Tải bản đầy đủ (.pdf) (143 trang)

Tư tưởng hồ chí minh đối với việc giáo dục khả năng tự học, tự rèn luyện cho học sinh trung học phổ thông ở thành phố hồ chí minh hiện nay hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.9 MB, 143 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-------oOo-------

CHU THỊ LAN

TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH ĐỐI VỚI VIỆC
GIÁO DỤC KHẢ NĂNG TỰ HỌC, TỰ RÈN LUYỆN
CHO HỌC SINH TRUNG HỌC PHỔ THƠNG
Ở THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH HIỆN NAY

LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC

THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH – 2020


ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-------oOo-------

CHU THỊ LAN

TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH ĐỐI VỚI VIỆC
GIÁO DỤC KHẢ NĂNG TỰ HỌC, TỰ RÈN LUYỆN
CHO HỌC SINH TRUNG HỌC PHỔ THƠNG
Ở THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH HIỆN NAY

Chun ngành: Triết học
Mã số: 8.22.90.01

LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC



Người hướng dẫn khoa học:
PGS.TS. Nguyễn Xuân Tế

THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH – 2020


LỜI CAM ĐOAN

Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi,
dưới sự hướng dẫn của PGS.TS. Nguyễn Xn Tế. Cơng trình này chưa
được cơng bố dưới mọi hình thức. Nếu có gì khơng đúng tơi xin hồn tồn
chịu trách nhiệm.
TP. Hồ Chí Minh, tháng
Tác giả

Chu Thị Lan

năm 2020


MỤC LỤC
Trang
PHẦN MỞ ĐẦU ............................................................................................ 1
1. Tính cấp thiết của đề tài .............................................................................. 1
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu đề tài ...................................................... 3
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn ........................................ 6
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn ......................................... 6
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn ............................ 7
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn ................................................... 7

7. Kết cấu của luận văn ................................................................................... 7
Chương 1. QUAN ĐIỂM CỦA HỒ CHÍ MINH VỀ GIÁO DỤC KHẢ
NĂNG TỰ HỌC, TỰ RÈN LUYỆN BẢN THÂN ..................................... 8
1.1. KHÁI QUÁT TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ GIÁO DỤC .......................... 8

1.1.1. Quan niệm của Hồ Chí Minh về vai trò, nhiệm vụ, nội dung, phương
pháp của giáo dục .......................................................................................... 12
1.1.2. Những đặc điểm chủ yếu của tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục và
yêu cầu vận dụng nó trong điều kiện hiện nay.............................................. 34
1.2. TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ TỰ HỌC, TỰ RÈN LUYỆN BẢN THÂN ...... 38

1.2.1. Về vai trị, mục đích của tự học, tự rèn luyện ..................................... 40
1.2.2. Về nội dung tự học, tự rèn luyện......................................................... 46
Kết luận chương 1 ....................................................................................... 59
Chương 2. THỰC TRẠNG HỌC TẬP HIỆN NAY CỦA HỌC SINH
TRUNG HỌC PHỔ THƠNG THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH VÀ VẤN
ĐỀ RÈN LUYỆN KỸ NĂNG TỰ HỌC, TỰ RÈN LUYỆN BẢN THÂN
THEO TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH ........................................................ 62
2.1. THỰC TRẠNG HỌC TẬP CỦA HỌC SINH TRUNG HỌC PHỔ THÔNG
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH HIỆN NAY ........................................................ 62

2.1.1. Đặc điểm cơ bản của học sinh trung học phổ thông Thành phố Hồ Chí
Minh hiện nay ............................................................................................... 62


2.1.2. Những thành tựu, hạn chế của giáo dục trung học phổ thơng ở Thành
phố Hồ Chí Minh hiện nay ............................................................................ 69
2.1.3. Những vấn đề đặt ra đối với giáo dục Trung học phổ thơng ở Thành
phố Hồ Chí Minh hiện nay ............................................................................ 92
2.2. VIỆC RÈN LUYỆN KỸ NĂNG TỰ HỌC TU DƯỠNG BẢN THÂN THEO TƯ

TƯỞNG, PHONG CÁCH HỒ CHÍ MINH HIỆN NAY ...................................... 98

2.2.1. Một số phương hướng nhằm nâng cao ý thức tự học, tự rèn luyện
bản thân cho học sinh Trung học phổ thông ở Thành phố Hồ Chí Minh
hiện nay .............................................................................................. 98
2.2.2. Một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao ý thức tự học, tự rèn
luyện bản thân cho học sinh Trung học phổ thơng ở Thành phố Hồ Chí
Minh hiện nay ........................................................................................... 104
Kết luận Chương 2 ........................................................................................114
KẾT LUẬN CHUNG ............................................................................... 116
TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................................ 118
PHỤ LỤC ................................................................................................... 128


1
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Hồ Chí Minh là sự kết tinh những gì tốt đẹp, ưu tú nhất của trí tuệ và tư
tưởng, tình cảm và đạo đức, nhân cách và lối sống của con người và dân tộc
Việt Nam. Người tiêu biểu cho cốt cách và bản lĩnh của dân tộc, cho bản sắc
văn hoá của dân tộc Việt Nam từ truyền thống đến hiện đại. Tinh hoa của
dân tộc, lương tâm và khí phách của thời đại đã được thể hiện chân thực và
cảm động, trong sáng và đẹp đẽ, cao thượng và bất khuất qua con người,
cuộc đời và sự nghiệp của Hồ Chí Minh. Cuộc đời của Người là một q
trình vừa học tập vừa hoạt động cách mạng. Quá trình tự học, tự rèn luyện
bản thân suốt đời đã tạo nên một Hồ Chí Minh hồn thiện về nhân cách và tri
thức, là người có trí tuệ thực hiện được lý tưởng cao đẹp, là hiện thân của
Người Thầy vĩ đại trong sự nghiệp giáo dục của dân tộc ta, là một tấm gương
sáng ngời về tự học, tự nghiên cứu để thành cơng.
Tư tưởng về giáo dục được Hồ Chí Minh thể hiện không phải một cách

tách rời độc lập mà gắn kết, lồng quện với các tư tưởng lớn về giải phóng
dân tộc, phát triển con người, xây dựng chủ nghĩa xã hội... Theo quan điểm
của Người, giáo dục là yếu tố quyết định trực tiếp nâng cao trình độ học vấn,
trình độ khoa học, chun mơn nghiệp vụ, năng lực ngoại ngữ, kỹ năng ứng
dụng công nghệ thông tin, trình độ tổ chức quản lý,... Giáo dục sẽ giúp cho
người học tiếp thu và có tri thức về lịch sử, văn hóa của dân tộc Việt Nam và
thế giới, mà nếu khơng có nó thì sẽ khơng giữ vững được nền độc lập dân
tộc, không thể tham gia một cách tích cực và có hiệu quả vào cơng cuộc xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Trong bối cảnh mới với xu thế tồn cầu hóa và hội nhập quốc tế cùng
với sự phát triển mạnh mẽ của lực lượng sản xuất và khoa học công nghệ,
yêu cầu mỗi quốc gia dân tộc để thốt khỏi đói nghèo, lạc hậu muốn vươn
lên trình độ tiên tiến phải dựa trên nền kinh tế tri thức nhằm tạo ra giá trị


2
sản phẩm lao động cao. Để làm được những điều đó, yêu cầu mỗi con
người Việt Nam, đặc biệt là thế hệ trẻ - học sinh Trung học phổ thông phải
ra sức học tập, rèn luyện. Ngoài việc bồi dưỡng lý tưởng sống cao đẹp,
thanh niên trong thời kỳ hội nhập hiện nay rất cần rèn luyện nâng cao đạo
đức, trở thành người cơng dân có ích cho xã hội. Đặc biệt, để đáp ứng và
trang bị những kỹ năng cần thiết của một thanh niên thế kỷ XXI, muốn
hoàn thiện và nâng cao khả năng, trình độ của mình thì chỉ có một cách chủ
yếu là bằng con đường tự học. Nhiều nghiên cứu khoa học về những người
thành đạt đều cho thấy khả năng tự học, tự nghiên cứu và ý chí vươn lên
bằng tự học rất cao.
Đối với Thành phố Hồ Chí Minh, nhìn tổng thể thực trạng học sinh Trung
học phổ thông hiện nay, thấy rằng, bên cạnh những học sinh hiếu học, đầu tư
hầu hết thời gian và công sức vào việc học, nắm bắt mọi thời cơ để tự học, tự
rèn luyện vẫn còn khơng ít học sinh lười biếng, khơng xác định được động

cơ mục đích học tập; thiếu ý chí, thiếu tự giác, thiếu phương pháp học tập
hiệu quả, nhất là tự học, tự rèn luyện. Tình trạng học sinh hay nản chí khi
đứng trước những vấn đề khó khăn; học tủ, học lệch dẫn đến kết quả học tập
giảm sút; hay như nạn chạy theo thành tích, học nhưng khơng biết áp dụng
vào thực tiễn,... đang là vấn đề đáng lo ngại cho chất lượng đào tạo của
ngành giáo dục cả nước nói chung và Thành phố Hồ Chí Minh nói riêng.
Trước thực trạng đó, bản thân là một giáo viên Trung học phổ thông đang
trực tiếp giảng dạy cho các em học sinh, muốn đề xuất với Đảng bộ và chính
quyền Thành phố Hồ Chí Minh một số giải pháp nhằm nâng cao quá trình
rèn luyện kỹ năng tự học, tự rèn luyện cho học sinh Trung học phổ thông để
đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục của Đảng và Nhà nước trên nền tảng tư
tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Với những lý do đó, tác giả chọn đề tài:
“Tư tưởng Hồ Chí Minh đối với việc giáo dục khả năng tự học, tự rèn luyện
cho học sinh Trung học phổ thơng ở Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay” làm
luận văn thạc sĩ của mình.


3
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu đề tài
Ở nước ta trong những năm vừa qua, Tư tưởng Hồ Chí Minh được rất
nhiều đối tượng tham gia nghiên cứu trên những khía cạnh và cách thức tiếp
cận khác nhau. Trong đó tư tưởng của Người về giáo dục là đề tài đã được
nhiều nhà khoa học, nhà hoạt động thực tiễn thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau
quan tâm, nghiên cứu.
Trước hết về vấn đề tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục. Các cơng
trình nghiên cứu về tư tưởng Hồ Chí Minh gắn liền với tên tuổi các tác giả,
các nhà khoa học lớn như: Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp, Đặng Xuân
Kỳ, Trần Văn Giàu, Phan Ngọc Liên, Hoàng Chí Bảo,... Nghiên cứu tư tưởng
Hồ Chí Minh về giáo dục, tác giả Đào Thanh Hải (sưu tầm và tuyển chọn) cho
ra tác phẩm “Tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục”, Nxb. Lao động, Hà Nội

năm 2006. Tác phẩm“Tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục Thanh niên” của
Đồn Nam Đàn Nxb. Chính trị Quốc gia Hà Nội, 2008; tác giả Vũ Văn Gầu
và Nguyễn Anh Quốc công bố tác phẩm “Tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục
và sự phát triển giáo dục - đào tạo”, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội năm
2008; “Bác Hồ với Thanh niên Việt Nam”, Bảo tàng Hồ Chí Minh (2014),
Nxb.Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh; “Tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục
và vận dụng vào đào tạo đại học hiện nay” của tác giả Hồng Anh (chủ biên),
Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội năm 2013. Trong đó, tác phẩm “Tư tưởng Hồ
Chí Minh về giáo dục thanh niên” của TS.Đồn Nam Đàn do Nxb. Chính trị
quốc gia, Hà Nội xuất bản năm 2008. Ngồi ra cịn có thể kể đến các tác
phẩm do Ban Tư tưởng - Văn hóa Trung ương biên soạn có giá trị như: “Tư
tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức” do Nxb. Giáo dục xuất bản năm 2005,...
Trong các cơng trình trên, các tác giả đã trình bày một cách có hệ
thống tư tưởng của Hồ Chí Minh về giáo dục trên các khía cạnh như vai trị,
mục đích, phương pháp, đối tượng,... cũng như đã chắt lọc và vận dụng nó
vào việc xây dựng và góp phần đổi mới nền giáo dục nước ta. Tuy vậy, các
cơng trình nghiên cứu này cũng chỉ đề cập trên khía cạnh tổng quát của cả


4
nền giáo dục chứ chưa đi sâu giải quyết cặn kẽ một hệ thống giáo dục cụ thể
nào. Hơn nữa cũng chưa phân tích cụ thể các khía cạnh chú trọng bồi dưỡng
việc rèn luyện các kỹ năng cần thiết mà thanh niên, học sinh Thế kỷ XXI cần
có như quan niệm tự học, tự giáo dục mà Hồ Chí Minh hướng tới.
Trong những thập kỷ gần đây, xuất hiện nhiều chương trình nghiên
cứu về vấn đề giáo dục, tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục cũng đã được
thảo luận, nghiên cứu và có nhiều nhà khoa học tìm hiểu, khái qt. Có thể
kể đến một số cơng trình nghiên cứu liên quan đến đề tài như:“Giáo dục
thanh niên kế thừa nhân cách Hồ Chí Minh để trưởng thành và phát triển”
của Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia Hà Nội, năm 2008 đã nêu được một số

đường lối, chính sách phát triển thanh niên của Đảng và Nhà nước; giáo dục
tư tưởng, đạo đức Hồ Chí Minh cho thế hệ trẻ và một số giải pháp giáo dục.
Luận án tiến sỹ “Giáo dục đạo đức cho học sinh trường trung học cơ sở tại
thành phố Hồ Chí Minh trong điều kiện đổi mới hiện nay” của tác giả Đỗ
Tuyết Bảo đã tái hiện lại bức tranh đạo đức của học sinh sau 10 năm đổi
mới.“Tìm hiểu tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục thanh niên” của Văn Tùng
do Nhà xuất bản Thanh niên Hà Nội ấn hành năm 1999 đã đưa ra những luận
điểm cơ bản trong tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục, bồi dưỡng thanh niên;
những nội dung giáo dục thanh niên; một số vấn đề về phương châm,
phương pháp giáo dục thanh niên. Nhìn chung, đã có nhiều tác phẩm đào sâu
nghiên cứu, phân tích về từ tưởng giáo dục của Hồ Chí Minh. Tuy nhiên,
nhiều cơng trình vẫn nặng về tổng hợp, luận giải các bài nói, bài viết của
Người về giáo dục chung, phần lớn các cơng trình chưa liên hệ với một đối
tượng cụ thể là học sinh trung học phổ thông, trên một địa bàn cụ thể nào.
Thứ hai, vấn đề về khả năng tự học, tự rèn luyện. Trong kho tàng
truyện kể nước nhà, từ tuyền thống hiếu học của ơng cha ta cịn lưu truyền
những câu truyện, tấm gương vượt khó học tập, có nhiều phương pháp học tập
để thành cơng, trong đó có tự học, tự rèn luyện. Nghiên cứu về vấn đề này,
đặc biệt là vận dụng quan điểm, tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục để giáo


5
dục khả năng tự học, tự rèn luyện cho một đối tượng cụ thể như học sinh trung
học phổ thông là đề tài chưa thấy có nhiều tác giả đào sâu, luận giải.
Một số cơng trình liên quan đến đề tài như:“Tư tưởng tự học Hồ Chí
Minh và biện pháp nâng cao việc tự học cho sinh viên đại học Sư phạm” Luận án Tiến sĩ của tác giả Võ Văn Nam đã phần nào làm rõ và hệ thống lại tư
tưởng tự học của Hồ Chí Minh. Ngồi những tác phẩm nêu trên cịn có các bài
báo đăng trên các tạp chí uy tín khi viết về giáo dục khả năng tự học, tự rèn
luyện cho học sinh như: “Vị trí của tự học tự đào tạo trong quá trình dạy học
giáo dục và đào tạo” của tác giả Trần Bá Hồnh đăng Tạp chí Nghiên cứu

giáo dục, Tháng 7 năm 1998; Bài viết “Giáo dục đạo đức, lối sống và bồi
dưỡng lý tưởng cách mạng cho thế hệ trẻ Việt Nam hiện nay - Vấn đề và giải
pháp” đăng trên Tạp chí Cộng sản số ra ngày 25/2/2014 của Mai Nguyễn.
Bên cạnh đó cịn có các bài viết “Hồ Chí Minh với vấn đề tự học” của
Đặng Quốc Bảo, bài viết của Ngô Nhật Quang “Tư tưởng tự giáo dục liên
tục ở Bác Hồ”. Hai bài viết trên đây cùng được nhắc tới trong quyển Bách
khoa toàn thư Hồ Chí Minh sơ giản, Tập 1. Hay tác phẩm “Hồ Chí Minh với
giáo dục - đào tạo” của Phan Ngọc Liên - Nguyên An biên soạn đã nêu được
khái quát về quan điểm tự học từ trong quá trình tự học của Chủ tịch Hồ Chí
Minh. Làm sáng ngời tấm gương tự giáo dục, tự rèn luyện để hoàn thiện bản
thân của Người.
Trên cơ sở kế thừa những thành tựu nghiên cứu khoa học của các tác
giả đi trước, trên nền tảng tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục, ở cơng trình
nghiên cứu khoa học của mình, tác giả thu hẹp phạm vi nghiên cứu đi sâu
vào đối tượng cụ thể là học sinh Trung học phổ thông để nghiên cứu thực
trạng học và tự học của một bộ phận công dân chuẩn bị đến tuổi trưởng
thành, đang trong quá trình hình thành và phát triển nhân cách mà xã hội
đang trơng đợi. Từ đó đưa ra một số giải pháp nhằm nâng cao hơn nữa quá
trình rèn luyện kỹ năng tự học, tự nghiên cứu cho học sinh Trung học phổ
thông để đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục ở Việt Nam hiện nay.


6
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
- Mục đích: Trên cơ sở nghiên cứu, khái quát và luận giải tư tưởng Hồ
Chí Minh về giáo dục khả năng tự học, tự rèn luyện, tác giả luận văn phân
tích, đánh giá thực trạng học tập, khả năng tự học, tự rèn luyện của học sinh
Trung học phổ thơng tại Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay; xác định những
vấn đề đặt ra và đề xuất một số giải pháp nhằm giải quyết những vấn đề đó.
- Nhiệm vụ: Để đạt được mục đích trên, luận văn thực hiện những

nhiệm vụ sau:
Thứ nhất, trình bày những quan điểm, tư tưởng của Hồ Chí Minh về giáo
dục khả năng tự học, tự rèn luyện, từ đó nêu ý nghĩa của nó đối với việc rèn
luyện khả năng tự học cho học sinh phổ thông.
Thứ hai, đánh giá thực trạng của việc rèn luyện khả năng tự học cho học
sinh phổ thơng ở Thành phố Hồ Chí Minh giai đoạn hiện nay.
Thứ ba, rút ra ý nghĩa tư tưởng của Hồ Chí Minh về giáo dục khả năng tự
học, tự rèn luyện, đề xuất những phương hướng và giải pháp nhằm nâng cao
việc rèn luyện khả năng tự học cho học sinh phổ thơng ở Thành phố Hồ Chí
Minh hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
- Đối tượng nghiên cứu
Những quan điểm, tư tưởng của Hồ Chí Minh về giáo dục. Tinh thần
tự học, tự rèn luyện của Hồ Chí Minh và việc vận dụng quan điểm, tư
tưởng của Người về giáo dục khả năng tự học cho học sinh phổ thông.
Vận dụng những lý luận trên để tìm hiểu việc rèn luyện khả năng tự
học cho học sinh phổ thông ở Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay, chỉ ra thực
trạng, phương hướng, giải pháp giải quyết tình hình trên.
- Phạm vi nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu về tinh thần tự học, tự rèn luyện của Hồ
Chí Minh và việc nâng cao rèn luyện khả năng tự học cho học sinh phổ
thông ở Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay.


7
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
Cơ sở lý luận: Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở thế giới quan và
phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn
đề giáo dục và nâng cao rèn luyện khả năng tự học cho học sinh hiện nay.
Phương pháp nghiên cứu: Luận văn sử dụng tiếp cận triết học văn

hóa và giá trị học để làm rõ vai trị, mục đích của tinh thần tự học và tự rèn
luyện cho học sinh hiện nay.
Ngoài ra, luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu: logic và lịch
sử, phân tích và tổng hợp, so sánh và đối chiếu, xin ý kiến chuyên gia, hệ
thống hóa và khái quát hóa triết học,...
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Ý nghĩa lý luận: Luận văn góp phần làm sáng tỏ hơn và có hệ thống
hơn quan điểm, tư tưởng giáo dục của Chủ tịch Hồ Chí Minh về tinh thần tự
học, tự rèn luyện. Vai trị và mục đích của tự học, tự rèn luyện đối với việc
giáo dục đạo đức của học sinh ở một địa phương cụ thể là Thành phố Hồ Chí
Minh trong giai đoạn hiện nay.
Ý nghĩa thực tiễn: Kết quả của luận văn là tài liệu có ích, có thể rút ra
những tư liệu bổ ích, gợi mở cho chúng ta những nội dung, phương pháp tự
học, tự rèn luyện và giáo dục đạo đức cho học sinh trung học phổ thông
trong thời kỳ mới.
Luận văn cịn có thể làm tài liệu tham khảo phục vụ việc giảng dạy các
mơn như triết học, chính trị học, đạo đức học, tư tưởng Hồ Chí Minh,...
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo, Luận văn
gồm 2 chương, 4 tiết.


8
Chương 1
QUAN ĐIỂM CỦA HỒ CHÍ MINH VỀ GIÁO DỤC
KHẢ NĂNG TỰ HỌC, TỰ RÈN LUYỆN BẢN THÂN

1.1. KHÁI QUÁT TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ GIÁO DỤC

Nguồn gốc tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục:

Nguồn gốc tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục được hình thành từ rất
sớm, xuất phát từ truyền thống văn hóa Việt Nam, những tinh hoa văn hóa
của nhân loại và chủ nghĩa Mác - Lênin; bên cạnh đó là sự tác động bởi
truyền thống hiếu học của quê hương, gia đình và đặc biệt là phẩm chất, ý
chí tự lực của Người.
Truyền thống văn hóa Việt Nam, tinh hoa văn hóa của nhân loại và
chủ nghĩa Mác - Lênin
Tinh thần yêu nước là giá trị cơ bản trong hệ giá trị truyền thống của dân
tộc Việt Nam. Yêu nước là truyền thống cực kỳ quý báu của dân tộc Việt
Nam, được hình thành và phát triển trong quá trình lịch sử lâu dài của công
cuộc dựng nước và giữ nước. Truyền thống đó đã thấm đượm sâu sắc trong
mỗi người con đất Việt, là sợi chỉ đỏ xuyên suốt toàn bộ lịch sử Việt Nam.
Nhờ có tinh thần yêu nước, nhiều giá trị chuẩn mực đạo đức được hình
thành, xây đắp nên nhiều truyền thống tốt đẹp: truyền thống bất khuất, kiên
cường, cần cù, tinh thần nhân ái, đoàn kết, thương yêu đùm đọc lẫn nhau,
truyền thống hiếu học,... Từ truyền thống văn hóa mấy nghìn năm dựng nước
giữ nước của cha ông đi trước, từ tinh thần yêu nước nồng nàn trước cảnh bị
đọa đày, áp bức của thực dân Pháp đã tác động đến tư tưởng, tình cảm, chi
phối suy nghĩ và dẫn dắt đến hành động của nhiều người con ưu tú, trong đó
có người thanh niên Nguyễn Ái Quốc. Người đã tiếp thụ từ rất sớm và rất
sâu sâu sắc những truyền thống tốt đẹp đó của dân tộc.


9
Trong hành trang quyết chí ra đi tìm đường cứu nước, cứu dân và suốt
chặng đường hoạt động cách mạng sau này, Hồ Chí Minh ln tiếp thụ và
bồi dưỡng cho mình những văn hóa phong phú, đa dạng. Từ văn hóa phương
Đơng, Người học tập, coi trọng học thuyết của Khổng Tử và những tư tưởng
Phật giáo, Nho giáo để trau rèn, tu dưỡng đạo đức. Người vận dụng và thực
hành trong đời sống hằng ngày, tiếp thu tinh thần nhân ái vị tha, hướng tới

cái thiện để xây dựng xã hội mới. Khác với các sĩ phu yêu nước đi trước và
cùng thời kỳ, Người có hướng đi riêng, khác biệt và biết tiếp thu nền văn hóa
tiên tiến của phương Tây. Hồ Chí đến với chủ nghĩa Mác - Lênin - Đây là
bước ngoặt cơ bản trong quá trình hình thành, phát triển tư tưởng của Người
sau này. Thế giới quan khoa học và phương pháp luận biện chứng của chủ
nghĩa Mác - Lênin đã giúp Người nhìn nhận, đánh giá, phân tích, tổng hợp
các học thuyết tư tưởng đương thời, bằng tinh thần ý chí quyết tâm của mình
để tìm ra con đường cứu nước, giải phóng dân tộc.
Truyền thống hiếu học của quê hương
Quê hương Nam Đàn - Nghệ An là vùng đất sỏi đá cằn cỗi, nhưng
người dân nơi đây có truyền thống hiếu học, nhiều người đỗ đạt khoa bảng
được lưu danh trong sử sách. Từ Làng Sen nghèo khó, với những ảnh hưởng
tốt đẹp được tiếp nhận từ truyền thống gia đình, Hồ Chí Minh được ni
dưỡng trong nền giáo dục có nề nếp. Ơng ngoại là nhà nho có uy tín, giàu
lòng thương yêu thường hay giúp con em dân nghèo học tập; cha là thầy đồ
dạy chữ, tiếp tri thức cho Người; mẹ của Người là người phụ nữ đôn hậu,
đảm đang luôn chăm bẵm, chỉ dạy các con đạo lý làm người bằng tình
thương yêu sâu sắc. Truyền thống giáo dục của gia đình, truyền thống hiếu
học, anh hùng trong lao động của quê hương, tấm gương của các sĩ phu, nhà
nho yêu nước, và những người thầy dạy tại quê nhà đã ảnh hưởng tới tư
tưởng, tình cảm và đặc biệt là góp phần hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về
giáo dục sau này.


10
Phẩm chất, ý chí tự lực của Hồ Chí Minh
Người thanh niên Nguyễn Ái Quốc với vầng trán cao, đôi mắt sáng,
phong cách giản dị mang trong mình một hồi bão lớn, có bản lĩnh kiên định,
có ý chí tự lực tự cường và luôn luôn phấn đấu để không ngừng tiến bộ, để
thực hiện cho bằng được ham muốn tốt bậc của bản thân là làm cho đất nước

được độc lập, cho đồng bào ta được hạnh phúc, ấm no. Phải là một người có
tư duy sáng tạo, biết xây dựng kế hoạch khoa học, ý chí quyết tâm cao, ham
học hỏi, nói đi đơi với làm như Hồ Chí Minh mới có thể tự học, tự rèn luyện
để hồn thành cơng việc, thành cơng. Ngay từ lúc cịn trẻ đến khi ra nước
ngồi, Người đã kiên trì bồi dưỡng cho mình đa dạng kiến thức trên nhiều lĩnh
vực, tìm đường cứu nước bằng phương pháp tự học trong sách vở, với bạn bè,
trong quá trình lao động, từ thực tế công tác nghiên cứu.Tuy lao động hết sức
cực nhọc, cuộc sống tha hương hết sức nghèo khổ, thiếu thốn nhưng khơng
bao giờ Người từ bỏ mục đích học tập. Có thể nói, trong suốt cuộc đời hoạt
động cách mạng, Hồ Chí Minh ln nêu cao tinh thần tự học để không ngừng
nâng cao kiến thức phục vụ tốt nhất cho cách mạng và cho nhân dân.
Như vậy, xuất phát từ truyền thống văn hóa Việt Nam, những tinh hoa
văn hóa của nhân loại và chủ nghĩa Mác - Lênin; bên cạnh đó là sự tác động
bởi truyền thống hiếu học của quê hương, gia đình và đặc biệt là phẩm chất,
ý chí tự lực của Người là những nguồn gốc hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh
về giáo dục.
Khái niệm tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục:
Theo Từ Điển Bách Khoa Việt Nam, giáo dục là quá trình đào tạo con
người một cách có mục đích, nhằm chuẩn bị cho con người tham gia đời sống
xã hội, tham gia lao động sản xuất, nó được thực hiện bằng cách tổ chức việc
truyền thụ và lĩnh hội những kinh nghiệm lịch sử - xã hội loài người.
Giáo dục là một đặc trưng của xã hội loài người. Giáo dục nảy sinh
cùng với xã hội loài người, trở thành một chức năng sinh hoạt không thể


11
thiếu được và không bao giờ mất đi ở mọi giai đoạn phát triển của xã hội.
Giáo dục mang tính lịch sử cụ thể, tính chất, mục đích, nhiệm vụ, nội dung,
phương pháp và tổ chức giáo dục biến đổi theo các giai đoạn phát triển của
xã hội, theo các chế độ chính trị - kinh tế của xã hội.

Như vậy, giáo dục là một trong những hoạt động quan trọng, đặc trưng
cơ bản nhất của xã hội loài người. Giáo dục góp phần thúc đẩy lịch sử nhân
loại phát triển.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục là một bộ phận trong tư tưởng Hồ
Chí Minh. “Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm tồn diện và
sâu sắc về những vấn đề cơ bản của quá trình cách mạng Việt Nam, từ cách
mạng dân tộc dân chủ nhân dân lên cách mạng xã hội chủ nghĩa; là kết quả
của sự vận dụng sáng tạo Chủ nghĩa Mác – Lênin vào điều kiện cụ thể của
nước ta, đồng thời là sự kết hợp tinh hoa dân tộc và trí tuệ thời đại nhằm giải
phóng dân tộc và giải phóng con người”. (Hội đồng Trung ương chỉ đạo biên
soạn giáo trình quốc gia các mơn khoa học Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, 2013, trang 18).
Trước hết, việc xác định nội hàm khái niệm tư tưởng Hồ Chí Minh về
giáo dục được nhiều nhà nghiên cứu nêu lên, song chưa có sự nhất trí cao.
Tuy vậy, cũng có thể nêu một số nội dung cơ bản đã có sự đồng thuận với
nhau. Theo PGS.TS Nguyễn Quốc Bảo (2014) có thể đưa ra khái niệm sau:
“Tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục là một hệ thống các quan điểm
toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của giáo dục Việt Nam, từ giáo
dục dân chủ nhân dân tiến lên giáo dục xã hội chủ nghĩa. Đó là tư tưởng về
vai trị, vị trí, mục tiêu, nội dung, phương pháp giáo dục...” (tr.33).
Nghiên cứu hệ thống quan điểm, lý luận của tư tưởng Hồ Chí Minh về
giáo dục ta thấy đó là hệ thống những quan điểm, lý luận rất phong phú, đa
dạng, bao gồm các lĩnh vực về chức năng, nhiệm vụ, vị trí của giáo dục.


12
Thứ hai, đối tượng nghiên cứu của tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục
là hệ thống những quan điểm, lý luận của Hồ Chí Minh về giáo dục Việt
Nam gắn liền với quá trình cách mạng Việt Nam.
Thứ ba, Nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục được vận dụng

vào thực tiễn giáo dục Việt Nam và cũng góp phần làm cho tư tưởng của
Người được phong phú và phát triển.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục là sản phẩm không chỉ của riêng
cá nhân Chủ tịch Hồ Chí Minh mà của cả dân tộc Việt Nam, của thời đại.
Điều này không thể phủ nhận.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục có liên quan chặt chẽ với khoa học
giáo dục và nhiều ngành khoa học xã hội nhân văn khác. Với tư cách là một
môn khoa học, tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục có đối tượng, cơ sở
phương pháp luận, phương pháp nghiên cứu và các nội dung cụ thể.
1.1.1. Quan niệm của Hồ Chí Minh về vai trị, nhiệm vụ, nội dung,
phương pháp của giáo dục
1.1.1.1. Về vai trò, nhiệm vụ của giáo dục
Vai trị của giáo dục
Nói về vai trị của giáo dục, điều đã được đề cập khá nhiều mà người
ta dễ sa vào những triết lý chung chung, nhưng Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn có
cách đánh giá riêng với các lập luận của mình. Ở Chủ tịch Hồ Chí Minh, vai
trị của giáo dục thường gắn với sự phân tích khác liên quan tới hoạt động
diễn ra trong cuộc sống. Nhờ vậy, vai trị của giáo dục ln có ý nghĩa thực
tiễn cụ thể. Đó chính là nét sáng tạo trong tư tưởng của Người.
Vai trò của giáo dục được Người chỉ rõ là nhằm phát triển toàn diện
con người Việt Nam, một nền giáo dục vì con người, cho con người và
hướng tới việc xây dựng con người mới - con người xã hội chủ nghĩa. Viết
trong Thư gửi các học sinh nhân ngày khai trường đầu tiên của nước Việt
Nam Dân chủ Cộng hòa, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định nền giáo dục


13
mới của nước nhà sẽ “đào tạo các em nên những người cơng dân hữu ích cho
nước Việt Nam, một nền giáo dục làm phát triển hoàn toàn những năng lực
sẵn có của các em” (Hồ Chí Minh, 2011d, trang 34). Đồng thời, Người đã

lên án sâu sắc nền giáo dục dưới sự đô hộ của thực dân Pháp với chính sách
ngu dân dễ trị, Người nhấn mạnh:
“Phải ra sức tẩy sạch ảnh hưởng của giáo dục nô dịch của thực dân
cịn sót lại, như: Thái độ thờ ơ đối với xã hội, xa rời đời sống lao động
và đấu tranh của nhân dân; học để lấy bằng cấp, dạy theo lối nhồi sọ”.
(Hồ Chí Minh, 2011h, trang 80).
Nền giáo dục mới phải thực hiện dạy và học theo hướng phục vụ Tổ
quốc và nhân dân. Vai trò này được Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ là “Học để
làm việc, để làm người, làm cán bộ. Học để phụng sự đoàn thể, giai cấp và
nhân dân, Tổ quốc và nhân loại” (Hồ Chí Minh, 2011e, trang 684). Từ đó,
Chủ tịch Hồ Chí Minh rất coi trọng việc dạy và học phải xuất phát từ nhu cầu
của thực tiễn cuộc sống, nói chuyện tại Đại hội Giáo dục phổ thơng tồn quốc
(23/3/1956), Người động viên các thầy, cơ giáo: “Dạy và học cần phải theo
nhu cầu của dân, của Nhà nước. Thầy dạy tốt, trò học tốt, cung cấp đủ cán bộ
cho nông nghiệp, công nghiệp, cho các ngành kinh tế và văn hóa. Đó là nhiệm
vụ vẻ vang của các thầy giáo, cô giáo”. Khi đang ở Mát-xcơ-va (19/7/1955),
trong Thư gửi các cháu lưu học sinh Việt Nam Người ân cần căn dặn: “Các
cháu học kỹ thuật và học tiếng Nga cần nhận rõ mình học cốt để phục vụ Tổ
quốc, phục vụ nhân dân”. Sau này, trong suốt qng đời hoạt động cách mạng
của mình, Người ln quan tâm và nhiều lần chỉ rõ vai trò của giáo dục là phát
triển toàn diện con người để giúp đời, phụng sự Tổ quốc và nhân dân.
Nhiệm vụ của giáo dục
Tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục ln gắn liền với thực tiễn cách
mạng Việt Nam. Theo Người, giáo dục phải luôn gắn với yêu cầu cuộc sống
và phải phục vụ đắc lực cho cách mạng. Mỗi một thời kỳ lịch sử có một


14
nhiệm vụ khác nhau, giáo dục cũng vì thế mà thay đổi sao cho phù hợp với
yêu cầu của thời kỳ ấy. Căn cứ vào yêu cầu của mỗi thời kỳ cách mạng khác

nhau, Hồ Chí Minh đã đề ra nhiệm vụ khác nhau cho phù hợp thực tiễn.
Sau Cách mạng Tháng Tám thành cơng, chính quyền về tay nhân dân,
nhiệm vụ đặt ra là phải giữ vững, củng cố, tăng cường, xây dựng chính quyền
thực sự của dân, do dân, vì dân. Hồ Chí Minh cho rằng: “nhiệm vụ cấp bách là
phải giáo dục lại nhân dân chúng ta…, phải làm cho dân tộc chúng ta trở nên
một dân tộc dũng cảm, yêu nước, yêu lao động, một dân tộc xứng đáng với
nước Việt Nam độc lập” (Hồ Chí Minh, 2011d, trang 7), phải làm cho người
dân Việt Nam hiểu biết quyền lợi của mình, bổn phận của mình, có kiến thức
để tham gia vào cơng cuộc xây dựng nước nhà, thực hiện đời sống mới, phải
làm cho mọi người Việt Nam “bất kì già, trẻ, trai, gái; bất kì giàu, nghèo, lớn,
nhỏ, đều cần phải trở nên một chiến sĩ tranh đấu trên mặt trận: Quân sự, Kinh
tế, Chính trị, Văn hố” (Hồ Chí Minh, 2011e, trang 556).
Giai đoạn toàn quốc kháng chiến và xây dựng nền dân chủ, Người kêu
gọi sửa đổi giáo dục cho phù hợp với việc đào tạo nhân tài kháng chiến, kiến
quốc. Giai đoạn tập trung phục vụ kháng chiến kiến quốc. Kháng chiến có
thắng lợi, kiến quốc mới thành cơng. Kiến quốc có thành cơng, kháng chiến
mới mau thắng lợi. Kiến thiết thì phải có nhân tài. Nhân tài khơng tự nhiên mà
có, nhiệm vụ của giáo dục là phải nâng cao dân trí, bồi dưỡng nhân tài, đào
tạo nhân lực phục vụ cho sự nghiệp kháng chiến kiến quốc.
Giai đoạn cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc, mục đích giáo dục
lại gắn liền với tình hình mới, thời kỳ rất cần những con người làm chủ xã
hội, làm chủ sản xuất, biết quản lí cơ quan, xí nghiệp, trường học. Người chỉ
rõ nhiệm vụ giáo dục là đào tạo con người mới, con người tồn diện có tinh
thần u nước, u chủ nghĩa xã hội, có trình độ văn hố, khoa học, có ý
thức và năng lực tự làm chủ. Với u cầu đó, Hồ Chí Minh đã chỉ ra nhiệm
vụ cụ thể từng cấp học:


15
“Đại học thì cần kết hợp lý luận khoa học với thực hành, ra sức học

tập lý luận tiên tiến của các nước bạn, kết hợp với thực tiễn nước ta, để
thiết thực giúp ích cho cơng cuộc xây dựng nước nhà.
- Trung học thì cần đảm bảo cho học trị những tri thức phổ thơng chắc
chắn, thiết thực, thích hợp với nhu cầu và tiền đồ xây dựng nước nhà.
- Tiểu học thì cần giáo dục các cháu thiếu nhi yêu Tổ quốc, yêu nhân
dân, yêu lao động, yêu khoa học, trọng của công. Cách dạy phải nhẹ
nhàng vui vẻ, chớ gị ép thiếu nhi vào khn khổ của người lớn. Phải
đặc biệt chú ý giữ gìn sức khoẻ cho các cháu” (Hồ Chí Minh, 2011j,
trang 186).
Hồ Chí Minh cho rằng, từ tiểu học, trung học đến đại học là nơi rèn
luyện nhi đồng và thanh niên. Sự học tập ở trường lại ảnh hưởng rất lớn cho
tương lai của họ, tức là tương lai nước nhà. Vì vậy, cốt lõi là phải dạy cho
học trò biết yêu nước, thương nịi. Phải dạy cho họ có ý chí tự lập, tự cường,
quyết không chịu thua kém ai, quyết không chịu làm nơ lệ,.... Đối với bậc
mẫu giáo thì Hồ Chí Minh ví hoạt động dạy trẻ giống như trồng cây non:
“Trồng cây non được tốt thì sau này cây lên tốt… Điều đầu tiên dạy các cháu
là đạo đức”. Dạy trẻ nhỏ tốt thì sau này các cháu thành người tốt và ngược
lại, nếu làm không tốt sẽ ảnh hưởng không tốt đến thế hệ sau, tức ảnh hưởng
đến tiền đồ và tương lai đất nước.
Như vậy, theo quan niệm của Hồ Chí Minh, nhiệm vụ cơ bản nhất của
giáo dục là đào tạo nhân tài cho đất nước đáp ứng ngày càng cao của yêu cầu
cách mạng.
Với vai trò và nhiệm vụ to lớn ấy, để thực hiện được mục tiêu của sự
nghiệp giáo dục nước nhà là từng bước hình thành nên những lớp người Việt
Nam có đủ đức, đủ tài, vừa hồng, vừa chuyên phục vụ cho cơng cuộc xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc thì con người Việt Nam phải được giáo dục. Giáo
dục trên tất cả các mặt: Chính trị tư tưởng, đạo đức cách mạng, văn hóa,


16

chuyên môn nghiệp vụ, thẩm mỹ, thể chất và sức khỏe... Đó là những nội
dung hết sức căn bản, gắn bó chặt chẽ, làm nền tảng cho sự phát triển con
người Việt Nam toàn diện.
1.1.1.2. Nội dung của giáo dục
Giáo dục chính trị tư tưởng
Giáo dục chính trị tư tưởng là vấn đề được Hồ Chí Minh đặc biệt quan
tâm. Theo Người đây là cơng việc rất quan trọng vì chỉ khi tư tưởng thống
nhất thì mới thơng suốt trong hành động. Do vậy phải tập trung giáo dục
chính trị, tư tưởng để thống nhất giữa tư tưởng với hành động của con người.
Theo Hồ Chí Minh giáo dục chính trị tư tưởng là hoạt động quan
trọng, quyết định sự thành công của sự nghiệp cách mạng xuyên suốt mọi
giai đoạn lịch sử. Người quan niệm: Nếu không thống nhất về tư tưởng, sẽ
không thống nhất trong hành động. “Nếu ta không chuẩn bị sẵn sàng, không
kịp thời lãnh đạo, thì tư tưởng sẽ hỗn loạn”. Muốn làm trịn nhiệm vụ, phải
cải tạo tư tưởng. “Bồi dưỡng tư tưởng mới để đánh thắng tư tưởng cũ, đoạn
tuyệt với con người cũ để trở thành con người mới” (Hồ Chí Minh, 2011h,
trang 300). Giáo dục chính trị tư tưởng khơng chỉ để nâng cao trình độ lý
luận, chống lại ách thống trị đế quốc thực dân mà còn để “cải tạo” và “chiến
đấu” với mình. Theo đó, Hồ Chí Minh căn dặn:
“Những tư tưởng và hành động có lợi ích cho Tổ quốc cho đồng bào là
bạn. Những tư tưởng và hành động có hại cho Tổ quốc cho đồng bào
là kẻ thù. Thế là chẳng những ở ngồi, mà chính ở trong mình ta cũng
có bạn và thù. Vì vậy, chúng ta phải ra sức tăng cường bạn ở trong và
ở ngoài, kiên quyết chống lại kẻ thù ở ngoài và ở trong mình ta” (Hồ
Chí Minh, 2011h, trang 300).
Trong bài nói tại lớp học chính trị của giáo viên, đầu tháng 8-1959
Người khẳng định: “Chính trị là linh hồn, chn mơn là cái xác. Có chun
mơn mà khơng có chính trị thì chỉ cịn cái xác khơng hồn. Phải có chính trị



17
trước rồi có chun mơn”. Bởi vậy, nâng cao trình độ chính trị là nhu cầu tự
thân mọi cơng dân yêu nước, đặc biệt là đối với thế hệ trẻ, là cơ sở để nắm
bắt chủ trương chính sách của Đảng, pháp luật của nhà nước. Giáo dục chính
trị tư tưởng tác động trực tiếp đến con người, đến tư tưởng đạo đức và khả
năng thực hành công việc của mỗi người, giúp họ khắc phục những tư tưởng
lạc hậu, nâng cao tinh thần tự giác và tính tích cực trong q trình cải tạo,
xây dựng con người mới.
Hồ Chí Minh cho rằng phải dạy lý luận, dạy chủ nghĩa Mác - Lênin
để nâng cao nhận thức về chính trị tư tưởng cho mọi người. Giáo dục lý
luận chủ nghĩa Mác - Lênin là truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin, đường lối,
quan điểm, chính sách của Đảng và Nhà nước tới cán bộ, đảng viên nhằm
tạo ra sự thống nhất về tư tưởng, nâng cao nhận thức chính trị, phẩm chất
cách mạng và năng lực hoạt động thực tiễn của họ, hướng dẫn họ vận dụng
những điều đã biết ấy vào cuộc sống. Lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin là
“Khoa học về các quy luật phát triển của tự nhiên và xã hội; khoa học về
cách mạng quần chúng bị áp bức và bị bóc lột; khoa học về thắng lợi của
chủ nghĩa xã hội ở tất cả các nước, khoa học về xây dựng chủ nghĩa cộng
sản”. Chủ nghĩa Mác - Lênin là kim chỉ nam vạch đường chỉ lối cho chúng
ta đi. Có phương hướng đúng thì làm việc mới đúng, có học tập lý luận
Mác - Lênin mới củng cố được đạo đức cách mạng, giữ vững lập trường,
nâng cao sự hiểu biết, mới hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao. Với những
tính chất nêu trên, chủ nghĩa Mác - Lênin khơng những khơng bó buộc giáo
dục mà còn soi dưỡng, chỉ lối cho các nhà khoa học, các thầy cô giáo và
học sinh, sinh viên nghiên cứu khám phá. Giáo dục, học tập chủ nghĩa Mác
- Lênin khơng phải thuộc lịng từng câu, từng chữ, đem kinh nghiệm của
các nước anh em áp dụng một cách máy móc mà phải học tập tinh thần của
chủ nghĩa Mác - Lênin, học tập lập trường, phương pháp ấy mà giải quyết
cho tốt những vấn đề thực tế trong cơng cuộc cách mạng. Hồ Chí Minh đã



18
nêu gương sáng về học tập, vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin.
Người nói:
“Chúng ta phải nâng cao sự tu dưỡng về chủ nghĩa Mác - Lênin để dùng
lập trường, quan điểm, phương pháp chủ nghĩa Mác - Lênin mà tổng kết
những kinh nghiệm của Đảng ta, phân tích một cách đúng đắn những đặc
điểm của nước ta. Có như thế, chúng ta mới có thể dần dần hiểu được
quy luật phát triển của cách mạng Việt Nam, định ra được những đường
lối, phương châm, bước đi cụ thể của cách mạng xã hội chủ nghĩa thích
hợp với tình hình nước ta.” (Hồ Chí Minh, 2011k, trang 92).
Giáo dục lý luận chính trị nhằm quán triệt và vận dụng chủ nghĩa
Mác - Lênin là điều kiện để nâng cao năng lực trí tuệ. Hồ Chí Minh cịn địi
hỏi phải học cả đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước, vì đường lối
chính sách của Đảng và Nhà nước là sự vận dụng chủ nghĩa Mác - Lênin,
đồng thời phản ánh hiện thực của xã hội ta trong từng thời kỳ lịch sử. Người
giải thích:
“có nắm vững đường lối cách mạng.... mới hiểu rõ mình phải làm gì
và đi theo phương hướng nào để thực hiện mục đích của Đảng trong
giai đoạn cách mạng hiện nay” (Hồ Chí Minh, 2011o, trang 115).
Nâng cao giáo dục chủ nghĩa Mác - Lênin, giáo dục tư tưởng chính trị
có nghĩa là Hồ Chí Minh địi hỏi phải giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa
trong quá trình phát triển giáo dục ở Việt Nam. Hồ Chí Minh nhấn mạnh:
Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội trước hết cần phải có con người xã hội chủ
nghĩa, muốn trở thành con người xã hội chủ nghĩa trước hết cần phải có tư
tưởng xã hội chủ nghĩa. Khơng có văn hóa, khoa học kỹ thuật chung chung,
trừu tượng.
Văn hóa, khoa học kỹ thuật ở Việt Nam phải gắn bó với dân tộc Việt
Nam, với độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Hồ Chí Minh kết luận: “Để



19
phục vụ sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa thì văn hóa phải xã hội chủ
nghĩa về nội dung và dân tộc về hình thức.”
Giáo dục đạo đức cách mạng
Trên cơ sở tiếp thu các giá trị truyền thống của dân tộc, kế thừa và
phát triển một cách sáng tạo tư tưởng về đạo đức cách mạng của C.Mác –
Ph.Ăngghen và Lênin, quan niệm đạo đức cách mạng đã được Hồ Chí Minh
nêu lên một cách tồn diện, sâu sắc. Theo Hồ Chí Minh, đạo đức (đạo đức
cách mạng) là “suốt đời đấu tranh cho Đảng, cho cách mạng”, “tuyệt đối
trung thành với Đảng, với nhân dân”, “hịa mình với quần chúng thành một
khối, tin quần chúng, hiểu quần chúng, lắng nghe ý kiến của quần chúng”,
“lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ”. Khi đánh giá vai trò của đạo đức trong
đời sống, từ rất sớm, Hồ Chí Minh đã khẳng định đạo đức là nguồn cội nuôi
dưỡng giáo dục và phát triển con người. Nền giáo dục mà Bác hướng tới
không dừng lại ở mục tiêu dạy kiến thức, chuyên môn, mà quan trọng là dạy
làm người.
Hồ Chí Minh coi đạo đức là cái gốc của người cách mạng, là vấn đề
có ý nghĩa quyết định trong việc xây dựng con người mới. Người ví đạo đức
như gốc của cây, ngọn nguồn của sơng suối. Người nói:
“Cũng như sơng thì có nguồn mới có nước, khơng có nguồn thì sơng
cạn. Cây phải có gốc, khơng có gốc thì cây héo” (Hồ Chí Minh, 2011e,
trang 292).
Cách mạng là một sự nghiệp vơ cùng khó khăn, sự nghiệp độc lập dân
tộc và chủ nghĩa xã hội là sự nghiệp rất to lớn, khó khăn và nặng nề; con
đường đi đến độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội là con đường dài, không
phải là đại lộ thẳng tắp. Nó địi hỏi sự phấn đấu khơng ngừng của mỗi người,
mỗi thế hệ, hơn nữa còn của nhiều thế hệ nối tiếp nhau. Người dạy:
“Đạo đức cách mạng không phải trên trời sa xuống. Nó do đấu tranh,
rèn luyện bền bỉ hằng ngày mà phát triển và củng cố. Cũng như ngọc



20
càng mài càng sáng, vàng càng luyện càng trong” (Hồ Chí Minh,
2011k, trang 612).
Chính vì lẽ đó, hơn ai hết và trước hết thì “người cách mạng phải có
đạo đức cách mạng làm gốc, làm nền tảng mới hoàn thành nhiệm vụ vẻ vang;
khơng có đạo đức thì dù tài giỏi mấy cũng khơng lãnh đạo được nhân dân”
(Hồ Chí Minh, 2011e, trang 292). Người còn chỉ rõ, việc thực hành tốt đạo
đức cách mạng trong đời sống hàng ngày của mỗi cá nhân khơng chỉ có tác
dụng tơn vinh, nâng cao giá trị chính họ mà cịn tạo sức mạnh nội sinh, giúp
họ vượt qua khó khăn, thử thách. Bởi, “có đạo đức cách mạng thì khi gặp khó
khăn, gian khổ, thất bại cũng không sợ sệt, rụt rè, lùi bước. Vì lợi ích chung
của Đảng, của cách mạng, của giai cấp, của dân tộc và của loài người mà
khơng ngần ngại hy sinh tất cả lợi ích riêng của cá nhân mình. Khi cần thì sẵn
sàng hy sinh cả tính mạng của mình cũng khơng tiếc” (Hồ Chí Minh, 2011k,
trang 602). “Có đạo đức cách mạng thì gặp thuận lợi và thành công vẫn giữ
vững tinh thần gian khổ, chất phác, khiêm tốn, lo hoàn thành nhiệm vụ cho tốt
chứ không kèn cựa về mặt hưởng thụ, không cơng thần, khơng quan liêu,
khơng kiêu ngạo, khơng hủ hóa” (Hồ Chí Minh, 2011k, trang 603). Vì vậy,
suốt đời mình Hồ Chí Minh chăm lo giáo dục để mỗi cán bộ, đảng viên có
được những phẩm chất đạo đức cách mạng cơ bản: trung với nước, hiếu với
dân; suốt đời phấn đấu hy sinh vì độc lập tự do của Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã
hội, nhiệm vụ nào cũng hồn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào
cũng đánh thắng; thương yêu quý trọng con người; là cần, kiệm, liêm, chính,
chí cơng vơ tư; có tinh thần quốc tế trong sáng;…
Quan điểm lấy đức làm gốc của Hồ Chí Minh khơng có nghĩa là
Người tuyệt đối hóa mặt đức, coi nhẹ mặt tài mà luôn đặt chúng trong mối
quan hệ biện chứng, tác động qua lại với nhau. Đức là gốc, nhưng đức và tài,
hồng và chuyên phải kết hợp, phẩm chất và năng lực phải đi đơi, khơng thể

có mặt này, thiếu mặt kia. Người từng phân tích: người nào có tài mà khơng


×