Tải bản đầy đủ (.docx) (16 trang)

Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (162.47 KB, 16 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC THƯƠNG MẠI
KHOA TÀI CHÍNH NGÂN HÀNG

BÀI THẢO LUẬN
MƠN : TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

GVHD : Ths. Ngơ Thị Huyền Trang

� HÀ NỘI – 2020�
LỜI CẢM ƠN
Sau một thời gian học tập, nghiên cứu và tìm hiểu, nhóm 2 đã hoàn thành đề tài thảo luận
“Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đồn kết dân tộc”
Đầu tiên, chúng em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới giảng viên hướng dẫn Th.s Ngô Thị
Huyền Trang đã giảng dạy, cung cấp cho chúng em những kiến thức, nội dung để thảo luận.
Những nhận xét, góp ý của cơ là những ý kiến q báu giúp nhóm 2 hồn thành chủ đề này.
Trong q trình thực hiện, khơng thể tránh khỏi những thiếu sót và hạn chế, vì vậy, nhóm rất
mong nhận được sự góp ý, nhận xét từ cô và các bạn để rút kinh nghiệm cho bản thân cũng như
học hỏi và hồn thiện kiến thức cịn thiếu sót.
Nhóm 2 xin trân trọng cảm ơn!


Hà Nội, ngày 28 tháng 10 năm 2020
Nhóm thực hiện
Nhóm 2

ĐỀ TÀI CHÍNH
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẠI ĐỒN
KẾT DÂN TỘC


MỤC LỤC


VAI TRỊ CỦA ĐẠI ĐỒN KẾT DÂN TỘC 5

I.

1.1. Đại đồn kết tồn dân tộc là vấn đề có ý nghĩa chiến lược, quyết định thành công của cách mạng .
1.2. Đại đoàn kết dân tộc là một mục tiêu, nhiệm vụ hàng đầu của cách mạng Việt Nam
II.

LỰC LƯỢNG CỦA KHỐI ĐẠI ĐOÀN KẾT TOÀN DÂN TỘC

5

7

8

2.1. Đại đoàn kết dân tộc là đại đoàn kết toàn dân 8
2.2. Điều kiện thực hiện đại đoàn kết dân tộc

9

2.2.1.

Phải kế thừa truyền thống yêu nước, nhân nghĩa, đoàn kết của dân tộc

2.2.2.

Phải có lịng khoan dung, độ lượng với con người

2.2.3.


Phải có niềm tin vào nhân dân 10

9

9

III.
HÌNH THỨC TỔ CHỨC CỦA KHỐI ĐẠI ĐOOÀN KẾT TOÀN DÂN TỘC - MẶT TRẬN DÂN
TỘC THỐNG NHẤT 10
3.1. Mặt trận dân tộc thống nhất

10

3.2. Nguyên tắc xây dựng và hoạt động của Mặt trân dân tộc thống nhất

10

3.2.1.
Phải được xây dựng trên nền tảng liên minh công nhân – nông dân – trí thức và đặt dưới sự lãnh
đạo của Đảng
11
3.2.2.
Mặt trận dân tộc thống nhất phải hoạt động trên cơ sở bảo đảm lợi ích tối cao của dân tộc, quyền
lợi cơ bản của các tầng lớp nhân dân
12
3.2.3.
Mặt trận dân tộc thống nhất phải hoạt động theo nguyên tắc hiệp thương dân chủ, bảo đảm đoàn
kết ngày càng rộng rãi và bền vững 12
3.2.4.

Mặt trận dân tộc thống nhất là khối đoàn kết chặt chẽ, lâu dài, đoàn kết thật sự, chân thành, thân
ái giúp đỡ nhau cùng tiến bộ
13
IV.
Ý NGHĨA CỦA TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẠI ĐOÀN KẾT DÂN TỘC ĐỐI VỚI CÁCH
MẠNG VIỆT NAM 13
4.1. Giá trị lý luận 13
4.2. Giá trị thực tiễn

13

LỜI MỞ ĐẦU
Đại đoàn kết dân tộc là một giá trị tinh thần to lớn, một truyền thống cực kì quý báu của dân tộc
ta, được hun đúc trong suốt mấy nghàn năm đấu tranh dựng nước và giữ nước. Đoàn kết đã trở
thành một động lực to lớn, một triết lý nhân sinh và hành động để dân tộc ta vượt qua bao biến cố,


thăng trầm của thiên tai, địch họa, để tồn tại và phát triển bền vững. Trên cơ sở thực tiễn cách
mạng Việt Nam và thực tiễn cách mạng thế giới đã sớm hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về đại
đồn kết dân tộc.

I.
VAI TRỊ CỦA ĐẠI ĐỒN KẾT DÂN TỘC
1.
Đại đồn kết tồn dân tộc là vấn đề có ý nghĩa chiến lược, quyết định thành công

của cách mạng.
Hồ Chí Minh chỉ ra rằng, để đánh bại các thế lực đế quốc, thực dân nhằm giải phóng dân tộc, giải
phóng giai cấp và giải phóng lồi người, nếu chỉ có tinh thần u nước thì chưa đủ; cách mạng
muốn thành công và thành công đến nơi, phải tập hợp được tất cả mọi lực lượng có thể tập hợp,

xây dựng được khối đại đoàn kết dân tộc bền vững. Chính vì vậy, trong tư tưởng Hồ Chí Minh,
đại đồn kết dân tộc là vấn để có ý nghĩa chiến lược, cơ bản, nhất quán và lâu dài, xuyên suốt tiến
trình cách mạng, quyết định thành cơng của cách mạng. Đó là chiến lược tập hợp mọi lực lượng
nhằm hình thành và phát triển sức mạnh to lớn của toàn dân trong cuộc đấu tranh chống kẻ thù
của dân tộc, của nhân dân. Theo Người, đoàn kết làm nên sức mạnh và là cội nguồn của mọi
thành cơng: “Đồn kết là một lực lượng vô địch của chúng ta để khắc phục khó khăn, giành lấy
thắng lợi”; “Đồn kết, đồn kết, đại đồn kết; Thành cơng, thành cơng, đại thành cơng”.
Thực tiễn cách mạng đã trả lời giữa đồn kết và thành cơng có mối quan hệ chặt chẽ với nhau bởi
phạm vi, mức độ, quy mô của thành công trước hết phụ thuộc vào chính quy mơ và mức độ của
khối đại đoàn kết. Nhờ tư tưởng nhất quán và chính sách mặt trận đúng đắn, Đảng ta và chủ tịch
Hồ Chí Minh đã xây dựng thành cơng khối đại đoàn kết dân tộc, đưa cách mạng Việt Nam giành
được nhiều thắng lợi to lớn.


Hồ Chí Minh viết:
“Đồn kết trong mặt trận Việt Minh, nhân dân ta đã làm Cách Mạng Tháng Tám thành cơng, làm
nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hịa.
Đồn kết trong mặt trận Liên Việt, nhân dân ta đã kháng chiến thắng lợi, lập lại hịa bình ở Đơng
Dương, hồn tồn giải phóng Miền Bắc.
Đồn kết trong mặt trận Tổ quốc Việt Nam nhân dân ta đã giành được thắng lợi trong công cuộc
khôi phục kinh tế, cải tạo xã hội chủ nghĩa và trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Miền
Bắc”.
Trong kháng chiến chống Pháp, với ý chí quyết tâm sắt đá: “Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất
định không chịu mất nước, không chịu làm nơ lệ…” và sự đồng lịng của tồn dân tộc: “Bất kỳ
đàn ông, đàn bà, bất kỳ người già, người trẻ, không chia tôn giáo, đảng phái, dân tộc. Hễ là người
Việt Nam thì phải đứng lên đánh thực dân Pháp để cứu Tổ quốc… ” đã phát huy cao độ sức mạnh
đại đoàn kết toàn dân vừa kháng chiến, vừa kiến quốc trong suốt 9 năm chống thực dân Pháp và
can thiệp Mỹ lâu dài, gian khổ, để cuối cùng làm nên thắng lợi Điện Biên Phủ “lừng lẫy năm
châu, chấn động địa cầu”.
Đặc biệt trong công cuộc chống Mỹ, cứu nước trường kỳ, gian khổ với khát vọng cháy bỏng của

toàn thể dân tộc Việt Nam: “Khơng có gì q hơn độc lập, tự do”, tư tưởng đại đoàn kết toàn dân
tộc của lãnh tụ Hồ Chí Minh “Đồn kết, đồn kết, đại đồn kết. Thành công, thành công, đại
thành công” đã được vận dụng một cách sáng tạo, phát huy tới đỉnh cao với nhiều hình thức
phong phú trong điều kiện lịch sử mới. Trong khói lửa ác liệt của chiến tranh, nhiều phong trào thi
đua sôi nổi trên tất cả các lĩnh vực ở cả miền Nam và miền Bắc với khẩu hiệu hành động: “Quyết
tâm đánh thắng giặc Mỹ, xâm lược”, “Tìm Mỹ mà đánh, tìm nguỵ mà diệt”, “Tất cả cho tiền
tuyến, tất cả để đánh thắng giặc Mỹ xâm lược”, “Thanh niên ba sẵn sàng”, “Phụ nữ ba đảm đang”,
“Tay cày, tay súng”, “Tay búa, tay súng”, “Thóc khơng thiếu một cân, quân không thiếu một
người”... đã lôi cuốn đông đảo mọi tầng lớp nhân dân, từ thành thị đến nông thôn, từ miền xuôi
đến miền núi, từ biên giới đến hải đảo hăng hái thi đua vừa chiến đấu vừa lao động sản xuất. Tất
cả những hành động đó đã biểu thị tinh thần đoàn kết của toàn thể 31 triệu người dân Việt Nam
xung quanh Ban Chấp hành Trung ương Đảng. Nhờ đó, dân tộc Việt Nam đã huy động cao độ sức
mạnh chính trị tinh thần và nhân tài, vật lực to lớn lần lượt đánh bại các chiến lược chiến tranh
của đế quốc Mỹ, để cuối cùng dốc sức cho thắng lợi của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân
1975, kết thúc vẻ vang sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước. .
Có thể nói, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc đã trở thành một trong những bài học
kinh nghiệm lớn, là phương thức, là chiến lược và cũng là điều kiện bảo đảm thực hiện thành cơng
sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc tại Việt Nam.
2. Đại đoàn kết dân tộc là một mục tiêu, nhiệm vụ hàng đầu của cách mạng Việt Nam

Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng và vì quần chúng. Đại đồn kết là u cầu khách quan
của sự nghiệp cách mang, là đòi hỏi khách quan của quần chúng nhân dân trong cuộc đấu tranh vì
lợi ích của chính mình. Nhận thức rõ được điều đó, Đảng cho chỉ ra rằng đoàn kết dân tộc vừa là
điều kiện tiên quyết, sống còn đối với sự nghiệp cách mạng, đồng thời là tơn chỉ, mục đích, là
nhiệm vụ hàng đầu mà sự nghiệp cách mạng cần hướng và đạt tới. Đại đoàn kết dân tộc cũng
được coi không chỉ là nhiệm vụ hàng đầu của Đảng, mà cũng là nhiệm vụ hàng đầu của mọi giai


đoạn cách mạng. Cách mạng muốn thành công nếu chỉ có đường lối đúng thì chưa đủ, mà trên cơ
sở của đường lối đúng, Đảng phải cụ thể hóa thành những mục tiêu, nhiệm vụ và phương pháp

cách mạng phù hợp với từng giai đoạn lịch sử để lôi kéo, tập hợp quần chúng, tạo thực lực cho
cách mạng.
�Nảy sinh nhu cầu đoàn kết và hợp tác trong quần chúng. Đại đồn kết dân tộc là một địi hỏi
khách quan của bản thân quần chúng nhân dân trong cuộc đấu tranh tự giải phóng dân tộc mình.
Với Hồ Chí Minh, đại đồn kết khơng phải là chỉ là khẩu hiệu chiến lược mà còn là mục tiêu lâu
dài của cách mạng. Do đó, trong tiến trình lãnh đạo cách mạng, Người u cầu khơng được có bất
cứ lúc nào lơ là nhiệm vụ xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc. Xây dựng khối đại đồn kết dân tộc
khơng chỉ dừng lại trong nhận thức mà được cụ thể hóa trong mọi bước đi, giai đoạn phát triển
của cách mạng, Người nói: “Ta đồn kết để đấu tranh cho thống nhất và độc lập của Tổ quốc; ta
cịn phải đồn kết để xây dựng nước nhà”. Sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất
nước là một cơng việc hết sức hệ trọng, to lớn và vô cùng khó khăn. Nhiệm vụ đó chỉ có thể thành
cơng khi quy tụ được sức mạnh đoàn kết của toàn dân tộc vì đồn kết mới tạo nên sức mạnh, tạo
nên lực lượng hùng hậu có thể đương đầu và chiến thắng kẻ thù.
Thực tiễn đã được chứng minh trong Lời kết thúc buổi ra mắt của Đảng Lao động Việt Nam này 3
- 3 - 1951, Hồ Chí Minh đã thay mặt Đảng tuyên bố trước toàn thể dân tộc: “Mục đích của Đảng
Lao động Việt Nam có thể gồm trong 8 chữ là: Đoàn kết toàn dân, phụng sự tổ quốc”. Để thực
hiện mục tiêu này, Người thường xuyên nhắc nhở cán bộ, đảng viên phải thấm nhuần quan điểm
quần chúng, phải gần gũi quần chúng, lắng nghe quần chúng; vận động, tổ chức và giáo dục quần
chúng, coi sức mạnh của cách mạng là ở nơi quần chúng; phải thấm nhuần lời dạy: “Dễ trăm lần
không dân cũng chịu, khó vạn lần dân liệu cũng xong’’.
Để đánh bại các thế lực đế quốc, thực dân giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và giải phóng
con người, nếu chỉ có tinh thần u nước thơi là chưa đủ, cách mạng muốn thành công và “thành
công đến nơi," phải tập hợp tất cả các lực lượng, xây dựng được khối đại đồn kết dân tộc bền
vững.
Chủ tịch Hồ Chí Minh nhận định, cuộc đấu tranh cứu nước của nhân dân ta cuối thế kỷ 19 bị thất
bại có một ngun nhân sâu xa là cả nước khơng đồn kết được thành một khối thống nhất. Muốn
cách mạng thành công phải có lực lượng cách mạng, muốn có lực lượng cách mạng phải thực hiện
đoàn kết.
Bác viết: “Đoàn kết là sức mạnh của chúng ta. Đồn kết chặt chẽ, thì chúng ta nhất định có thể
khắc phục mọi khó khăn, phát triển mọi thuận lợi và làm trọn nhiệm vụ nhân dân giao phó cho

chúng ta."
Khơng dừng lại ở việc xác định đại đoàn kết là mục tiêu, Chủ tịch Hồ Chí Minh cịn khẳng định
nhiệm vụ của tồn Đảng là giữ gìn sự đồn kết. Trong Di chúc, Bác dặn lại rằng "Đoàn kết là một
truyền thống cực kỳ quý báu của Đảng và của dân ta. Các đồng chí từ Trung ương đến các chi bộ
cần phải giữ gìn sự đồn kết nhất trí của Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt mình."
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, đại đồn kết dân tộc khơng chỉ được xác định là mục tiêu mà còn
là nhiệm vụ hàng đầu của Đảng trong mọi giai đoạn cách mạng, phải được quán triệt trong tất cả
mọi lĩnh vực, từ đường lối, chủ trương, chính sách tới hoạt động thực tiễn của Đảng. Trước cách
mạng Tháng 8/1945 và trong kháng chiến : nhiệm vụ tuyên huấn được đặt ra là làm cho đồng bào


các dân tộc hiểu được những việc sau: Là đoàn kết, là làm cách mạng hay kháng chiến để đòi lại
độc lập. Sau hiệp định Giơnevơ, nhiệm vụ này vẫn tiếp tục đề cập đến đồn kết nhưng thêm vào
đó là xây dựng chủ nghĩa xã hội và đấu tranh thống nhất nước nhà.

II.
LỰC LƯỢNG CỦA KHỐI ĐẠI ĐOÀN KẾT TỒN DÂN TỘC
1.
Đại đồn kết dân tộc là đại đồn kết tồn dân

Đứng trên lập trường giai cấp cơng nhân và quan điểm quần chúng, Hồ Chí Minh đã đề cập vấn
để DÂN và NHÂN DÂN một cách rõ ràng, tồn diện, có sức thuyết phục, thu phục lịng người.
Khái niệm dân và nhân dân trong tư tưởng Hồ Chí Minh vừa được hiểu với tư cách là mỗi con
người Việt Nam cụ thể, vừa là một tập hợp đông đảo quần chúng nhân dân, với những mối liên hệ
cả quá khứ và hiện tại, họ là chủ thể của khối đại đoàn kết dân tộc và đại đoàn kết dân tộc thực
chất là đại đoàn kết toàn dân. Đây là một khái niệm có biên độ rộng lớn, chỉ chung “mọi con dân
Việt Nam”“mỗi một người con Rồng cháu Tiên”, không phân biệt dân tộc đa số hay thiểu số, có
tín ngưỡng hay khơng tín ngưỡng, khơng phân biệt “già trẻ, gái, trai, giàu nghèo, quý tiện” chỉ trừ
bọn bán nước, hại dân, đi ngược lại lợi ích dân tộc.
Nói đại đồn kết dân tộc tức là phải tập hợp, đoàn kết được tất cả mọi người dân vào một khối

thống nhất, không phân biệt dân tộc, giai cấp, tầng lớp, đảng phái, tốn giáo, lứa tuổi, giới tính,
nghề nghiệp, ở trong nước hay ở nước ngooài cùng hướng vào mục tiêu chung. Hồ Chí Minh đã
nhiều lần nói:”Đồn kết của ta khơng những rộng rãi mà cịn đồn kết lâu dài…Ta đoàn kết để đấu
tranh cho thống nhất và độc lập của tổ quốc; ta cịn phải đồn kết để xây dựng nước nhà. Ai có tài,
có đức, có sức, có lịng phụng sự tổ quốc và phục vụ nhân dân thì ta đồn kết với họ”. Hồ Chí
Minh cũng chỉ rõ : “Đại đồn kết tức là trước hết phải là đại đooàn kết đa số nhân dân mà đại đa
số nhân dân là công nhân, nông dân và các tầng lớp nhân dân lao động khác. Đó là nền tảng, các
gốc của đại đồn kết.
Vì vậy, chủ thể của khối đại đoàn kết dân tộc ở đây chính là dân và nhân dân và đại đồn kết dân
tộc chính là đại đồn kết tồn dân.
2. Điều kiện thực hiện đại đoàn kết dân tộc

Để xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc, quy tụ, đoàn kết được mọi giai cấp, tầng lớp cần phải đảm
bảo những điều kiện sau đây
Phải kế thừa truyền thống yêu nước, nhân nghĩa, đồn kết của dân tộc
• Phải có lịng khoan dung, độ lượng với con người
• Phải có niềm tin vào nhân dân
1. Phải kế thừa truyền thống yêu nước, nhân nghĩa, đồn kết của dân tộc


Truyền thống này được hình thành, củng cố và phát triển trong suốt quá trình dựng nước và giữ
nước trong hàng nghìn năm của dân tộc, trở thành giá trị bền vững, thấm sâu vào tư tưởng, tình
cảm, tâm hồn của mỗi con người Việt Nam, được lưu truyền qua các thế hệ từ thời các vua Hùng
dựng nước tới Bà Trưng, Bà Triệu, TRần Hưng Đạo, Lê Lợi, Quan Trung…Truyêng thống đó là


cội nguốn sức mạnh vô địch để cả dân tộc chiến đấu và chiến thắng mọi thiên tai, địch họa, làm
cho đất nước được trường tồn, bản sắc dân tộc được giữ vững.
2. Phải có lịng khoan dung, độ lượng với con người


Hồ Chí Minh chỉ rõ, trong mỗi cá nhân cũng như mỗi cộng đồng đều có những ưu điểm, khuyết
điêm, mặt tốt, mặt xấu... Cho nên, vì lợi ích của cách mạng, cần phải có lịng khoan dung, độ
lượng, trân trọng cái phần thiện dù nhỏ nhất ở mỗi con người mới có thể tập hợp, quy tụ rộng rãi
mọi lực lượng. Người viết: "Sông to, biển rộng bao nhiêu nước cũng chứa được, vì độ lượng nó
rộng và sâu. Cái chén nhỏ, cái đĩa cạn, thì một chút nước đầy tràn, vì độ lượng nó hẹp nhỏ. Người
mà tự kiêu, tự mãn, cũng như cái chén, cái đĩa cạn". Người đã lấy hình tượng năm ngón tay có
ngón ngắn ngón dài, nhưng cả năm ngón cùng thuộc về một bàn tay, để nói lên sự cần thiết phải
thực hiện đại đoàn kết. Người cho rằng: "Trong mấy triệu người cũng có người thế này thế khác,
nhưng thế này hay thế khác đều dòng dõi của tổ tiên ta. Vậy nên phải khoan hồng, đại độ. Ta phải
nhận ra rằng đã là con Lạc cháu Hồng thì ai cũng có ít hay nhiều lịng ái quốc. Đối với những
đồng bào lạc lối lầm đường, ta phải dùng tình nhân ái để cảm hóa họ. Có như thế mới thành đồn
kết, có đại đồn kết tương lai chắc chắn sẽ vẻ vang".
3.

Phải có niềm tin vào nhân dân

Với Hồ Chí Minh, yêu dân, tin dân, dựa vào dân, sống, đấu tranh vì hạnh phúc của nhân dân là
nguyên tắc tối cao. Nguyên tắc này vừa là sự tiếp nối truyền thống dân tộc "nước lấy dân làm
gốc", "chở thuyền và làm lật thuyền cũng là dân", đồng thời là sự quán triệt sâu sắc nguyên lý
mácxít "cách mạng là sự nghiệp của quần chúng". Theo Người, dân là chỗ dựa vững chắc của
Đảng, là nguồn sức mạnh vô tận và vơ địch của khối đại đồn kết, quyết định thắng lợi của cách
mạng, là nềngốc và chủ thể của Mặt trận. Trong bài Nói chuyện tại Hội nghị đại biểu Mặt trận
Liên - Việt toàn quốc, tháng 1-1955. Người chỉ rõ: "Đại đoàn kết tức là trước hết là phải đoàm kết
đại đa số nhân dân. mà đại đa số nhân dân ta là công nhân, nông dân và các tầng lớp nhân dân lao
động khác. Đó là nề, gốc của đại đồn kết. Nó cũng như cái nền của nhà, gốc của cây. Nhưng đã
có nền vững, gốc tốt, cịn phải đồn kết các tầng lớp nhân dân khác".
HÌNH THỨC TỔ CHỨC CỦA KHỐI ĐẠI ĐOỒN KẾT TỒN DÂN TỘC - MẶT
TRẬN DÂN TỘC THỐNG NHẤT
1.
Mặt trận dân tộc thống nhất


III.

Đại đoàn kết dân tộc biến thành sức mạng vật chết, trở thành lực lượng vật chất tổ chức là Mặt
trận dân tộc thống nhất. Mặt trận thống nhất là nơi quy tụ mọi tổ chức, cá nhân yêu nước, tập hợp
mọi người dân Việt, cả người trong nước và người nước ngoài. Tùy vào từng thời kỳ và căn cứ
vào nhiệm vụ của từng chặng đường cách mạng, Mặt trân dân tộc thống nhất có những tên gọi
khác nhau như sau:








1930: Hội phản đế đồng minh
1936: Mặt trân dân chủ
1939: Mặt trân nhân dân phản đế
1941: Mặt trân Việt Minh
1946: Mặt trận Liên Việt
1960: Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam
1955-1976 (Miền Bắc): Mặt trận tổ quốc Việt Nam


�Dù tên gọi có thể khác nhau song thực chất chỉ là một, đó là tổ chức chính trị - xã hội rộng lớn
của nhân dân Việt Nam, nơi quy tụ, tập hợp đông đảo các giai cấp, tầng lớp, đan tộc, tôn giáo,
đảng phái, các tổ chức và cá nhân yêu nước ở trong và ngoài nước, phấn đấu vì mục tiêu chung là
độc lập dân tộc, thống nhất của tổ quốc, tự do và hạnh phúc của nhân dân.
2. Nguyên tắc xây dựng và hoạt động của Mặt trân dân tộc thống nhất


Mặt trận dân tộc thống nhất phải được xây dựng trên nền tảng khối liên minh cơng – nơng
– trí thức, đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng
• Mặt trận dân tộc thống nhất phải hoạt động trên cơ sở bảo đảm lợi ích tối cao của dân tộc,
quyền lợi cơ bản của các tầng lớp nhân dân.
• Mặt trận dân tộc thống nhất phải hoạt động theo nguyên tắc hiệp thương dân chủ, bảo đảm
đoàn kết ngày càng rộng rãi và bền vững
• Mặt trận dân tộc thống nhất là khối đoàn kết chặt chẽ, lâu dài, đoàn kết thật sự, chân thành,
thân ái giúp đỡ nhau cùng tiến bộ.
1. Phải được xây dựng trên nền tảng liên minh công nhân – nông dân – trí thức và đặt dưới
sự lãnh đạo của Đảng


Hồ Chí Minh xác định mục đích chung của mặt trạn dân tộc thống nhất là nhằm tập hợp tới mức
cao nhất lực lượng dân tộc vào khối đại đoàn kết toàn dân. Mặt trận là khối đồn kết chặt chẽ, có
tổ chức trên nnền tảng khối liên minh giữa giai cấp cơng nhân , giai cấp nơng dân, đội ngũ trí thức
dưới sự lãnh đạo của Đảng. Đây được coi là nguyên tắc cốt lõi trong chiến lược đại đoàn kết dân
tộc của Hồ Chí Minh, nó hồn tồn khác với tư tưởng đoàn kết, tập hợp lực lượng của các nhà yêu
nước Việt Nam trong lịch sử, trên cơ sở đó để mở rộng Mặt trận, làm cho Mặt trận thực sự quy tụ
được cả dân tộc, kết thành một khối vững chắc trong mặt trận. Người viết: “Lực lượng chủ yếu
trong khối đại đồn kết dân tộc là cơng nông, cho nên liên minh công nông là nền tảng của Mặt
trận dân tộc thống nhất”. Người chỉ rõ rằng, sở dĩ phải lấy liên minh công nông làm nền tảng “vì
họ là người trực tiếp sản xuất tất cả mọi tài phú làm cho xã hội sống. Vì họ đơng hơn hết mà cũng
bị áp bức bóc lột nặng nề nhất. Vì chí khí cách mạng của họ chắc chắn, bền bỉ hơn của mọi tầng
lớp khác”. Người căn dặn, trong khi nhấn mạnh vai trò nòng cốt của liên minh công – nông, cần
chống lại khuynh hướng chỉ coi trọng củng cố khối liên minh công – nông mà khơng thấy vai trị
và sự cần thiết phải mở rộng đoàn kết với các tầng lớp khác, nhất là với tầng lớp trí thức. Làm
cách mạng phải có tri thức và tầng lớp trí thức rất quan trọng đói với cách mạng. Người nói:
“Trong sự nghiệp cách mạng, trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, lao động trí óc có một
vai trị quan trọng và vẻ vang; và cơng – nơng – trí cần đồn kết chặt chẽ thành một khối”.

Theo Hồ Chí Minh, đại đồn kết là cơng việc của tồn dân tộc, song nó chỉ có thể được củng cố
và phát triển vững chắc khi được Đảng lãnh đạo. Sự lãnh đạo của Đảng đói với mặt trận vừa là
vấn đề mang tính nguyên tắc, vừa là một tất yếu bảo đảm cho mặt trận tồn tại, phát triển và có
hiệu lực trong thực tiễn. Như vậy, Đảng vừa là thành viên, vừa là lực lượng lãnh đạo, Đảng khơng
có lợi ích riêng mà gắn liền với lợi ích của tồn xã hội, tồn dân tộc. Đảng lãnh đạo đối với mặt
trận thể hiện ở khả năng nắm bắt thực tiễn, phát hiện ra quy luật khách quan sự vận động của lịch
sử để vạch đường lối và phương pháp cách mạng phù hợp, lãnh đạo Mặt trận hồn thành nhiệm vụ
của mình là đấu tranh giải phóng dân tộc và giải phóng giai cấp, kết hợp với độc lập dân tộc với
chủ nghĩa xã hội.
Để lãnh đạo mặt trận, Đảng phải có chính sách mặt trận đúng đắn, phù hợp với từng giai đoạn,
từng thời ký cách mạng, phù hợp với quyền lợi và nguyện vọng của đại đa số nhân dân. Người


viết: “chính sách mặt trận là một chính sách rất quan trọng. Công tác mặt trận là một công tác rất
quan trọng trong tồn bộ cơng tác cách mạng”. Trong quá trình lãnh đạo mặt trận, Đảng phải đi
đúng đường lối quần chúng, không được quan liêu, mệnh lệnh và gò ép các thành viên trong mặt
trận; phải dùng phương pháp vận động, giáo dục, thuyết phục, nêu gương, lấy lịng chân thành để
đối xử, cảm hóa, khơi gợi tinh thần tự giác, tự nguyện, tuyệt đối không được lấy quyền uy của
mình để buộc các thành viên khác trong mặt trận phải tuân theo.
2. Mặt trận dân tộc thống nhất phải hoạt động trên cơ sở bảo đảm lợi ích tối cao của dân tộc,

quyền lợi cơ bản của các tầng lớp nhân dân
Mục đích chung của Mặt trận được Hồ Chí Minh xác định củ thể, phù hợp với từng giai đoạn cách
mạng, nhằm tập hợp tới mức cao nhất lực lượng đân tộc vào khối đại đoàn kết. Theo Người, đại
đoàn kết phải xuất phát từ mục tiêu vì nước, vì dân, trên cơ sở yêu nước, thương dân, chống áp
bức bóc lột, nghèo nàn lạc hậu. Người cho rằng, nếu nước được độc lập mà dân khơng được
hưởng hạnh phúc, tự do thì độc lập cũng chẳng có ý nghĩa gì. Như vậy, độc lập, tự do là nguyên
tắc bất di, bất dịch, là ngọn cờ đoàn kết và là mẫu số chung để quy tụ các tầng lớp, giai cấp, đảng
phái, dân tộc, tôn giáo vào trong mặt trận. Tuy nhiên làm thế nào để tất cả mọi người thuộc bất cứ
giai tầng nào, lực lượng nào trong mặt trận cũng phải đặt lợi ích tối cao đó lên trên hết. Bởi lẽ, lợi

ích tối cao của dân tộc được bảo đảm thì lợi ích cơ bản của mỗi bộ phận, mỗi người mới được
thực hiện.
3. Mặt trận dân tộc thống nhất phải hoạt động theo nguyên tắc hiệp thương dân chủ, bảo

đảm đoàn kết ngày càng rộng rãi và bền vững
Nguyên tắc hiệp thương dân chủ được hiểu là tất cả mọi vấn đề của Mặt trận đều phải được đưa ra
để tất cả các thành viên cùng nhau bàn bạc công khai, để đi đến nhất trí, loại trừ mọi áp đặt hoặc
dân chủ hình thức.
Mặt trận dân tộc thống nhất là tổ chức chính trị – xã hội rộng lớn của cả dân tộc, bao gồm nhiều
tầng lớp, đảng phái, dân tộc, tôn giáo khác nhau. Do vậy, hoạt động của mặt trận đều phải được
đưa ra để tất cả các thành viên cùng nhau bàn bạc công khai, để đi đến nhất trí, loại trừ mọi sự áp
đặt hoặc dân chủ hình thức. Đảng là lực lượng lãnh đạo mặt trận, nhưng cũng là một thành viên
của mặt trận. Tất cả chủ trương, chính sách của mình, Đảng phải có trách nhiệm trình bày trước
mặt trận, cùng với các thành viên khác của mặt trận bàn bạc, hiệp thương dân chủ để tìm kiếm các
giải pháp tích cực và thống nhất hành động, hướng phong trào quần chúng thực hiện thắng lợi các
mục tiêu đã vạch ra.
Để thực hiện nguyên tắc hiệp thương dân chủ phải đứng vững trên lập trường giai cấp cơng nhân,
giải quyết hài hịa mối quan hệ giữa lợi ích dân tộc và lợi ích giai cấp, lợi ích chung và lợi ích
riêng, lợi ích lâu dài và lợi ích trước mắt…Phải làm cho tất cả các thành viên trong mặt trận thấm
nhuần lợi ích chung, lợi ích tối cao của dân tộc, phải đặt lợi ích chung lên trên hết, trước hết.
Những lợi ích riêng chính đáng phù hợp với lợi ích chung của đất nước và dân tộc phải được tôn
trọng. Ngược lại, những lợi ích bộ phận không phù hợp sẽ dần dần được giải quyết cùng với tiến
trình chung của cách mạng, thơng qua lợi ích chung, với sự nhận thức ngày càng đúng đắn hơn
của mỗi người, mỗi bộ phận về mối quan hệ giữa lợi ích chung và lợi ích riêng.
4.

Mặt trận dân tộc thống nhất là khối đoàn kết chặt chẽ, lâu dài, đoàn kết thật sự, chân
thành, thân ái giúp đỡ nhau cùng tiến bộ



Theo như Hồ Chí Minh, đồn kết trong Mặt trận phải là lâu dài, chặt chẽ, đoàn kết thật sự, chân
thành, thân ái giúp đỡ cùng nhau tiến bộ. Trong Mặt trận, các thành viên có những điểm tương
đồng nhưng cũng có những điểm khác biệt, nên cần có sự bàn bạc để đi đến nhất trí. Hồ Chí Minh
nhấn mạnh phương châm “cầu đồng tồn dị” lấy cái chung để hạn chế cái riêng, cái khác biệt; đồng
thời Người cũng nêu rõ: “đoàn kết phải gắn với đấu trang, đấu tranh để tăng cường đoàn kết”.
Người thường xuyên căn dặn mọi người cần phải khắc phục tình trạng đồn kết xi chiều, địng
thời phải có tấm lịng nhân ái, khoan dung, độ lượng, khắc phục thiên kiến, hẹp hòi, thiển cận,
phải nêu cao tinh thần phê bình và tự phê bình để biểu dương mặt tốt, khắc phục mặt chưa tốt,
nhằm củng cố và mở rộng khối đoàn kết trong mặt trận dân tộc thống nhất. Người viết: “Đoàn kết
thực sự nghĩa là mục đích phải nhất trí và lập trường cũng phải nhất trí. Đồn kết thực sự nghĩa
là vừa đoàn kết vừa đấu tranh, học những cái tốt của nhau, phê bình những cái sai của nhau và
phê bình trên lập trường thân ái, vì nước, vì dân. Tóm lại, muốn tiến lên chủ nghĩa xã hội thì tồn
dân cần đồn kết lâu dài, đồn kết thực sự và cùng nhau tiến bộ”.
Ý NGHĨA CỦA TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẠI ĐỒN KẾT DÂN TỘC ĐỐI
VỚI CÁCH MẠNG VIỆT NAM
1.
Giá trị lý luận

IV.

Đại đoàn kết dân tộc là một chiến lược cách mạng được Hồ Chí Minh để ra từ rất sớm, trở thành
tư tưởng chỉ đạo xuyên suốt tiến trình cách mạng Việt Nam, là cội nguồn sức mạnh làm nên mọi
thắng lợi của cách mạng Việt nam, một đóng góp quan trọng vào lý luận cách mạng thế giới.
Trước Hồ Chí Minh, các nhà sáng lập chủ nghĩa Mac – Lênin chưa đề cập vấn đề đại đồn kết dân
tộc. Vì vậy,đây là một đóng góp sáng tạo của Người mà các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác – Lênin
chưa đề cập tới một cách sâu sắc và toàn diện. Điều này đã làm phong phú hơn lý luận chủ nghĩa
Mác – Lênin về công tác vận động và tổ chức quần chúng của Đảng Cộng Sản. Tư tưởng về đại
đoàn kết dân tộc mang giá trị lý luận cũng sự giá trị thực tiễn sâu sắc cho cách mạng Việt Nam nói
riêng và cách mạng thế giới nói chung.
2. Giá trị thực tiễn


Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đồn kết dân tộc đã được thực tiễn cách mạng Việt Nam đã và đang
chứng minh sức sống kỳ diệu của tư tưởng đại đồn kết Hồ Chí Minh. Có thể nói đây là một trong
những nhân tố quan trọng giúp chúng ta vượt qua mọi khó khăn thử thách để tiến tới mục tiêu :
“Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”. Khơng những chỉ trong suốt q
trình đấu tranh giành lại độc lập cho đất nước, đoàn kết và phát huy sức mạnh toàn dân tộc đã làm
nên những thắng lợi vĩ đại trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, tiến hành thắng lợi cuộc
kháng chiến chống thực dân Pháp và kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, giải phóng miền Nam,
thống nhất đất nước, cả nước cùng đi lên chủ nghĩa xã hội mà đại đoàn kết dân tộc cũng góp phần
lớn trong việc xây dựng “đất nước ta đàng hoàng hơn, to đẹp hơn” như mong ước của Chủ tịch Hồ
Chí Minh . Thực tiễn tư tưởng đại đồn kết Hồ Chí Minh trở thành ngọn cờ quy tụ tất cả mọi con
dân nước Việt từ miền ngược tới miền xuôi, từ nông thôn tới thành thị, từ rừng núi tới hải đảo vào
Mặt trận dân tộc thống nhất, tạo nên sức mạnh vô địch đưa tới thắng lợi của cách mạng Việt Nam
trong Tổng khởi nghĩa Tháng Tám năm 1940, trong kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc
Mỹ xâm lược, trong xây dựng miền Bắc xã hội chủ nghĩa. Cũng trong suốt 90 năm thực hiện
xuyên suốt và nhất quán chiến lược đại đoàn kết dân tộc, nhất là trong hơn 30 năm đổi mới, Đảng
Cộng sản Việt Nam đã luôn vận dụng một cách sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết


dân tộc phù hợp với tình hình, yêu cầu và nhiệm vụ của sự nghiệp cách mạng, kiên định độc lập
dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
Ngày nay tư tưởng đại đồn kết Hồ Chí Minh tiếp tục truyền sức mạnh vào sự nghiệp đổi mới,
quy tụ giai cấp công nhân giai cấp nơng dân, đội ngũ trí thức, doanh nhân, thế hệ trẻ, phụ nữ, cựu
chiến binh, người cao tuổi, các dân tộc, các tôn giáo, đồng bào định cư ở nước ngoài. Đặc biệt,
dưới ánh sáng tư tưởng Hồ Chí Minh Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đồn thể nhân dân đã
đóng được vai trị tập hợp, vận động, đoàn kết rộng rãi các tầng lớp nhân dân; đại diện cho quyền
và lợi ích hợp pháp của nhân dân; đưa các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước, các
chương trình kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phịng, an ninh vào cuộc sống, góp phần xây dựng sự
đồng thuận trong xã hội, tạo động lực chủ yếu phát triển kinh tế - xã hội xây dựng nước Việt Nam
dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.

Tiêu biểu như các cuộc vận động xã hội, các phong trào thi đua yêu nước sâu rộng do Mặt trận và
các tổ chức thành viên phát động và triển khai thực hiện ngày càng đi vào cuộc sống, được các
tầng lớp nhân dân tích cực hưởng ứng. Trong đó, đồn kết giúp nhau phát triển kinh tế, xóa đói,
giảm nghèo, lá lành đùm lá rách, bảo hiểm y tế, bảo hiểm xã hội, thực hiện vệ sinh an tồn thực
phẩm, bảo vệ chăm sóc sức khỏe của nhân dân, bảo vệ môi trường và ứng phó với biến đổi khí
hậu, phịng, chống tội phạm, ma túy, mại dâm, HIV/AIDS và các tệ nạn xã hội khác cùng với cuộc
vận động xã hội, các phong trào “Uống nước nhớ nguồn”, “Đền ơn đáp nghĩa”, “Ngày vì người
nghèo”, “Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam” “Tồn dân đồn kết xây dựng đời sống
văn hóa”, “Tồn dân đồn kết xây dựng nơng thơn mới, đơ thị văn minh”, “Tồn dân bảo vệ an
ninh Tổ quốc”… khơng chỉ có tác dụng thiết thực, tạo nên sự gắn kết cộng đồng mà cịn góp phần
làm cho tư tưởng đại đoàn kết toàn dân tộc thấm sâu vào các tầng lớp nhân dân, tạo động lực thúc
đẩy phát triển đất nước nhanh và bền vững, phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
3. Vận dụng thực tiễn với cách mạng Việt Nam hiện nay

Trong điều kiện hiện nay, đại đồn kết theo tư tưởng Hồ chí Minh đòi hỏi phải xây dựng được một
Đảng cầm quyền thật sự trong sạch, vững mạnh, cán nộ, đảng viên vừa là người đầy tớ thật trung
thành của nhân dân; một chế độ thật sự do nhân dân là chủ và làm chủ; một nhà nước thật sự của
nhân dân, vì nhân dân; một hệ thống chính trị có hiệu quả và hiệu lực thực tế. Với luật pháp, Đảng
và nhà nước cần tiếp tục đổi mới chính sách giai cấp, chính sách xã hội, hồn thiện chính sách dân
tộc, chính sách tơn giáo, chính sách đối với trí thức, chính sách đối với cộng đồng người Việt ở
nước ngồi, tập hợp đến mức rộng rãi nhất mọi nhân tài, vật lực vào sự nghiệp đẩy mạnh cơng
nghiệp hố, hiện đại hoá đất nước, gắn với phát triển kinh tế tri thức, bảo vệ tài nguyên, môi
trường.


ĐỀ TÀI PHỤ
QUAN ĐIỂM CỦA HỒ CHÍ
MINH VỀ NHÀ NƯỚC THỂ
HIỆN QUYỀN LÀM CHỦ CỦA
NHÂN DÂN


Tư tưởng Hồ Chí Minh về quyền làm chủ của nhân dân. Tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ nói
chung và về quyền làm chủ của nhân dân nói riêng là kết quả của sự nhận thức sâu sắc về vai trò
của nhân dân trong lịch sử, là kết quả của sự kết hợp giữa tư tưởng thân dân truyền thống ở
phương Đông và quan điểm cách mạng là sự nghiệp của quần chúng trong học thuyết Mác –
Lênin. Kết hợp giữa truyền thống và hiện đại, giữa lý luận và thực tiễn – Hồ Chí Minh đã nâng tư
tưởng dân chủ lên một tầm cao mới vừa mang tính khoa học , vừa mang tính nhân văn sâu sắc.
Về quyền làm chủ của nhân dân, Hồ Chí Minh đã chỉ rõ trên ba phương diện:
Nhà nước của dân
• Nhà nước do dân
• Nhà nước vì dân
1. Nhà nước của dân


Nhà nước của dân là Nhà nước tập trung mọi quyền lực thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên
minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức.
Nhà nước của dân được thể hiện:


Nhà nước phải là của toàn thể nhân dân mà khơng phải là của riêng giai cấp, tầng lớp nào.
• Xác lập tất cả mọi quyền lực trong Nhà nước và trong xã hội đều thuộc về nhân dân.
2. Nhà nước do dân


Nhà nước do dân lập tức là nhà nước do dân lập nên, dân ủng hộ, dân làm chủ
Nhà nước do dân tổ chức thông qua việc trực tiếp hoặc gián tiếp bầu ra các cơ quan nhà nước. Các
đại biểu do nhân dân bầu ra chỉ là những người được sự ủy quyền của nhân dân nên chỉ là “công
bộc”, là “đầy tớ” của dân.
Nhà nước do dân lập nên, do dân ủng hộ, dân làm chủ. Chính vì vậy Hồ Chí Minh thường nhấn
mạnh nhiệm vụ của những người cách mạng là phải làm cho dân hiểu, làm cho dân giác ngộ để

nâng cao được trách nhiệm làm chủ, nâng cao được ý thức trách nhiệm chăm lo xây dựng Nhà
nước của mình.
Quyền tham gia xây dựng và quản lý nhà nước của dân được thể hiện:
• Nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước bằng dân chủ trực tiếp, bằng dân chủ đại diện
thông qua Quốc hội, Hội đồng nhân dân và thông qua các cơ quan khác của nhà nước
• Nhân dân có thể trực tiếp làm việc trong các cơ quan nhà nước khi được bầu, bổ nhiệm
hoặc tuyển dụng, qua đó trực tiếp nắm giữ và thực hiện quyền lực nhà nước
• Nhân dân có quyền quyết định tối cao và cuối cùng mọi vấn đề liên quan đến vận mệnh
quốc gia, bảo vệ chủ quyền quốc gia.
• Nhân dân phê bình, xây dựng và giúp đỡ để Nhà nước ngày càng trong sạch, vững mạnh
hơn
3. Nhà nước vì dân


Nhà nước vì dân là nhà nước phục vụ cho lợi ích và đáp ứng tốt nhất những nguyện vọng chính
đáng của nhân dân. “Vì con người, cho con người và bảo vệ con người” là mục tiêu cao nhất của
mọi chính sách, quy định của pháp luật và hoạt động của nhà nước.
Nhà nước vì dân được thể hiện :


Nhà nước phải liêm chính, trong sạch, khơng có bất cứ một đặc quyền đặc lợi nào, phải
kiến tạo sự phát triển và đảm bảo sự phát triển bền vững của đất nước.

Người cán bộ cách mạng do dân chọn ra nên phải hết mình phục vụ cho lợi ích của nhân dân,
“thuyền bị lật mới biết sức dân mạnh như sức nước, nước có thể chở thuyền nhưng nước cũng có
thể lật thuyền”.


Cán bộ, cơng chức, viên chức nhà nước vừa là đầy tớ, vừa là người lãnh đạo, hướng dẫn
nhân dân hoạt động nên phải luôn tôn trọng nhân dân, tận tụy với nhân dân, liên hệ chặt

chẽ với nhân dân. Phải lắng nghe ý kiến và chịu sự giám sát của nhân dân; phải thực sự
trong sạch, cần, kiệm, liêm chính, chí cơng vơ tư, khơng đặc quyền đặc lợi.

Cán bộ, công chức, viên chức không phải "làm quan cách mạng" để "đè đầu cưỡi cổ nhân dân"
như dưới thời đế quốc thực dân. Ngay như chức vụ Chủ tịch nước của mình, Hồ Chí Minh cũng
quan niệm là do dân ủy thác cho và như vậy phải phục vụ nhân dân, tức là làm đày tớ cho nhân
dân. Hồ Chí Minh nói: "Tơi tuyệt nhiên khơng ham muốn cơng danh phú quý chút nào. Bây giờ
phải gánh chức Chủ tịch là vì đồng bào ủy thác thì tơi phải gắng sức làm, cũng như một người


lính vâng mệnh lệnh của quốc dân ra trước mặt trận. Bao giờ đồng bào cho tơi lui, thì tơi rất vui
lịng lui... Riêng phần tơi thì làm một cái nhà nho nhỏ, nơi có non xanh, nước biếc để câu cá,
trồng hoa, sớm chiều làm bạn với các cụ già hái củi, em trẻ chăn trâu, khơng dính líu gì với vịng
danh lợi".
Nhận rõ được tầm quan trọng của nhân dân cực kỳ to lớn trong đời sống chính trị - xã hội của
nước. Vì vậy, quyền lực của dân đứng ở vị trí tối thượng trong hệ thống quyền lực của đất nước.
Trong hệ thống cấu trúc quyền lực nhà nước mới của nước ta từ tháng 9/1945 đến nay đã được ghi
vào 05 bản Hiến pháp là: tất cả mọi quyền lực đều thuộc về nhân dân. Trong đó quan điểm nhất
qn của Hồ Chí Minh là xác lập tất cả mọi quyền lực trong Nhà nước và trong xã hội đều thuộc
về nhân dân được thể hiện rõ trong 2 bản Hiến pháp năm 1946 và năm 1959 do Người lãnh đạo
soạn thảo. Cụ thể như, tại Điều 32, Hiến pháp năm 1946 cũng từng viết "Những việc liên quan
đến vận mệnh quốc gia sẽ đưa ra nhân dân phúc quyết...". Thực chất đó là chế độ trưng cầu dân ý,
một hình thức dân chủ đề ra khá sớm ở nước ta.
Thực tiễn hiện nay, Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam được xác định là nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Điều này được cụ thể hóa
trong hệ thống pháp luật tại Việt Nam như tại Điều 6, Hiến pháp (2013) có quy định: “Nhân dân
Việt Nam thực hiện quyền lực nhà nước bằng dân chủ trực tiếp, bằng dân chủ đại diện thông qua
Quốc hội, Hội đồng nhân dân và thông qua các cơ quan khác.”

TÀI LIỆU THAM KHẢO

[1] Giáo trình Tư tưởng Hồ Chí Minh, Bộ giáo dục và đào tạo,NXB Chính trị Quốc gia sự thật
(2018)


[2] Slide bài giảng Tư tưởng Hồ Chí Minh của trường ĐẠI HỌC THƯƠNG MẠI
[3] Hồ Chí Minh: Tồn tập, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật

[4] Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam các năm 1946,2013
[5] Lý luận chung về nhà nước và pháp luật, Giáo trình Trường Đại học Luật Hà Nội
(2016), NXB Tư pháp.



×