Tải bản đầy đủ (.docx) (124 trang)

Quản lý công tác dục đạo đức cho học sinh trung học cơ sở ở trường phổ thông dân tộc nội trú huyện hoài ân, tỉnh bình định

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (724.61 KB, 124 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC QUY NHƠN

ĐINH VĂN TUYA

QUẢN LÝ CÔNG TÁC GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC
CHO HỌC SINH TRUNG HỌC CƠ SỞ Ở
TRƯỜNG PTDTNT HUYỆN HOÀI ÂN,
TỈNH BÌNH ĐỊNH
Chuyên ngành: Quản lý giáo dục
Mã số: 8140114

Người hướng dẫn: TS. Nguyễn Thanh Hùng


LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu của riêng tôi. Các dữ liệu,
kết quả nghiên cứu trong luận văn là trung thực và chưa từng cơng bố trong bất
kỳ cơng trình nghiên cứu nào khác.
Tác giả luận văn

Đinh Văn Tuya


LỜI CẢM ƠN
Em xin được bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc nhất tới Thầy giáo TS. Nguyễn
Thanh Hùng - Người đã tận tình giúp đỡ em hồn thành luận văn này. Thầy đã cho
em biết thêm nhiều kiến thức về khoa học quản lý giáo dục cũng như giúp em rèn
luyện kỹ năng nghiên cứu khoa học.
Em xin chân thành cảm ơn quý thầy cô giảng viên tại Khoa tâm lý xã hội và
nhân văn trường Đại học Quy Nhơn, cảm ơn Sở Giáo dục và Đào tạo tỉnh Bình


Định, Phịng Giáo dục và Đào tạo huyện Hồi Ân, các đồng chí cán bộ, giáo viên,
cha mẹ học sinh và học sinh THCS ở trường PTDTNT huyện Hoài Ân đã nhiệt tình
cộng tác, cung cấp số liệu, cho ý kiến giúp đỡ tơi trong q trình nghiên cứu đề tài.
Xin cảm ơn những người thân yêu, bạn bè đã ln cổ vũ, động viên và hết lịng
giúp đỡ tơi hoàn thành luận văn!
Xin trân trọng cảm ơn!
Hoài Ân, tháng 03 năm2021
Tác giả luận văn

Đinh Văn Tuya


MỤC LỤC
••
LỜI CAM ĐOAN
LỜI CẢM ƠN
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
DANH MỤC CÁC BẢNG

2.5.1.

Thực trạng về quản lý việc bổi dưỡng kỹ năng tổ chức công tác giáo dục

PHỤ LỤC
QUYẾT ĐỊNH GIAO ĐỀ TÀI LUẬN VĂN (bản sao)


DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
STT


Chữ viết tắt

Cụm từ viết tắt

1

CBGV

Cán bộ, giáo viên

2
3

CMHS
CNH-HĐH

Cha mẹ học sinh
Cơng nghiệp hố, hiện đại hố

4

GDĐĐ

Giáo dục đạo dức

5

GV

Giáo viên


6
7

GVBM
GVCN

Giáo viên bộ mơn
Giáo viên chủ nhiệm

8
9

HĐGDĐĐ
HĐND

Hoạt động giáo dục đạo đức
Hội đồng nhân dân

10

HS

Học sinh

11

QL

Quản lý


12
13

QLGD
THCS

Quản lý giáo dục
Trung học cơ sở

14

TNCS

Thanh niên cộng sản

15

TNTP

Thiếu niên tiền phong

16
17

UBND
XH

Uỷ ban nhân dân
Xã hội


18

XHCN

Xã hội chủ nghĩa


DANH MỤC CÁC BẢNG
Số hiệu

Tên bảng

bảng

Trang

Các thang giá trị tương ứng với các mức độ và điểm
2.1.

trung bình để đo thực trạng giáo dục đạo đức cho học

43

sinh trường THCS
2.2.
2.3.
2.4.

Đánh giá của CBQL, GV về vai trị của cơng tác

GDĐĐ cho học sinh
Đánh giá của học sinh về vai trò của công tác giáo dục
đạo đức cho học sinh
Đánh giá của CBQL, GV và mức độ thực hiện nội
dung giáo dục đạo đức cho học sinh THCS

44
45
46

Đánh giá của học sinh về mức độ thực hiện nội dung
2.5.

của hoạt công tác giáo dục đạo đức cho học sinh

48

THCS.
Đánh giá của CBQL và GV về mức độ sử dụng
2.6.

thường xuyên của hệ thống các phương pháp giáo dục

50

đạo đức cho học sinh
2.7.
2.8.
2.9.
2.10.

2.11.

Đánh giá của học sinh về mức độ phù hợp các hệ
thống phương pháp giáo dục đạo đức cho học sinh
Đánh giá của CBQL và GV về hệ thống các hình thức
giáo dục đạo đức cho học sinh
Đánh giá của học sinh, về hệ thống các hình thức giáo
dục đạo đức cho học sinh theo các mức độ phù hợp
Đánh giá của CBQL và GV về mức độ các lực lượng
tham gia giáo dục đạo đức cho học sinh THCS
Đánh giá của học sinh về mức độ các lực lượng tham
gia giáo dục đạo đức cho học sinh THCS

51
52
53
54
56


Số hiệu

Tên bảng

bảng
2.12.

Đánh giá của CBQL và GV về mức độ ảnh hưởng của
các yếu tố đến công tác GDĐĐ cho học sinh THCS


Trang
57

Đánh giá của CBQL, GV về mức độ hiệu quả của
2.13.

quản lý đổi mới nội dung giáo dục đạo đức cho sinh

58

THCS
Đánh giá của CBQL và GV về mức độ hiệu quả của
2.14.

quản lý việc lựa chọn các phương pháp và hình thức

60

cơng tác giáo dục đạo đức cho học sinh THCS
Đánh giá của CBQL và GV về mức độ Quản lý sự
2.15.

phối hợp các lực lượng tham gia công tác giáo dục đạo

61

đức cho học sinh THCS
Đánh giá của CBQL và GV về mức độ quản lý các
2.16.


điều kiện phục vụ cho công tác giáo dục đạo đức cho

63

học sinh THCS hiện nay là:
Đánh giá của CBQL và GV về mức độ quản lý việc
2.17.

bồi dưỡng kỹ năng của công tác giáo dục đạo đức cho

64

đội ngũ giáo viên
Đánh giá của CBQL và GV về mức độ hiệu quả của
2.18.

quản lý kiểm tra, đánh giá công tác giáo dục đạo đức

66

cho học sinh THCS
3.1.
3.2.

Đánh giá của CBQL và GV về tính cấp thiết của các
biện pháp đề xuất
Đánh giá của CBQL và GV về tính khả thi của các
biện pháp đề xuất

89

90


8

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong lịch sử phát triển của loài người đã chứng minh và khẳng định vai trò to
lớn của giáo dục đối với sự phát triển của cá nhân và xã hội. Giáo dục chính là cơng
cụ, là phương tiện góp phần tạo nên sự tiến bộ xã hội. Khi xã hội phát triển, giáo dục
vừa được coi là động lực vừa là mục tiêu của sự phát triển đó.
Đạo đức là phẩm chất quan trọng nhất của nhân cách, là nền tảng để xây dựng
thế giới tâm hồn con người, vì vậy ở bất cứ quốc gia nào, thời đại nào việc giáo dục
đạo đức cho thế hệ đang lớn lên cũng là trung tâm chú ý của các nhà lãnh đạo, quản lí
xã hội và hệ thống giáo dục. Giáo dục đạo đức nhằm cung cấp cho học sinh những tri
thức cơ bản về những phẩm chất đạo đức, những chuẩn mực đạo đức, từ đó tự hồn
thiện nhân cách của mình. Đức và tài là những yếu tố cơ bản hợp thành trong một cá
nhân. Nhiều quan điểm cho rằng đạo đức là gốc của nhân cách. Giáo dục đạo đức là
một phần quan trọng không thể thiếu trong hoạt động giáo dục. Bác Hồ đã từng khẳng
định “Có tài mà khơng có đức là người vơ dụng, có đức mà khơng có tài thì làm việc
gì cũng khó”. Nhiều nhà hiền triết cũng đã nhấn mạnh “con người muốn trở thành con
người thì cần phải được giáo dục”. Vì vậy, việc quan tâm tới công tác quản lý giáo dục
đạo đức trong nhà trường là một việc làm hết sức quan trọng.
Trong Nghị quyết Hội nghị lần thứ Hai Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá
VIII) về định hướng chiến lược phát triển giáo dục - đào tạo trong thời kỳ cơng nghiệp
hố, hiện đại hố đã khẳng định: “Nhiệm vụ và mục tiêu cơ bản của giáo dục là nhằm
xây dựng những thế hệ con người thiết tha gắn bó với lý tưởng độc lập dân tộc và chủ
nghĩa xã hội, có đạo đức trong sáng, có ý chí kiên cường xây dựng và bảo vệ tổ quốc;
cơng nghiệp hố, hiện đại hố đất nước; giữ gìn và phát huy các giá trị văn hố của
dân tộc, có năng lực tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại; phát huy tiềm năng của dân

tộc và con người Việt Nam, có ý thức cộng đồng và phát huy tính tích cực của cá
nhân, làm chủ tri thức khoa học và công nghệ hiện đại, có tư duy sáng tạo, có kỹ năng
thực hành giỏi, có tác phong cơng nghiệp, có tính tổ chức kỷ luật...”.
Hiện nay nhiều học sinh, sinh viên có ý chí vươn lên trong học tập, có hồi bão
khát vọng lớn. Tuy nhiên, dưới tác động của mặt trái trong nền kinh tế thị trường và


9

nhiều nguyên nhân khác, những hành vi lệch chuẩn mực của thanh thiếu niên có xu
hướng ngày càng gia tăng. Một số hành vi vi phạm pháp luật của học sinh khiến gia
đình và xã hội lo lắng như: vi phạm luật lệ giao thông, đua xe trái phép, bạo lực học
đường, quay cóp bài, mua điểm, cờ bạc, trong gia đình trẻ em thiếu lễ phép khi nói
năng.. ..Một số hành vi lệch chuẩn khác về mặt đạo đức như: lối sống hưởng thụ, thực
dụng, xa hoa, lãng phí, lười lao động, thiếu ý thức rèn luyện, không dám đấu tranh với
cái sai, thờ ơ vơ cảm, ích kỷ cũng ngày càng nhiều hơn ở đối tượng còn ngồi trên ghế
nhà trường.
Đặc biệt Nghị quyết 29 Hội nghị trung ương lần thứ 8 khóa XI về đổi mới căn
bản toàn diện Giáo dục và Đào tạo tiếp tục khẳng định coi giáo dục là quốc sách hàng
đầu, là nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn dân. Đổi mới phải kế thừa những thành tựu đã
có, có tính dài hạn phù hợp. Đổi mới nhằm nâng cao dân trí bồi dưỡng nhân lực, đào
tạo nhân tài; chuyển từ trang bị kiến thức sang năng lực thực hiện. Phát triển giáo dục
đào tạo gắn với phát triển kinh tế và bảo vệ Tổ quốc. Đổi mới giáo theo hướng mở
linh hoạt, chuẩn hóa hiện đại. Chủ động phát huy mặt tích cực, hạn chế mặt tiêu cực
của cơ chế thị trường, dân chủ hóa, xã hội hóa giáo dục. Chủ động hội nhập quốc tế.
Trước tình hình và thực trạng này trong những năm qua các cấp, các ngành, đặc
biệt là ngành giáo dục đã quan tâm đầu tư chú trọng công tác giáo dục toàn diện cho
các thế hệ học sinh. Vấn đề giáo dục đạo đức được coi là một trong những nhiệm vụ
quan trọng trong các nhà trường. Nhưng thực tế việc giáo dục đạo đức trong nhà
trường thường mới chú trọng tới nền nếp kỷ cương với nội quy, những bài học giáo

huấn, chưa chú ý đến hành vi ứng xử thực tế. Bên cạnh đó biện pháp phối hợp giữa
nhà trường, gia đình và xã hội nhằm giáo dục đạo đức cho học sinh chưa chặt chẽ,
đồng bộ, thường xun. Giáo dục là q trình mang tính xã hội sâu sắc, thể hiện nhiều
góc độ khía cạnh, có sự tham gia của nhiều lực lượng xã hội. Việc giáo dục đạo đức
học sinh nếu chỉ diễn ra trong khuôn viên nhà trường tất yếu không phát huy được sức
mạnh chung, khơng tồn diện và đầy đủ nên hiệu quả của công tác này trong các nhà
trường chưa đáp ứng được yêu cầu đào tạo con người mới phù hợp với sự phát triển
của xã hội trong giai đoạn hiện nay.
Trường PTDTNT THCS huyện Hoài Ân trong những năm qua cũng đã có nhiều
chuyển biến trong các mặt giáo dục như các chỉ tiêu về hạnh kiểm, học sinh tốt


10

nghiệp, chỉ tiêu học sinh giỏi, học sinh tiên tiến ngày càng tăng, nhưng bên cạnh đó
hiệu quả cơng tác giáo dục đạo đức học sinh cũng cịn có những hạn chế:
- Giáo viên lên lớp còn nặng dạy chữ, chưa chú trọng đến vấn đề dạy người,
môn giáo dục công dân nhiều giáo viên và học sinh xem là “mơn phụ”, nặng lí luận
chưa có sự đầu tư nâng cao chất lượng giảng dạy.
- Có một số cán bộ giáo viên cịn né tránh, thậm chí cịn làm ngơ trước những
hành vi vi phạm đạo đức của học sinh. Đội ngũ giáo viên chủ nhiệm lớp còn một bộ
phận chưa có nhiều kinh nghiệm, chưa thực sự tâm huyết với nghề, chưa có sự quan
tâm đúng mức đến cơng tác giáo dục đạo đức học sinh.
- Giáo dục đạo đức học sinh chưa được tiến hành thường xuyên, chưa được thực
hiện ở mọi nơi, mọi lúc; vẫn còn thiếu sự phối hợp chặt chẽ giữa nhà trường với gia
đình, các cấp uỷ Đảng chính quyền, các ngành hữu quan, các tổ chức chính trị xã hội
và quần chúng nhân dân.
- Vẫn tồn tại một bộ phận học sinh thường xuyên có biểu hiện vi phạm nội quy,
có lối sống hưởng thụ, thực dụng, ích kỷ, xúc phạm tới danh dự, tự trọng của nhà giáo.
Để nâng cao chất lượng giáo dục đạo đức học sinh của trường lên một bước mới,

góp phần tạo bước đột phá trong chiến lược phát triển giáo dục giai đoạn 2010 - 2020,
đáp ứng việc nâng cao chất lượng giáo dục cho học sinh, việc nghiên cứu các biện
pháp quản lí giáo dục đạo đức cho học sinh THCS là hết sức cần thiết.
Xuất phát từ những lí do nói trên, tác giả chọn đề tài “Quản lý công tác giáo
dục đạo đức cho học sinh THCS ở trường PTDTNT huyện Hoài Ân, tỉnh Bình
Định” để nghiên cứu làm luận văn tốt nghiệp.
2. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và khảo sát, đánh giá thực trạng quản lý công tác
giáo dục đạo đức cho học sinh THCS, từ đó đề xuất hệ thống các biện pháp nhằm
nâng cao hiệu quả quản lý công tác giáo dục đạo đức cho học sinh THCS ở trường
PTDTNT huyện Hồn Ân, tỉnh Bình Định đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục phổ
thông.
3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu
3.1. Khách thể nghiên cứu:
Công tác giáo dục đạo đức cho học sinh THCS.


11

3.2. Đối tượng nghiên cứu
Quản lý công tác giáo dục đạo đức cho học sinh THCS ở trường PTDTNT huyện
Hoài Ân, tỉnh Bình Định.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
4.1.Xác định cơ sở lý luận về quản lí cơng tác giáo dục đạo đức cho học sinh
trường THCS.
4.2.Phân tích, đánh giá thực trạng quản lí cơng tác giáo dục đạo đức cho học
sinh THCS ở trường PTDTNT huyện Hồi Ân, tỉnh Bình Định.
4.3.Đề xuất biện pháp quản lí cơng tác giáo dục đạo đức cho học sinh THCS ở
trường PTDTNT huyện Hoài Ân, tỉnh Bình Định.
5. Giả thuyết khoa học

Quản lý hoạt động GDĐĐ cho học sinh THCS ở trường PTDTNT huyện Hồi
Ân, tỉnh Bình Định là một trong những u cầu cấp bách và quan trọng. Thực tế cho
thấy, do nằm ở vùng núi cao với trình độ dân trí kém phát triển, không tránh khỏi ảnh
hưởng của mặt trái nền kinh tế thị trường nên vẫn còn một bộ phận học sinh có kết
quả học tập và rèn luyện đạo đức yếu kém, công tác quản lý về hoạt động GD ĐĐ của
một số bộ phận cán bộ quản lý và giáo viên về vấn đề này chưa cao, việc quản lý hoạt
động GDĐĐ cho học sinh THCS ở trường PTDTNT huyện Hồi Ân, tỉnh Bình Định
cịn nhiều bất cập. Nếu đánh giá đúng thực trạng thì có thể xây dựng được các biện
pháp quản lý khoa học, khả thi góp phần nâng cao chất lượng giáo dục tồn diện và
thực hiện tốt các mục tiêu của nền Giáo dục và Đào tạo.
6. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
6.1. Phương pháp nghiên cứu lý luận
Các phương pháp nghiên cứu lý luận bao gồm: phân tích các tài liệu, văn bản để
tìm hiểu các khái niệm, thuật ngữ, vấn đề lý luận liên quan đến quản lý giáo dục đạo
đức học sinh, hệ thống hóa, khái quát hóa các tài liệu lý luận chuyên ngành, liên
ngành và nghiên cứu các tài liệu kinh điển, các văn kiện, Nghị quyết, chỉ thị, quy chế
của Đảng các cấp; các văn bản pháp luật, chính sách của Đảng, Nhà nước để xây dựng
cơ sở lý luận của vấn đề nghiên cứu.
Để giải quyết các nhiệm vụ nghiên cứu đề tài, tác giả sử dụng kết hợp các
phương pháp sau:
6.2. Phương pháp nghiên cứu thực tiễn
6.2.1.

Phương pháp điều tra


12

Sử dụng bằng phiếu hỏi để thu thập ý kiến của các loại đối tượng cần thiết, liên
quan đến luận văn, đặc biệt là cán bộ quản lý giáo dục và giáo viên, học sinh nhằm

khảo sát thực trạng đạo đức và quản lý công tác giáo dục đạo đức cho học sinh.
6.2.2.

Phương pháp quán sát

Quan sát thái độ, sự chú ý của học sinh trong công tác giáo dục đạo đức.
6.2.3.

Phương pháp lấy ý kiến chuyên gia

Được sử dụng để tham khảo ý kiến của một số nhà khoa học, nhà sư phạm, nhà
quản lý để thu thập các thông tin cần thiết liên quan đến đề tài, xem xét thực trạng các
biện pháp được đề xuất.
6.3. Phương pháp thống kê toán học
Là một hệ thống các phương pháp (thu thập, tổng hợp, trình bày số liệu và tính
tốn các đặc trưng của đối tượng nghiên cứu) nhằm phục vụ cho q trình phân tích,
dự đốn và ra quyết định.
7. Phạm vi nghiên cứu
7.1. Phạm vi về địa bàn nghiên cứu
Luận văn được chỉ tiến hành nghiên cứu tại trường phổ thơng dân tộc nội trú
huyện Hồi Ân, tỉnh Bình Định.
7.2. Phạm vi về đối tượng khách thể khảo sát
Luận văn tập trung khảo sát ý kiến, đánh giá của CBQL, GV, HS và Cha mẹ học
sinh trong đó cụ thể số lượng như sau:
-

CBQL: 10 người

-


Giáo viên: 40 người

-

Cha mẹ học sinh: 70 người

-

Học sinh: 250 người
7.3. Phạm vi về nội dung

-

Khảo sát về thực trạng công tác giáo dục đạo đức cho học sinh THCS ở trường
PTDTNT huyện Hoài Ân.
- Khảo sát về thực trạng quản lý công tác giáo dục đạo đức cho học sinh THCS ở

các trường PTDTNT huyện Hoài Ân.
7.4. Phạm vi về thời gian khảo sát
Thời gian đề tài khảo sát, bắt đầu từ tháng 11/2020 đến hết tháng 01/2021.
8. Cấu trúc luận văn


13

Ngoài phần mục lục, danh mục các chữ viết tắt, mở đầu, kết luận và khuyến
nghị, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục, luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận về quản lý công tác giáo dục đạo đức cho học sinh
trung cơ sở
Chương 2: Thực trạng quản lý công tác giáo dục đạo đức cho học sinh trung học

cơ sở ở trường PTDTNT huyện Hoài Ân, tỉnh Bình Định.

Chương
sinh
trung
3: Biện
học cơ
pháp
sởquản
ở trường
lý cơng
PTDTNT,
tác giáo
tỉnhdục
Bình
đạo
Định.
đức cho học


Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ CÔNG TÁC GIÁO
DỤC ĐẠO ĐỨC CHO HỌC SINH THCS
•••
1.1.
1.2.1.

Sơ lược lịch sử nghiên cứu vấn đề
Các nghiên cứu nước ngoài


Đạo đức là một hình thái ý thức xã hội, được hình thành và phát triển cùng với
sự hình thành và phát triển của xã hội lồi người, có vai trị quan trọng trong bất kỳ
xã hội nào từ trước đến nay. Do đó, từ xa xưa con người đã rất quan tâm nghiên cứu
đạo đức, xem nó như động lực tinh thần để hoàn thiện nhân cách con người trong
từng giai đoạn lịch sử nhất định.
Trong lịch sử phát triển của xã hội, các nhà nghiên cứu đã đưa ra những quan
điểm khác nhau về đạo đức, Giáo dục đào tạo, quản lý Giáo dục đào tạo:
Ở Phương Đông, Khổng Tử (551-479 TCN) là nhà hiền triết nổi tiếng của
Trung Quốc. Ông xây dựng học thuyết “Nhân - Lễ - Chính danh”, trong đó, “Nhân” Lịng thương người - là yếu tố hạt nhân, là đạo đức cơ bản nhất của con người. Đứng
trên lập trường coi trọng giáo dục đạo đức, Ông có câu nói nổi tiếng truyền lại đến
ngày nay “Tiên học lễ, hậu học văn”. Thế kỷ XVII, Komenxky - Nhà giáo dục học vĩ
đại Tiệp Khắc đã có nhiều đóng góp cho cơng tác GDĐĐ qua tác phẩm “Khoa sư
phạm vĩ đại”. Komenxky đã chú trọng phối hợp mơi trường bên trong và bên ngồi
để GDĐĐ cho HS. Ông kêu gọi các bậc cha mẹ, các nhà giáo và tất cả những ai làm
nghề nuôi dạy trẻ “Hãy mãi mãi là một tấm gương trong đời sống, trong mọi sinh
hoạt để trẻ em noi theo và bắt chước mà vào đời một cách chân chính..[[24], tr.9].
Theo ơng, “con người sinh ra mà không được học, không được sự giáo dục của nhà
trường và xã hội thì lớn lên ch212ẳng khác nào những cây mọc hoang dại, sẽ khơng
có khả năng hành động theo đúng mục tiêu của lẽ sống, sẽ khơng nhìn rõ cái thiện và
dễ xa vào cái ác, cái tội lỗi.” [[24], tr.39].
Thế kỷ XX, A.X. Macarenco (1888-1939) nhà giáo dục nổi tiếng của Xô Viết
cũng nghiên cứu về GDĐĐ học sinh, ông nêu lên nguyên tắc giáo dục tập thể và
thông qua tập thể. Trong tác phẩm “Bài ca sư phạm” ông đặc biệt nhấn mạnh vai trò


của giáo dục đạo đức. Nghiên cứu của ông đã đặt nền tảng cho việc Giáo dục đào tạo
tạo ra những con người mới trong giai đoạn xây dựng CNXH Liên Xơ. Ơng khẳng
định “Nhà giáo dục hiểu biết HS khơng phải trong q trình nghiên cứu HS một cách
thờ ơ mà trong chính q trình làm việc với HS và trong chính sự giúp đỡ HS một
cách tích cực. Nhà giáo dục phải xem xét HS không phải như là đối tượng nghiên

cứu mà là đối tượng giáo dục. Hồ Chí Minh (1956). Bài nói chuyện của Bác tại lớp
đào tạo hướng dẫn viên các trại hè cấp 1. Những trẻ em có những biểu hiện yếu kém
về đạo đức, đặc biệt là khơng có nhu cầu xã hội lành mạnh, sống thiếu niềm tin, kém
ý chí, thiếu sự quan tâm của cha mẹ............................. thì thường rơi vào tình trạng
học tập yếu kém. Macarenco đã từng nhắc nhở các nhà sư phạm: “Dù sao chúng vẫn
là con người phải đối xử với chúng với tư cách là con người hướng về tương lai. Với
giả thuyết lạc quan và phải dứt bỏ q khứ, những tiền sử khơng lấy gì làm tốt đẹp
của chúng trong đầu các nhà sư phạm, những cái đó khơng có lợi cho trẻ nhỏ đang
sống và đang được giáo dục hiện tại”.
Theo học thuyết Mác - Lênin, đạo đức là một hình thái ý thức xã hội có nguồn
gốc từ lao động sản xuất và đời sống cộng đồng XH, nó phản ánh và chịu sự chi phối
của tồn tại XH. Nếu tồn tại xã hội thay đổi thì đạo đức cũng thay đổi theo. Do vậy
đạo đức mang tính lịch sử, tính giai cấp và tính dân tộc.
Đạo đức có vai trị rất lớn trong đời sống XH, trong đời sống của con ngqời,
đạo đức là vấn đề thường xuyên được đặt ra và giải quyết nhằm đảm bảo cho các cá
nhân và cộng đồng tồn tại phát triển: “Đạo đức đã trở thành mục tiêu, đồng thời cũng
là động lực để phát triển XH” [[7], tr.47] và “Đạo đức cũng như ý thức đã là sản
phẩm XH và vẫn là như vậy chừng nào con người còn tồn tại” [[7], tr.21].
Ở phương Tây, nhà triết học Socrat (470 -399 TCN) đã cho rằng đạo đức và sự
hiểu biết quy định lẫn nhau, có được đạo đức là nhờ sự hiểu biết, chỉ sau khi có hiểu
biết mới trở thành có đạo đức. Vì vậy, giáo dục con người chủ yếu là phải GDĐĐ.
Hônbách (1723 - 1789) người đã khái quát và hệ thống hoá tư tưởng tiên tiến của chủ
nghĩa duy vật Pháp, ông cho rằng: “nhiệm vụ chính của đạo đức là vạch cho được
những điều kiện trong đó lợi ích cá nhân là cơ sở tất yếu của hành vi con người có
thể dung hợp với lợi ích XH”. Nguyễn Tiến Dũng, Lịch sử Triết học phương Tây.
NXB Tổng hợp TPHCM.


Như vậy có thể thấy cả ở phương Đơng lẫn phương Tây đều rất chú trọng đề
cao vấn đề đạo đức và giáo dục đạo đức qua đó hình thành và phát triển nhân cách

của con người.
1.1.2.

Các nghiên cứu trong nước

Trong truyền thống giáo dục của dân tộc, cha ông ta luôn đề cao nguyên tắc:
“Tiên học lễ, hậu học văn”, đề cao truyền thống yêu nước, nhân đạo, thủy chung,
tương thân tương ái, luôn coi trọng chữ Đức. Giáo dục đạo đức cho thế hệ trẻ là một
việc làm rất cần thiết và cực kỳ quan trọng. Từ xa xưa ông cha ta đã quan niệm việc
"dạy chữ" phải song song với việc "dạy người". Sinh thời Bác Hồ đã rất quan tâm
đến giáo dục đạo đức trong nhà trường. Bác Hồ đã từng nói: " Dạy cũng như học,
phải biết coi trọng cả đức lẫn tài. Đức là đạo đức cách mạng, đó là cái gốc rất quan
trọng" [[30], tr.329].
Bác khẳng định: “Đạo đức là nguồn nuôi dưỡng và phát triển con người, cũng
như sơng có nguồn thì mới có nước, khơng có nước thì sơng sẽ cạn” [[30]. tr.252].
Người cũng lưu ý: “Đạo đức cách mạng không phải trên trời rơi xuống mà do
đấu tranh, rèn luyện bền bỉ hằng ngày mà có, cũng như ngọc càng mài càng sáng,
vàng càng luyện càng trong” [[27], tr.239].
Vì vậy, trong nhà trường phải dạy cho thanh thiếu niên biết “Yêu tổ quốc, yêu
đồng bào; học tập tốt, lao động tốt; đồn kết tốt, kỷ luật tốt; giữ gìn vệ sinh thật tốt;
khiêm tốn, thật thà dũng cảm”.
Kế thừa tư tưởng của Hồ Chí Minh, ở nước ta đã có nhiều tác giả nghiên cứu
về đạo đức và giáo dục đạo đức như Phạm Minh Hạc, Phạm Khắc Chương, Hà Nhật
Thăng, Đặng Quốc Bảo... Các tác phẩm đề cập sâu về các phạm trù đạo đức, các vấn
đề giáo dục đạo đức và đề xuất một số phương pháp giảng dạy và giáo dục đạo đức
cho học sinh trong nhà trường phổ thơng, xây dựng con người mới XHCN; cịn quản
lý hoạt động giáo dục đạo đức cho học sinh được đề cập rất sơ lược, chủ yếu là lồng
ghép trong các phương pháp giảng dạy và giáo dục đạo đức cho học sinh.
Tác giả Phạm Khắc Chương, Hà Nhật Thăng trong cuốn sách “Đạo đức học”
(Nhà xuất bản giáo dục, 1998) đã đề cập đến các vấn đề giáo dục đạo đức nhằm giúp

giáo viên có một cơ sở vững chắc để dạy học cho học sinh. Các tác giả đã bàn nhiều
về các vấn đề giáo dục đạo đức như phạm trù giáo dục trong đạo đức gia đình, đạo


đức trong tình bạn, tình u.. .từ đó các tác giả đưa ra những nhận định và đề xuất
một số phương pháp giảng dạy và giáo dục đạo đức cho học sinh trong nhà trường
phổ thông [[9]].
Về mục tiêu GDĐĐ, tác giả Phạm Minh Hạc đã nêu rõ: “Trang bị cho mọi
người những tri thức cần thiết về tư tưởng chính trị, đạo đức nhân văn, kiến thức
pháp luật và văn hố XH. Hình thành ở mọi cơng dân thái độ đúng đắn, tình cảm,
niềm tin ĐĐ trong sáng đối với bản thân, mọi người, với sự nghiệp cách mạng của
Đảng, dân tộc và với mọi hiện tượng xảy ra xung quanh. Tổ chức tốt GD giới trẻ; rèn
luyện để mọi người tự giác thực hiện những chuẩn mực ĐĐXH, có thói quen chấp
hành quy định của pháp luật, nỗ lực học tập và rèn luyện, tích cực cống hiến sức lực,
trí tuệ vào sự nghiệp CNH, HĐH đất nước” [[18], tr.168].
Đồng thời tác giả Phạm Minh Hạc cũng nêu lên các định hướng giá trị đạo đức
con người Việt Nam trong thời kì CNH, HĐH đất nước và nêu lên 6 giải pháp cơ bản
GDĐĐ cho con người Việt Nam thời kì CNH, HĐH: “Tiếp tục đổi mới nội dung,
hình thức GDĐĐ trong các trường học, củng cố ý tưởng giáo dục ở gia đình và cộng
đồng, kết hợp chặt chẽ với giáo dục nhà trường trong việc GDĐĐ cho con người, kết
hợp chặt chẽ GDĐĐ với việc thực hiện nghiêm chỉnh luật pháp của các cơ quan thi
hành pháp luật; tổ chức thống nhất các phong trào thi đua yêu nước và các phong
trào rèn luyện đạo đức, lối sống cho toàn dân, trước hết cho cán bộ đảng viên, cho
thầy cô các trường học; xây dựng một cơ chế tổ chức và chỉ đạo thống nhất toàn xã
hội về GDĐĐ, nâng cao nhận thức cho mọi người” [[18], tr.171- 176].
Để nâng cao chất lượng GDĐĐ trong thời kỳ đổi mới đã có một số nhà khoa
học nghiên cứu về quản lý công tác GDĐĐ. Tuy số lượng các nghiên cứu trong lĩnh
vực này cịn ít nhưng có thể kể đến:
Tác giả Đặng Quốc Bảo đã khẳng định: “Các gia đình, các nhà trường, các
đồn thể trong xã hội ta thời gian qua đã có rất nhiều cố gắng giáo dục đạo đức cho

thế hệ trẻ, cho các thành viên. Tuy nhiên ta mới chú ý đến giáo dục đạo đức hướng
ngoại, mà chưa coi trọng đúng mức giáo dục hướng nội là giáo dục biết hổ thẹn, xấu
hổ, lịng chân chính tự ái, tự trọng. Chiến lược giáo dục của đất nước ta trong thời kỳ
đổi mới, mục tiêu Nhân cách - Nhân lực của nền giáo dục nước ta trong thời kỳ đổi
mới rất cần có sự nhấn mạnh chủ đề này trong các bài học về đạo làm người cho thế


hệ trẻ” [[40]].
Trong cơng trình nghiên cứu của mình: “Những vấn đề cơ bản của giáo dục
hiện đại”, tác giả Thái Duy Tuyên đã đánh giá về thực trạng và tỏ ra rất lo lắng trước
sự sa sút về đạo đức ngày càng gia tăng cả về số lượng lẫn chất lượng và mức độ
nguy hại của một bộ phận học sinh. Tác giả kết luận: đạo đức học sinh đang trên đà
giảm sút và cho rằng giáo dục đạo đức là nhiệm vụ quan trọng của toàn xã hội đồng
thời cũng kiến nghị cần đẩy mạnh hơn nữa công tác nghiên cứu về giáo dục đạo đức
[[52]].
Đối với những người làm QLGD, việc quản lý công tác GDĐĐ cho học sinh
phổ thông vẫn luôn đặt ra nhiều vấn đề cần nghiên cứu, nhất là trong tình hình xã hội
hiện nay.
Các nghiên cứu trên đã chỉ ra thực trạng về đạo đức học sinh, thực trạng
GDĐĐ và QL công tác này trong các loại hình nhà trường ở nhiều địa phương khác
nhau và đã đề ra những biện pháp QL cơng tác GDĐĐ đảm bảo tính khoa học, tồn
diện, hiệu quả và khả thi ở các đơn vị, địa phương đó. Tuy vậy, chưa có cơng trình
nào nghiên cứu một cách tồn diện, sâu sắc về QL cơng tác GDĐĐ cho học sinh
THCS ở một trường miền núi nhằm đáp ứng yêu cầu giáo dục trong giai đoạn hiện
nay.
1.2.
1.2.1.

Một số khái niệm cơ bản
Khái niệm đạo đức


- Đạo đức là một phạm trù được rất nhiều lĩnh vực khoa học nghiên cứu như
triết học, đạo đức học, giáo dục học, xã hội học, tâm lý học ... Mỗi lĩnh vực có một
cách tiếp cận riêng và kết quả đã tạo ra một hệ thống quan niệm đạo đức rất phong
phú và sâu sắc.
- Dưới góc độ triết học, người ta quan niệm rằng Đạo đức là một trong những
hình thái sớm nhất của ý thức xã hội, bao gồm những nguyên lý, quy tắc, chuẩn mực
điều tiết hành vi của con người trong quan hệ với người khác với cộng đồng.
- Căn cứ vào những quy tắc ấy, người ta đánh giá hành vi, phẩm giá của mỗi
người bằng các quan hệ thiện và ác, chính nghĩa và phi nghĩa, nghĩa vụ, danh dự.
- Theo tác giả Trần Hậu Kiểm, Đạo đức là một hình thái ý thức xã hội đặc biệt,
bao gồm một hệ thống những quan điểm, quan niệm, những quy tắc, yêu cầu, chuẩn


mực xã hội. Nó ra đời, tồn tại và biến đổi từ nhu cầu của xã hội, nhờ đó con người tự
giác điều chỉnh hành vi của mình cho phù hợp với lợi ích, hạnh phúc của con người
và sự tiến bộ của xã hội trong mối quan hệ giữa con người với con người, giữa cá
nhân với xã hội [[23]].
- Theo Đại từ điển Tiếng Việt, đạo đức là phép tắc về quan hệ giữa người với
người, giữa cá nhân với tập thể, với xã hội “Theo quan điểm Mác-Lê nin thì đạo đức
là một hình thái ý thức xã hội, có nguồn gốc từ lao động, từ yêu cầu thực tiễn của
cuộc sống cộng đồng xã hội. Đạo đức phản ánh và chịu sự chi phối của tồn tại xã
hội. Mỗi phương thức sản xuất lại làm nảy sinh một dạng đạo đức tương ứng và do
vậy đạo đức có tính lịch sử, tính giai cấp và tính dân tộc” [[20], tr.9].
- Theo tác giả Trần Hậu Kiểm: “Đạo đức là tổng hợp những nguyên tắc, quy
tắc chuẩn mực xã hội nhờ đó con người tự giác điều chỉnh hành vi của mình vì lợi
ích xã hội, hạnh phúc của con người trong mối quan hệ giữa con người với con
người, giữa cá nhân và tập thể hay toàn xã hội” [[23], tr.31].
- Theo tác giả Lê Văn Hồng: “Đạo đức là hệ thống những chuẩn mực biểu hiện
thái độ đánh giá quan hệ giũa lợi ích của bản thân với lợi ích của người khác và của

xã hội” [[22], tr.156].
- Theo tác giả Phạm Khắc Chương và Nguyễn Thị Yến Phương, "Đạo đức là
một hình thái của ý thức xã hội, là tổng hợp những quy tắc, nguyên tắc, chuẩn mực
xã hội, nhờ đó con người tự giác điều chỉnh hành vi của mình sao cho phù hợp với
hạnh phúc của con người và tiến bộ xã hội giữa con người với con người, giữa cá
nhân với xã hội" [[10], tr25].
Như vậy, đạo đức là một hiện tượng xã hội, là một hình thái ý thức xã hội đặc
biệt phản ánh các mối quan hệ xã hội loài người. Đạo đức được nảy sinh từ nhu cầu
xã hội thống nhất lợi ích chung của tồn xã hội với lợi ích riêng của mỗi cá nhân
nhằm đảm bảo trật tự xã hội, thúc đẩy cá nhân, xã hội cùng đi lên. Để giải quyết các
mâu thuẫn đó, xã hội đề ra những yêu cầu chuẩn mực giá trị được mọi người công
nhận và được củng cố bằng sức mạnh của tập quán, của dư luận xã hội, của lương
tâm mỗi con người.
- Bàn về đạo đức đã có nhiều định nghĩa từ nhiều góc độ khác nhau, nhờ định
nghĩa đạo đức từ các góc độ xã hội, tập thể, cá nhân... Tuy nhiên, tựu trung lại chúng


ta có thể xem xét các định nghĩa này dưới hai góc độ:
Dưới góc độ xã hội: “Đạo đức là một hình thái ý thức xã hội, là tổng hợp những
quy tắc, chuẩn mực xã hội, nhờ nó con người ta có thể tự điều chỉnh hành vi của
mình sao cho phù hợp với lợi ích, hạnh phúc của con người và tiến bộ xã hội. Trong
quan hệ con người với con người, giữa cá nhân và xã hội...” [[46]. tr.4].
Dưới góc độ cá nhân: “Đạo đức chính là những phẩm chất, nhân cách của con
người, phản ánh ý thức, tình cảm, ý chí, hành vi, thói quen và cách ứng xử của họ
trong mối quan hệ giữa con người với tự nhiên, với XH, giữa bản thân họ với người
khác và với chính bản thân mình” [[4], tr. 85].
Q trình hình thành và phát triển đạo đức của mỗi con người là quá trình tác
động qua lại giữa XH với cá nhân để chuyển hoá những nguyên tắc, yêu cầu, chuẩn
mực giá trị đạo đức - XH thành những phẩm chất đạo đức cá nhân, làm cho cá nhân
đó trưởng thành về mặt đạo đức, đáp ứng được yêu cầu của XH.

Tuy có nhiều cách định nghĩa khác nhau, song theo chúng tơi, có thể đưa ra
quan niệm chung về đạo đức như sau: Đạo đức là một hình thái ý thức XH, là tập
hợp những nguyên tắc, quy tắc, chuẩn mực XH nhằm thực hiện chức năng điều chỉnh
hành vi của con người trong mọi lĩnh vực XH, được thực hiện bởi niềm tin cá nhân,
bởi truyền thống và sức mạnh của dư luận XH.
Như vậy, đạo đức mang tính bổn phận, mọi người tự giác thực hiện. Nó được
giám sát bởi mọi thành viên trong XH. Nó được dư luận đánh giá bằng hình thức
khen chê, tán thành hay phản đối. So sánh “Đạo đức" với “Pháp luật" có thể thấy,
mặc dù cả hai cùng chung một mục đích là duy trì trật tự XH và thúc đẩy XH phát
triển nhưng pháp luật mang tính cưỡng chế đựợc.
1.2.2.

Khái niệm giáo dục đạo đức

•o
• •
Giáo dục đạo đức là tác động có ý thức nhằm hình thành cho con người ý thức,
tình cảm, động cơ và hành vi đạo đức đúng đắn, trên cơ sở giúp họ tiếp thu được các
quan điểm, nguyên tắc, chuẩn mực đạo đức cơ bản của xã hội và giúp họ thể hiện các
quan điểm, nguyên tắc, chuẩn mực đạo đức trong hoạt động sống (hệ thống hành vi,
hành động, thói quen...) của cá nhân. Dựa trên các quan điểm, nguyên tắc ấy con
người phân biệt, lựa chọn các quan hệ đạo đức đúng đắn, phê phán những hành vi
đạo đức không phù hợp với yêu cầu xã hội.


Giáo dục đạo đức học sinh là một quá trình được thực hiện trong nhà trường, có
tính liên tục về thời gian và không gian, do nhiều lực lượng xã hội tham gia, trong đó
nhà trường đóng vai trị then chốt.
Theo giáo sư Hà Thế Ngữ và Đặng Vũ Hoạt: “Giáo dục đạo đức là quá trình
biến các chuẩn mực đạo đức, từ những địi hỏi bên ngồi của xã hội đối với cá nhân

thành những đòi hỏi bên trong của bản thân, thành niềm tin, nhu cầu, thói quen của
người được giáo dục”.
Giáo dục đạo đức trong trường phổ thơng là một bộ phận của của q trình giáo
dục tồn diện có quan hệ biện chứng với các q trình giáo dục khác như giáo dục trí
tuệ, giáo dục thẩm mỹ, giáo dục thể chất, giáo dục lao động và giáo dục hướng
nghiệp nhằm hình thành cho học sinh niềm tin, thói quen, hành vi, chuẩn mực đạo
đức.
Giáo dục đạo đức là tác động có ý thức nhằm hình thành cho con người có ý
thức, tình cảm, động cơ và hành vi đạo đức đúng đắn, trên cơ sở giúp họ tiếp thu
được các quan điểm nguyên tắc, chuẩn mực đạo đức cơ bản của xã hội và giúp họ thể
hiện các quan điểm, nguyên tắc, chuẩn mực đạo đức trong hoạt động sống của cá
nhân. Dựa trên các quan điểm, nguyên tắc ấy con người phân biệt, lựa chọn các quan
hệ đạo đức đúng đắn, phê phán những hành vi đạo đức không phù hợp với yêu cầu
xã hội. Giáo dục đạo đức cho học sinh bao gồm tác động của nhiều yếu tố khách
quan và chủ quan, bên ngồi và bên trong, là q trình được thực hiện có tính liên tục
về thời gian, khơng gian, do nhiều lực lượng xã hội tham gia, trong đó nhà trường
đóng vai trị then chốt. Có thể hiểu rằng có bao nhiêu mối quan hệ trong nhà trường,
gia đình và xã hội mà học sinh tham gia hoạt động thì có bấy nhiêu yếu tố tác động
đến học sinh. Mỗi lực lượng có tầm quan trọng, có nhiệm vụ, có phương pháp và tính
ưu việt riêng:
- Gia đình là tế bào xã hội, là nơi lưu giữ và phát triển vững chắc nhất giá trị
truyền thống. Từ gia đình có thể giáo dục tất cả các lứa tuổi lịng kính yêu cha mẹ,
người thân trong gia đình, yêu thương đồng loại. Gia đình hạnh phúc dựa trên
nguyên tắc cơ bản là mọi người đều phải yêu thương quý mến nhau, giúp đỡ nhau
trong công việc và là chỗ dựa tinh thần cho mỗi thành viên.
- Nhà trường là một tổ chức xã hội đặc thù với cấu trúc tổ chức chặt chẽ, có


nhiệm vụ chuyên biệt là giáo dục, đào tạo nhân cách trẻ em theo những định hướng
của xã hội. Quá trình thể hiện các chức năng trên là quá trình tổ chức các hoạt động

dạy học, hoạt động giáo dục,... theo hệ thống chương trình, nội dung được tổ chức
một cách chặt chẽ, có kế hoạch.
+ Nhà trường là cơ quan thuộc sự quản lý của Nhà nước, được sự lãnh đạo trực
tiếp và chặt chẽ của Đảng, nắm vững quan điểm và đường lối giáo dục xã hội chủ
nghĩa.
+ Nhà trường có chức năng thực hiện mục tiêu giáo dục đào tạo nhân cách.
+ Nhà trường có nội dung giáo dục và phương pháp giáo dục được chọn lọc và
tổ chức chặt chẽ.
+ Nhà trường có lực lượng giáo dục mang tính chun nghiệp.
+ Mơi trường giáo dục trong nhà trường có tính sư phạm, có tác dụng tích cực
trong quá trình giáo dục đạo đức.
- Các lực lượng xã hội bao gồm: Các cơ quan, các tổ chức chính trị, xã hội, các
tổ chức kinh tế, các tổ chức đoàn thể quần chúng, các cơ quan chức năng,...
[[43],tr.7]. Trong các lực lượng giáo dục nhà trường có vai trò chủ đạo, là trung tâm
tổ chức phối hợp và dẫn dắt công tác giáo dục.
1.2.3.

Khái niệm quản lý

Theo nghĩa chung, quản lý là sự tác động có mục đích, tổ chức, định hướng của
chủ thể quản lý lên đối tượng quản lý nhằm tổ chức, phối hợp hoạt động trong các
quá trình sản xuất xã hội để đạt được mục đích đã đặt ra.
Theo tác giả Nguyễn Minh Đạo: “Quản lý là sự tác động liên tục, có tổ chức, có
định hướng của chủ thể (người quản lý, người tổ chức quản lý) lên khách thể (đối
tượng quản lý) về các mặt chính trị, xã hội, văn hố, kinh tế ... bằng một hệ thống các
luật lệ, các chính sách, các nguyên tắc, các phương pháp và các biện pháp cụ thể,
nhằm tạo ra môi trường và điều kiện cho sự phát triển của đối tượng” [[16]. Tr.97].
Theo PGS.TS Đặng Quốc Bảo: “Quản lý lột tả được bản chất của vấn đề chính
đó là hoạt động chăm sóc, giữ gìn và sửa sang, sắp xếp cho cộng đồng theo sự phân
công, hợp tác lao động được ổn định và phát triển” [[1]. tr.5].

Theo Từ điển Tiếng Việt: “Quản lý là trơng coi và giữ gìn theo những u cầu
nhất định” [[54], tr 439].


Như vậy, quản lý bao gồm 4 chức năng cơ bản:
- Chức năng kế hoạch;
- Chức năng tổ chức;
- Chức năng chỉ đạo;
- Chức năng kiểm tra.
1.2.4.

Khái niệm quản lý giáo dục

Khái niệm “quản lí giáo dục” có nhiều cách định nghĩa khác nhau:
Theo nhóm tác giả Nguyễn Thị Mỹ Lộc, Đặng Quốc Bảo, Nguyễn Trọng Hậu,
Nguyễn Quốc Chí, Nguyễn Sĩ Thư: “Quản lý giáo dục là hệ thống những tác động có
mục đích, có kế hoạch, hợp quy luật của chủ thể quản lý làm cho vận hành theo
đường lối và nguyên lý giáo dục của Đảng, thực hiện được các tính chất của nhà
trường XHCN Việt Nam, mà tiêu điểm hội tụ là qui trình dạy học - giáo dục thế hệ
trẻ, đưa hệ giáo dục tới mục tiêu dự kiến, tiến lên trạng thái mới về chất” [[25]].
Theo tác giả Bush T thì: “Quản lý giáo dục, một cách khái quát, là sự tác động
có tổ chức và hướng đích của chủ thể quản lý giáo dục tới đối tượng quản lý giáo dục
theo cách sử dụng các nguồn lực càng có hiệu quả càng tốt nhằm đạt mục tiêu đề ra”
[[17]].
Hay theo tác giả Đặng Quốc Bảo: “Quản lí giáo dục theo nghĩa tổng quát là
hoạt động điều hành phối hợp của các lực lượng xã hội nhằm thúc đẩy mạnh công tác
đào tạo thế hệ trẻ theo yêu cầu của xã hội” [[3], tr.31].
Theo Nguyễn Thị Tuyết Hạnh và Lê Thị Mai Phương, quản lí giáo dục ở cấp độ
quản lí trường học (cơ sở giáo dục) là hệ thống những tác động có chủ đích, có kế
hoạch, hợp qui luật của chủ thể quản lí đến tập thể cán bộ, nhân viên, người dạy,

người học, cha mẹ người học hay người đỡ đầu, các lực lượng xã hội trong và ngoài
nhà trường để khai thác và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực, và cơ hội nhằm thực
hiện có chất lượng mục tiêu giáo dục [[21]].
Khái niệm “quản lí giáo dục” có nhiều cách định nghĩa khác nhau: Theo nhóm
tác giả Nguyễn Thị Mỹ Lộc, Đặng Quốc Bảo, Nguyễn Trọng Hậu, Nguyễn Quốc
Chí, Nguyễn Sĩ Thư: “Quản lý giáo dục là hệ thống những tác động có mục đích, có
kế hoạch, hợp quy luật của chủ thể quản lý làm cho vận hành theo đường lối và
nguyên lý giáo dục của Đảng, thực hiện được các tính chất của trường XHCN Việt


Nam, mà tiêu điểm hội tụ là qui trình dạy học - giáo dục thế hệ trẻ, đưa hệ giáo dục
tới mục tiêu dự kiến, tiến lên trạng thái mới về chất” [[25], tr.16].
Theo tác giả Bush T thì: “Quản lý giáo dục, một cách khái quát, là sự tác động
có tổ chức và hướng đích của chủ thể quản lý giáo dục tới đối tượng quản lý giáo dục
theo cách sử dụng các nguồn lực càng có hiệu quả càng tốt nhằm đạt mục tiêu đề ra”
[[17], tr.17].
Hay theo tác giả Đặng Quốc Bảo: “Quản lí giáo dục theo nghĩa tổng quát là
hoạt động điều hành phối hợp của các lực lượng xã hội nhằm thúc đẩy mạnh công tác
đào tạo thế hệ trẻ theo yêu cầu của xã hội” [[3], tr.31].
Theo Nguyễn Thị Tuyết Hạnh và Lê Thị Mai Phương, quản lí giáo dục ở cấp độ
quản lí trường học (cơ sở giáo dục) là hệ thống những tác động có chủ đích, có kế
hoạch, hợp qui luật của chủ thể quản lí đến tập thể cán bộ, nhân viên, người dạy,
người học, cha mẹ người học hay người đỡ đầu, các lực lượng xã hội trong và ngồi
nhà trường để khai thác và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực, và cơ hội nhằm thực
hiện có chất lượng mục tiêu giáo dục [[21]].
Như vậy, QLGD là q trình tác động có tổ chức, có định hướng phù hợp với
quy luật khách quan của chủ thể QLGD ở các cấp lên đối tượng quản lý nhằm đưa
công tác GD của toàn bộ hệ thống GD và của cơ sở GD/NT đạt được mục tiêu đã
định.
1.2.5.


Khái niệm quản lý công tác giáo dục đạo đức cho học sinh THCS

Quản lý công tác GDĐĐ là quản lý mục tiêu, nội dung, phương pháp, hình
thức, phương tiện GDĐĐ, đảm bảo cho quá trình GDĐĐ được tiến hành một cách
khoa học, đồng bộ, phù hợp với những quy tắc, chuẩn mực xã hội, góp phần hình
thành nhân cách tồn diện cho HS. Là một bộ phận của quá trình QL giáo dục, QL
GDĐĐ là q trình tác động có định hướng của chủ thể QL lên các thành tố tham gia
vào q trình hoạt động nhằm thực hiện có hiệu quả mục tiêu GDĐĐ là hình thành
niềm tin, lý tưởng, động cơ, thái độ, tình cảm, hành vi, thói quen... Để thực hiện các
hoạt động GDĐĐ, cần phát huy sức mạnh của các lực lượng giáo dục như: đội ngũ
giáo viên, cán bộ QL và các bộ phận phục vụ trong nhà trường.. .Trong đó, đội ngũ
cán bộ QL là những người chịu trách nhiệm chính về tổ chức các hoạt động động và
chủ động phối hợp với các lực lượng giáo dục xã hội để đảm bảo chất lượng GDĐĐ.
Đặng Quốc Bảo, Một số khái niệm quản lí giáo dục, Trường cán bộ quản lí giáo dục


và đào tạo Hà Nội, 1998.
1.3.
1.3.1.

Lý luận về công tác giáo dục đạo đức cho học sinh trung học cơ sở

9
9
• •

9 •
Đặc điểm phát triển tâm sinh lý của lứa tuổi học sinh THCS


Độ tuổi từ 11 đến 15 tuổi là độ tuổi có một vị trí đặc biệt và tầm quan trọng
trong thời kỳ phát triển của mỗi con người, địi hỏi có sự quan tâm, chăm sóc, giáo
dục đặc biệt. Tâm lý học lứa tuổi và tâm lý sư phạm gọi lứa tuổi này với nhiều tên
gọi khác nhau như: “thời kỳ quá độ”, “già trẻ con, non người lớn” “tuổi khó bảo”,
“tuổi khủng hoảng ”. Những tên gọi này đã nói lên tính phức tạp cũng như tầm quan
trọng trong việc dạy đỗ, giáo dục trong quá trình phát triển của các em.
Đây là lứa tuổi có bước nhảy vọt về thể chất lẫn tinh thần, các em đang tách
dần khỏi thời thơ ấu để tiến sang giai đoạn phát triển cao hơn.
Trong những giai đoạn phát triển của con người, lứa tuổi thiếu niên có một vị
trí và ý nghĩa vơ cùng quan trọng. Đây là thời kỳ phát triển phức tạp nhất, và cũng là
thời kỳ chuẩn bị quan trọng nhất cho những bước trưởng thành sau này.
Những đặc điểm quan trọng của sự phát triển nhân cách ở lứa tuổi thiếu niên là
sự hình thành tự ý thức. Mức độ tự ý thức của các em cũng có sự khác nhau. Ý nghĩa
quyết định nhất để phát triển tự ý thức ở lứa tuổi này cuộc sống tập thể của các em,
nơi mà nhiều mối quan hệ giá trị đúng đắn, mối quan hệ này sẽ hình thành ở các em
lịng tự tin vào sự tự đánh giá của mình, là những yêu cầu ngày càng cao đối với
hành vi, hoạt động của các em_
Sự phát triển tự ý thức của thiếu niên có ý nghĩa lớn lao ở chỗ, nó thúc đẩy các
em bước vào một giai đoạn mới. Kể từ tuổi thiếu niên trở đi, khả năng tự giáo dục
của các em được phát triển, các em không chỉ là khách thể của q trình giáo dục mà
cịn đồng thời là chủ thể của quá trình này.
Do sự phát triển mạnh mẽ của cơ thể, đặc biệt sự phát triển của các mối quan hệ
xã hội và sự giao tiếp trong tập thể mà ở các em đã biểu hiện nhu cầu tự đánh giá nhu
cầu so sánh mình với người khác. Các em đã bắt đầu xem xét mình, xây dựng cho
mình một nhân cách tương lai, muốn hiểu biết mặt mạnh, mặt yếu trong nhân cách
của mình.
Song khơng phải tất cả những phẩm chất của nhân cách đều ý thức được hết.
Ban đầu các em chỉ nhận thức hành vi của mình, sau đó là nhận thức những phẩm



×