Tải bản đầy đủ (.pdf) (161 trang)

Quan hệ ngoại giao của triều nguyễn (1858 1884)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.06 MB, 161 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

PHAN THỊ THÚY HẰNG

QUAN HỆ NGOẠI GIAO CỦA
TRIỀU NGUYỄN (1858-1884)
CHUYÊN NGÀNH
MÃ SỐ

: LỊCH SỬ VIỆT NAM
: 5.03.15

LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ VIỆT NAM

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
TIẾN SĨ LÊ HỮU PHƯỚC

Thành phố Hồ Chí Minh – Năm 2008


1

LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu của cá nhân tơi, nếu có gì
gian dối tơi xin chịu hồn tồn trách nhiệm trước pháp luật.
TP.HCM, ngày 25/07/2008
Học viên Cao học

Phan Thị Thúy Hằng



2

MỤC LỤC
DẪN LUẬN
1.
2.
3.
4.
5.

Lý do chọn đề tài - mục đích nghiên cứu
Lịch sử nghiên cứu đề tài
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu
Những đóng góp của luận văn

CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT QUAN HỆ NGOẠI GIAO CỦA TRIỀU
NGUYỄN NỬA ĐẦU THẾ KỶ XIX:
1.1 Bối cảnh quốc tế - khu vực và tình hình kinh tế - xã hội Việt Nam.
1.1.1 Bối cảnh quốc tế và khu vưc
1.1.2 Tình hình kinh tế - xã hội của Việt Nam
1.2 Quan hệ ngoại giao của Việt Nam với Trung Hoa, các nước lân cận, và Pháp
1.2.1 Chiến lược “dụng nhu thắng cương” và chiến thuật “triều cống” trong
quan hệ với Trung Hoa
1.2.2 Chiến lược “tơn trọng hịa bình, ổn định” và chiến thuật “trung lập” trong
quan hệ với các nước lân cận
1.2.3 Chiến lược “không phương Tây” và chiến thuật “từ chối” trong quan hệ
với Pháp


CHƯƠNG 2: CHÍNH SÁCH VÀ HOẠT ĐỘNG NGOẠI GIAO CỦA
TRIỀU NGUYỄN 1858 – 1884:
2.1 Chiến lược “biết người, biết ta” và chiến thuật truyền thống “triều cống” trong
quan hệ với Trung Hoa
2.2 Từ ngoại giao “thưa thớt” đến “biệt lập” trong quan hệ với các nước lân cận
2.3 Từ chủ hòa, nhân nhượng đến thỏa hiệp và bị khuất phục trong quan hệ với
Pháp
2.3.1 Giai đoạn 1858 – 1862
2.3.2 Giai đoạn 1862 – 1874
2.3.3 Giai đoạn 1874 – 1884

CHƯƠNG 3: NHỮNG ĐẶC ĐIỂM MANG TÍNH QUY LUẬT TRONG
NGOẠI GIAO CỦA TRIỀU NGUYỄN NỬA CUỐI THẾ KỶ XIX:
3.1 Ngoại giao triều Nguyễn bị chi phối bởi hệ tư tưởng Nho giáo một cách sâu sắc.
3.2 Tuy nổ lực xác lập thiện chí ngoại giao nhưng trong thực tế ngoại giao quốc tế
của triều Nguyễn đã không được xem là một mặt trận.
3.3 Ngoại giao triều Nguyễn hướng tới việc bảo tồn những giá trị văn hóa phi vật
thể truyền thống, nhưng đã bất thành do đánh mất vị thế chủ động trong hoạt
động đối nội và đối ngoại.

KẾT LUẬN
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC


3

DẪN LUẬN
1. Lý do chọn đề tài - mục đích nghiên cứu:


Cũng như nhà nước phong kiến cuối cùng Mãn Thanh - Trung Hoa, triều
Nguyễn đã kết lại lịch sử Việt Nam bằng "nốt trầm" trong hình thái kinh tế - chính
trị - tư tưởng đã già nua. Nốt thăng của triều Nguyễn được khởi xướng từ năm 1802
và bị rớt nhịp vào năm 1884. Suốt hơn 80 năm trị vì đất nước trong tình trạng độc
lập, thống nhất, và chủ quyền quốc gia, triều Nguyễn bị buộc phải để cho thực dân
Pháp can thiệp trực tiếp vào công việc quản lý đất nước của mình bằng hình thức
bảo hộ. Đây chính là cơ sở để các thế hệ sau đánh giá theo các quan điểm của mình
về các mặt kinh tế, chính trị, xã hội, văn hóa, giáo dục, hệ tư tưởng và ngoại giao
của triều Nguyễn. Tuy nhiên, nhiều nhà nghiên cứu về triều Nguyễn đã khai thác
triệt để các khía cạnh trên nhưng chưa đi sâu vào nội dung tìm hiểu các chính sách
đối ngoại của họ Nguyễn suốt 1802 - 1884 để tạo thành một mắc xích đầy khả thi
cho việc đánh giá sự thất bại của triều Nguyễn ở giai đoạn này. Ngoại giao là một
phần tất yếu của hoạt động quản lý quốc gia. Trong thời bình, ngoại giao khơng
làm nổi trội mình, nhưng trước và trong chiến tranh, ngoại giao là ngọn đuốc sáng
để tìm đến đỉnh vinh quang của dân tộc là nền hịa bình được lập lại.
Đất nước chúng ta khơng nằm trong một ốc đảo khép kín và tách biệt hẳn thế
giới xung quanh. Trái lại, Việt Nam nằm trong hệ thống các quốc gia có tiềm năng
về nội lực kinh tế vì vị trí địa lý thuận lợi nhất ở vùng Đông Á. Đây là điều kiện
cần để sự thông thương mua bán, trao đổi giữa các nước, các khu vực được diễn ra
thuận tiện nhất. Tuy nhiên, trong con mắt của nhiều quốc gia khác, Việt Nam chưa
hội đủ điều kiện cần để khai phá hết tiềm năng kinh tế trên lãnh thổ quốc gia của
mình. Cách nghĩ đơn giản ấy đã khiến nhiều quốc gia có khả năng về qn sự ln
tìm cách tấn cơng Việt Nam để giành lấy quyền cai trị. Do đó, vấn đề chống xâm
lăng luôn là biểu tượng hàng đầu của dân tộc Việt Nam suốt chiều dài dựng nước và
giữ nước của cha ông chúng ta. Khi cùng ngang nhau về một trình độ khoa học kỹ
thuật, Việt Nam ln chiến thắng giặc xâm lược bằng trí và dũng của mình. Đến


4


đầu thế kỷ XIX, việc tạo khoảng cách khá xa về trình độ khoa học kỹ thuật, khoa
học quân sự của các nước phương Tây đã buộc các nước Á Đông buông tay đầu
hàng vô điều kiện. Sự thật lịch sử đau thương của nhiều nước Á Đơng có nhiều
điểm tương đồng với lịch sử đầy nước mắt của dân tộc Việt Nam dưới thời Nguyễn.
Nếu các nước trong khu vực cố vùng vẫy dưới gọng kiềm của chủ nghĩa thực dân
phương Tây, thì Việt Nam cố níu lấy kẻ thù xâm lược Pháp để giành sự sống cho
dân tộc trong làn hơi thở cuối cùng. Đây là giải pháp được đặt ra cho một đất nước
suy nội lực một cách trầm trọng: vừa phải đánh trả giặc ngoài, vừa phải giải quyết
nhọc nhằn những mâu thuẫn nghiêm trọng bên trong.
Hơn thế nữa, triều đại phải giải quyết các vấn đề quốc gia đang dần mất sự
sống lại nằm hoàn tồn dưới thời trị vì của vua Tự Đức. Trong suốt nửa thế kỷ đầu
tạo dựng cơ đồ, các vua đầu triều Nguyễn đã thiết lập một lối đi riêng cho dịng tộc
mình. Đến nửa thế kỷ sau, vua Tự Đức phải tiếp tục cho guồng máy chính trị của
mình đi theo đường lối đó. Sự lỗi thời về nhiều mặt và nhiều bất cập trong đời sống
chính trị của Việt Nam đầu thế kỷ XIX, đã đẩy cho triều đình Tự Đức bước vào vũ
đài chính trị với nhiều choáng ngợp và lúng túng trước sự đổi thay của thời cuộc.
Do đó, nếu nói rằng triều đình Tự Đức là hệ quả của các triều đại Gia Long, Minh
Mạng, Thiệu Trị là có tính chính xác nhất. Chính vì vậy, tác giả chọn đề tài nghiên
cứu về triều Nguyễn giai đoạn 1858 - 1884 để đánh giá một cách khách quan về "hệ
di sản" của triều đình Huế dưới thời Tự Đức trong khuôn khổ của mặt trận đấu tranh
ngoại giao. Trên cơ sở ấy, chúng ta mới có dịp khám phá nhiều vấn đề về chính
sách đối ngoại của triều Nguyễn nhằm tìm ra câu trả lời về việc vì sao triều Nguyễn
lại dùng chính sách này hoặc chính sách kia trong hồn cảnh cụ thể của đất nước;
những quyết định ấy đúng hay sai; và nó để lại những hệ quả gì cho việc quan hệ
Việt Nam với các nước sau này?
Đó cũng chính là lý do để tác giả nghiên cứu trong bài luận văn Thạc sĩ của
mình nhằm mục đích cuối cùng là đúc kết lại các vấn đề còn vướng ở triều Nguyễn
để khắc phục và loại hẳn khả năng tái lập trong quá trình bảo vệ tổ quốc sau thời kỳ



5

ấy; từ đó, tìm ra được những đóng góp q báu và thiết thực trong công tác quản lý
đất nước Việt Nam sau này nói chung và trong lĩnh vực quan hệ quốc tế nói riêng.
2. Lịch sử nghiên cứu đề tài:
Đứng trước một thế kỷ hịa bình và ổn định trong thời hiện đại, nhiều nước
trên thế giới bắt đầu xu hướng quan tâm đến vấn đề thiết lập ngọai giao. Muốn vậy,
công việc đầu tiên để xúc tiến quan hệ ngoại giao trên nhiều lĩnh vực là các quốc
gia phải "lật lại" lịch sử ngoại giao của nước ấy trong quá khứ gần nhất: đó là thời
cận đại.
Việc nghiên cứu về triều Nguyễn và thời kỳ cận đại trong lịch sử Việt Nam
luôn thu hút mối quan tâm sâu sắc của các nhà nghiên cứu cả trong cũng như ngoài
nước. Nhiều nhà nghiên cứu đã bắt đầu phân tích, đánh giá những chính sách ngoại
giao của triều Nguyễn nửa cuối thế kỷ XIX vì tính "gây cấn" nhất của thời đại. Nếu
các tác phẩm "Đại Nam thực lục", "Quốc triều chính biên" chưa được giới sử khẳng
định tính "khơng thiên vị" vì theo quan điểm của nhà làm sử triều Nguyễn, thì trong
“Việt Nam sử lược” của Trần Trọng Kim, hoặc trong bài phát biểu khoa học của
PGS Huỳnh Lứa "Về chính sách đóng cửa của các vua đầu triều Nguyễn", các bài
viết đã được phân tích vài đặc điểm cơ bản của chính sách đóng cửa và mở cửa của
triều Nguyễn trong quan hệ với các nước phương Tây theo quan điểm khách quan
và chủ quan, khiến cho thế hệ sau của chúng ta thoát ly được những định kiến nặng
nề về sự "bế quan tỏa cảng" của triều Nguyễn trong nhiều thập kỷ liền.
Nhiều tác giả chỉ nghiên cứu một mối quan hệ của Việt Nam với một quốc
gia, hoặc một khu vực lân cận. Chẳng hạn, quan hệ giữa Việt Nam và Pháp có rất
nhiều nhà nghiên cứu khai thác nhằm nhấn mạnh đến mối quan hệ chủ đạo của Việt
Nam trong suốt nửa thế kỷ XIX như: "Việt - Pháp bang giao sử lược" của Phan
Khoang, "Người Pháp và người Annam, bạn hay thù" của Philippe Devillers, "Việt
Nam thời Pháp đô hộ" của Nguyễn Thế Anh, "Sự du nhập của đạo Thiên chúa giáo
vào Việt Nam từ thế kỷ XVII đến thế kỷ XIX" của Nguyễn Văn Kiệm. Hay các bài
viết trong hội nghị khoa học đã được PGS Phan Minh Thảo đưa ra lời giải trong



6

"Thử tìm hiểu vì sao nhà Nguyễn bị thất bại trong cuộc chiến tranh chống xâm lược
Pháp (1858-1945)", và tác giả Đỗ Bang ở bài phát biểu "Triều Nguyễn - mâu thuẫn
và giải quyết mâu thuẫn".
Đối với quan hệ Việt Nam - Trung Hoa, "Ngoại giao Việt Nam trong thời kỳ
phong kiến" hoặc "Lược sử ngoại giao Việt Nam các thời trước" của cùng tác giả
Nguyễn Lương Bích đã phân tích khá kỹ về nguyên nhân và kết quả trong mối bang
giao này theo trình tự thời gian khá chặt chẽ. Hoặc "Lịch sử quan hệ Trung - Việt"
của Tatsuroo Yamamoto (Nhật Bản) được khái quát theo các sự kiện lịch sử bang
giao giữa hai nước đến năm 1884. Còn tác giả Trịnh Nhu với hàng loạt bài "Nhà
Thanh đối với Việt Nam qua sự phản kháng Hiệp ước năm 1874" và "Sự tranh chấp
quyền lợi và vai trị tơn chủ của nhà Thanh ở Việt Nam", "Vấn đề tranh chấp và
nhân nhượng giữa thực dân Pháp với nhà Thanh trong quá trình hoạch định biên
giới Việt – Trung" đã cho ta thấy nhiều góc độ của bang giao hai nước.
Một số cơng trình nghiên cứu khác lại tập trung vào quan hệ Việt Nam với
các nước lân cận. "Lịch sử bang giao Việt Nam - Đông Nam Á" của TS Trần Thị
Mai giải đáp nhiều mặt của bang giao Việt Nam với các nước Thái Lan, Lào,
Campuchia, Miến Điện từ nguồn gốc đến hiện đại. Còn Nguyễn Thế Anh thì cho
hẳn "Vài nhận xét về thế cờ ngoại giao trong bán đảo Đơng Dương đầu thế kỷ
XIX". Cịn "Việc bang giao giữa Cao Miên và Việt Nam từ ngày tiên khởi đến
ngày Pháp đô hộ" của Lê Hương đã minh chứng cụ thể mối bang giao giữa ta với
Campuchia để phần hiểu rõ hơn vì sao vấn đề của Campuchia luôn làm chi phối
quan hệ giữa ta với Thái Lan trong suốt nửa đầu thế kỷ XIX. Hoặc một số Thư tịch
cổ Việt Nam viết về Đông Nam Á qua các phần Chân Lạp, Vạn Tượng, Xiêm cũng
phần nào cho ta khái quát về tình hình bang giao giữa Việt Nam với các nước và
mối quan hệ hổ tương của các quốc gia này xét trong phạm vi quan hệ một khu vực.
Nhiều tác phẩm nghiên cứu khác được dàn trải theo hệ thống lịch sử của

triều Nguyễn qua "Việt Nam thế kỷ XIX (1802-1884)" và "Lịch sử Việt Nam từ
nguồn gốc đến năm 1884" của Nguyễn Phan Quang, hoặc "Sự khủng hoảng của chế


7

độ phong kiến nhà Nguyễn trước 1858" của Trần Văn Giàu, hay "Việt Nam: Những
sự kiện lịch sử (1858-1918)" của Dương Kinh Quốc và "Lịch sử Việt Nam 1858 1896" của Viện sử học đã khái quát toàn cảnh Việt Nam ở nhiều lĩnh vực, làm cho
ta đứng trước một quang cảnh tổng quát, để tiếp tục khai tỏa các vấn đề mấu chốt
quan trọng liên quan và ảnh hưởng đến tiến trình ngoại giao của Việt Nam.
Ngồi ra, vấn đề Việt Nam thời cận đại cũng cần phải được xét trong bố cục
của thời đại để chúng ta đánh giá tính khách quan của vấn đề, có ảnh hưởng gián
tiếp và trực tiếp đến nền độc lập, chủ quyền của Việt Nam qua "Lịch sử thế giới cận
đại" của Vũ Dương Ninh - Nguyễn Văn Hồng, "Lịch sử phong trào giải phóng dân
tộc thế kỷ XX một cách tiếp cận" của Đỗ Thanh Bình, hay "Việt Nam trong lịch sử
thế giới" của Furuta Motoo.
Trong một số nghiên cứu khác có sự so sánh và đối chiếu về các bang giao
chủ lực của triều Nguyễn khi đó là Pháp và Trung Hoa. Tác giả Tsuboi (Nhật Bản)
đã chí lý khi phân tích những đặc thù trong chính sách đối ngoại của triều Nguyễn
qua tác phẩm "Nước Đại Nam đối diện với Pháp và Trung Hoa". Còn "Việt Nam
ngoại giao sử cận đại" của Ưng Trình nhận xét khá khắc khe về chính sách ngoại
giao triều Nguyễn.
Gần đây, luận án tiến sĩ của Đinh Thị Dung về "Quan hệ ngoại giao triều
Nguyễn nửa đầu thế kỷ XIX" đã thực sự nghiên cứu khá chi tiết và đánh giá khách
quan về quan hệ ngoại giao với Trung Hoa, với Pháp và với các nước lân cận. Luận
văn này có thể xem là điểm tựa để chúng tơi hồn tất phần cịn lại của quan hệ ngoại
giao Việt Nam nửa cuối thế kỷ XIX.
Với một hệ thống tư liệu tương đối tốt như vừa kể trên, chúng tơi cố gắng
tìm ra các ngun tắc ngoại giao của triều Nguyễn thông qua các tác phẩm chuyên
đề: "Ngoại giao Đại Việt" Lưu Văn Lợi, "Chuyện đi sứ, tiếp sứ thời xưa" của

Nguyễn Thế Long. Về "Châu bản triều Tự Đức (1848-1883)" do tác giả Trần
Nghĩa biên soạn, tác giả luận văn dựa vào như các bằng chứng xác thực về cách


8

thức làm việc của Nội Các triều Nguyễn thông qua các bản tấu chương của họ lên
nhà vua.
Trong điều kiện làm việc với hệ thống tư liệu nói trên, mặc dù các dữ liệu về
ngoại giao của triều Nguyễn nửa cuối thế kỷ XIX cịn rời rạc nhưng chúng tơi mong
xây dựng hệ thống các chính sách ngoại giao ở thời kỳ này với phần bắt đầu bằng
cách phác họa đơi nét về chính sách ngoại giao của triều Nguyễn nửa đầu thế kỷ
XIX để dẫn sự liên thông về việc nguyên nhân thất bại của nhà nước phong kiến
cuối cùng ở Việt Nam.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là các quan hệ ngoại giao của triều Nguyễn.
Ngoại giao triều Nguyễn là một đề tài rất đồ sộ, trong luận văn này, tác giả xin phép
chỉ đề cập đến những quan hệ ngoại giao của triều Nguyễn trong giai đoạn nửa cuối
thế kỷ XIX (1858 – 1884), và đơi nét về tình hình và chính sách ngoại giao của Việt
Nam nửa đầu thế kỷ XIX để bài viết có tính dẫn luận và phân tích được tường tận,
rõ ràng hơn.
Giai đọan 1858 - 1884 là giai đoạn triều Nguyễn bắt đầu chống đỡ giặc ngoại
xâm với những âm mưu có từ trước. Song song đó, triều Nguyễn cịn đứng trước
nhiều tai họa khác như thiên tai, hạn hán, mất mùa, đói kém, trộm cướp hoành hành
khắp nơi, các phe nổi dậy chống đối và lật đổ chính quyền dưới nhiều hình thức như
"phù Lê", tơn giáo… Trong khả năng có hạn của mình, triều Nguyễn đối đầu với
nhiều vấn đề lớn trong khoảng thời gian quản lý đất nước. Những vấn đề này ngày
càng làm cho triều Nguyễn lâm vào tình thế khó khăn, đường cùng, có lúc phải
"lưỡng đầu thọ địch", buộc triều Nguyễn phải chọn một trong hai kẻ thù để "xuống
thang".

Trước những khó khăn của quốc gia, triều Nguyễn cũng vấp phải tình trạng
chung của các nước có bang giao với mình ở nửa đầu thế kỷ trước: chủ nghĩa thực
dân đang giương cao ngọn cờ thuộc địa hóa. Vì vậy, ngoại giao của triều Nguyễn
nửa cuối thế kỷ XIX đã bị giới hạn lại các quan hệ, và khơng có mở rộng thêm


9

phạm vi quan hệ. Do đó, quan hệ của Việt Nam lúc này tựu trung lại cũng các mối
bang giao cũ như:
Quan hệ ngoại giao với Thanh triều (Trung Hoa) - một nước láng giềng lâu
đời của Việt Nam ở phía Bắc Việt Nam, là quốc gia ngoại giao chủ đạo của Việt
Nam trong nhiều thế kỷ, là quốc gia điển hình để nhà nước phong kiến triều Nguyễn
mơ phỏng trong phương thức quản lý của mình.
Quan hệ ngoại giao giữa triều Nguyễn với Xiêm La, Chân Lạp và Vạn tượng,
3 nước nằm trong chiến lược phòng thủ biên giới phía Tây của Việt Nam, chịu
những ảnh hưởng trực tiếp lẫn nhau.
Quan hệ ngoại giao với Pháp, một ngoại giao dưới quyền và là một ngoại
giao bắt buộc, chủ đạo thay cho mối bang giao truyền thống lâu đời Trung Hoa, kể
từ sau tiếng súng xâm lược của quân viễn chinh Pháp năm 1858.
Trong mối quan hệ ít ỏi đó của triều Nguyễn ở nửa cuối thế kỷ XIX, chúng ta
cũng sẽ thấy xuất hiện thêm sự bỏ sót một quan hệ ngọai giao giữa triều đình Huế
với nhân dân. Tuy nhiên, với bài viết này tác giả muốn lấy các quan hệ quốc tế để
làm đối tượng nghiên cứu chính thức nhằm lột tả được tư tưởng của triều Nguyễn
trước thế giới.
4. Phương pháp nghiên cứu:
Trong quá trình thực hiện đề tài, luận văn được thực hiện dựa trên phương
pháp luận của chủ nghĩa Mác – Lê Nin, tư tưởng Hồ Chí Minh để trình bày, phân
tích, nhận định các mối quan hệ ngoại giao của triều Nguyễn, từ đó rút ra bản chất,
quy luật, khuynh hướng chủ đạo của sự vận động, phát triển của các sự kiện, hiện

tượng lịch sử.
Phương pháp chủ đạo sử dụng để nghiên cứu trong luận văn này là phương
pháp lịch sử kết hợp với phương pháp logic. Ngồi ra, luận văn cịn sử dụng phương
pháp lịch sử – so sánh, thống kê và đối chiếu để so sánh quan hệ của triều Nguyễn
với quan hệ ngoại giao của các nước khác như Thái Lan và Nhật Bản.


10

5. Những đóng góp của luận văn:

Luận văn nhằm góp phần dựng lại một cách hệ thống và hoàn chỉnh lịch sử
ngoại giao Việt Nam ở nửa cuối thế kỷ XIX, mà trung tâm là những quan hệ đối
ngoại của triều Nguyễn theo đúng nội dung – thực chất của các mối quan hệ quốc tế
vào thời ấy.
Đồng thời trên cơ sở phân tích những đặc điểm có tính quy luật trong việc
hoạch định và thực thi đường lối ngoại giao của triều Nguyễn, tác giả luận văn cũng
muốn đúc kết lại những mặt tích cực và hạn chế trong chính sách ngoại giao của
triều Nguyễn, rút tỉa kinh nghiệm từ cái chưa làm được và cái đã làm được của
ngành ngoại giao triều Nguyễn để làm bài học quý báu cho lịch sử ngành và giúp
ích được cho cơng tác quản lý đất nước trong môi trường quốc tế đầy năng động
nhưng hết sức phức tạp như hiện nay.
Nói cách khác, từ những kinh nghiệm ngoại giao của triều Nguyễn, một thể
hiện của lịch sử ngoại giao thời phong kiến Việt Nam, luận văn sẽ góp phần rút ra
những bài học thiết thực cho các quan hệ ngoại giao Việt Nam thời hiện đại.




11


CHƯƠNG 1
KHÁI QUÁT QUAN HỆ NGOẠI GIAO CỦA TRIỀU NGUYỄN
NỬA ĐẦU THẾ KỶ XIX
1.1 Bối cảnh quốc tế - khu vực và tình hình kinh tế - xã hội Việt Nam.
1.1.1 Bối cảnh quốc tế và khu vưc:
Ngay từ thế kỷ XV, nền sản xuất ở Tây Âu đã bắt đầu phát triển mạnh nên
nhu cầu về nguyên liệu, tài chính và thị trường tiêu thụ ở thị trường thuộc địa ngày
càng tăng dần. Những quốc gia như Bồ Đào Nha và Tây Ban Nha đã tiên phong
trong các cuộc thám hiểm bằng đường biển và đã tìm ra được nguồn hương liệu, đá
quý, vàng bạc và châu báu khổng lồ, tạo ra nguồn vốn đầu tiên cho tích lũy tư bản
nguyên thủy điển hình nhất ở châu Âu. Những vùng đất mới và đầu tiên được phát
hiện tại châu Mỹ la tinh đã dần trở thành thuộc địa trên diện rộng của hai quốc gia
này. Sự giàu có từ những vùng đất càng hoang sơ, nền kinh tế còn lạc hậu thì càng
kích thích chủ nghĩa tư bản phương Tây thời đó nhanh chóng xúc tiến việc xâm
lược, cướp bóc, biến những vùng đất ấy thành thuộc địa và mở rộng thị trường cho
quốc gia mình. Đây là những tiền đề đầu tiên cho các quốc gia có sức mạnh về kỹ
thuật quân sự và có tham vọng bành trướng thế giới hăm hở đi tìm các thuộc địa
cho riêng mình ở các xứ nghèo nàn và lạc hậu như châu Á, châu Phi và châu Mỹ la
tinh.
Công cuộc xâm chiếm thuộc địa, tìm kiếm thị trường ở châu Á đã được các
nước Anh, Pháp, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Hà Lan… tiến hành từ thế kỷ XVI
nhưng đến giữa thế kỷ XIX mới thực sự gay gắt. Tại châu Á, sự kiện nổi bật trong
thế kỷ XIX là cuộc chiến tranh Nha Phiến lần thứ nhất (1839-1842) do Anh mở đầu
tấn công vào Trung Hoa – nhà nước phong kiến lớn nhất vùng – đã thành công tốt
đẹp. Anh buộc triều đình Mãn Thanh phải ký hiệp ước Nam Kinh ngày 29/08/1842
chấp nhận mọi điều khoản do Anh đặt ra. Theo hiệp ước này, Trung Hoa phải mở
năm cửa biển cho thông thương là Quảng Châu, Phúc Châu, Ninh Ba, Hạ Môn và
Thượng Hải. Hương Cảng bị cắt cho Anh; Trung Hoa phải bồi thường chiến phí và
phải thừa nhận quyền lãnh sự tài phán cho Anh. Hiệp ước Nam Kinh đã mở đầu



12

Hoa từ một nước độc lập, chuyên đi thâu tóm quyền hành
và mở rộng lãnh địa tại nhiều nước lân bang ở nhiều thế kỷ qua, phút chốc trở thành
một nước nửa phong kiến nửa thuộc địa ở châu Á.
Chưa hết, sau chiến tranh Nha phiến, Mỹ đạt được hiệp ước Vọng Hạ chia sẻ
thị trường tiêu thụ hàng hóa với các nước đế quốc khác và Pháp ký với Trung Hoa
hiệp ước Hoàng Phố giành quyền tự do truyền đạo.
Trong thời gian đó, ở Triều Tiên năm 1832 đã bị thực dân Anh phái tàu đến
thăm dò và xin thơng thương, nhưng bị cự tuyệt. Cịn giáo sĩ Pháp thì lại thành
cơng trong việc lơi cuốn nhân dân vào niềm tin tơn giáo mới. Trong vịng 5 năm đã
có chừng 9.000 người Triều Tiên thành tín đồ Kitơ giáo. Tình hình này làm cho
chính quyền khơng an tâm liền tiến hành trấn áp, 150 tín đồ Triều Tiên và 3 người
Pháp bị tử hình. Pháp định nhân cơ hội này dùng vũ lực can thiệp địi quyền thơng
thương bn bán nhưng chính phủ Triều Tiên cương quyết cự tuyệt. Sau đó, từ năm
1845, quốc hội Mỹ đã có ý định thiết lập quan hệ với Nhật và Triều Tiên. Sự đầu
hàng của Trung Hoa như cảnh báo Triều Tiên về số phận của mình. Để đảm bảo an
tồn, chính quyền phong kiến Triều Tiên đã lựa chọn con đường đóng cửa như các
nước lạc hậu ở châu Á lúc bấy giờ.
Đế quốc Mỹ thấy Nhật mở cửa được Triều Tiên, tháng 5/1882 đã buộc Triều
Tiên ký hiệp ước Triều - Mỹ. Mỹ giành quyền tối huệ quốc. Tháng 6/1882, Anh ký
hiệp ước tương tự, nhưng Anh khơng hài lịng với những điều trong hiệp ước đã
cùng Đức buộc Triều Tiên ký hiệp ước với những điều khoản nặng nề hơn. Điều
quan trọng là cùng với quyền lãnh sự tài phán, tàu thuyền của Anh và Đức có thể
vào nhiều cảng khẩu của Triều Tiên. Sau Mỹ, Anh, Đức là các nước đế quốc Nga,
Pháp, Áo lần lượt ký hiệp ước với Triều Tiên vào năm 1884, 1886, 1892.
Trong khu vực Đông Nam Á, Indonesia từ chỗ dễ dãi cho các thương nhân
Hà Lan buôn bán, dần dần họ (Hà Lan) đã chiếm lĩnh được nhiều cảng lớn, rồi đến

các vương quốc nhỏ yếu xung quanh, và khéo léo yêu cầu Indonesia ký hiệp ước
đầu hàng, giành lấy quyền thống trị. Cịn Philippines lần lượt bị Tây Ban Nha thơn


13

tính và Mỹ thống trị trong suốt thời gian dài. Campuchia, Lào, Việt Nam cũng bị
cuốn hút trong vịng xốy "thuộc địa hóa các nước Đơng Dương" của Pháp. Riêng
Xiêm (Thái Lan) biến thành khu đệm giữa các vùng thuộc địa của các nước đế quốc
và bị lệ thuộc nhiều mặt vào các nước tư bản.
Như vậy, đến cuối thế kỷ XIX, trừ Nhật Bản, hầu hết các nước châu Á đều
bị các nước tư bản phương Tây xâm lược, bị biến thành thuộc địa và nửa thuộc địa
cung cấp nguyên liệu và tiêu thụ hàng hóa cho tư bản chính quốc mặc dù những
cuộc viễn chinh này khá tốn nhiều thời gian.
Trước xu thế bành trướng sang phương Đông của các nước tư bản thực dân,
nhiệm vụ lịch sử chung của các nước châu Á là bằng mọi cách phải bảo vệ độc lập
dân tộc. Tuy nhiên, gần như các quốc gia tại châu Á và các châu lục khác cùng
hoàn cảnh là châu Phi và châu Mỹ la tinh đều khơng tìm được lời giải đáp cho
hướng đi của mình trong cơng cuộc gìn giữ lãnh thổ. Tất cả các nước rơi vào hoàn
cảnh lúng túng, chỉ biết dùng phương pháp đóng cửa, bế quan tỏa cảng cho xong.
Đứng trước những hạm đội tàu quy mô, hiện đại, sừng sững của thực dân phương
Tây thì cơng cụ để chiến đấu của họ sẽ là thanh gươm, kiếm, mác, giáo ư? Đó lại là
nhược điểm của các nước sống trong nền kinh tế cịn lạc hậu, lấy nơng nghiệp thủ
công làm trọng, dùng tư tưởng bảo thủ để phản ứng trước thời cuộc. Những biện
pháp này chỉ có tác dụng trong phạm vi của phương thức sản xuất phong kiến với
các phương tiện giao thông thô sơ và kỹ thuật vũ khí lạc hậu. Đây chính là điểm
khác nhau trong bản chất của vấn đề giữa nhà nước phương Đông phong kiến và
chủ nghĩa tư bản phương Tây. Kết quả, tuyệt đại đa số đều nằm trong sứ mệnh
“khai hóa thuộc địa” của thực dân phương Tây trong suốt hàng trăm năm liền, làm
cho các nước bị thuộc địa lâm vào tình thế: nền chính trị bị đảo lộn, nền kinh tế kiệt

quệ, xã hội bị phân hóa sâu sắc, văn hóa ngày càng mai một.
Nhà nước phong kiến triều Nguyễn nước ta trong giai đoạn 1858 - 1884 cũng
đã trở thành một quốc gia khơng có lối thốt như các nước trong khu vực. Đã vậy,
cùng cực hơn là chưa bao giờ trong lịch sử, đoàn kết dân tộc lại bị chia cắt đến khốc


14

liệt như vậy. Những khó khăn chồng chất khó khăn, buộc triều Nguyễn tiến thối
lưỡng nan, cơng cuộc ngoại giao rơi vào thế lúng túng. Nhiều lúc bài toán ngoại
giao đối với triều Nguyễn ở từng giai đoạn ngắn được giải theo hướng bế tắc, càng
giải quyết thì càng gặp nhiều rắc rối. Có thể nói, lịch sử Việt Nam trong thời kỳ
1858 – 1884 là một chặng đường lịch sử thảm họa mà triều đình của các quốc gia
như Triều Tiên, Trung Hoa, Indonesia …. không mắc phải gánh nặng tâm lý nặng
nề như triều đình Tự Đức đã mang.
Hiểu được những thách thức đó của triều Nguyễn, chúng ta sẽ dễ dàng thấy
được tính kết cục của vấn đề: lịch sử Việt Nam phải bước sang một trang mới vì
những đổi thay của thời cuộc. Và thực tế, Việt Nam đã bước sang một giai đoạn
quá độ để làm tan rã phương thức sản xuất cũ, lỗi thời trước chính cuộc; làm cho xã
hội phát triển theo hướng tất yếu của logic nhân loại: cái mới phát triển và thay thế
cho cái cũ.
Để thấy được sự hỗn loạn của nhà nước phong kiến Nguyễn trong giai đoạn
gây cấn nhất của thời cuộc, chúng ta hãy bàn luận về tình hình kinh tế - xã hội của
dân tộc trong thời kỳ nửa đầu thế kỷ XIX để làm thấy rõ tính chất “kế thừa một hệ
di sản” của người đương nhiệm điều hành đất nước lúc bấy giờ là vua Tự Đức.
1.1.2 Tình hình kinh tế - xã hội của Việt Nam:
Thống nhất được đất nước, họ Nguyễn nhanh chóng thiết lập kiến trúc
thượng tầng và cơ sở hạ tầng theo mơ hình của nhà nước phong kiến trung ương tập
quyền cao nhất trong lịch sử Việt Nam. Tất cả các mặt của đời sống xã hội, kinh tế,
văn hóa, giáo dục … đến cả chính trị của Việt Nam từ thế kỷ XIX đều bị chi phối

bởi hệ tư tưởng Nho giáo tuyệt đối. Và Tống Nho là giáo thuyết cụ thể chi phối
toàn bộ kiến trúc thượng tầng và cơ sở hạ tầng của Việt Nam khi ấy.
Trên thực tế, hình thái kinh tế của chế độ phong kiến đã bắt đầu chấm dứt
thời kỳ thịnh vượng của mình. Ở các nước Châu Âu, nhà nước phong kiến đã
nhanh chóng tan rã từ thế kỷ XVI. Ở các nước phương Đơng, mơ hình này có chậm


15

hơn nhưng từ thế kỷ XVIII, đã bắt đầu manh nha sự chấm dứt chế độ phong kiến để
thay thế cho một hình thái kinh tế khác tiến bộ hơn. Đây cũng là lẽ hợp với quy
luật. Vì vậy, sự ra đời muộn màng của triều đình Huế đầu thế kỷ XIX lấy khuôn
khổ của một chế độ đang ở tuổi xế chiều là một điều kiện khó khăn cho nhà cầm
quyền trước tiến trình phát triển của thế giới. Song song đó, lý thuyết cai trị đất
nước của Tống Nho – Trung Hoa có từ ngàn năm đã khơng còn hợp với điều kiện
vận hành một nền kinh tế, chính trị, xã hội ở thời điểm này. Hai điều kiện đầu tiên
của mơ hình nhà nước Việt Nam đầu thế kỷ XIX đã được họ Nguyễn sử dụng
không hợp với thời đại của mình vì họ khơng cho chúng biến thiên theo thời gian.
Tuy vậy, điều này có thể phù hợp với “thế” của họ Nguyễn trong giai đoạn
lịch sử cụ thể này. Triều Nguyễn sinh sau đẻ muộn và là triều đình cuối cùng của
chế độ phong kiến nước ta. Khi ấy, cả khối Đông Bắc Á và Đơng Nam Á ơm cuộn
vào nhau một mơ hình phong kiến Nho giáo phát triển ở đỉnh cao nhất. Vì vậy, dù
muốn hay khơng thì triều Nguyễn phải theo gương các thế hệ trước để xây dựng đất
nước và tạo dựng mối quan hệ với các nước láng giềng xung quanh; điều đó tạo ra
hai cái lợi lớn cho triều Nguyễn: thứ nhất, được tồn tại trong một khối thống nhất về
hệ tư tưởng, là con đường an toàn nhất để bắt đầu xây dựng cơ đồ của mình; thứ
hai, triều Nguyễn có sẵn một khối lượng lớn kinh nghiệm được các triều đại trải
qua, thì nay chỉ việc áp dụng kế thừa, không phải trải giá thêm cho những kinh
nghiệm lịch sử đó nữa; thứ ba, tiếp tục sử dụng lại các mối quan hệ cũ, ít nhiều cũng
có những "ân oán" trong lịch sử, là tạo sự hiểu biết cơ bản về nhau; thứ tư, những

lối quen suy nghĩ trong nền văn hóa phi vật chất của mn dân trong đất nước đã tì
một nếp nghĩ chung, khó tạo thành một nếp nghĩ mới.
• Do vậy, nền kinh tế của Việt Nam từ đầu thế kỷ XIX đã thể hiện tính chất
phương Đơng rõ rệt nhất qua hoạt động nông nghiệp, công nghiệp và thương
nghiệp.
Triều Nguyễn đẩy mạnh việc khai hoang để làm kinh tế nông nghiệp bằng
nhiều hình thức với lực lượng khai khẩn khá linh động: dân nghèo, binh lính, tù


16

nhân. Diện tích đất canh tác trên tồn lãnh thổ Việt Nam khi đó tăng lên đáng kể.
“Căn cứ số liệu địa bạ, năm 1820 số ruộng đất nộp thuế trong cả nước là 3.070.300
mẫu, năm 1836 có 4.063.892 mẫu ruộng đất, đến năm 1847 đã lên tới 4.276.013
mẫu” [58,58]. Song song đó, triều Nguyễn cịn thi hành các chính sách đê điều theo
hướng quy mô và chi tiết. “Thời Gia Long, tổng cộng chiều dài các loại đê ở Bắc
thành ngót 24 vạn trượng (tương đương 960 km). Nếu làm phép cộng các con số
ghi chép rải rác trong Thực lục khoảng hơn 10 năm (từ 1803 đến 1814) với 6 lần
sửa đắp đê ở Bắc hà, mấy lần khơi vét những đoạn sông ở các trấn và 2 lần đắp dập
ngăn nước mặn ở vùng ven biển, thì tổng cộng những đoạn đê được tu sửa dưới
triều Gia Long là 47 km, trung bình mỗi lần sửa đắp khoảng 7-8 km, gồm tất cả các
đoạn đê dài ngắn, mới cũ ở nhiều địa phương trong đồng bằng Bắc bộ. Sang thời
Minh Mạng, việc đắp đê được xúc tiến; hệ thống đê tổng cộng hơn 30 vạn trượng
(tương đương 1.200 km)” [58,71]. Để đầu tư được cho nông nghiệp nước nhà, triều
đình Huế đã khuyến dụ nhân dân nước mình bằng những quyền lợi gắn liền với
trách nhiệm rõ ràng. Chẳng hạn, đối với dân nghèo đi khai khẩn thì họ được “quyền
sử dụng tồn bộ số đất đó nhưng khơng được chuyển nhượng và sau khi chết ruộng
đó được cấp cho người khác” [58,55]. Còn đối với binh lính thì “trong hai ba năm
đầu, binh lính khẩn hoang vừa được hưởng lương, vừa hưởng hoa lợi đồn điền”
[58,57]. Và một lực lượng nồng cốt trong khai khẩn đất nông nghiệp cho triều

Nguyễn là tù phạm cũng được hưởng theo quy chế riêng: “Những tù phạm bị tội
nhẹ hoặc chăm lo khẩn ruộng có thể được tha tội để trở thành lính đồn điền, khi
mãn tù có thể được chia tư điền lập nghiệp lâu dài. Có khi tù nhân cũng được mang
theo vợ con đến nơi khai hoang” [58,57]. Đây là việc làm tích cực của nhà Nguyễn
khi biết sử dụng thế mạnh của phương thức sản xuất truyền thống nông nghiệp của
quốc gia để giải quyết những vấn đề kinh tế và an sinh cho xã hội ở thời điểm thực
tại của mình. “Lúc vơ sự thì ở yên cày cấy, quân thừa lương, dân thừa ăn, lúc có
việc thì bảo vệ cho nhau, dân đều là qn, giữ thì vững, đánh thì thắng. Đó là mưu
kế tốt nhất để đủ lương đủ quân, có thể giữ vững bờ cõi và phịng bị giặc ngồi”
[45,155].


17

Tuy nhiên, triều Nguyễn đã không tiên liệu những khả năng tiêu cực có thể
xảy ra ở chương trình khai khẩn đất hoang. Những nông dân nghèo khi được chiêu
mộ đi khai khẩn đất hoang ở những vùng mới thì khơng được triều đình hỗ trợ chi
phí, cho nên những phí tổn ban đầu của họ phải đi vay của tầng lớp giàu có. Tình
trạng mất mùa, thất bát do thiên nhiên là điều khách quan và lại liên tục xảy ra đã
dẫn dân nghèo đến chỗ bần cùng hóa, trở thành tá điền cho tầng lớp địa chủ có điều
kiện ưu đãi từ triều đình. “Chế độ quân điền của nhà Nguyễn thể hiện rõ sự ưu đãi
đối với quan lại và binh lính…. Ruộng đất cơng làng xã vốn đã bị thu hẹp nhiều,
đến thời Nguyễn càng thu hẹp thêm, do vậy số ruộng cơng cịn lại để cấp cho nơng
dân càng ít và thường là loại ruộng xấu, khơng đủ bảo đảm cày cấy” [58,61]. Tình
trạng đó đã dẫn đến hệ lụy của việc tập trung và chiếm đoạt ruộng đất của giai cấp
địa chủ, làm cho mâu thuẫn giai cấp ngày càng thêm gay gắt. Triều Nguyễn chủ
quan khi cho rằng: “địa chủ chiếm mất ruộng của dân là vì dân lười biếng, khơng
biết giữ lấy ruộng mà cày” [58,62]. Sự bất quân bình trong loại hình tư điền đã
ngày làm biến tư chất của địa chủ khi tất cả họ đều “chạy đua” về sự giàu có của
mình dưới nhiều hình thức; do đó, một thực trạng nhìn từ hướng quản lý vi mơ sẽ

cho chúng ta thấy tính tất yếu của tệ nạn tham nhũng được nảy sinh trên các vấn đề
này. Nền kinh tế dư ăn, xã hội được phân công lao động phù hợp chỉ ở giai đoạn
bắt đầu của chủ trương khai khẩn đất hoang. Càng về sau, điều này trở thành một
quá trình làm biến đổi nền kinh tế, tạo sự phân chia giai cấp trong xã hội một cách
rõ rệt. Đây là tiền đề để nhà quản lý ở thời nửa cuối thế kỷ XIX phải gánh lấy như
một hệ quả tất yếu của nền kinh tế nước nhà.
• Nếu nhà Nguyễn “chịu đầu tư” vào nông nghiệp bao nhiêu thì trái lại họ
lại “hời hợt” và nhất quyết không đầu tư cho nền kinh tế thương nghiệp. Sự chênh
lệch quá lớn về tính quan tâm của nhà quản lý trung ương đã làm cho nền thương
nghiệp Việt Nam ở thế kỷ XIX hoạt động hết sức yếu ớt. Cả công việc nội thương
lẫn ngoại thương đều do nhà nước quản lý chặt chẽ, làm mất đi quá trình tự do hóa
thị trường thương mãi. “Việc nhà nước độc quyền mua bán nhiều sản phẩm công
nghiệp quan trọng, thu mua lâm thổ sản quý với lệ thuế phiền phức đã ảnh hưởng


18

đến hoạt động bình thường của nội thương” [58,82]. Hoạt động ngoại thương dưới
thời Nguyễn cũng hết sức độc đoán, hai bộ phận hoạt động chủ yếu và nhiều nhất là
nhà nước và thương nhân người Hoa. Sự tự do giao dịch, mua bán của người Hoa
khá lớn so với thương nhân người Việt là thể hiện một bang giao khá tốt và gần gũi
giữa hai nhà Thanh - Nguyễn. Nhà nước chỉ tựu trưng giao dịch với các nước thuộc
vịng cung của đất nước mình như: Xiêm (Thái Lan), Tân Gia Ba, Indonesia, Phi
Luật Tân (Philippines), Trung Hoa. “Trong khoảng các năm 1835 – 1839, hàng
năm đều có thuyền của nhà Nguyễn đi buôn bán ở Singapore, Malaysia, Indonesia.
Hàng đem bán là đường cát, đồng, ngà voi, cánh kiến. Hàng mua về là vũ khí, chì,
kẽm, diêm tiêu, các loại vải của châu Âu” [58,85]. Triều Nguyễn từ thời Minh
Mạng đã từ chối các hoạt động thương mại của các tàu thuyền phương Tây. Nếu
như “thời Gia Long, thuyền phương Tây có thể vào bn bán tại nhiều cảng, nhưng
sang thời Minh Mạng thì chỉ được cập bến Đà Nẵng” [58,86]. Chính sách “ức

thương” của Minh Mạng có lý do chính đáng riêng của ơng nhưng xét về lâu dài thì
đó trở thành một hiểm họa cho các đời kế nhiệm. Việc “ức thương” của triều
Nguyễn là trái với quy luật tự nhiên và đi ngược với xu hướng phát triển của thị
trường tự do đang thịnh hành ở châu Âu. Trong khi đó, các thương nhân phương
Tây đều đánh giá cao khả năng thương mãi tại thị trường Việt Nam nhưng họ vẫn
tuyệt nhiên bị từ chối việc giao thương ở đây. Cơng bằng mà xét thì sự bất mãn về
thái độ thương mại của nhà Nguyễn trước quan điểm của người phương Tây dần
dần là cái cớ thích đáng để họ “địi quyền” tự do thương mại của mình trên xứ An
Nam.
• Thủ cơng nghiệp dưới thời Nguyễn nửa đầu thế kỷ XIX chưa vực dậy vì
sản xuất cá thể và bị phân tán khắp nơi. Thêm vào đó, những ràng buộc từ hệ tư
tưởng Nho gia đã chi phối đến khả năng phát huy sức mạnh tập thể của các ngành
nghề thủ công này. Cụ thể như “những tục lệ của phường, quan hệ gị bó giữa thợ
cả và thợ bạn, giữ bí mật chun mơn, không truyền nghề cho con gái” [58,80];
kiểu cách, mẫu mã bị hạn chế do phân biệt cho dân thường và vua quan nên đã làm
trì trệ và đánh mất những khả năng sáng tạo cho nghề. Do đó, khả năng nhập khẩu


19

những mặt hàng chuyên dụng là có thể xảy ra do chất lượng đầu tư của ngành nghề
là quá kém.
• Trong khi đó, cơng nghiệp nhà nước đã bắt đầu lĩnh hội những cải tiến
của khoa học. Nhà nước cho đúc lại tiền có giá trị hơn so với các thời trước. Các
xưởng đóng tàu, thuyền và đúc vũ khí cũng bắt đầu hình thành. “Trình độ thợ đóng
tàu Việt Nam khá cao, lại biết vận dụng kỹ thuật châu Âu có hiệu quả” [58,73]. Ở
thời Gia Long, người ta đã thấy xưởng đóng tàu Việt Nam thực hiện thành công một
chiếc tàu trọng tải đến 400 tấn. Đến thời Minh Mạng, ông mạnh dạn “cho phỏng
theo một thuyền máy vừa mua của Tây phương để chế tạo chiếc tàu chạy bằng hơi
nước đầu tiên” [58,74]; rồi “các loại máy chạy bằng hơi nước như máy giã, máy xẻ

gỗ, luyện thuốc súng, xe nước, xe chữa cháy, thuyền máy…” [58,75] cũng lần lượt
được tác chế. Tuy nhiên, các cơng trình của các xưởng đóng tàu và xưởng đúc vũ
khí dưới thời các vua đầu triều Nguyễn chỉ dừng lại ở kết quả thực hành; chưa thấy
có cơng trình nào được đầu tư nghiêm túc, đến nơi đến chốn để đi vào đời sống thực
tế cho nhân dân và cho quốc gia. “Khoảng giữa năm 1839, vua Minh Mạng đến cầu
Ngự Hà (Huế) xem thí nghiệm thuyền cơ khí. Trước đó, nhà vua đã cho chế tạo
chiếc thuyền chạy bằng hơi nước, cho xe kéo ra sông chạy thử nhưng khi thuyền ra
giữa sơng thì thùng nước bị vỡ, máy khơng chạy nữa” [58,75]. Vua Thiệu Trị đã có
lần ưu tư về việc này: “Việc là việc máy móc, phỏng theo kiểu mẫu mà làm cũng là
rất khó… Nay đã phỏng theo đó mà làm, cũng có chút phương pháp. Nếu khơng
gia tâm bảo quản, cứ đem bỏ hồi ở bãi sơng, để cho gió lay mưa dập, có khi máy
móc long cả ra, rồi đến han gỉ hư hỏng lại hóa ra vơ dụng, thế thì cái lỗi khơng phải
là nhỏ” [66,XXVI,268]. Do đó, cơng việc của bộ Cơng có vẻ bề bộn nhưng thực
chất không được ứng dụng trong thực tế. Những thành tựu này chỉ được phát huy
trong một thời gian ngắn và khơng có sự đầu tư kiên trì nên đến giai đoạn nửa cuối
thế kỷ XIX, khi đất nước có nhu cầu sử dụng thì những cơng trình trên trở thành
những xưởng sắc vụn, đóng băng trong kho. Vì vậy, tính kế thừa và phát huy
những thành tựu tiến bộ trong khoa học công nghiệp đến thời vua Tự Đức xem như
bị thực hiện nửa vời.


20

Triều Nguyễn trong suốt quá trình cai trị của mình tính từ nửa đầu thế kỷ
XIX đã thực thi chính sách “nhà nước hóa” các ngành nghề trọng điểm của quốc
gia. Ngành khai thác mỏ cũng nằm trong số đó. Sau một thời gian khai thác không
hiệu quả, nhà nước bắt đầu chuyển quyền cho nhân dân quản lý: “năm 1839, vua
Minh Mạng xuống dụ cho phép bất cứ ai có vốn và được chính quyền địa phương
bảo lãnh đều có thể lĩnh trưng các mỏ vàng mỏ bạc ở Bắc hà” [58,77]. Lúc đó, mới
xuất hiện thêm các nhà khai thác mỏ mới như: thương nhân Hoa kiều, thổ tù thiểu

số và chủ mỏ người Việt. Tuy nhiên, tình hình khai thác mỏ đối với các chủ thể
mới cũng khơng có những chuyển biến tốt vì thuế mỏ q cao, mà lại phải đóng
“ngay từ lúc mới khai, lại buộc phải bán cho nhà nước một số sản phẩm theo giá
quy định” [58,78]. Trên thực tế, việc “chảy máu vàng” là điều khó tránh khỏi vì
nhà nước phong kiến dưới thời Nguyễn đã cho thương nhân Hoa kiều tham gia vào
lĩnh vực này trên cơ sở quyền tự do hoạt động của họ quá rộng lớn, như vừa trình
bày trên. Tác giả Đỗ Bang cũng có nhận định tương tự: “Phương thức lãnh trưng
do các thương nhân người Hoa làm chủ thầu đã tạo nên năng suất nhất định, có
được chuyển biến đáng kể trong quan hệ sản xuất, nhưng để lại hậu quả và bài học
kinh nghiệm đau buồn là đã làm thất thoát tài nguyên ra nước ngoài mà triều
Nguyễn đã bất lực trong việc ngăn chặn, kiểm soát” [6,97]. Như vậy, việc quản lý
ngành mỏ của triều Nguyễn nửa đầu thế kỷ XIX không gắn kết được lâu dài vì
nguyên nhân cơ bản là kỹ nghệ của chúng ta q thấp.
• Ở khía cạnh của nền kinh tế quốc gia, chúng ta chưa tìm thấy một màu
sắc kinh tế mang hơi thở của thị trường hóa. Các hoạt động kinh tế chịu sự chi phối
khá nặng nề và kềnh càng từ nhà nước nên dẫn đến nhiều bất cập. Nhiều luận điểm
kinh tế còn mang đậm yếu tố phong kiến lỗi thời dù triều Nguyễn có cố gắng tìm tịi
và phát huy.
Trong khi đó, vấn đề văn hóa – xã hội cũng theo định hướng của hệ tư tưởng
Nho giáo. Giáo dục là bài toán đầu tiên để khai thông cho các yếu tố khác của kiến
trúc thượng tầng; nhưng chính ngành giáo dục đã làm cho ý thức hệ của con người
vẫn còn lẩn quẩn trong phạm vi nhỏ bé của mơ hình kinh tế tự cung tự cấp. Vấn đề


21

thi cử tập trung vào các yếu tố hiểu và thông suốt các giáo lý của Nho gia. “Nội
dung học tập và thi cử ở thời Nguyễn vẫn bó gọn trong Ngũ kinh, Tứ thư, làm thơ
phú, soạn chế biểu. Đề thi lịch sử thường lấy từ những sự kiện lịch sử Trung Hoa
cổ trung đại” [58,100]. Triều Nguyễn không có sự phân định các mơn học nhằm

chun sâu vào các ngành nghề quản lý của quốc gia. Giáo sư Nguyễn Phan Quang
đã mạnh dạn phát biểu rằng: “việc giáo dục thi cử thời Nguyễn đã đào tạo được một
đội ngũ quan lại thấm nhuần tư tưởng Tống Nho, sùng bái nền quân chủ chuyên chế
trong lịch sử Trung Hoa, quay lưng với những biến động của thời đại, những tiến bộ
khoa học kỹ thuật” [58,101]. Như vậy, một đội ngũ quản lý đất nước đứng trước
một bộ môn khoa học đã cổ điển, khơng cịn khả năng ứng dụng từ nhiều mặt sẽ trở
thành một mối nguy hiểm cho sự định đoạt nền độc lập nước nhà.
Cũng với nền tảng ý thức hệ đó, đời sống nhân dân khơng mấy thịnh vượng
vì sự đầu tư quá lớn của nhà nước vào những cơng trình khơng hiệu quả mang tính
quốc gia phục vụ cho ngành kinh tế, quân sự (như vừa nói trên), văn hóa (đền, đài,
lăng tẩm). Có thể khách quan mà xét thì đời sống của nhân dân cũng chịu tác động
gián tiếp từ thiên tai, mất mùa, bệnh dịch … xảy ra triền miên và liên tục. Nhân dân
nhiều nơi đói khổ, bức bách tâm sinh lý nên nhà nước nhiều lần gánh chịu các cuộc
nổi loạn, trộm cướp nổi dậy ở khắp nơi, nhất là thời vua Minh Mạng.
* Các khó khăn như chất chồng khó khăn cho nhà cầm quyền họ Nguyễn khi
vừa thực hiện đồng thời nhiều công việc cho đất nước mà không kế thừa nhiều
thành tựu kinh tế quốc gia từ các triều đại trước. Vua Gia Long khi xây dựng triều
đại cho dịng tộc mình cũng một phần dựa vào khn mẫu của Trung Hoa. Các vua
đầu triều Nguyễn tuy tận tụy với những nan đề lớn của đất nước nhưng cũng không
thể nào vượt qua được những thách thức của thời đại. Khi khơng giải quyết được
những khó khăn vì yếu tố năng lực và thời cuộc thì các vua đầu triều Nguyễn dần để
mất thăng bằng trong công tác quản lý đất nước của mình; gây hậu quả nghiêm
trọng cho các vua kế nhiệm. Vua Tự Đức là một minh chứng cụ thể trong lịch sử
triều Nguyễn ở nửa cuối thế kỷ XIX.


22

1.2 Quan hệ ngoại giao của Việt Nam với Trung Hoa, các nước lân cận và
Pháp

Trong số các vua đầu triều Nguyễn, Gia Long là vị vua có nhiều kinh nghiệm
trong việc thiết lập quan hệ với các nước. Ngoài ra, ơng cịn được kế thừa việc bang
giao truyền thống với Trung Hoa và các nước lân cận. Ở vị thế làm bạn với những
người Pháp, vua Gia Long có dịp tiếp xúc và trao đổi văn hóa phương Tây. Trong
suốt q trình trị vì, Gia Long ln gắn kết với một đội ngũ lãnh đạo là người
phương Tây nên ơng ít nhiều hiểu biết về trình độ văn hóa của họ hơn ai hết khi ấy.
Ví dụ như tại sao vua Gia Long lại miễn lạy cho các người Tây giúp mình, hoặc
những sứ giả người Tây? Đó là một đơn cử nhỏ. Vậy, các đời triều Nguyễn đã kế
thừa và tiếp tục phát huy ngoại giao truyền thống của đất nước như thế nào đề quan
hệ với các nước láng giềng cũ và các nước từ phương Tây xa xơi? Trước hết, chúng
ta thử tìm hiểu cách triều Nguyễn bắt đầu quan hệ với triều đình Trung Hoa như thế
nào?
1.2.1 Chiến lược “dụng nhu thắng cương” và chiến thuật “triều cống”
trong quan hệ với Trung Hoa
• Bước ra từ cái nôi phong kiến với những giáo lý Nho gia làm đầu, triều
Nguyễn đã thấm nhuần những học thuyết của thời đại Vua - Tôi. Cái giáo lý mà
xuất phát điểm của nó là từ nhà "anh láng giềng" gần bên - Trung Hoa. Những vui
buồn, những thăng trầm thì hai "nhà nhỏ" (Việt Nam) và "nhà lớn" (Trung Hoa) đều
có dịp chiêm nghiệm cùng nhau. Do vậy, muốn cùng chung một mái ấm hịa bình
thì hai nhà (Việt - Trung) phải nhường nhịn nhau và cùng tựa vào nhau. Tuy nhiên,
do ý thức được phận nước nhỏ nên Việt Nam từ ngàn năm đã tự xưng là nước chư
hầu trước người anh cả Trung Hoa .
Hiểu được tính chất cơ bản ấy, ngay khi chính thức lên làm chủ vùng đất
phía Nam này, vua Gia Long đã dạy cho con cháu mình phải biết chịu nhường để
sang Trung Hoa xin "phong vương". Các điều kiện xin - cho ấy quá quen thuộc với
lịch sử của nước Việt Nam, mà nó lại ăn sâu vào tìm thức con người thời ấy về tính
chính quy của một vương triều. Do đó, trước yêu cầu của lịch sử ngoại giao mà


23


triều Nguyễn phải đảm bảo thực thi được cái tính truyền thống ấy với Trung Hoa,
đại diện bởi triều Thanh khi ấy.
Cái thủ tục hình thức đó bắt đầu từ việc "phong vương" của triều đình Trung
Hoa, rồi kết thúc các bước tiếp theo là lệ "triều cống" thường xuyên, khơng có mức
hạn định về giá trị cho nước Việt Nam. Các lễ vật triều cống thiên về giá trị tinh
thần để tỏ rõ sự tôn quý của nước nhỏ đối với một "Thiên triều".
Thông thường, lệ xin "phong vương" của triều đình Huế với Trung Hoa được
tiếp nhận tại bản doanh cơ sở của triều đình Trung Hoa là Lưỡng Quảng, bằng việc
cử đoàn sứ bộ với các quan chức cao cấp của triều đình Việt Nam sang nơi này
cùng với quốc thư, phẩm vật biếu, và ấn sách (nếu có) của triều đại trước. Khi sang
Trung Hoa để xin vương thì Việt Nam bao giờ cũng báo tin về sự băng hà của nhà
vua thời trước mình.
Tuy nhiên, chúng ta có được Trung Hoa sự chấp nhận để được phong vương
hay khơng thì cịn tùy thuộc khá nhiều về bản lĩnh chính trị và bản lĩnh ngoại giao
của chúng ta.
• Vừa lên ngơi, Gia Long đã chủ động tìm cơ hội để giới thiệu một dịng
tộc mới lên thay cho triều đình nhà Thanh biết. Lần đó, Gia Long đã cử Thượng
thư bộ Hộ là Trịnh Hoài Đức sang Trung Hoa để giao ấn triện của nhà Thanh phong
cho Tây Sơn mà Quang Toản đã bỏ lại ở Phú Xuân khi quân của Nguyễn Ánh đuổi
bắt; đồng thời giao trả lại triều Thanh những tên giặc biển là Mạc Quang Phù,
Lượng Văn Cảnh, Phan Văn Tài và một số người bỏ trốn khỏi Trung Hoa. Chuyến
đi sứ của Trịnh Hoài Đức để lại cho vua Gia Khánh khi ấy hài lòng và thiện cảm.
Khi Gia Long thu hồi được đất ở thành Thăng Long thì cũng là lúc đất nước
được thống nhất trọn vẹn, liền sai sứ bộ Lê Quang Định mang quốc thư sang Trung
Hoa để xin phong vương và đặt quốc hiệu mới. Lần đi sứ này cũng được diễn ra
khá tốt nhưng vẫn còn lấn cấn việc đặt tên nước là Nam Việt vì Thanh triều cho
rằng nước họ đã có vùng đất mang tên ấy rồi. Cho nên "Vua tôi nhà Thanh sợ rằng
nếu cơng nhận tên Nam Việt thì rằng Gia Long sẽ bắt chước Nguyễn Quang Trung
mà đòi đất Lưỡng Quảng theo đúng đất đai nước Nam Việt của Triệu Đà" [36, 329].



24

Gia Long đã khéo léo đảo lại tên của quốc hiệu là Việt Nam để khẳng định lập
trường của mình về một lãnh thổ ở phía Nam Trung Hoa. Vua Thanh trả lời: "Lúc
trước đã có đất Việt Thường xưng là nước Nam Việt. Nay có cả tồn đất An Nam,
xét ra cho kỹ thời nên gồm cả đất đai mở rộng trước sau mà đặt danh hiệu tốt. Vậy
thời định lấy chữ Việt để trên, nghĩa là tổ. Nước mở cõi Nam giao mà chịu mệnh
trời mới, như thế thì danh xứng chính đại nghĩa chữ tốt lành, so với hai đất Việt
nước Tàu, khác nhau xa lắm" [36,329]. Khi Tế Bố Sâm, án sát tỉnh Quảng Tây làm
chánh sứ sang Thăng Long làm lễ phong vương cho Gia Long, Gia Khánh viết rằng:
"Ta phong ngươi chức Quốc vương Việt Nam và ấn tín mới. Hãy tiếp tục truyền
thống vĩ đại và cao cả, hãy trung thành và tin tưởng… Hãy thi hành những nguyên
tắc cơ bản của ngai vàng chúng ta. Sắc lệnh của ta là vậy" [10,243].
Đây là một bước đầu thành công trong việc tái lập ngoại giao của nhà
Nguyễn với Thanh triều. Lãnh thổ quốc gia được nước láng giềng xác nhận ở
những cương vực đúng vị trí mà nhân dân ta mong đợi. Và đứng đầu của lãnh thổ
quốc gia Việt Nam khi ấy chính là vua Gia Long thuộc dịng họ Nguyễn. Tuy đây
chỉ là hình thức phong tặng chức vị của Trung Hoa, nhưng tựu trung rất quan trọng
và có ý nghĩa rất lớn đến sự an nguy của một quốc gia. Chúng ta biết rõ rằng: lãnh
thổ quốc gia là sự công nhận bằng văn bản giữa các nước với nhau và sự cơng nhận
ấy nhất định phải có phần của các quốc gia lân cận, xung quanh. Việc làm của triều
Nguyễn bắt đầu từ vị vua đầu tiên đã chính thức yêu cầu nhà nước Trung Hoa "tái
xác nhận" lại vấn đề lãnh thổ quốc gia Việt Nam và lãnh thổ dân tộc Việt Nam; để
từ đó là tiền đề cho con cháu của nước Việt Nam sau này có được tồn tại trên lãnh
thổ của mình hay chỉ là mảnh đất của lịch sử. Việt Nam khi ấy đã khẳng định được
một nền độc lập, tự chủ với Trung Hoa với một tên gọi riêng rất có ý nghĩa.
Trong những năm đầu của triều đại mình, vua Gia Long đã chú ý rất nhiều
đến vùng biên giới phía Bắc, giáp với Trung Hoa, vì đây thường là vùng đất mở để

bọn chống đối chính quyền hoặc trộm cướp của nhà Thanh tràn sang trú ẩn. Trong
những trường hợp này, Gia Long xử trí rất lưỡng tiện: "Nay bắt được bọn giặc Tàu
ơ và súng ống khí giới, vậy phải giao cho trấn Lạng Sơn để đưa về phủ Thái Bình


×