Tải bản đầy đủ (.doc) (27 trang)

Tóm tắt luận án: Nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến việc áp dụng IFRS tại các doanh nghiệp Việt Nam.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (165.98 KB, 27 trang )

0

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HỒ CHÍ MINH
-----------------------

NGHIÊN CỨU CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN
VIỆC ÁP DỤNG IFRS TẠI CÁC DOANH NGHIỆP
VIỆT NAM

TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ KINH TẾ

Thành phố Hồ Chí Minh, năm 2020


2

PHẦN MỞ ĐẦU

1. Sự cần thiết của nghiên cứu

Thống kê của IFRS Foundation trên website IFRS.org cho thấy tính đến tháng
4/2020 đã có 166 nước đã hoặc đang trên lộ trình áp dụng IFRS với tổng GDP
chiếm đến 98.8% tổng GDP tồn cầu, trong đó châu lục có nhiều nước áp dụng
IFRS nhất chính là Châu Âu với 44 nước (trong tổng số 44 quốc gia độc lập), tiếp
theo lần lượt là Châu Phi (38 nước) và Châu Mỹ (37 nước), Châu Á và Châu Đại
dương (34 nước) và Trung Đơng (13 nước). Có thể thấy rằng trước xu thế chung là
tồn cầu hóa, việc tìm ra một ngơn ngữ thống nhất trong kế tốn, cụ thể là thơng
qua việc lập BCTC và trình bày thơng tin là hết sức cấp thiết. Điều này đã được
minh chứng qua những nghiên cứu trong hai thập kỷ vừa qua về áp dụng IFRS tại
từng quốc gia riêng biệt hoặc nghiên cứu theo nhóm quốc gia trên thế giới, chẳng


hạn như:


Áp dụng IFRS làm giảm quản trị lợi nhuận: Barth và cộng sự (2008)
Christensen và cộng sự (2015);



Áp dụng IFRS làm tăng giá trị thích hợp của thơng tin: Bartov và cộng sự
(2005), Horton và Serafeim (2010), Barth và cộng sự (2012);



Áp dụng IFRS giúp cho việc ghi nhận lỗ đúng kỳ hơn: Barth và cộng sự
(2008), Chen và cộng sự (2010), Sun và cộng sự (2011), Christensen và
cộng sự (2015);



Áp dụng làm tăng tính so sánh của thơng tin: Joshi và cộng sự (2008); Li
(2010)



Áp dụng làm tăng giá tính thanh khoản của cổ phiếu: Daske và cộng sự
(2008), Barth và cộng sự (2014); Barth và cộng sự (2018).

Việc áp dụng IFRS tại Việt Nam đã được đề cập từ vài năm trước, tuy nhiên theo
IFRS Foundation (trên website ifrs.org) thì tính đến tháng 4/2020, Việt Nam vẫn
chưa chính thức cam kết áp dụng. Mặc dù vậy, việc Bộ tài chính đã ban hành dự

thảo Đề án áp dụng chuẩn mực BCTC quốc tế (2019) và bản chính thức của Đề án
theo Quyết định 345/QĐ-BTC vào ngày 16 tháng 3 năm 2020 vừa qua đã chứng tỏ
rằng áp dụng


IFRS là điều chắc chắn. Tuy nhiên, do đặc thù của IFRS là dựa vào nguyên tắc, tức
là áp dụng IFRS phụ thuộc rất nhiều và trình độ và kỹ năng của người làm cơng tác
kế tốn, kiểm tốn, điều này có thể phát sinh những thách thức trong quá trình áp
dụng IFRS.
Qua khảo lược các nghiên cứu đi trước, tác giả luận án nhận thấy tại các công bố tại
Việt Nam và các nghiên cứu trên phạm vi thế giới tiếp cận theo dữ liệu BCTC hoặc
các nguồn dữ liệu thứ cấp khá nhiều, trong khi đó việc áp dụng IFRS tiếp cận dưới
góc độ hành vi chiếm tỷ lệ ít hơn và vẫn cịn những khoảng trống có thể nghiên cứu.
Cụ thể, các nghiên cứu đi trước về hành vi áp dụng IFRS, hoặc là chưa kết hợp
được lý thuyết nền một cách đầy đủ để có thể giải quyết triệt để vấn đề nghiên cứu,
hoặc là đa số nghiên cứu đều chọn phương pháp cũng như công cụ xử lý dữ liệu vẫn
khá đơn giản chỉ với SPSS thay vì các phần mềm xử lý mơ hình phức tạp. Nghiên
cứu hành vi có thể khám phá và đánh giá được các nhân tố tác động đến ý định áp
dụng IFRS, đặc biệt là đối với trường hợp như Việt Nam là chưa chính thức áp dụng
IFRS. Do đó, dựa trên sự cần thiết của vấn đề nghiên cứu này, tác giả quyết định
chọn đề tài “Nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến việc áp dụng IFRS tại các
doanh nghiệp Việt Nam” với mong muốn có thể làm rõ vấn đề đang rất được chú
trọng trong lĩnh vực kế toán tại Việt Nam trong giai đoạn hiện nay, chính là việc áp
dụng chuẩn mực IFRS tại các doanh nghiệp.
2. Mục tiêu nghiên cứu và câu hỏi nghiên cứu

Nghiên cứu trong luận án này được thực hiện căn cứ theo mục tiêu tổng quát là
nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến việc áp dụng chuẩn mực IFRS tại các doanh
nghiệp Việt Nam. Các mục tiêu cụ thể gồm có:
 Xác định các nhân tố ảnh hưởng đến việc áp dụng IFRS

 Đo lường mức độ ảnh hưởng của các nhân tố này đến việc áp dụng IFRS
 Xác định các thành phần tác động của các nhân tố ảnh hưởng đến việc áp

dụng IFRS


 Đo lường mức độ tác động của các thành phần này đối với các nhân tố

ảnh hưởng đến việc áp dụng IFRS
Từ các mục tiêu cụ thể trên, nghiên cứu sẽ đi tìm hướng giải quyết cho các câu hỏi
tương ứng lần lượt như sau:
 Các nhân tố nào có ảnh hưởng đến việc áp dụng IFRS?
 Mức độ ảnh hưởng của từng nhân tố đến việc áp dụng IFRS tại các doanh

nghiệp Việt Nam cụ thể ra sao?
 Các thành phần tác động đến các nhân tố ảnh hưởng này bao gồm những

gì?
 Mức độ tác động của các thành phần này cụ thể ra sao đối với các nhân tố

ảnh hưởng đến việc áp dụng IFRS tại các doanh nghiệp Việt Nam?
3. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu

Từ vấn đề nghiên cứu là việc áp dụng IFRS tại các doanh nghiệp Việt Nam, luận án
xác định đối tượng của nghiên cứu chính là các nhân tố tác động đến việc áp dụng
IFRS tại các doanh nghiệp Việt Nam, cụ thể hơn nữa chính là các nhân tố hành vi
gắn liền với lý thuyết TPB và gắn với mơ hình TPB mở rộng cùng với sự kết hợp
của lý thuyết đẳng cấu thể chế. Luận án không đi sâu vào nghiên cứu từng chuẩn
mực IFRS. Để phù hợp với mục tiêu đã đề ra, luận án lựa chọn đơn vị phân tích là
doanh nghiệp với đối tượng trả lời khảo sát chính bao gồm phụ trách phịng kế tốn

(kế tốn trưởng, trưởng/phó phịng kế tốn) và phụ trách doanh nghiệp ở mảng tài
chính/kế tốn (CEO, CFO, kiểm sốt tài chính
4. Phương pháp nghiên cứu

Để phù hợp mới mục tiêu nghiên cứu là xác định nhân tố ảnh hưởng và mức độ ảnh
hưởng của các nhân tố, luận án được thực hiện bằng phương pháp hỗn hợp và được
thực hiện theo hai giai đoạn: giai đoạn sơ bộ và giai đoạn chính thức. Đặc biệt,
trong phần nghiên cứu định lượng sẽ tập trung phân tích dữ liệu với kỹ thuật PLSSEM (Partial Least Square Strutural Equation Modeling - Mơ hình cấu trúc tuyến
tính bình


phương tối thiểu từng phần) để xác định các nhân tố tác động đến việc áp dụng
IFRS tại Việt Nam.
5. Đóng góp mới của luận án

Về mặt lý luận, luận án đã kiểm định được tính thích hợp của hai lý thuyết nền
trong việc áp dụng IFRS bao gồm gồm lý thuyết hành vi dự định TPB của Ajzen
(1991) và lý thuyết đẳng cấu thể chế của DiMaggio và Powell (1983) trong bối cảnh
của một nền kinh tế mới nổi – Việt Nam. Ngồi ra, đóng góp của nghiên cứu về mặt
lý thuyết là đã phát hiện ra các nhân tố quan trọng ảnh hưởng đến ý định áp dụng
IFRS tại Việt Nam bao gồm: Thái độ, Nhận thức về áp lực xã hội, Nhận thức về sự
kiểm soát. Bên cạnh đó cũng đã xây dựng được mơ hình chi tiết là mơ hình TPB mở
rộng để xác định các thành phần tác động đến các nhân tố ảnh hưởng đến việc áp
dụng IFRS, bao gồm và Nhận thức về tính hữu ích tác động đến Thái độ; Áp lực
cưỡng chế, Áp lực mô phỏng, Áp lực chuyên môn tác động đến Nhận thức về áp lực
xã hội; Nguồn lực và Điều kiện cần có tác động đến Nhận thức về sự kiểm sốt.
Ngồi ra, luận án cũng đưa vào các bằng chứng thực nghiệm nhằm minh chứng cho
việc kế thừa và vận dụng những thang đo đã được kiểm định trong những nghiên
cứu đi trước nhưng vẫn phù hợp với các khái niệm nghiên cứu trong điều kiện tại
Việt Nam.

Về mặt thực tiễn, nghiên cứu đã nhận diện được các nhân tố hành vi có tác động
đến việc áp dụng IFRS cũng như mức độ tác động của các nhân tố này, qua đó đưa
ra các hàm ý nhằm thúc đẩy quá trình áp dụng IFRS đối với các nhà hoạch định
chính sách để có thể hỗ trợ doanh nghiệp Việt Nam tiếp cận IFRS một cách hiệu
quả nhất. Cụ thể, tác động của Thái độ đối với việc áp dụng IFRS cho thấy việc
khiến cho doanh nghiệp có cảm nhận tích cực về IFRS, nhất là trong giai đoạn tự
nguyện, là điều rất quan trọng để thúc đẩy khả năng áp dụng IFRS của doanh
nghiệp. Kết quả nghiên cứu cũng có thể góp phần giúp cho các doanh nghiệp có góc
nhìn tổng quan hơn về việc áp dụng IFRS, qua đó có sự chuẩn bị đầy đủ nhất về
nguồn lực hay các điều kiện khách quan cần có cho việc áp dụng sắp tới.


CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU
1.1 Những nghiên cứu ở nước ngồi:
1.1.1 Nhóm nghiên cứu nhân tố về mơi trường kinh doanh

Các nghiên cứu về nhân tố môi trường kinh doanh tác động đến việc áp dụng IFRS
được trình bày thành hai nhóm: nhóm thực hiện ở phạm vi quốc tế và nhóm ở phạm
vi quốc gia. Trong đó, nghiên cứu ở phạm vi quốc tế tức là phân tích số liệu của
nhiều quốc gia hoặc của nhiểu doanh nghiệp của các quốc gia, còn nghiên cứu ở
phạm vi quốc gia tức là nghiên cứu nhiều doanh nghiệp trong cùng một nước.
1.1.1.1 Các nhân tố ảnh hưởng ở phạm vi quốc tế

Việc sử dụng một hệ thống chuẩn mực đồng nhất trên thế giới trong lĩnh vực kế
toán như IFRS là việc làm rất cần thiết nhưng cũng có những thách thức không nhỏ,
đặc biệt là trong bối cảnh của các quốc gia đang trong tiến trình hội nhập. Những
nguyên nhân chính mang tính vĩ mơ mà các quốc gia hay gặp phải như về hệ thống
pháp luật, thuế, hệ thống tài chính hay yếu tố văn hóa, đặc biệt là ở các nước đang
phát triển.
Một số nghiên cứu tiêu biểu gồm có nghiên cứu của Hope và cộng sự (2006) tại 38

nước áp dụng tự nguyện trước năm 2005, của Zeghal và Mhadhbi (2006), Shima và
Yang (2012), Fox và cộng sự (2013) nghiên cứu của Schultz và Lopez (2001) Zehri
và Chouaibi (2013), hay nghiên cứu của Alon (2010) đã vận dụng lý thuyết thể chế
của Meyer và Rowan (1977) và lý thuyết đẳng cấu thể chế của DiMaggio và Powell
(1983) về việc áp dụng IFRS.
1.1.1.2 Các nhân tố ảnh hưởng ở phạm vi quốc gia

Các nghiên cứu tiêu biểu gồm có nghiên cứu của Gassen và Sellhorn (2006) ở Đức
trong khoảng thời gian 1998-2004, André và cộng sự (2012) khi nghiên cứu tình
hình áp dụng IFRS tự nguyện tại các công ty không niêm yết ở Vương quốc Anh
vào năm 2009, ghiên cứu của Bessieux-Ollier và Walliser (2012) về việc tự nguyện
áp dụng của 85 công ty tại Pháp đang niêm yết trên thị trường Alternext, nghiên cứu
của


Şenyiğit (2014) tại Thổ Nhĩ Kỳ trong giai đoạn tự nguyện áp dụng 2003-2004, hay
nghiên cứu của Bova và Pereira (2012) về trường hợp áp dụng IFRS tại Kenya.
Các nhân tố chính ảnh hưởng đến việc áp dụng IFRS trong nhóm nghiên cứu này
bao gồm: Quy mơ doanh nghiệp: Gassen và Sellhorn (2006), Şenyiğit (2014),
Bessieux- Ollier và Walliser (2012); Danh tiếng của kiểm toán viên: Şenyiğit (2014)
Bessieux- Ollier và Walliser (2012); Văn hóa Shimaa và Yang (2012), Zeghal và
Mhadhbi (2006), Fox và cộng sự (2013), Schultz và Lopez (2001); Sự phức tạp của
IFRS và trình độ kế tốn viên Jermakowicz và Gornick-Tomaszewski (2006), Alp
và Ustundag (2009), Alsaqqa và Sawan (2013).
1.1.2 Nhóm nghiên cứu nhân tố hành vi

Thay vì sử dụng dữ liệu sẵn có, nhiều nghiên cứu về IFRS được thực hiện bằng dữ
liệu sơ cấp, tức là dựa trên việc khảo sát thái độ của người làm kế toán, kiểm tốn
hay nhà hoạch định chính sách.
1.1.2.1 Những nghiên cứu vận dụng lý thuyết Đẳng cấu thể chế


Các nghiên cứu trong nhóm này bao gồm nghiên cứu của Mir và Rahaman (2004)
sử dụng lý thuyết Đẳng cấu thể chế DiMaggio và Powell (1983) để khám phá quy
trình áp dụng IAS tại Bangladesh; nghiên cứu về sự sẵn sàng của Malaysia về áp
dụng IFRS toàn phần từ ngày 1/1/2012 của Phang và Mahzan (2013), nghiên cứu về
Bangladesh của Nurunnabi (2015), hay nghiên cứu Pricope (2016) từ dữ liệu của 97
nước đang phát triển (gồm có 70 nước đã áp dụng và 27 nước chưa áp dụng tại thời
điểm 2013). Ở một khía cạnh khác, nghiên cứu của Aburous (2018) về việc triển
khai IFRS ở Jordan tạo ra sự mất cân bằng về năng lực (power imbalance) giữa
người làm kế toán tại doanh nghiệp và kiểm toán viên, và làm thay đổi thơng lệ kế
tốn quen thuộc.


1.1.2.2 Những nghiên cứu vận dụng lý thuyết hành vi dự định TPB hoặc nghiên

cứu chung về nhận thức
Nghiên cứu của Djatej và cộng sự (2012) tại Mỹ (bao gồm nhân tố Thái độ, Nhận
thức về áp lực xã hội và Nhận thức về sự kiểm soát). Một nghiên cứu kế thừa từ
Djatej và cộng sự (2012) cũng như Shima và Young (2012) là nghiên cứu của
Simegn (2015) tại Ethiopia. Một trong những nghiên cứu rất quy mô về hành vi là
nghiên cứu của Jermakowicz và Gornick-Tomaszewski (2006) nhằm xem xét quá
trình triển khai IFRS của các doanh nghiệp EU trước thềm áp dụng IFRS bắt buộc,
Nghiên cứu của Joshi và cộng sự (2008) về nhận thức của người làm kế toán và
kiểm toán về việc áp dụng IFRS tại Bahrain.. nghiên cứu Bozkurt và cộng sự (2013)
về nhận thức của người làm kế toán và người làm kiểm toán về việc áp dụng IFRS
tại Thổ Nhĩ Kỳ; nghiên cứu của Rezaee và cộng sự (2010) tại Mỹ nhằm đánh giá
quan điểm của các nhóm khác nhau về việc hội tụ chuẩn mực kế toán Mỹ với IFRS.
Trong một số các nghiên cứu được thực hiện sau này, bao gồm nghiên cứu của
Moqbel và cộng sự (2013), của Kurt và Ucma (2013), đều sử dụng lại phương pháp
và bảng câu hỏi của Rezaee và cộng sự. Một nghiên cứu kế thừa Moqbel và cộng sự

(2013) là nghiên cứu của Ahalik (2016) tại Indonesia.
Ở một khía cạnh khác, vấn đề mà doanh nghiệp hay phải đối mặt là IFRS quá phức
tạp trong khi trình độ của kế tốn viên có sự hạn chế, và việc chi phí chuyển đổi quá
cao chẳng hạn như nghiên cứu của Alp và Ustundag (2009) tại Thổ Nhĩ Kỳ, Nghiên
cứu của Sawan và Alsaqqa (2013) về việc áp dụng IFRS ở UAE, nghiên cứu của
Fearnley và Hines (2007) ở Vương Quốc Anh hay Nghiên cứu của Bahadir và cộng
sự (2016) ở Thổ Nhĩ Kỳ.
1.2 Những nghiên cứu tại Việt Nam:

Hai nhóm nghiên cứu phổ biến tại Việt Nam liên quan đến IFRS là nghiên cứu về sự
hịa hợp giữa VAS với IFRS, và nhóm nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến việc
áp dụng IFRS. Do Việt Nam chưa chính thức áp dụng IFRS, cho nên hầu hết các
doanh nghiệp đã lập báo cáo theo IFRS đều trên cơ sở tự nguyện. Và do đó, các
nghiên cứu


về nhân tố ảnh hưởng đến việc áp dụng IFRS tại Việt Nam cũng xoay quanh các đối
tượng tự nguyện áp dụng IFRS. Mặt khác, do Việt Nam chưa áp dụng IFRS, hầu hết
các nghiên cứu liên quan đều mang tính mang tính chất khám phá, dựa vào nguồn
dữ liệu sơ cấp để giải quyết vấn đề nghiên cứu. Trong phần tổng quan này, sẽ chỉ
đưa vào các nghiên cứu tiêu biểu được thưc hiện tại Việt Nam có mơ hình nghiên
cứu cụ thể và có tiến hành kiểm định các giải thuyết nghiên cứu.
1.2.1 Nghiên cứu về sự hòa hợp giữa VAS với IFRS

Những nghiên cứu tiêu biểu liên quan đến chủ để này gồm có: Nghiên cứu của Trần
Hồng Vân (2014) về sự hòa hợp trong việc lập và trình bày BCTC hợp nhất giữa kế
tốn Việt Nam và kế toán quốc tế; Nghiên cứu của Trần Quốc Thịnh (2014) về hội
tụ giữa VAS với IFRS. Nghiên cứu của Pham Hoai Hương (2016) về hội tụ giữa
VAS và IFRS hay nghiên cứu mới của Trần Quốc Thịnh và Nguyễn Thị Cẩm Thúy
(2018) cũng về hội tụ giữa VAS và IFRS.

1.2.2 Nghiên cứu về các nhân tố ảnh hưởng đến việc áp dụng IFRS

Đối với nghiên cứu về các nhân tố ảnh hưởng đến việc áp dụng IFRS, do Việt Nam
chưa áp dụng IFRS, số lượng các công bố liên quan chưa nhiều và đều là nghiên
cứu định lượng, mang tính chất khám phá, dựa vào nguồn dữ liệu sơ cấp để giải
quyết vấn đề nghiên cứu. Do số lượng nghiên cứu có chất lượng về IFRS tại Việt
Nam không nhiều, phần tổng quan này sẽ bao gồm cả một số nghiên cứu về các
nhân tố ảnh hưởng đến việc áp dụng IFRS cho doanh nghiệp nhỏ và vừa cũng như
việc áp dụng VAS để có cái nhìn tổng quát về vấn đề nghiên cứu.
Nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng trong phạm vi doanh nghiệp nhỏ và vừa có thể
kể đến gồm có nghiên cứu của Trần Đình Khôi Nguyên (2011), hoặc nghiên cứu
Trần Thị Thanh Hải (2015) khi nghiên cứu về xác lập và áp dụng khung pháp lý kế
tốn cho doanh nghiệp Việt Nam có quy mô nhỏ và vừa. Một công bố quốc tế của
Dang Duc Son (2011) đã xác định có 5 nhân tố ảnh hưởng đến việc áp dụng CMKT
ở Việt Nam cho doanh nghiệp nhỏ và vừa. Nghiên cứu gần đây về các tác nhân
bên ngoài


ảnh hưởng như thế nào đến việc các doanh nghiệp nhỏ và vừa tại Việt Nam khi vận
dụng IFRS, Nguyễn Thị Ánh Linh (2018).
Nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng ở phạm vi doanh nghiệp lớn/đại trà gồm có
nghiên cứu của Phan và cộng sự (2014) đã sử dụng dữ liệu thu thập từ Việt Nam
nhằm nghiên cứu về thuận lợi, những khó khăn, và các thách thức trong quá trình áp
dụng IFRS, nghiên cứu của Phan và cộng sự (2016) đã chứng minh được rằng các
nhân tố thể chế tại Việt Nam đều có ảnh hưởng đến việc áp dụng IFRS. Nghiên cứu
của Đặng Ngọc Hùng (2017) về các nhân tố ảnh hưởng đến mức độ áp dụng CMKT
(VAS) tại Việt Nam. Nghiên cứu của Nguyễn Thị Kim Cúc và Nguyễn Lê Vân
Khanh (2018) về các nhân tố tác động đến việc áp dụng IFRS tự nguyện tại Việt
Nam. Nghiên cứu của Lê Trần Hạnh Phương (2018) đã xác định ở phạm vi quốc gia
gồm 4 nhân tố vĩ mô và 3 nhân tố vi mô, nghiên cứu của Nguyen Ngoc Hiep (2017)

về chuyển đổi BCTC từ VAS sang IFRS, nghiên cứu Hà Xuân Thạch và Nguyễn
Ngọc Hiệp (2018) về các nhân tố ảnh hưởng đến việc chuyển đổi BCTC từ VAS
sang IFRSm hay nghiên cứu của Thi Cam Thanh Tran và cộng sự (2019)về tác nhân
ảnh hưởng đến áp dụng IFRS tại Việt Nam.
1.3 Khe hổng nghiên cứu

Từ những phân tích nêu trên của các nghiên cứu ở nước ngồi và trong nước cho
thấy, có thể thấy rằng, khe hổng của nghiên cứu về IFRS có thể được tổng kết như
sau:


Nghiên cứu về việc áp dụng IFRS theo hướng hành vi trong giai đoạn này
vẫn là phù hợp hơn cả với bối cảnh Việt Nam, khi số lượng doanh nghiệp áp
dụng IFRS chưa nhiều, việc nghiên cứu các nhân tố môi trường kinh doanh
vẫn cần thêm thời gian và số lượng doanh nghiệp áp dụng.



Hầu như chưa có nghiên cứu ở góc độ hành vi, đặc biệt là nghiên cứu trong
nước áp dụng lý thuyết nền chính là lý thuyết hành vi dự định hoặc lý thuyết
đẳng cấu thể chế một cách triệt để từ lý thuyết đến mơ hình nghiên cứu để
xác định các nhân tố ảnh hưởng đến việc áp dụng IFRS.




Ngồi ra, chưa có nghiên cứu về áp dụng IFRS ở nước ngồi và trong nước
có sự kết hợp cả hai lý thuyết này vào cùng một mơ hình nghiên cứu. Mơ
hình nghiên cứu của các nghiên cứu đi trước tương đối đơn giản, chỉ với các
nhân tố tác động trực tiếp đến việc áp dụng IFRS mà không xét đến các nhân

tố gián tiếp, tức là các thành phần tác động đến nhân tố ảnh hưởng đến việc
áp dụng IFRS.



Đối tượng khảo sát của các nghiên cứu trước vẫn cịn dàn trải, bao gồm cả kế
tốn viên, kiểm tốn viên, nhà nghiên cứu và nhà lập quy trong cùng một
nghiên cứu với cùng một bộ câu hỏi, trong khi đối tượng chính áp dụng IFRS
là các doanh nghiệp thì hầu như khơng có nghiên cứu nào độc lập.

Chính vì vậy, tác giả lựa chọn đề tài “Nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến áp
dụng IFRS tại các doanh nghiệp Việt Nam” với mục tiêu chính là xác định các nhân
tố ảnh hưởng trong bối cảnh Việt Nam sắp áp dụng IFRS trong thời gian tới. Qua đó
có thể đóng góp vào lý luận về các nhân tố ảnh hưởng đến việc áp dụng IFRS tại
Việt Nam cũng như kỳ vọng có những đóng góp nhất định về thực tiễn khi các
doanh nghiệp áp dụng IFRS.

CHƯƠNG 2: CƠ SỞ LÝ THUYẾT
2.1 Tổng quan về IFRS
2.1.1 Quá trình phát triển của IFRS

Hệ thống CMKT quốc tế hay còn gọi là chuẩn mực BCTC quốc tế IFRS
(International Financial Reporting Standards) ra đời trên cơ sở kế thừa các CMKT
quốc tế IAS trước đây. IFRS được hình thành từ việc nhóm các nước phát triển đặt
ra mục tiêu có một tiếng nói chung về việc lập và trình bày BCTC, IFRS trong thời
gian gần đây đã dần được chấp nhận rất rộng rãi khi mà ngày càng có nhiều giao
dịch vượt qua ranh giới của từng quốc gia riêng biệt. Theo thống kê của IFRS
Foundation (2018), hơn một phần ba trong số các giao dịch tài chính là giao dịch
xuyên biên giới, tức là giữa các



nước với nhau. Với mục tiêu cốt lõi của IFRS là giúp các doanh nghiệp trên toàn
cầu áp dụng một chuẩn chung chấp nhận được khi lập BCTC.
2.1.2 Tình hình áp dụng IFRS trên thế giới

Theo số liệu mới nhất được công bố bởi IFRS Foundation từ tháng 9/2018 và chưa
có sự thay đổi cho đến tháng 4/2020, hiện đã có 166 nước và vùng lãnh thổ đã áp
dụng IFRS và bước đầu có ý định áp dụng IFRS (bao gồm cả những quốc gia mới
chỉ bước đầu nộp hồ sơ như Việt Nam), tổng GDP của các nước này chiếm 98.8%
GDP của toàn thế giới. Trong số này, các nước bắt buộc áp dụng hoặc cho phép áp
dụng IFRS đối với doanh nghiệp niêm yết và tổ chức tài chính chiếm 54% GDP.
2.1.3 Tình hình thực tế áp dụng IFRS tại Việt Nam
2.1.3.1 Thực trạng áp dụng IFRS tại các doanh nghiệp trong nước

Theo IFRS Foundation thì tính đến tháng 7/2019 Việt Nam vẫn là một trong số ít
các nước chưa áp dụng IFRS. Trên thực tế, các đơn vị tiên phong trong việc áp dụng
IFRS tại Việt Nam cho tới thời điểm này là các ngân hàng và các tập đồn có quy
mơ hàng đầu trong nước, vì họ không chỉ thu hút nhà đầu tư nội mà cịn có được sự
quan tâm rất lớn từ các nhà đầu tư nước ngoài. Việc lập BCTC theo IFRS để thu hút
vốn ngoại là điều tất yếu. Đối với các doanh nghiệp đại trà, việc áp dụng IFRS
(khơng tính các doanh nghiệp FDI hoặc liên doanh vì IFRS là bắt buộc để lập báo
cáo tập đồn) chỉ mang tính tự phát chứ chưa có hướng dẫn từ cơ quan quản lý. Tuy
nhiên, để áp ứng nhu cầu hội nhập, cũng đã có rất nhiều doanh nghiệp chủ động áp
dụng lập BCTC theo VAS lẫn IFRS mặc dù điều này gây tốn kém khơng ít cơng sức
và tiền bạc của các doanh nghiệp.
2.1.3.2 Thực trạng về hệ thống kế toán doanh nghiệp tại Việt Nam

Theo Narayan và Godden (2000), kế toán Việt Nam chịu ảnh hưởng bởi Trung
Quốc (trong giai đoạn 1960-1969), sau đó là Liên Xơ cũ (1969-1989), Pháp và Mỹ
(1989- 1995). Một cột mốc đáng nhớ của kế toán Việt Nam thời kỳ mở cửa là vào

năm 1995 khi Bộ Tài Chính đã ban hành quyết định 1141-TC/QĐ/CĐKT về
CĐKT doanh


nghiệp mới, và năm 2001 khi những chuẩn mực VAS đầu tiên dựa trên IAS được
ban hành. Năm 2009, thông tư 210/2009/TT-BTC được ban hành ngày 6/11/2009
mặc dù đề cập đến việc áp dụng IFRS về các công cụ tài chính để trình bày thơng
tin và thuyết minh, nhưng lại khơng có quy định về đo lường giá trị của các cơng cụ
tài chính theo giá trị hợp lý. Việc chính thức ban hành và áp dụng thơng tư 200 cuối
năm 2014 hay thông tư 133 ban hành cuối tháng 8 năm 2016 về hướng dẫn CĐKT
doanh nghiệp Việt Nam là bước đệm rất cần thiết để đạt đến mục tiêu áp dụng
IFRS.
Bên cạnh đó, việc Bộ tài chính ban hành thông tư 202/2014/TT-BTC nhằm hướng
dẫn phương pháp lập và trình bày BCTC hợp nhất cho thấy những định hướng nhất
định về việc áp dụng chuẩn mực quốc tế ở phạm vi báo cáo của các tập đoàn trong
nước. Ngoài ra, thông tư 210 /2014/TT – BTC ngày 30/12/2014 về hướng dẫn kế
tốn đối với cơng ty chứng khốn cho phép áp dụng giá trị hợp lý cũng là một bước
tiến rất lớn đến việc chuẩn bị áp dụng IFRS.
2.1.3.3 Đề án áp dụng chuẩn mực BCTC quốc tế vào Việt Nam

Bản chính thức của Đề án áp dụng chuẩn mực BCTC quốc tế vào Việt Nam đã được
ban hành theo Quyết định 345/QĐ-BTC vào ngày 16 tháng 3 năm 2020. Bộ tài
chính đã xây dựng một lộ trình rõ ràng hơn, cụ thể hơn nhằm xây dựng một hệ
thống chuẩn mực mang tính quốc tế nhưng phải phù hợp với tình hình Việt Nam. Đề
án cho thấy việc thực hiện IFRS sẽ áp dụng theo từng giai đoạn, tự nguyện và bắt
buộc.
2.2 Những lý thuyết nền được vận dụng trong luận án

Trong lĩnh vực kế tốn, có rất nhiều lý thuyết có thể vận dụng trong nghiên cứu với
dữ liệu sơ cấp cũng như dữ liệu thứ cấp. Tuy nhiên, khi nghiên cứu về các nhân tố

ảnh hưởng trong việc áp dụng IFRS tại Việt Nam theo nghiên cứu về hành vi, việc
áp dụng lý thuyết nền là rất thiết yếu để giải quyết tốt vấn đề nghiên cứu, đặc biệt
với những nghiên cứu tiếp cận với dữ liệu sơ cấp. Trong đó, phần tổng hợp ở trên
cho thấy hai lý thuyết đóng vai trị quan trọng trong việc đưa ra các nhân tố ảnh
hưởng đến việc áp dụng IFRS tại Việt Nam, đó là lý thuyết về hành vi dự định TPB
của tác giả Ajzen (1985, 1991) và lý thuyết đẳng cấu thể chế của DiMaggio và
Powell (1983).


2.3 Giả thuyết nghiên cứu

Nhóm giả thuyết liên quan đến mơ hình TPB gốc


H1: Thái độ có tác động cùng chiều đến việc áp dụng IFRS tại các doanh nghiệp
Việt Nam



H2: Nhận thức về áp lực xã hội có tác động cùng chiều đến việc áp dụng IFRS
tại các doanh nghiệp Việt Nam



H3: Nhận thức về sự kiểm sốt có tác động cùng chiều đến việc áp dụng IFRS
tại các doanh nghiệp Việt Nam

Nhóm giả thuyết liên quan đến phần mở rộng của mơ hình TPB



H4: Nhận thức về tính hữu ích có tác động cùng chiều đến việc áp dụng IFRS tại
các doanh nghiệp Việt Nam.



H5: Nhận thức về tính hữu ích có tác động cùng chiều đến thái độ



H6: Nhận thức về độ khó của IFRS có tác động ngược chiều đến đến thái độ.



H7: Áp lực cưỡng chế có tác động cùng chiều đến nhận thức về áp lực xã hội.



H8: Áp lực mơ phỏng có tác động cùng chiều đến nhận thức về áp lực xã hội.



H9: Áp lực chun mơn có tác động cùng chiều đến nhận thức về áp lực xã hội.



H10: Nguồn lực tác động cùng chiều đến nhận thức về sự kiểm sốt.



H11: Điều kiện cần có tác động cùng chiều đến nhận thức về sự kiểm soát.


CHƯƠNG 3: PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
3.1 Quy trình nghiên cứu

Quy trình nghiên cứu trong luận án này gồm có các bước cơ bản sau (dựa vào quy
trình kiểm định lý thuyết khoa học của Nguyễn Đình Thọ 2012, trang 53):


Bước 1: Tổng quan nghiên cứu để tìm ra khe hổng nghiên cứu, qua đó xác
định vấn đề nghiên cứu; Tổng kết các lý thuyết có liên quan để xây dựng mô


hình nghiên cứu dự kiến và đề xuất các giả thuyết nghiên cứu, xây dựng thang
đo.


Bước 2: Nghiên cứu sơ bộ, bao gồm nghiên cứu định tính với chuyên gia
nghiên cứu định lượng sơ bộ với các doanh nghiệp.



Bước 3: Nghiên cứu định lượng chính thức với các doanh nghiệp.



Bước 4: Đánh giá kết quả nghiên cứu và bàn luận kết quả.

3.2 Xây dựng thang đo

Từ mơ hình nghiên cứu dự kiến trong chương 2, có thể nhận thấy các khái niệm

nghiên cứu được trình bày trong luận án đều là biến tiềm ẩn (latent variable, tức là
các biến này không thể xác định được cụ thể, khác với các khái niệm không tiềm ẩn
như là doanh thu hay lợi nhuận) cho nên phải đo lường thông qua thang đo chứ
không để xác định trực tiếp. Các khái niệm nghiên cứu này được chia thành hai
nhóm, nhóm biến nội sinh và nhóm biến ngoại sinh. Trong đó nhóm biến nội sinh
thuộc về mơ hình TPB gốc, cịn nhóm biến ngoại sinh thuộc về phần mở rộng của
mơ hình TPB với sự kết hợp của các mơ hình đã trình bày trong chương hai.
Các bài nghiên cứu liên quan đến các thang đo của khái niệm nghiên cứu đều đã
được trình bày chi tiết trong hai chương đầu tiên của luận án, đa số đều thuộc những
tạp chí quốc tế có thứ hạng. Cụ thể, các thang đo chính được kế thừa, điều chỉnh và
bổ sung mới cho phù hợp với vấn đề nghiên cứu của luận án gồm có:


Thang đo của Liu và cộng sự (2008) đối chiếu với thang đo của Djatej và
cộng sự (2012). Trong đó, thang đo của Djatej và cộng sự (2012) vận
dụng mơ hình TPB gốc, còn thang đo của Liu và cộng sự (2008) vận
dụng mơ hình TPB mở rộng. Khi xây dựng thang đo, Djatej và cộng sự
(2012) thừa nhận đã kế thừa và rút gọn từ thang đo của Liu và cộng sự
(2008) cho nên 2 thang đo này có nhiều điểm tương đồng với nhau mặc
dù khác vấn đề nghiên cứu. Do đó, trong q trình kế thừa thang đo, tác
giả luận án luôn kết hợp giữa hai thang đo này với nhau để đảm bảo sự
chuẩn xác của thang đo cũng như đảm bảo khơng bỏ sót câu hỏi khảo sát.




Thang đo của Phang và Mahzan (2013) về áp dụng IFRS tại Malaysia.
Đây là thang đo liên quan đến mô hình đẳng cấu thể chế.




Thang đo của Rezaee và cộng sự (2010) về lợi ích của IFRS và những rào
cản tại Mỹ. Nghiên cứu này được kế thừa bởi khá nhiều nghiên cứu liên
quan đến IFRS đã đề cập trong chương tổng quan. Tuy nhiên Rezaee và
cộng sự (2010) không vận dụng lý thuyết nào cụ thể, cho nên việc kế thừa
các biến quan sát trong thang đo gốc của các tác giả sẽ được chọn lọc cho
phù hợp với phần cơ sở lý thuyết của luận án cũng như phù hợp bối cảnh
nghiên cứu tại Việt Nam.

3.3 Thiết kế nghiên cứu

Nghiên cứu này được chia thành hai giai đoạn: giai đoạn nghiên cứu sơ bộ và giai
đoạn chính thức. Trong đó giai đoạn sơ bộ gồm có nghiên cứu định tính và nghiên
cứu định lượng sơ bộ; giai đoạn sau là nghiên cứu định lượng chính thức. Mục tiêu
của nghiên cứu sơ bộ là để hiệu chỉnh thang đo, trong đó thực hiện phỏng vấn
chun gia để hồn thiện thang đo nháp; sau đó tiến hành khảo sát thử để kiểm định
thang đo. Kết quả của nghiên cứu sơ bộ là thang đo đã hiệu chỉnh để sử dụng ở giai
đoạn nghiên cứu chính thức. Cụ thể hơn, giai đoạn nghiên cứu sơ bộ bao gồm
nghiên cứu định tính với các chuyên gia trong lĩnh vực kế toán bằng phương pháp
phỏng vấn sâu đối với người quản lý và am hiểu về kế toán doanh nghiệp, giảng
viên, các kiểm tốn viên có kinh nghiệm trong lĩnh vực kế tốn kiểm toán, và
chuyên gia soạn thảo IFRS tại Việt Nam để điều chỉnh thang đo; và nghiên cứu định
lượng sơ bộ để kiểm định thang đo. Tiếp sau đó sẽ tiến hành nghiên cứu định lượng
chính thức để kiểm định mơ hình nghiên cứu.

CHƯƠNG 4: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ BÀN LUẬN
Trong chương này tác giả luận án sẽ trình bày kết quả nghiên cứu từ quy trình đã đề
xuất ở chương 3, tức là xuất phát từ nghiên cứu định tính, tác giả sẽ loại bỏ các biến



quan sát khơng phù hợp, từ đó sẽ gởi bảng câu hỏi để phục vụ cho nghiên cứu định
lượng sơ bộ và xử lý số liệu với phần mềm SmartPLS phiên bản 3.2.8. Sau khi loại
các biến không đạt yêu cầu, bảng câu hỏi sẽ được điều chỉnh lại và gởi đến những
người làm quản lý từ cấp phòng kế toán trở lên để tổng hợp và xử lý dữ liệu với kỹ
thuật PLS-SEM.
4.1 Kết quả nghiên cứu sơ bộ
4.1.1 Nghiên cứu định tính

Về cơ bản, kết quả nghiên cứu định tính cho thấy hầu hết thang đo đều được chuyên
gia tán thành về nội dung, như vậy đã đạt được mục tiêu chính đã đặt ra trong
chương 3 trong phần nghiên cứu định tính về giá trị nội dung và tính đơn hướng của
thang đo. Kết thúc việc tổng hợp ý kiến với chuyên gia cho thấy hầu hết các thang
đo đều nhận được sự đồng tình, trong đó các chuyên gia có một số đề xuất mới cho
thang đo Nhận thức về tính hữu ích, Nguồn lực và Điều kiện cần có. Đặc biệt, thang
đo Nhận thức về tính hữu ích được các chuyên gia đánh giá cao và dành nhiều thời
gian trao đổi hơn so với các thang đo còn lại. Sau khi kết thúc giai đoạn nghiên cứu
định tính với sự đồng tình của các chun gia, tác giả luận án bổ sung thêm 1 biến
quan sát cho thang đo Nhận thức về tính hữu ích (bằng cách tách biến HI4 thành hai
câu khác nhau), bỏ biến Nhận thức về độ khó, bỏ bớt biến quan sát HI3 do có thể
trùng với biến HI5), bỏ biến NL3 cũ, thay bằng NL3 với nội dung mới, bỏ DK 3 cũ,
bổ sung biến DK3 mới, và sửa một số câu trong các biến quan sát để làm rõ nghĩa
theo gợi ý của chuyên gia.
4.1.2 Nghiên cứu định lượng sơ bộ

Kết quả kiểm định thang đo sau khi khảo sát 102 doanh nghiệp cho thấy có 3 biến
quan sát là ACC4, AMP4 và HI5 có hệ số tải ngồi lần lượt là 0.642, 0.689 và
0.568, tức là không đạt yêu cầu do thấp hơn ngưỡng cho phép là 0.7. Bên cạnh đó,
độ tin cậy của các biến quan sát này lần lượt là 0.412, 0.475, 0.323, tức là đều
không đạt ngưỡng cho phép là 0.5. Cho nên, tác giả sẽ loại các biến này khỏi các
thang đo ACC,



AMP và HI nhằm đảm bảo giá trị hội tụ cho các thang đo. Trước khi loại biến, tác
giả đã cân nhắc về giá trị nội dung của thang đo có bị ảnh hưởng hay khơng và có
đối chiếu lại với ý kiến chuyên gia trong phần nghiên cứu định tính về những biến
quan sát này và đánh giá rằng việc loại biến này theo tác giả vẫn phù hợp với giá trị
nội dung trong bối cảnh Việt Nam. Sau khi loại 3 biến này, tác giả chạy lại thủ tục
PLS Algorithm chính thức lần 2 với kết quả cho thấy độ tin cậy của thang đo và giá
trị hội tụ của các biến quan sát đều tăng so với kết quả lần 1, điều đó cho thấy việc
loại cả 3 biến này là phù hợp. Kết quả chạy PLS Algorithm lần thứ 2 cho thấy các
chỉ số về giá trị hội tụ của thang đo và độ tin cậy nhất qn nội tại của các thang đo
trong mơ hình đều đạt yêu cầu.
4.2 Kết quả nghiên cứu chính thức
4.2.1 Mẫu nghiên cứu

Bảng câu hỏi chính thức được gởi đến các doanh nghiệp trên địa bàn TP.HCM, Hà
Nội, Bình Dương, Đồng Nai, theo phương pháp lấy mẫu phi xác suất. Bên cạnh
TP.HCM, mẫu chính thức được mở rộng thêm chủ yếu ở các tỉnh thành lớn gồm Hà
Nội, Bình Dương, Đồng Nai, Khánh Hòa, nơi tập trung nhiều doanh nghiệp lớn và
đa dạng ngành nghề. Khảo sát chính thức được thực hiện từ tháng 12/2019 đến đầu
tháng 3/2020 với số phiếu trả lời chính thức là 221 sau khi lọc dữ liệu. Cũng như
trong nghiên cứu sơ bộ, tất cả đối tượng tham gia trả lời được chọn đều làm quản lý
doanh nghiệp hoặc quản lý cấp phịng kế tốn, hầu hết đều có thâm niên trong lĩnh
vực kế tốn từ 5-10 năm hoặc trên 10 năm.
Bảng 4. 1: Tổng hợp kết quả kiểm định giả thuyết
Giả

Nội dung

Hệ số


thuyết
H1

P

Kết quả

Values
Thái độ có tác động cùng chiều đến việc
áp dụng IFRS tại Việt Nam

0.290

0.000

Chấp
nhận


H2

Nhận thức về áp lực xã hội có tác động

0.248

0.000

cùng chiều đến việc áp dụng IFRS tại Việt


Chấp
nhận

Nam
H3

Nhận thức về sự kiểm sốt có tác động

0.229

0.000

cùng chiều đến việc áp dụng IFRS tại Việt

Chấp
nhận

Nam
H4

Nhận thức về tính hữu ích có tác động

0.211

0.012*

cùng chiều đến việc áp dụng IFRS tại Việt

mức ý


Nam.
H5

Nhận thức về tính hữu ích có tác động

nghĩa 1%
0.760

0.000

cùng chiều đến thái độ
H6

Áp lực cưỡng chế có tác động cùng chiều

Áp lực mơ phỏng có tác động cùng chiều

0.200

0.005

Áp lực chun mơn có tác động cùng

0.240

0.000

Nguồn lực tác động cùng chiều đến nhận

0.457


0.003

Điều kiện cần có tác động cùng chiều đến
nhận thức về sự kiểm soát

Chấp
nhận

0.491

0.000

thức về sự kiểm soát
H10

Chấp
nhận

chiều đến nhận thức về áp lực xã hội
H9

Chấp
nhận

đến nhận thức về áp lực xã hội
H8

Chấp
nhận


đến nhận thức về áp lực xã hội
H7

Bác bỏ ở

Chấp
nhận

0.343

0.005

Chấp
nhận

(Nguồn: tác giả luận án)


4.3 Tổng hợp kết quả và bàn luận
4.3.1 Tổng hợp kết quả

Căn cứ vào kết quả đã trình bày ở phần trên từ mơ hình đo lường 1 (là mơ hình
nghiên cứu chính thức của luận án) cho thấy tất cả các giả thuyết đều được chấp
nhận với mức ý nghĩa 5%. Chỉ có một điểm lưu ý rằng đối với giả thuyết H4, nếu
mức ý nghĩa khắt khe hơn ở mức 1%, thì giả thuyết này sẽ bị bác bỏ.
Kết quả nghiên cứu cho thấy sự phù hợp của mơ hình TPB hay mơ hình TPB mở
rộng khi đánh giá ý định hành vi, đặc biệt là hành vi áp dụng IFRS trong bối cảnh
Việt Nam đang trong lộ trình áp dụng. Kết quả tính tốn R² cho thấy mơ hình có cấu
trúc nội sinh khá mạnh, tức là đảm bảo về mặt chất lượng của mơ hình. Và khi xem

xét các hệ số f² và Q², q², kết quả cũng cho thấy các biến ngoại sinh đều có tính dự
báo cho các biến nội sinh từ mức trung bình trở lên.
4.3.2 Bàn luận
4.3.2.1 Tác động của các biến Thái độ, Nhận thức về ảnh hưởng xã hội, và

Nhận thức về sự kiểm soát đối với Việc áp dụng IFRS
Đây là các biến trong mơ hình TPB gốc và tác động trực tiếp đến Việc áp dụng
IFRS tại Việt Nam. Trong số này, biến Thái độ có tác động mạnh nhất với hệ số tác
động là 0.290, tiếp theo sau lần lượt là Nhận thức về ảnh hưởng xã hội (0.248) và
Nhận thức về sự kiểm soát (0.229).
4.3.2.2 Tác động của các biến trong phần mở rộng của mô hình TPB gốc đối

với các biến Thái độ, Nhận thức về ảnh hưởng xã hội, và Nhận thức về sự kiểm
sốt
Tác động của Nhận thức về tính hữu ích với các biến Thái độ là rất mạnh (0.760).
Mặc dù các nghiên cứu trước đây đều bỏ qua mối quan hệ này, tuy nhiên kết quả
kiểm định trong luận án cho thấy tác động này rất phù hợp với lý thuyết TPB gốc
của Ajzen (1991) hay mơ hình TPB mở rộng của Taylor và Todd (1995b)


Áp lực chun mơn có tác động mạnh nhất đến Nhận thức về áp lực xã hội, tiếp
theo sau lần lượt là Áp lực mô phỏng và Áp lực cưỡng chế. \
Nguồn lực của doanh nghiệp và Điều kiện cần có đều có tác động ở mức khá mạnh
đến Nhận thức về sự kiểm soát với các mức tác động lần lượt là 0.491 và 0.343. Kết
quả nghiên cứu đã cho thấy vai trò rất quan trọng của nguồn lực doanh nghiệp đối
với nhận thức về sự kiểm soát, và thậm chí cịn có tác động gián tiếp (0.12) đối với
Việc áp dụng IFRS.
4.3.3.3 Tác động của các thành phần mở rộng trong mơ hình nghiên cứu đối với
Việc áp dụng IFRS
Thành phần bậc nhất của biến Thái độ là biến Nhận thức về tính hữu ích cũng có tác

động đến Việc áp dụng IFRS với hệ số 0.211. Mối quan hệ này đã được chứng minh
qua các công bố của Kurt và Ucma (2013), Moqbel và cộng sự (2013), Rezaee và
cộng sự (2010), hay Joshi và cộng sự (2008). Tuy nhiên, p-value của mối quan hệ
này cho thấy, nếu đánh giá một cách khắt khe ở mức ý nghĩa 1% thì mối quan hệ
này khơng có ý nghĩa.
Kết quả cho thấy Áp lực chuyên môn và Nguồn lực cũng có tác động đến việc áp
dụng với mức độ tác động gián tiếp lần lượt là 0.14 và 0.12. Các nhân tố còn lại bao
gồm Áp lực cưỡng chế, Áp lực mơ phỏng, Điều kiện cần có đều tác động gián tiếp
không đáng kể đến việc áp dụng.

CHƯƠNG 5: KẾT LUẬN VÀ HÀM Ý
5.1 Kết luận

Kết quả nghiên cứu cho thấy việc áp dụng mơ hình TPB và sâu hơn là mơ hình TPB
mở rộng đối với việc áp dụng IFRS trong bối cảnh Việt Nam là phù hợp. Trong đó,
xét ở góc độ mơ hình TPB, kết quả nghiên cứu cho thấy cấu trúc nội sinh của mơ
hình ở mức khá mạnh với tác động mạnh nhất lên việc áp dụng IFRS chính là thái
độ của người quản lý kế toán, kết quả này cho thấy sự phù hợp với mơ hình TPB
gốc khi


Azjen (1991) đề cao tầm quan trọng của Thái độ đối với ý định hành vi. Đây có thể
được xem là điểm mới của luận án khi đối chiếu với các nghiên cứu có sử dụng lý
thuyết hành vi dự định về áp dụng IFRS tại các quốc gia khác trên thế giới, khi
nhóm tác giả đi trước đều bỏ qua biến này trong mơ hình nghiên cứu.
Ở góc độ mơ hình TPB mở rộng, kết quả phân tích cho thấy Nhận thức về tính hữu
ích góp phần thúc đẩy mạnh Thái độ tích cực cũng như ý định áp dụng IFRS. Bên
cạnh đó, xuất phát từ các áp lực bên ngoài đã tạo nên áp lực bên trong doanh nghiệp
qua đó tác động đến ý định áp dụng IRRS. Chẳng hạn như áp lực mơ phỏng khiến
doanh nghiệp có xu hướng làm theo các doanh nghiệp cùng ngành, và đặc biệt là áp

lực chuyên môn, vốn được định hướng bởi các tổ chức nghề nghiệp, những áp lực
này đã góp phần tác động đến nhận thức của doanh nghiệp. Một điểm đáng lưu ý là
mặc dù áp lực cưỡng chế là nhân tố chính quyết định hành vi trong mơ hình Đẳng
cấu thể chế, nhưng trong bối cảnh Việt Nam, do hiện tại chưa áp dụng IFRS cho nên
không thật sự tạo ra áp lực lớn để tác động đến nhận thức của người làm kế toán về
áp dụng IFRS. Ngoài ra, xuất phát từ ý kiến của chuyên gia, một số ý kiến cũng
được cụ thể hóa qua hai biến quan sát nguồn lực doanh nghiệp và điều kiện bên
ngồi cần có để có thể áp dụng IFRS thành cơng, đó là sự đồng bộ trong chính sách
thuế với chính sách kế tốn, và sự phối hợp chặt chẽ giữa các phòng ban trong
doanh nghiệp là những yếu tố quan trọng để gián tiếp tác động đến việc áp dụng
IFRS thơng qua nhận thức về sự kiểm sốt của doanh nghiệp.
5.2 Hàm ý lý thuyết và hàm ý quản trị
5.2.1 Hàm ý lý thuyết

Một trong những điểm mới của luận án về mặt lý thuyết là đã kết hợp được hai lý
thuyết nền quan trọng trong nghiên cứu hành vi, bao gồm lý thuyết hành vi dự định
của Ajzen (1991) và lý thuyết đẳng cấu thể chế của Dimaggio và Powell (1983).
Mặc dù kết hợp này được kế thừa từ nghiên cứu của Liu và cộng sự (2008), nhưng
đặt trong bối cảnh việc áp dụng IFRS nói chung trong phần khảo lược lý thuyết
trong chương 1 đã cho thấy hầu hết các nghiên cứu đều chỉ áp dụng một trong hai lý
thuyết


riêng lẻ, thì việc kết hợp này trong nghiên cứu việc áp dụng IFRS có thể xem là một
điểm khác biệt.
Bên cạnh đó, so với các nghiên cứu trước đây về áp dụng IFRS cả trong nước lẫn
quốc tế, luận án đã xây dựng được mơ hình nghiên cứu đầy đủ hơn, bao quát được
hầu hết các biến tác động lên vấn đề nghiên cứu, đặc biệt là trong nghiên cứu hành
vi. Cụ thể là từ mơ hình chính là TPB vốn khá đơn giản, luận án đã xây dựng được
các biến ngoại sinh phù hợp với vấn đề nghiên cứu, phát triển từ mơ hình TPB mở

rộng của Taylor và Todd (1995b). Các biến độc lập trong mơ hình TPB mở rộng rất
linh hoạt so với các biến của mơ hình TPB, và có thể thay đổi để phù hợp với vấn đề
nghiên cứu khi kết hợp với các lý thuyết bổ trợ phù hợp. Kết quả kiểm định mơ hình
đo lường cho thấy mơ hình TPB mở rộng là hoàn toàn phù hợp với việc nghiên cứu
các nhân tố ảnh hưởng đến việc áp dụng IFRS.
Đối với luận án này, thơng qua mơ hình TPB mở rộng, luận án đã bổ sung vào mơ
hình nghiên cứu biến Nhận thức về tính hữu ích từ thang đo của Rezaee và cộng sự
(2010) để xem xét tác động đến biến Thái độ, đây cũng chính là các nhân tố chính
trong mơ hình TAM, một mơ hình phát triển từ mơ hình TPB gốc. Luận án đã kiểm
định thành cơng sự ảnh hưởng của cả hai biến Nhận thức về tính hữu ích và biến
Thái độ lên vấn đề nghiên cứu. Qua đó cũng đã bổ sung bằng chứng thực nghiệm
trong việc áp dụng mơ hình TAM đối với việc áp dụng IFRS.
Một đóng góp khác của luận án về mặt lý luận đó là kiểm định thành cơng vai trị
của biến Thái độ đối với Việc áp dụng, khi mà những cơng bố trước đây có vận
dụng mơ hình TPB đều bỏ qua nhân tố này. Kết quả này cũng hoàn toàn phù hợp
với lập luận của Ajzen (1991) rằng biến Thái độ chính là nhân tố quan trọng nhất
trong mơ hình TPB. Thái độ tích cực sẽ dẫn đến ý định tích cực về hành vi, qua đó
tác động đến hành vi thực tế.
Ngoài ra, sự xuất hiện của mơ hình đẳng cấu thể chế kết hợp với mơ hình TPB các
thang đo được vận dụng từ nghiên cứu của Phang và Mahzan (2013) cũng đã được
kiểm định thành cơng, qua đó cho thấy các biến trong mơ hình đẳng cấu thể chế,
vốn


là các nhân tố bên ngồi đã có sự tác động lên Nhận thức về áp lực xã hội, vốn là
nhân tố bên trong, và có tác động lên ý định áp dụng IFRS. Đối chiếu với các
nghiên cứu đi trước đã trình bày trong chương 1 có áp dụng lý thuyết đẳng cấu thể
chế như Aburous (2018) hay Phang và Mahzan (2013), có thể thấy kết quả nghiên
cứu của luận án đã mang đến điểm khác biệt, có thể xem là điểm mới của luận án,
khi các biến này không tác động trực tiếp đến vấn đề nghiên cứu mà chỉ tác động

gián tiếp thơng qua vai trị trung gian của biến Nhận thức về áp lực xã hội.
Tiếp theo, so với các cơng bố trước đây có áp dụng lý thuyết hành vi dự định trong
việc áp dụng IFRS, luận án đã có sự mở rộng một cách rõ ràng hơn đối với các
thành phần bậc nhất của biến Nhận thức về sự kiểm soát, so với các nghiên cứu đi
trước. Cụ thể, luận án đã phát triển thang đo cho các khái niệm Nguồn lực và Điều
kiện cần có, đây chính là hai biến độc lập tác động lên biến Nhận thức về sự kiểm
sốt trong mơ hình nghiên cứu.
Cuối cùng, một khác biệt của luận án so với các nghiên cứu đi trước cùng vấn đề
nghiên cứu, đó là đối tượng khảo sát trong luận án này đều là những người đang
làm trong doanh nghiệp, điều này sẽ làm cho kết quả nghiên cứu trở nên gần với
doanh nghiệp hơn thay vì mang tính chủ quan của các đối tượng khác mà các
nghiên cứu đi trước thường áp dụng (bao gồm cả ý kiến của kiểm toán viên, giảng
viên, nhà nghiên cứu).
5.2.2 Hàm ý quản trị

Về mặt thực tiễn, kết quả nghiên cứu của luận án đã cho thấy những nhân tố hành vi
góp phần tác động đến việc áp dụng IFRS tại các doanh nghiệp, qua đó có thể góp
phần đưa ra những hàm ý có thể hữu ích cho nhà lập quy trong q trình định hướng
áp dụng IFRS tại Việt Nam. Có thể thấy rằng, nhân tố quan trọng nhất thúc đẩy việc
áp dụng IFRS chính là Thái độ với mức độ tác độ 0.29, cao hơn so với hai nhân tố
còn lại. Như vậy, một khi doanh nghiệp đã có thái độ tích cực đối với IFRS, thì
động lực áp dụng của họ sẽ trở nên rõ ràng hơn. Để làm được điều này, cần phải
giúp những người làm công tác quản lý hiểu được vai trò và sự cần thiết của IFRS.


Tiếp theo, nhận thức về áp lực xã hội của doanh nghiệp cũng đóng vai trị khá quan
trọng trong viêc áp dụng IFRS với mức tác động là 0.248. Nhận thức về áp lực xã
hội chịu sự tác động của ba yếu tố Áp lực cưỡng chế, áp lực mô phỏng, và áp lực
chun mơn. Trong đó:



Áp lực cưỡng chế tức là khi doanh nghiệp nhận thức được áp lực/khuyến
khích từ nhà lập quy về việc áp dụng IFRS, điều này sẽ làm thay đổi nhận
thức của họ và qua đó tác động đến nhận thức.



Đối với áp lực mơ phỏng, kết quả nghiên cứu cho thấy các doanh nghiệp có
xu hướng nhìn vào những cơng ty trong cùng lĩnh vực, đặc biệt là các cơng
ty đầu ngành, các hình mẫu doanh nghiệp đa quốc gia để làm theo.



Tác động của Áp lực chuyên môn đối với Nhận thức về áp lực xã hội cho
thấy đối với người làm kế tốn, xu hướng nghề nghiệp cũng đóng vai trị
then chốt để thay đổi nhận thức của họ. Điều đó cho thấy hội nghề nghiệp là
một kênh rất hữu ích mà các nhà lập quy rất cần lưu ý khi xây dựng lộ trình
áp dụng IFRS tại Việt Nam.

Cuối cùng, để áp dụng IFRS thành công không thể bỏ qua nhận thức về sự kiểm
soát, bao gồm nguồn lực (được xem là yếu tố nội tại của doanh nghiệp) và điều kiện
khách quan bên ngồi cần phải có để có thể áp dụng IFRS.


Xây dựng đội ngũ nhân lực kế tốn có trình độ là điều rất quan trọng để có
thể áp dụng IFRS thành công. Trong cuộc khảo sát định tính, hầu hết ý kiến
chuyên gia đều nhấn mạnh sự cần thiết của việc đầu tư vào nguồn nhân lực,
một khi kiến thức về IFRS đã được cập nhật rộng rãi, trong đó các cơ sở đào
tạo đóng vai trị rất quan trọng, thì việc áp dụng IFRS sẽ khơng cịn là những
rào cản q lớn.




Đối với những nhân tố khách quan bên ngồi doanh nghiệp, thống nhất trong
chính sách quản lý về kế toán và sự đồng bộ với chính sách thuế là yêu cầu
được đặt ra. Bên cạnh đó cơ chế kiểm tra và giám sát tính tn thủ cũng chưa
tốt, khiến cho tính minh bạch và tính so sánh của BCTC trong nước không


×