóa quân sự và lối sống quân nhân
trong quân đội nhân dân Việt Nam.
* Cơ sở thực tiễn
Luận văn dựa vào việc phát triển lối sống xã hội chủ nghĩa của hạ sĩ quan, binh sĩ ở Sư đoàn 316 Quân
khu 2 qua việc nghiên cứu các nghị quyết, báo cáo tổng kết của một số đơn vị và kết quả điều tra, phỏng vấn, khảo
sát của tác giả ở một số đơn vị cơ bản của Sư đoàn 316 Quân khu 2; đồng thời kế thừa có chọn lọc kết quả nghiên
cứu của các cơng trình khoa học đã công bố.
* Phương pháp nghiên cứu
Đề tài được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin; đồng thời sử
dụng các phương pháp nghiên cứu của khoa học xã hội và nhân văn như: phân tích và tổng hợp, lơgíc và lịch
sử, thống kê và so sánh, hệ thống- cấu trúc, tổng kết thực tiễn, điều tra xã hội học, phỏng vấn, xin ý kiến
chuyên gia.

6. Ý nghĩa của luận văn
Kết quả nghiên cứu của đề tài có thể làm tài liệu tham khảo vào việc nâng cao hiệu quả công tác
lãnh đạo của cấp ủy, chất lượng quản ly chỉ huy phát triển lối sống xã hội chủ nghĩa của hạ sĩ quan, binh sĩ
góp phần xây dựng đơn vị vững mạnh toàn diện ở Sư đoàn 316 Quân khu 2.
7. Kết cấu của luận văn
Luận văn gồm: Mở đầu, 2 chương (4 tiết), kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục,
danh mục các cơng trình khoa học của tác giả đã được công bố.

11



Chương 1
THỰC CHẤT VÀ NHỮNG NHÂN TỐ QUY ĐỊNH
PHÁT TRIỂN LỐI SỐNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA CỦA HẠ SĨ QUAN, BINH

Ở SƯ ĐOÀN 316 QUÂN KHU 2
1.1. Thực chất phát triển lối sống xã hội chủ nghĩa của hạ sĩ quan, binh sĩ ở Sư đoàn 316 Quân
khu 2
1.1.1. Lối sống xã hội chủ nghĩa của hạ sĩ quan, binh sĩ ở Sư đoàn 316 Quân khu 2

Lối sống là một khái niệm phản ánh khía cạnh chất và lượng của hoạt
động sống của con người trong những điều kiện xã hội - lịch sử xác định. Khái
niệm lối sống đã được nhiều nhà khoa học quan tâm nghiên cứu. Tuỳ theo góc
độ tiếp cận vấn đề mà có những quan niệm khác nhau. Thông thường khái
niệm lối sống thường được tiếp cận, định nghĩa theo ba hướng: Định nghĩa lối
sống bằng cánh liệt kê các hoàn cảnh sống của con người. Theo đó, lối sống
được hiểu bao gồm các điều kiện sống, các hình thức hoạt động sống của con
người. Xem lối sống là một phạm trù bên trong của chủ thể như nếp nghĩ, thói
quen, hành vi đối xử, quan hệ giao tiếp, ít quan tâm đến các hoạt động và điều
kiện sống của con người. Xem lối sống như là sự thống nhất các hình thức
hoạt động sống và các điều kiện sống của con người và xã hội. Theo đó, lối
sống được hiểu là một tổng thể, một hệ thống những đặc điểm chủ yếu nói lên
hoạt động của các dân tộc, các giai cấp, các nhóm xã hội, các cá nhân trong
những điều kiện của một hình thái kinh tế - xã hội nhất định.
Khi nghiên cứu về con người và hoạt động sống của con người, C. Mác
và Ph.Ăngghen đã tiếp cận lối sống từ phương pháp luận duy vật khoa học, gắn
lối sống với phương thức sản xuất, đã thấy được đây là hoạt động thực tiễn
quan trọng nhất của con người. Đồng thời, các ơng cũng chỉ ra tính quyết định
của các quan hệ xã hội của con người tới lối sống. Trong tác phẩm “Hệ tư
tưởng Đức” C.Mác và Ph.Ăngghen đã nhấn mạnh vai trò quyết định của
phương thức sản xuất đối với việc hình thành lối sống của con người. Hai ông

đã viết: “Phương thức mà con người sản xuất ra những tư liệu sinh hoạt cần
12


thiết cho mình, phụ thuộc trước hết vào tính chất của chính những tư liệu sinh
hoạt mà con người thấy có sẵn và phải tái sản xuất ra. Khơng nên nghiên cứu
phương thức sản xuất ấy đơn thuần theo khía cạnh nó là sự tái sản xuất ra sự
tồn tại thể xác của các cá nhân. Mà hơn thế, nó là một phương thức hoạt động
nhất định của những cá nhân ấy, một hình thức nhất định của hoạt động sống
của họ, một phương thức sinh sống nhất định của họ. Hoạt động sống của họ
như thế nào thì họ là như thế ấy. Do đó, họ là như thế nào, điều đó ăn khớp với
sản xuất của họ, với cái mà họ sản xuất ra cũng như với cách họ sản xuất. Do
đó, những cá nhân là như thế nào, điều đó phụ thuộc vào những điều kiện vật
chất của sự sản xuất của họ” [32, tr.30]
Các ơng cịn nhấn mạnh: không lên xem xét phương thức sản xuất đó
theo một quan điểm duy nhất, đành rằng nó là sự tái sản xuất tồn tại vật chất
của các cá nhân. Ngược lại, nó đã đại diện cho một phương thức nhất định biểu
hiện sự sống của họ, một lối sống nhất định.
Theo Từ điển Bách khoa Văn hóa học: “Lối sống - tính chất tổng thể của hoạt động sinh sống của cá
nhân, nhóm xã hội hoặc xã hội nói chung vào một thời điểm nhất định nào đó trong sự phát triển lịch sử, trong
một hoàn cảnh xã hội nhất định” [41, tr.283]

Tác giả Phạm Minh Hạc và Nguyễn Khoa Điềm đã định nghĩa: “Lối sống
là những dạng hoạt động xã hội đã ổn định, đã trở thành nếp cảm, nếp nghĩ, nếp
lao động, công tác và sinh hoạt theo một bảng giá trị xã hội nhất định và có tính
người của những cá nhân - thành viên tích cực của xã hội, biết đau khổ, cảm
giác, suy nghĩ và hành động như những con người trong sự thống nhất với
những điều kiện của một hình thái kinh tế - xã hội nhất định.” [24, tr.245].
Dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin về lối sống; kế thừa
những kết quả nghiên cứu của các cơng trình khoa học gần đây, tác giả đưa ra

quan niệm về lối sống như sau:
Lối sống là tổng hòa các hoạt động sống cơ bản của con người (cộng đồng, nhóm xã hội, cá nhân)
được quy định bởi một phương thức sản xuất nhất định được biểu hiện ra trong mọi hành vi của con người và
vận hành theo một hệ thống các chuẩn mực, giá trị xã hội trong mối quan hệ với những điều kiện của một hình
thái kinh tế - xã hội.

13


Lối sống là nói đến phương thức hoạt động sống của cá nhân, nhóm, hay
cộng đồng người; các hoạt động bao giờ cũng gắn với những chuẩn mực xã hội
trong những điều kiện xã hội xác định. Đồng thời, với tổng thể các hoạt động và
không chỉ giới hạn ở phạm vi hoạt động, khái niệm lối sống còn thể hiện trong
tổng thể các phương thức quan hệ đa dạng và phức tạp của cá nhân, nhóm xã hội
hay cộng đồng nhất định. Theo đó, nghiên cứu lối sống của mỗi cá nhân, nhóm xã
hội phải bất đầu từ các quan hệ xã hội của họ.
Lối sống không phải là sự cộng lại của tất cả các hoạt động, mà nó chỉ
bao hàm những hoạt động sống có ý nghĩa nền tảng, quyết định đến sự tồn tại,
phát triển của con người. Các hoạt động này được vận hành theo một hệ thống
chuẩn mực, giá trị xã hội, trong những điều kiện của một hình thái kinh tế - xã
hội nhất định. Do đó, quan niệm lối sống bao hàm cả mặt chủ quan và mặt
khách quan. Mặt chủ quan của lối sống bao gồm: nhận thức, tình cảm, động cơ,
hành động xã hội (hoặc ứng xử xã hội) và cách tổ chức đời sống sinh hoạt xã
hội. Nó phản ánh ý thức tự giác của con người trong việc lựa chọn và hành
động theo các chuẩn mực, giá trị xã hội, đồng thời có sự khác nhau cho dù
trong cùng một phương thức sản xuất hay hoàn cảnh sống. Mặt khách quan của
lối sống bao gồm các điều kiện sống, cốt lõi là phương thức sản xuất và điều
kiện tự nhiên, dân số, thể chế kinh tế, thể chế chính trị, cơ cấu xã hội, truyền
thống văn hóa… có mối quan hệ và thường xuyên tác động đến các hoạt động
sống của chủ thể. Do vậy, khi tiếp cận vấn đề lối sống không chỉ nghiên cứu

mặt chủ quan của nó mà cịn phải xem xét cả những điều kiện khách quan có
tác động, ảnh hưởng đến các nhân tố đó.
Lối sống chịu sự quy định của phương thức sản xuất xã hội và toàn bộ
những điều kiện sống của con người. Nhưng, sự quy định đó phải thơng qua hoạt
động của chủ thể và mang những dấu ấn của chủ thể. Tuy nhiên, không được
đồng nhất giữa lối sống với phương thức sản xuất. Phạm vi của lối sống rộng hơn
phạm vi của phương thức sản xuất. Vì, ngồi hoạt động sản xuất, con người cịn

14


có nhiều hoạt động phong phú khác như hoạt động chính trị- xã hội, hoạt động tư
tưởng- văn hóa, hoạt động bồi dưỡng sức khỏe và rèn luyện phẩm chất cá nhân.
Lối sống luôn mang giá trị xã hội và được thể hiện thông qua hành vi
sống của mỗi cá nhân. Trong xã hội có giai cấp, lối sống cũng mang tính giai
cấp sâu sắc. Thực tế cho thấy, giai cấp thống trị thường tìm mọi cách tuyên
truyền để gây ảnh hưởng những giá trị trong lối sống đối với các giai tầng
khác. Tuy nhiên, cùng với sự tồn tại lối sống của giai cấp thống trị, trong xã hội
sẽ cịn có lối sống của các giai tầng khác. Bên cạnh đó, lối sống cịn mang tính
dân tộc và nhân loại. Mỗi dân tộc đều có những đặc điểm, điều kiện lịch sử, tự
nhiên, văn hóa riêng, nên trong lối sống bao giờ cũng mang những giá trị văn
hóa đặc trưng của dân tộc và có sự vận động, phát triển cùng với sự phát triển
của các điều kiện kinh tế, chính trị, văn hóa xã hội. Lối sống cịn phản ánh đặc
điểm của thời đại trong những giai đoạn lịch sử nhất định.
Lối sống đều gắn với chủ thể nhất định, đồng thời gắn với mỗi hình thái
kinh tế - xã hội nhất định. Trong lịch sử đã tồn tại lối sống cộng sản nguyên
thủy, lối sống phong kiến, lối sống tư sản và lối sống xã hội chủ nghĩa gắn với
đó là từng hình thái kinh tế xã hội đã hình thành, tồn tại cho tới nay. Lối sống
xã hội chủ nghĩa đánh dấu sự ra đời, hình thành bắt đầu bằng sự thành công của
Cách mạng tháng Mười Nga năm 1917 và tiếp tục phát triển trên con đường

thực hiện những mục tiêu, nhiệm vụ cơ bản của cách mạng xã hội chủ nghĩa.
Quan điểm của chủ nghĩa duy vật lịch sử cho rằng để sống và tồn tại thì
con người phải sản xuất ra đời sơng vật chất và tinh thần của chính mình: “Sản
xuất chính ra những tư liệu sinh hoạt của mình, như thế con người đã gián tiếp
sản xuất ra chính đời sống vật chất của mình”. Do vậy, khi bàn về lối sống, trong
tác phẩm “Hệ tư tưởng Đức” C.Mác và Ph.Ăngghen có viết: “Phương thức mà
con người sản xuất ra những tư liệu sinh hoạt cần thiết cho mình, phụ thuộc
trước hết vào tính chất của chính những tư liệu sinh hoạt mà con người thấy có
sẵn và phải tái sản xuất ra. Không nên nghiên cứu phương thức sản xuất ấy đơn
15


thuần theo khía cạnh nó là sự tái sản xuất ra sự tồn tại thể xác của các cá nhân.
Hơn thế, nó là một phương thức hoạt động nhất định của những cá nhân ấy, một
hình thức nhất định của hoạt động sống của họ, một phương thức sinh sống nhất
định của họ. Hoạt động sống của họ như thế nào thì họ là như thế ấy. Do đó, họ
là như thế nào, điều đó ăn khớp với sản xuất của họ, với cái mà họ sản xuất ra
cũng như với cái cách họ sản xuất. Những cá nhân là như thế nào, điều đó phụ
thuộc vào những điều kiện vật chất của sự sản xuất của họ” [5, tr.30].
Như vậy, theo C.Mác và Ph.Ăngghen thì những hoạt động nhằm duy trì,
bảo vệ và tái sản xuất ra sự sống đó chính là hoạt động sống và hoạt động sống
ấy nằm trong phương thức con người sản xuất những tư liệu sinh hoạt cần thiết
của mình, tức là phương thức sản xuất. Lối sống của con người một mặt được
quyết định bởi quan hệ của con người với tự nhiên, bởi trình độ kỹ thuật và
năng xuất lao động của con người, tức là trạng thai của lực lượng sản xuất; mặt
khác, lối sống còn chịu sự quy định bởi tính chất quan hệ sản xuất, bởi chế độ
kinh tế- xã hội.
Lịch sử loài người đã và đang trải qua năm hình thái kinh tế xã hội,
tương ứng với năm lối sống. Trong đó lối sống xã hội chủ nghĩa là một lối sống
tiên tiến và khoa học nhất trong lịch sử của xã hội, nó phản ánh tồn tại xã hội

chủ nghĩa khác về chất so với các lối sống xã hội trước. Lối sống xã hội chủ
nghĩa được nảy sinh và phát triển trong quá trình đấu tranh của giai cấp công
nhân chống lại giai cấp tư sản và các giai cấp thống trị phản động. Được thể
hiện ở trình độ nhận thức, giác ngộ cách mạng xã hội chủ nghĩa, niềm tin lý
tưởng cộng sản chủ nghĩa của giai cấp công nhân và nhân dân lao động; ở kết
quả hành động thực tiễn chính trị - xã hội, tham gia vào các vấn đề liên quan
đến nhà nước, bảo vệ thành quả cách mạng xã hội chủ nghĩa ở các nước.
Đây cũng chính là kết quả của quá trình nhận thức các nguyên lý của chủ
nghĩa Mác- Lênin về sự vận động, phát triển của xã hội loài người theo những
quy luật khách quan.

16


Lối sống xã hội chủ nghĩa, là tổng hòa phương thức hoạt động sống cơ bản của nhân dân lao động; thể
hiện trong toàn bộ nhận thức, thái độ, hành vi của các cá nhân và nhóm xã hội trong điều kiện chính trị, kinh tế,
văn hóa, xã hội và quá trình thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ cơ bản của cách mạng xã hội chủ nghĩa, trong
thực hiện quyền, nghĩa vụ công dân xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.
Lối sống xã hội chủ nghĩa, là một giá trị phản ánh đặc trưng bản chất của hình thái kinh tế - xã hội xã
hội chủ nghĩa; phản ánh nhu cầu và lợi ích của nhân dân lao động do giai cấp công nhân đại diện thông qua sự
lãnh đạo của Đảng Cộng sản, là lối sống được hình thành trong điều kiện của phương thức sản xuất xã hội chủ
nghĩa, vừa là mục tiêu, vừa là kết quả của quá trình thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ cơ bản của cách mạng xã
hội chủ nghĩa, trong thực hiện quyền, nghĩa vụ công dân xây dựng và bảo vệ Tổ quốc , được cụ thể hóa trong
quyền, nghĩa vụ cơng dân xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Là trách nhiệm thiêng liêng của mỗi
công dân, xuất phát từ truyền thống dựng nước và giữ nước hào hùng của dân tộc và được khẳng định trong rất
nhiều bản Hiến pháp của nước ta.
Theo lý luận của chủ nghĩa Mác- Lênin, đặc trưng lối sống xã hội chủ nghĩa do đặc trưng của ph ương
thức sản xuất và chế độ xã hội xã hội chủ nghĩa quy định. Mặt khác, trong quá trình vận động, phát triển, đặc
trưng của lối sống xã hội chủ nghĩa cịn do điều kiện chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội và mục tiêu, tính chất,
nội dung của cách mạng xã hội chủ nghĩa ở từng giai đoạn lịch sử quy định.

Căn cứ vào những nguyên lý lý luận mác- xít về lối sống và thực tiễn phát triển lối sống xã hội chủ
nghĩa, có thể khái quát một số đặc trưng cơ bản của lối sống xã hội chủ nghĩa, đó là: chủ nghĩa tập thể, tích cực
đối với lao động, dân chủ, đồn kết, lạc quan, yêu nước xã hội chủ nghĩa, chủ nghĩa quốc tế. Những đặc trưng
nay xuyên suốt trong lao động, trong cuộc sống hàng ngày, trong đời sống chính trị, xã hội, văn hóa và tất cả
các mặt hoạt động của con người trong xã hội.
Chủ nghĩa tập thể, là đặc trưng cơ bản nhất của lối sống xã hội chủ nghĩa, thể hiện ở nguyên tắc sống
“mình vì mọi người, mọi người vì mình”. Chủ nghĩa tập thể nảy sinh trên cơ sở q trình xã hội hóa lực lượng
sản xuất và sự hợp tác lao động diễn ra trong điều kiện sản xuất công nghiệp, bắt nguồn từ điều kiện sống và
làm việc của những người công nhân công nghiệp. Tinh thần tập thể đã xuất hiện trong phương thức sản xuất
tư bản chủ nghĩa trong điều kiện sản xuất cơng nghiệp với trình độ cơ giới cao và trong điều kiện đấu tranh
chống áp bức bóc lột của giai cấp vô sản đối với giai cấp tư sản, trong cuộc đấu tranh cách mạng lật đổ chủ
nghĩa tư bản. Nhưng chỉ dưới chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa tập thể mới được xác lập và thực sự là chủ nghĩa tập
thể chân chính, bởi nó được tạo dựng, phát triển trên cơ sở lực lượng sản xuất phát triển cao và tính chất cơng
hữu về tư liệu sản xuất. Đồng thời, nó được kích thích bằng sự bình đẳng về lợi ích, trên cơ sở làm chủ của
những người lao động và sự tương trợ giúp đỡ lẫn nhau trong phong tào thi đua lao động xây dựng chủ nghĩa
xã hội.
Chủ nghĩa tập thể với nguyên tắc sống “mình vì mọi người, mọi người vì mình” hoàn toàn đối lập với
chủ nghĩa cá nhân, một nguyên tắc sống dưới chế độ xã hội dựa trên tính chất sở hữu tư nhân về tư liệu sản
xuất. Chủ tịch Hồ Chí Minh viết: “Chủ nghĩa cá nhân là một trở ngại lớn cho việc xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Cho nên thắng lợi của chủ nghĩa xã hội không thể tách rời thắng lợi của cuộc đấu tranh trừ bỏ chủ nghĩa cá
nhân” [37, tr.291]. Kiên quyết đấu tranh loại bỏ chủ nghĩa cá nhân trong mỗi con người, trong mỗi cộng đồng
người là một nội dung của chủ nghĩa tập thể, một biểu hiện của tinh thần làm chủ xã hội xã hội chủ nghĩa

17


Chủ nghĩa tập thể xã hội chủ nghĩa khác hẳn với những thứ chủ nghĩa tập thể giả hiệu, mang danh tập
thể đẻ mưu cầu lợi ích cá nhân. Chủ nghĩa tập thể xã hội chủ nghĩa không đối lập, phủ định sự phát triển cá
nhân, ngược lại nó tạo điều kiện hiện thực cho sự phát triển của mỗi con người. Trong xã hội xã hội chủ nghĩa,
mỗi người đều là chủ, đều có nghĩa vụ và quyền lợi ngang nhau trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ chế độ xã hội

chủ nghĩa. Xã hội chăm lo cho mọi người, mọi người có nghĩa vụ và trách nhiệm chăm lo đến sự phát triển và tiến
bộ của xã hội. Nguyên tắc sống “mình vì mọi người, mọi người vì mình” giữ vị trí chủ đạo trong đời sống xã hội,
trong các hoạt động sống của con người.
Yêu nước, là một phẩm chất cao đẹp của con người, động lực tinh thần chủ yếu của dân tộc trong quá
trình dựng nước và giữ nước. Trong mỗi thời kỳ lịch sử, mỗi dân tộc, mỗi chế độ xã hội, tinh thần yêu nước có
những nội dung cụ thể khác nhau, phản ánh tính cộng đồng, tính dân tộc và tính giai cấp khác nhau. Dưới chủ
nghĩa xã hội, với việc từng bước hoàn thiện phương thức sản xuất xã hội chủ nghĩa, tạo sự đồng thuận lợi ích
trong xã hội và sự giáo dục toàn diện của Đảng Cộng sản, yêu nước được củng cố, phát triển thành yêu nước
xã hội chủ nghĩa. Tình yêu quê hương đất nước gắn với tình yêu chế độ xã hội chủ nghĩa hình thành chủ nghĩa
yêu nước xã hội chủ nghĩa. Mọi người lao động phấn đấu hết mình vì đất nước giàu mạnh và vì chủ nghĩa xã
hội, vì tương lai tưới sáng của xã hội. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết: “Yêu Tổ quốc, yêu nhân dân phải gắn liền
với u chủ nghĩa xã hội, vì có tiến lên chủ nghĩa xã hội thì nhân dân mình mỗi ngày một ấm no thêm, Tổ quốc
mỗi ngày một giàu mạnh thêm” [37, tr.173]. Yêu nước chủ nghĩa xã hội chủ nghĩa là một đặc trưng cơ bản của
lối sống xã hội chủ nghĩa. Chủ nghĩa yêu nước xã hội chủ nghĩa là chủ nghĩa yêu nước trên lập trường giai cấp
công nhân, đồng thời bao hàm trong đó chủ nghĩa quốc tế xã hội chủ nghĩa.
Chủ nghĩa xã hội tạo mọi điều kiện về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội cho sự thống nhất giữa lợi ích
dân tộc và lợi ích giai cấp, giữa lợi ích quốc gia và lợi ích quốc tế. Từ đó hình thành lối sống khơng chỉ vì lợi
ích quốc gia mình mà cịn vì lợi ích của các quốc gia khác; khơng chỉ vì lợi ích của một cộng đồng xã hội mà
cịn vì lợi ích nhân loại, hình thành nên lối sống tơn trọng độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của các quốc
gia và hết mình làm trịn nghĩa vụ quốc tế. Chủ nghĩa quốc tế xã hội chủ nghĩa là một đặc trưng rất quan trọng
trong lối sống xã hội chủ nghĩa.
Thái độ tích cực đối với lao động, là một chuẩn mực, giá trị sống đối với mỗi người; là cơ sở cho việc
tạo dựng vị trí, vị thế, vai trò của mỗi người trong cộng đồng, trong xã hội; là nét đặc trưng nổi bật của lối sống xã
hội chủ nghĩa. Lao động là một hoạt động cơ bản của con người, để sống tồn tại và phát triển con người phải lao
động để làm ra của cải vật chất ni sống bản thân, gia đình và có những đóng góp cho sự phát triển chung của xã
hội. Dưới chủ nghĩa xã hội, với tinh thần là chủ nhân của chế độ xã hội mới, người lao động hăng hái, tích cực,
sáng tạo trong lao động để lo cho mình và góp phần chăm lo, phát triển cho xã hội; đồng thời chế độ xã hội chủ
nghĩa khuyến khích, tơn vinh và tạo mơi trường thuận lợi cho sự tự do phát triển sức sáng tạo trong lao động của
nhân dân lao động.
Dân chủ, đoàn kết, lạc quan, là một đặc trưng mang bản chất chính trị - xã hội của lối sống xã hội chủ

nghĩa, nét đặc trưng cơ bản trong hoạt động sống của nhân dân lao động trong chủ nghĩa xã hội. Dưới các chế
độ xã hội khác với chủ nghĩa xã hội là dựa trên tư hữu về tư liệu sản xuất, người lao động khơng có quyền lực
và khơng thực hiện được quyền dân chủ. Còn dưới chủ nghĩa xã hội, trên cơ sở công hữu về tư liệu sản xuất và
với việc thiết lập nhà nước xã hội chủ nghĩa, nhà nước của dân, do dân, vì dân, người lao động có quyền làm

18


chủ và được bảo đảm các điều kiện để phát huy dân chủ trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Cùng với đó
đồn kết dưới chủ nghĩa xã hội là đồn kết dựa trên sự bình đẳng về nghĩa vụ và quyền lợi, sự bảo đảm về lợi
ích mọi mặt cho những người lao động, tin tưởng và hướng tới tương lai tốt đẹp của chế độ xã hội xã hội chủ
nghĩa trong việc đem lại quyền tự do, bình đẳng, tiến bộ đối với người lao động chân chính.

Đối lập với lối sống xã hội chủ nghĩa là lối sống phi xã hội chủ nghĩa
như: Chủ nghĩa cá nhân, cơ hội, vô trách nhiệm buông thả, chạy theo lợi ích
tầm thường. Lối sống của một thế hệ cũng chịu tác động của đời sống chính trị
của đất nước, vừa vận động theo định hướng chính trị, vừa có sự ảnh hưởng,
tác động đến đời sống chính trị đó. Một mơi trường chính trị trong sạch, lành
mạnh, sẽ là tác nhân tích cực cho sự phát triển kinh tế - xã hội nói chung và lối
sống nói riêng, hơn nữa cũng là môi trường để thực hiện hoạt động chính trị xã
hội theo các chuẩn mực văn hố đã được tiếp nhận. Nếu hệ thống chính trị
khơng thực sự trong sạch, vững mạnh, nền hành chính hoạt động kém hiệu quả,
hệ thống luật pháp không nghiêm minh, những tệ nạn như tham ơ, nhũng
nhiễu, lợi ích nhóm khơng được kiểm soát, văn hoá lãnh đạo, văn hoá quản lý
bị xem thường, đạo đức công vụ bị xem nhẹ, phản biện xã hội không được tôn
trọng v.v...sẽ ảnh hưởng xấu đến tâm lý giới trẻ, làm thui chột suy nghĩ và tình
cảm tích cực, xói mịn lịng tin, hạn chế việc thực hiện hành vi văn hố, thậm
chí có thể nảy sinh nhiều hệ luỵ tiêu cực khác. Vì vậy, phát triển lối sống xã hội
chủ nghĩa sẽ tao ra mơi trường chính trị thực sự trong sạch, lành mạnh là một
tác nhân quan trọng đến lối sống, thông qua hệ thống chính sách, pháp luật và

hoạt động của các cơ quan nhà nước, các thiết chế chính trị - xã hội đến với cá
nhân và cộng đồng, xã hội, đồng thời là môi trường để thực hiện các hoạt động
chính trị - xã hội theo các chuẩn mực lối sống.
Trong tiến trình xây dựng chủ nghĩa xã hội của mỗi quốc gia, dân tộc, ở
những thời điểm lịch sử, lối sống xã hội chủ nghĩa có các biểu hiện cụ thể khác
nhau trên cơ sở những đặc trưng cơ bản của lối sống xã hội chủ nghĩa và đặc
điểm lối sống mang tính bản sắc dân tộc. Ở mỗi giai cấp và tầng lớp xã hội, với
mỗi nhóm xã hội, tùy thuộc vào chức năng, nhiệm vụ, đặc điểm xã hội mà có
19


những nội dung, yêu cầu, chuẩn mực, giá trị lối sống xã hội chủ nghĩa cụ thể
khác nhau. Vấn đề đặt ra là cần cụ thể hóa nội dung, yêu cầu lối sống xã hội
chủ nghĩa ở mỗi nhóm xã hội, làm cơ sở cho việc giáo dục, bồi dưỡng lối sống
xã hội chủ nghĩa.
Quan niệm về lối sống xã hội chủ nghĩa của hạ sĩ quan, binh sĩ ở Sư đoàn 316 Quân khu 2
Sư đoàn 316, Quân khu 2 thành lập ngày 01 tháng 5 năm 1951 tại Xã bình Trung- huyện Cao Lộc- tỉnh
Lạng Sơn. Là một trong 6 đại đoàn chủ lực đầu tiên của quân đội nhân dân Việt Nam. Trải qua 67 năm xây dựng,
chiến đấu và trưởng thành, Sư đoàn 316 đã tham gia chiến đấu trên khắp mọi miền đất nước và các tỉnh phía bắc
nước Lào, lập nhiều chiến cơng vang dội, đóng góp xứng đáng vào sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc; xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Truyền thống đó được đúc kết trong 12 chữ vàng:“ Trung
thành- Tự lực- Đoàn kết- kiên cường- Sáng tạo- Chiến thắng”.
Hạ sĩ quan, binh sĩ ở Sư đoàn 316 Quân khu 2 là những thanh niên có tuổi đời từ 18 đến 27 cư trú
trên địa bàn Quân khu 2, có đủ tiêu chuẩn về phẩm chất chính trị, trình độ văn hóa, đạo đưc, sức khỏe được
tuyển chọn nhập ngũ thực hiện nhiệm vụ ở các đơn vị trực thuộc Sư đoàn 316.

Hạ sĩ quan, binh sĩ là những người trẻ tuổi, có trình độ nhận thức, nhân cách
đang trong giai đoạn phát triển; tuy nhiên ở họ còn một số hạn chế về kinh nghiệm
sống và thói quen của lối sống cũ.
Hạ sĩ quan, binh sĩ ở Sư đoàn 316 Quân khu 2 cơ bản đều là những học

sinh đã tốt nghiệp phổ thơng trung học, một số ít tốt nghiệp cao đẳng, đại học,
có đủ các điều kiện, tiêu chuẩn về lai lịch, phẩm chất chính trị, đạo đức, sức
khoẻ, đã trải qua tuyển chọn ở các địa phương. Hạ sĩ quan, binh sĩ ở Sư đoàn là
người Kinh và đồng bào các dân tộc ít người được sinh trưởng trong gia đình
nơng dân là chủ yếu. Họ là những người trẻ tuổi có sức khỏe, khát vọng, hồi
bão, tình nguyện tham gia nhập ngũ.
Trong những năm gần đây, công tác tuyển chọn thanh niên nhập ngũ ln
được Bộ Quốc Phịng, Quân khu và các địa phương quan tâm, đổi mới và tiến
hành chặt chẽ nên chất lượng thanh niên nhập ngũ ngày càng được nâng cao.
Chú trọng tuyển chọn những thanh niên có trình độ nhận thức và sức khỏe tốt,
có ý thức chấp hành nghiêm đường lối của Đảng, pháp luật của Nhà nước, kỷ
luật quân đội. Đây là những điều kiện thuận lợi cho việc phát triển lối sống xã
hội chủ nghĩa của hạ sĩ quan, binh sĩ ở Sư đoàn 316 Quân khu 2.
20


Là những thanh niên tình nguyện tham gia nhập ngũ đang rèn luyện,
phấn đấu để trở thành người đảng viên, người quân nhân nên các yếu tố về
phẩm chất chính trị, đạo đức, nhân cách của hạ sĩ quan, binh sĩ vẫn đang trong
giai đoạn trưởng thành, phát triển. Vì thế, họ luôn cố gắng và tinh thần chịu
đựng mọi khó khăn, gian khổ, chủ động, tích cực trong huấn luyện, rèn luyện,
phấn đấu theo những yêu cầu, nhiệm vụ của quân đội và đơn vị. Trong quá
trình nhập ngũ họ được trang bị hệ thống các kiến thức cơ bản về kỹ thuật
chiến đấu bộ binh và binh chủng, đường lối, quan điểm của Đảng, pháp luật
của Nhà nước, các quan điểm cơ bản về chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã
hội chủ nghĩa, nhiệm vụ chính trị trọng tâm của Sư đồn. Theo đó, họ từng
bước được hình thành, phát triển, việc xác định động cơ, ý thức, trách nhiệm
của họ đối với Đảng, Tổ quốc, quân đội và đơn vị cũng dần ổn định và nâng
cao. Đây là những điều kiện rất thuận lợi cho việc phát triển lối sống xã hội
chủ nghĩa của hạ sĩ quan, binh sĩ ở Sư đoàn 316.

Song, họ ít có sự trải nghiệm trong thực tiễn nên trước những tác động tiêu
cực của mơi trường xã hội, trình độ nhận thức, lối sống vùng miền, đặc biệt là số
hạ sĩ quan, binh sĩ người dân tộc thiểu số và sự căng thẳng, vất vả trong việc thực
hiện các chế độ huấn luyện, rèn luyện, sinh hoạt dễ làm cho họ có tư tưởng dao
động, thiếu sự kiên trì, nhẫn nại, hoặc có những hành động bột phát, dẫn tới các
thái cực tuyệt đối hố cá nhân hoặc bng xuôi, ỷ lại, thụ động, e dè, nể nang,
ngại đấu tranh, ngại va chạm với các hiện tượng tiêu cực, lạc hậu. Bên cạnh đó, sự
đa dạng về thành phần xuất thân, nơi sinh sống của hạ sĩ quan, binh sĩ trước khi
về các đơn vị trong Sư đoàn thực hiện nhiêm vụ tạo ra sự đan xen về tư tưởng,
văn hóa, tác phong, lối sống khác nhau làm tăng tính phức tạp trong lối sống của
hạ sĩ quan, binh sĩ ở Sư đoàn 316 Quân khu 2.
Hạ sĩ quan, binh sĩ ln có ý thức trong huấn luyện, rèn
luyện, phát huy những giá trị trong lối sống truyền thống của dân
tộc và phẩm chất “Bộ đội Cụ Hồ”.
21


Những giá trị trong lối sống truyền thống của dân tộc đã được hình
thành, phát triển trong suốt chiều dài lịch sử của dân tộc và đã tạo dựng nên
phẩm chất, nhân cách, bản lĩnh của con người Việt Nam. Bên cạnh đó, phẩm
chất “Bộ đội Cụ Hồ” là giá trị lối sống, văn hóa quân sự bền vững được hình
thành và phát triển qua hơn 70 năm xây dựng, chiến đấu, trưởng thành của
quân đội ta đã và đang có tác động, ảnh hưởng khơng nhỏ đến lối sống, tinh
thần của con người trong xã hội, nhất là thế hệ trẻ.
Hạ sĩ quan, binh sĩ là những người được sinh ra và lớn lên trong thời
điểm đất nước đang tiến hành thắng lợi công cuộc đổi mới theo con đường xã
hội chủ nghĩa. Họ không những được thừa hưởng đầy đủ những thành quả tốt
đẹp mà đất nước và gia đình đã tạo dựng mà cịn ln tỏ rõ sự thích ứng nhanh
với cuộc sống đời thường, với xã hội hiện đại và ln biết tự vượt lên chính
mình. Vì vậy, họ ln có cái nhìn thực tế, biết trân trọng quá khứ và hướng tới

lương lai. Trong sự tác động đa chiều của xã hội trong thời kỳ mở cửa, họ vẫn
ln có ý thức trân trọng, giữ gìn và phát huy những giá trị tốt đẹp trong lối
sống truyền thống của dân tộc; đồng thời tích cực huấn luyện, rèn luyện, tiếp
thu có chọn lọc những giá trị để phát triển lối sống của mình.
Bên cạnh đó, do nhận được sự quan tâm, giáo dục đầy đủ từ các gia đình
và nhà trường, cùng với sự giáo dục, rèn luyện nghiêm khắc của đơn vị nên đa
số hạ sĩ quan, binh sĩ đều nhận thức sâu sắc về trách nhiệm, nghĩa vụ đang đặt
lên đối với họ. Trong suy nghĩ, việc giữ gìn và phát huy các giá trị tốt đẹp trong
lối sống truyền thống của dân tộc và phẩm chất “Bộ đội Cụ Hồ” đó là sự kế
thừa tự nhiên, sự tiếp nối truyền thống quê hương, đất nước mà các thế hệ
trước và gia đình họ đã tạo dựng. Do vậy, họ luôn thể hiện rõ ý thức phấn đấu
và tinh thần tự giác trong thực hiện theo các chuẩn mực, giá trị tốt đẹp trong
quá trình thực hiện nghĩa vụ của mình ở đơn vị.
Tuy nhiên, do trình độ nhận thức khơng đồng đều, thời gian nhập ngũ
ngắn và sự tác động, ảnh hưởng của mặt trái nền kinh tế thị trường, quá trình

22


mở cửa, hội nhập quốc tế nên trong lối sống của một số hạ sĩ quan, binh sĩ
cũng bị ảnh hưởng bởi những tư tưởng và biểu hiện của lối sống cá nhân và địa
phương trước khi nhập ngũ, hưởng thụ, thực dụng, chạy theo đồng tiền và
những giá trị vật chất đơn thuần. Cùng với đó, việc tự ý thức của họ về trách
nhiệm đối với những người xung quanh, với tập thể và đơn vị có mặt cịn hạn
chế. Đặc biệt, trước những tình huống cần phải có sự phân biệt đúng - sai, tốt xấu ở họ còn chưa thật rõ ràng, mạnh dạn.
Hạ sĩ quan, binh sĩ đang được huấn luyện, rèn luyện trong môi trường
quân đội chặt chẽ, thống nhất, nhân văn.
Trong những năm gần đây, Sư đồn 316 nói riêng ln được sự quan tâm
của Bộ Quốc phòng và Bộ Tư lệnh Quân khu 2 đầu tư xây dựng cơ sở vật chất
nơi ăn ở, phương tiện, trang thiết bị huấn luyện hiện đại và mơi trường chính

quy. Bên cạnh đó, các nhiệm vụ huấn luyện của hạ sĩ quan, binh sĩ chủ yếu
diễn ra trên thao trường, bãi tập, trong mọi địa hình, điều kiện thời tiết, sát với
tình huống chiến đấu. Điều đó, khơng những tạo ra mơi trường, điều kiện quan
trọng để hạ sĩ quan, binh sĩ nâng cao trình độ kỹ, chiến thuật mà còn rèn luyện,
thử thách họ về nhân cách, nhất là lối sống xã hội chủ nghĩa.
Ở Sư đoàn các hoạt động về huấn luyện, rèn luyện luôn được tổ chức chặt
chẽ, khoa học và hiệu quả. Hạ sĩ quan, binh sĩ được biên chế thành các đầu mối
đơn vị. Các đơn trong Sư đoàn vị đều có hệ thống các tổ chức đảng, chỉ huy và tổ
chức quần chúng theo đúng quy định, hướng dẫn của tổ chức quân đội để thực
hiện các nhiệm vụ lãnh đạo, quản lý, huấn luyện, rèn luyện. Bên cạnh đó, mơi
trường xã hội của các đơn vị trong Sư đồn đóng qn nằm ở các khu vực được
chính quyền địa phương, nhân dân ủng hộ, quan tâm, tạo điều kiện, giúp đỡ và có
điều kiện phát triển về kinh tế, chính trị, văn hóa - xã hội, cũng như việc phát triển
lối sống xã hội chủ nghĩa của hạ sĩ quan, binh sĩ.
Tuy nhiên, mơi trường văn hóa xã hội đang bị “ô nhiễm” bởi những tiêu
cực, các tệ nạn xã hội chưa được ngăn chặn, khắc phục và giải quyết có hiệu
23


quả. Cùng với đó, sự phát triển của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện
đại, nhất là công nghệ truyền thông đã kéo theo những luồng thông tin có nội
dung xấu, độc; các sản phẩm đồi trụy và trị chơi bạo lực, đánh bạc trên Intrenet
cũng có tác động, ảnh hưởng làm cho quá trình phát triển lối sống xã hội chủ
nghĩa của hạ sĩ quan, binh sĩ ở Sư đồn 316 gặp phải những khó khăn nhất định.
Từ những đặc điểm trên cho thấy, hạ sĩ quan, binh sĩ là những người trẻ
tuổi, có ưu thế về sức khoẻ, dễ thích ứng với những nhiệm vụ có sự địi hỏi cao về
thể lực, có hồi bão, nhạy cảm với cái mới, có trí tuệ và nhân cách đang trong
giai đoạn phát triển. Tuy nhiên, ở họ vẫn cịn thiếu sự rèn luyện, trải nghiệm trong
mơi trường qn đội nên trước những khó khăn hay tác động phức tạp dễ nảy sinh
tâm trạng hoài nghi, băn khoăn, dao động hoặc có những lời nói, hành động chủ

quan, thiếu suy nghĩ. Trong phát triển lối sống xã hội chủ nghĩa của hạ sĩ quan,
binh sĩ, các chủ thể cần phải nắm vững các đặc điểm trên, từ đó xác định các nội
dung, hình thức, biện pháp tiến hành cho phù hợp và có hiệu quả.
Là những người đang được huấn luyện, rèn luyện, ở các đơn vị trong
Sư đoàn 316 nên lối sống xã hội chủ nghĩa của hạ sĩ quan, binh sĩ vừa thể
hiện những giá trị đặc trưng trong lối sống của người Việt Nam vừa phản ánh
những đặc điểm đặc thù của môi trường hoạt động quân sự. Do đó, có thể
quan niệm:
Lối sống xã hội chủ nghĩa của hạ sĩ quan, binh sĩ ở Sư đồn 316 Qn khu 2 là tổng hịa hoạt động
sống cơ bản của họ có những nét đặc thù được quy định theo một hệ thống chuẩn mực, chế độ, nền nếp quân
đội, thể hiện ở nhận thức, hành vi, trong quá trình thực hiện chức trách, nhiệm vụ và trong giải quyết các mối
quan hệ xã hội cơ bản.

Lối sống xã hội chủ nghĩa của hạ sĩ quan, binh sĩ ở Sư đồn 316 nói
riêng và thanh niên Việt Nam nói chung. Đây là, lối sống đã được định hình
tương đối ổn định của họ, bởi trước khi nhập ngũ họ đã là thanh niên. Điều đó
cho thấy, quan niệm lối sống xã hội chủ nghĩa của hạ sĩ quan, binh sĩ một mặt
phản ánh các nhân tố chủ quan của họ, bao gồm: nhận thức, động cơ, thái độ,
các hành vi, thói quen trong hoạt động, giao tiếp, ứng xử xã hội; mặt khác nó
cịn phản ánh những yêu cầu khách quan, như: các quy định, hệ thống điều

24


lệnh, điều lệ, chế độ, kỷ luật của quân đội, những đặc trưng riêng về lối sống
dân tộc, các yêu cầu phát triển đất nước theo con đường xã hội chủ nghĩa, cùng
với những đặc điểm, xu thế của thời đại thường xuyên có tác động, chi phối
đến nhận thức và các hoạt động sống của hạ sĩ quan, binh sĩ.
Sự thống nhất cao về lý tưởng xã hội chủ nghĩa, ln trung thành và đặt
lợi ích của Đảng, Tổ quốc lên trên hết, có ý thức sẵn sàng nhận và hoàn thành

tốt mọi nhiệm vụ được giao.
Việc xác định mục tiêu, lý tưởng sống ln có vai trị rất quan trọng trong
việc định hướng các hành vi hoạt động, ứng xử của con người. Thực tế cho thấy,
việc xác định lý tưởng sống càng đúng đắn, cao cả bao nhiêu thì động lực thơi
thúc con người hoạt động càng mạnh mẽ, bền bỉ; đồng thời giá trị lối sống mà nó
đem lại càng to lớn và sâu sắc bấy nhiêu.
Hạ sĩ quan, binh sĩ ở Sư đoàn 316 Quân khu 2 là những người đang huấn
luyên, rèn luyện trở thành những quân nhân có đầy đủ phẩm chất và khả năng,
sức khỏe để thực hiện nhiệm vụ chính trị trung tâm của Sư đoàn, xây dựng Sư
đoàn vững mạnh toàn diện, đáp ứng được yêu cầu bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ
nghĩa trong thời kỳ mới. Bởi vậy, lý tưởng sống của họ được thể hiện ở niềm tin,
sự kiên định với mục tiêu, lý tưởng của Đảng, của dân tộc. Đối với họ, niềm tin
đó khơng phải do cảm tính, sở thích mà ln được xây dựng trên những cơ sở lý
luận, thực tiễn khoa học, cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh và thành tựu của công cuộc xây dựng, phát triển đất nước theo con
đường xã hội chủ nghĩa. Trong các hoạt động huấn luyện, rèn luyện, sinh hoạt ở
đơn vị, họ còn tỏ rõ khát vọng phấn đấu trở thành người đảng viên Đảng cộng
sản Việt Nam để được đóng góp khả năng, cơng sức của mình vào sự nghiệp bảo
vệ Tổ quốc, góp phần thực hiện thắng lợi mục tiêu, lý tưởng đó.
Cùng với sự thống nhất cao về lý tưởng xã hội chủ nghĩa, lối sống xã hội
chủ nghĩa của hạ sĩ quan, binh sĩ còn được thể hiện ở lịng trung thành và việc
ln biết đặt lợi ích của Đảng, Tổ quốc, của đơn vị lên trên lợi ích của cá nhân.
Động lực chủ yếu thơi thúc họ trong hoạt động, thậm chí sẵn sàng chấp nhận
25


những hy sinh, mất mát lại được hình thành trên cơ sở việc nhận thức rõ mục
tiêu, nhiệm vụ chính trị cao cả và vai trò, trách nhiệm đối với Đảng, Tổ quốc và
nhân dân.
Quân đội ta là lực lượng chính trị, cơng cụ bạo lực sắc bén của Đảng và

Nhà nước để thực hiện nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Đây là,
nhiệm vụ nặng nề nhưng rất vinh quang mà Đảng, Nhà nước và nhân dân tin
tưởng, giao cho quân đội ta. Hạ sĩ quan, binh sĩ ở Sư đồn 316 Qn khu 2 nói
riêng là những người được huấn luyện, rèn luyện về mọi mặt để trở thành lực
lượng nòng cốt, đi đầu trong thực hiện nhiệm vụ vẻ vang đó. Do vậy, lịng
trung thành của họ đối với Đảng, Tổ quốc và nhân dân đã trở thành một giá trị
chính trị quan trọng trong lối sống. Lòng trung thành của họ được thể hiện ở sự
đồng thuận, nhất trí cao và chấp hành nghiêm đường lối, quan điểm của Đảng,
pháp luật của Nhà nước, nhiệm vụ của đơn vị; đồng thời ln có ý thức sẵn
sàng nhận và hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao cho dù có phải hy sinh
tính mạng của mình. Đây cũng là điểm khác biệt, phản ánh nét đặc thù trong lối
sống xã hội chủ nghĩa của hạ sĩ quan, binh sĩ ở Sư đoàn 316 trong thời gian thực
hiện nghĩa vụ quân sự so với lối sống thanh niên ngoài quân đội.
Tinh thần tự chủ trong cuộc sống, luôn đề cao tổ chức, kỷ luật quân
đội và nếp sống chính quy.
Tự chủ là q trình con người tự nhận thức, kiểm soát và điều chỉnh
những hành vi sống của mình nhằm đáp ứng các yêu cầu của thực tiễn đặt ra. Tự
chủ là một phẩm chất, giá trị trong lối sống, phản ánh trình độ, năng lực của con
người trong việc làm chủ tự nhiên, xã hội và bản thân. Đối với hạ sĩ quan, binh
sĩ ở Sư đồn 316, tính tự chủ trong cuộc sống là một giá trị lối sống phản ánh
trình độ nhận thức và năng lực tự kiểm soát, điều chỉnh các hành vi của họ
nhằm đáp ứng các yêu cầu của đơn vị. Nó được thể hiện ở sự chủ động trong
hoạt động huấn luyện, rèn luyện, sinh hoạt, theo kế hoạch đã xác định; ở tinh
thần độc lập, sáng tạo trong giải quyết các mối quan hệ theo đúng những yêu
cầu của môi trường quân đội và khả năng tự kiểm soát các nhu cầu của bản
26


thân để chiến thắng chủ nghĩa cá nhân, những cám dỗ, lôi kéo về vật chất, tiền
bạc và các tệ nạn trong xã hội.

Mơi trường qn đội có tính đặc thù. Biểu hiện rõ nhất về tính đặc thù đó
là sự ràng buộc và chi phối chặt chẽ của hệ thống điều lệnh, điều lệ, kỷ luật
quân đội. Trong quân đội không cho phép hạ sĩ quan, binh sĩ được hoạt động
theo sở thích của cá nhân như lúc chưa nhập ngũ. Đặc biệt, là số hạ sĩ quan,
binh sĩ là người dân tộc thiểu số khả năng nhận thức và thích nghi với lối sống
mới cịn nhiều hạn chế. Bởi trong người họ đã in sâu lối sống bản sắc dân tộc
của vùng miền được thể hiện rõ trong sinh hoạt, ăn ở, tự ti trong giao tiếp. Do
vậy, mọi hoạt động của họ, từ việc mang mặc trang phục, đi lại, ăn uống, huấn
luyện, sinh hoạt, nghỉ ngơi... đều phải thực hiện theo những quy định của điều
lệnh, điều lệ, chế độ và sự quản lý của người chỉ huy. Sự phục tùng tuyệt đối tổ
chức và kỷ luật, “quân lệnh như sơn”, mà biểu hiện cụ thể là ln đặt mọi hoạt
động của mình trong sự ràng buộc, chi phối của một tổ chức, một tập thể và
tuyệt đối phục tùng mệnh lệnh của cấp trên, luôn tự giác, nghiêm túc trong
chấp hành nghiêm điều lệnh, điều lệ, chế độ, quy định của quân đội; đồng thời
biết dựa vào tổ chức, vào tập thể để thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ được giao
đã trở thành một giá trị trong lối sống xã hội chủ nghĩa của hạ sĩ quan, binh sĩ ở
Sư đoàn 316.
Lối sống xã hội chủ nghĩa của hạ sĩ quan, binh sĩ còn được thể hiện ở thói
quen trong thực hiện các nền nếp, chế độ, quy định quân đội. Trong đó, lối sống
chính quy được thể hiện ở ý thức tự giác của hạ sĩ quan, binh sĩ trong tiếp nhận
những chuẩn mực, quy định của quân đội và coi việc thực hiện khơng chỉ là nghĩa
vụ bắt buộc mà cịn là nhu cầu trong cuộc sống. Nó cịn được thể hiện ở những giá
trị về sự ngăn nắp, gọn gàng, giờ nào việc ấy; tác phong khiêm tốn, giản dị, lịch sự
trong giao tiếp, ứng xử; phương châm làm việc luôn lấy chất lượng, hiệu quả và sự
tận dụng tối đa thời gian cho công việc làm thước đo sự phát triển cá nhân; ý thức
kiên trì, dũng cảm của hạ sĩ quan, binh sĩ để vượt qua những lực cản tâm lý, tập

27



×