Tải bản đầy đủ (.docx) (21 trang)

TIỂU LUẬN nguyên tắc thống nhất giữa lý luận với thực tiễn và vấn đề ngăn ngừa, khắc phục bệnh kinh nghiệm, bệnh giáo điều ở đội ngũ cán bộ nước ta hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (127.65 KB, 21 trang )

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ KHU VỰC IV


TIỂU LUẬN
Chủ đề: NGUYÊN TẮC THỐNG NHẤT GIỮA LÝ LUẬN VỚI
THỰC TIỄN VÀ VẤN ĐỀ NGĂN NGỪA, KHẮC PHỤC BỆNH
NGHIỆM, BỆNH GIÁO ĐIỀU Ở ĐỘI NGŨ CÁN BỘ NƯỚC TA
HIỆN NAY

Lớp: Cao học ngành Lý luận và lịch sử Nhà nước và pháp
luật K27 (Cần Thơ)
Địa điểm: Học viện Chính trị Khu vực IV
Học phần: Triết học Mác - Lênin
Họ và tên:

- 2021


MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU
NỘI DUNG
Chương 1.
1.1.
1.2.
1.3.

1
2
NGUYÊN TẮC THỐNG NHẤT GIỮA LÝ LUẬN


VỚI THỰC TIỄN
Phạm trù lý luận
Phạm trù thực tiễn
Nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn
NGUYÊN TẮC THỐNG NHẤT GIỮA LÝ

2
2
4

LUẬN VỚI THỰC TIỄN VÀ VẤN ĐỀ NGĂN
Chương 2. NGỪA, KHẮC PHỤC BỆNH NGHIỆM, BỆNH
GIÁO ĐIỀU Ở ĐỘI NGŨ CÁN BỘ NƯỚC TA HIỆN

2.1.

2.2.

NAY
Bệnh nghiệm, bệnh giáo điều ở đội ngũ cán bộ nước ta

11

hiện nay
Vận dụng nguyên tắc thống nhất giữa lý luận với thực tiễn

11

vào nhận thức vấn đề ngăn ngừa, khắc phục bệnh nghiệm,
bệnh giáo điều ở đội ngũ cán bộ nước ta hiện nay


KẾT LUẬN
TÀI LIỆU THAM KHẢO

15
18
19


MỞ ĐẦU
Sự nghiệp đổi mới do Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng đã và đang
mang lại những thành quả to lớn trong sự phát triển kinh tế - xã hội. Những năm
qua, đất nước ta đã từng bước thoát ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, tạo
được những tiền đề và điều kiện cần thiết để chuyển sang thời kỳ phát triển mới,
thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, thực hiện “dân giàu, nước
mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh”.
Trong sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam, một trong những yếu tố quan trọng
tạo nên thắng lợi của quá trình đổi mới là đội ngũ cán bộ. Đội ngũ này giữ vị trí
đặc biệt trong hệ thống chính trị, là cầu nối có hiệu lực nhất giữa Đảng, Nhà
nước với nhân dân. Tuy nhiên, đội ngũ này vẫn còn những hạn chế chưa đáp ứng
được yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa nơng nghiệp đất
nước. Một trong những hạn chế đó là họ đã mắc phải bệnh kinh nghiệm, bệnh
giáo điều. Bệnh kinh nghiệm ở đội ngũ này đã gây tác hại rất lớn trong sự
nghiệp đổi mới phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Do đó, nghiên cứu vấn
đề “Nguyên tắc thống nhất giữa lý luận với thực tiễn và vấn đề ngăn ngừa,
khắc phục bệnh kinh nghiệm, bệnh giáo điều ở đội ngũ cán bộ nước ta hiện
nay” làm đề tài tiểu luận có ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc.

3



NỘI DUNG
Chương 1. NGUYÊN TẮC THỐNG NHẤT GIỮA LÝ LUẬN VỚI
THỰC TIỄN
1.1. Phạm trù lý luận
Trước hết cần khẳng định rằng phạm trù lý luận là phạm trù mang tính trừu
tượng, vì vậy từ trước đến nay, đã có rất nhiều quan niệm, quan điểm khác nhau
về lý luận. Lý luận ra đời ngay từ thời cổ đại, khi triết học mới ra đời, lúc đầu
chỉ là những tri thức thuần túy trải qua quá trình nhận thức lâu dài cùng với sự
xuất hiện của ngành khoa học thì tri thức lý luận hình thành và ngày càng mang
tính khái quát trừu tượng hóa cao.
Kế thừa những yếu tố hợp lý đó và phát triển một cách sáng tạo. MácĂngghen đã xây dựng nên học thuyết biện chứng duy vật về lý luận: “lý luận là
kinh nghiệm đã được khái quát trong ý thức của con người, là toàn bộ tri thức về
thế giới khách quan, là hệ thống tương đối độc lập của các tri thức có tác dụng
tái hiện trong lơgíc của khái niệm cái lơgíc khách quan của sự vật. [1, tr.242243]. Nói cách khác, lý luận là hệ thống những tri thức được hệ thống hóa, khái
quát hóa từ những tài liệu của thực tiễn, kinh nghiệm lịch sử phản ánh mối liên
hệ bản chất những quy luật của thế giới khách quan cũng như sự phát triển của
tư duy con người. Chính vì thế mà chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ “lý luận là sự
tổng kết những kinh nghiệm của loài người, là tổng hợp những tri thức về tự
nhiên và xã hội tích trữ lại trong q trình lịch sử” [4, tr.497].
Để hình thành lý luận, con người phải trải qua quá trình nhận thức kinh
nghiệm. Nhận thức kinh nghiêm là quá trình quan sát sự lặp đi lặp lại, diễn biến
của các sự vật hiện tượng. Kết quả của nhận thức kinh nghiệm là tri thức kinh
nghiệm. Tri thức kinh nghiệm bao gồm tri thức kinh nghiệm thông thường và tri
thức kinh nghiệm khoa học. Tri thức kinh nghiệm thông thường được thơng qua
q trình sinh hoạt và hoạt động hàng ngày của con người. Nó giúp con người
giải quyết nhanh một số vấn đề cụ thể, đơn giản trong quá trình tác động trực
tiếp đối tượng. Tri thức kinh nghiệm khoa học là kết quả của quá trình thực
nghiệm khoa học. Nó địi hỏi chủ thể phải tích luỹ một lượng tri thức nhất định
4



trong hoạt động sản xuất cũng như hoạt động khoa học mới có thể hình thành tri
thức kinh nghiệm khoa học. Tri thức kinh nghiệm khoa học giúp các nhà khoa
học hình thành lý luận. Tri thức kinh nghiệm tuy là thành tố của tri thức nhưng ở
trình độ thấp. Thế nhưng nó là cơ sở hình thành lý luận.
Lý luận là sản phẩm cao nhất của nhận thức, của sự phản ánh hiện thực
khách quan vào trong bộ não con người. Cho nên, bản chất của lý luận là hình
ảnh chủ quan của thế giới khách quan.
Nhận thức là cả một quá trình biện chứng từ chưa biết đến biết, từ biết ít
đến biết nhiều, từ nơng cạn đến sâu sắc, từ hiện tượng đến bản chất … Đúng như
Lênin nhận xét: “Trong lý luận nhận thức cũng như trong tất cả các lĩnh vực
khác của khoa học cần suy luận một cách biện chứng nghĩa là đừng giả định
rằng nhận thức chúng ta là bất di bất dịch và có sẵn mà phải phân tích xem xét
sự hiểu biết như thế nào, sự hiểu biết không đầy đủ và khơng chính xác trở thành
đầy đủ và chính xác hơn như thế nào” [6, tr.117].
Như vậy có thể thấy, nhận thức là một quá trình biện chứng diễn ra rất phức
tạp bao gồm nhiều giai đoạn, trình độ, vịng khâu và hình thức khác nhau. Tuỳ
theo tính chất nghiên cứu mà q trình đó được phân chia thành nhận thức cảm
tính và nhận thức lý tính.
Xét về bản chất, lý luận là hệ thống những tri thức được khái quát từ thực
tiễn, phản ánh những mối liên hệ bản chất, những tính quy luật của thế giới
khách quan, lý luận được hình thành khơng phải nằm ngồi thực tiễn mà trong
mối liên hệ với thực tiễn.
Do quá trình hình thành và bản chất của nó, lý luận có hai chức năng cơ
bản là chức năng phản ánh hiện thực khách quan và chúc năng phương pháp
luận cho hoạt động thực tiễn. Lý luận phản ánh hiện thực khách quan bằng
những quy luật chung nhất. Tri thức kinh nghiệm cũng như tri thức lý luận đều
phản ánh hiện thực khách quan nhưng ở những phạm vi lĩnh vực và trình độ
khác nhau. Lý luận phản ánh hiện thực khách quan để làm phương pháp luận

nhận thức và cải tạo hiện thực khách quan bằng hoạt động thực tiễn.
5


Tóm lại, lý luận là một cơng cụ tư tưởng sắc bén có vai trị rất to lớn đối
với hoạt động thực tiễn cũng như đối với sự định hướng về nhận thức. Lý luận
giúp cho con người thấy được những ưu điểm và hạn chế trong việc biến đổi
những q trình đối tượng hố khách thể. Tự nhiên ln cần đến những bàn tay
con người, và cũng chính tự nhiên quyết định cho con người những trình tự tất
yếu để trong quá trình tồn tại, con người tự bổ sung, hoàn thiện cách thức cải tạo
tự nhiên. Lý luận ln đóng vai trị quan trọng trong việc tạo ra sự liên kết gắn
bó giữa chủ thể tự nhiên và chủ thể nhận thức. Lý luận cũng có q trình hình
thành và phát triển của nó, khơng phải lý luận có khi con người xuất hiện, mà
con người phải phát triển đến một giai đoạn nhất định nào đó lý luận mới được
xuất hiện. Lý luận không phải sinh ra vốn đã hồn thiện mà nó được bổ sung và
hồn thiện dần dần theo tiến trình phát triển của lịch sử xã hội. Hay nói cách
khác, lý luận mang tính lịch sử xã hội, có những lý luận đúng ở q khứ nhưng ở
hiện tại và tương lai nó khơng còn phù hợp nữa.
1.2. Phạm trù thực tiễn
Dựa vào những thành tựu của khoa học nói chung và khoa học tự nhiên nói
riêng, cùng với việc kế thừa và phát triển sáng tạo những yếu tố hợp lý trong
những quan niệm về thực tiễn của các nhà triết học trước và khắc phục những
yếu tố sai lầm của những quan niệm cũ về thực tiễn, cùng với những hoạt động
của các ông trong phong trào đấu tranh của quần chúng lao động, C.Mác - Ph.
Ăngghen đã có cơng lớn trong việc đưa thực tiễn vào nhận thức luận. Không
những thế, cả lý luận và thực tiễn đều được các ông nâng lên trình độ mới: Thực
tiễn cách mạng và lý luận cách mạng. Nhờ đó, lý luận gắn bó chặt chẽ với thực
tiễn, trở thành vũ khí nhận thức và cải tạo thế giới. Với việc đưa phạm trù thực
tiễn vào lý luận của mình, C.Mác và Ph.Ăngghen đã thực hiện một bước chuyển
biến cách mạng trong lý luận nói chung và trong nhận thức luận nói riêng. Thực

tiễn là tồn bộ hoạt động vật chất có mục đích mang tính lịch sử - xã hội của con
người nhằm cải tạo tự nhiên, xã hội và bản thân con người.
Hoạt động của con người bao gồm hoạt động vật chất và hoạt động tinh
thần. Thực tiễn là hoạt động vật chất. Hoạt động vật chất là những hoạt động mà
6


chủ thể sử dụng phương tiện vật chất tác động vào đối tượng vật chất nhất định
nhằm cải tạo chúng theo nhu cầu của con người. Con người sử dụng các phương
tiện để tác động vào đối tượng theo những hình thức và mức độ khác nhau tuỳ
thuộc mục đích của con người. Kết quả của quá trình hoạt động thực tiễn là
những sản phẩm thoả mãn nhu cầu vật chất và nhu cầu tinh thần của cá nhân và
cộng đồng.
Hoạt động thực tiễn là hoạt động có tính năng động sáng tạo, là hoạt động
được đối tượng hoá, là q trình chuyển hố cái tinh thần thành cái vật chất. Bởi
hoạt động thực tiễn là quá trình tương tác giữa chủ thể và khách thể trong đó chủ
thể hướng vào việc cải tạo khách thể trên cơ sở đó nhận thức khách thể. Vì vậy
thực tiễn là khâu trung gian nối liền ý thức con người với thế giới bên ngoài.
Như vậy, hoạt động thực tiễn là hoạt động bản chất của con người. Nếu động vật
chỉ hoạt động theo bản năng nhằm thích nghi một cách thụ động với thế giới bên
ngồi thì con người nhờ vào thực tiễn như là hoạt động có mục đích, có tính xã
hội của mình để cải tạo thế giới nhằm thoả mãn nhu cầu mình thích nghi một cách
chủ động tích cực với thế giới và làm chủ thế giới. Để thoả mãn nhu cầu của mình
con người phải tiến hành sản xuất ra của cải vật chất để nuôi sống mình và nhờ đó
con người tạo nên những vật phẩm vốn khơng có sẵn trong tự nhiên.
Như vậy, khơng có hoạt động thưc tiễn con người và xã hội không thể tồn
tại và phát triển được. Vì vậy có thể nói: Thực tiễn là phương thức tồn tại cơ bản
của con người và xã hội, là phương thức đầu tiên và chủ yếu của mối quan hệ
giữa con người và thế giới. Mỗi hoạt động của con người đều mang tính lịch sử
cụ thể. Nó chỉ diễn ra trong một giai đoạn nhất định nào đó. Nó có q trình

hình thành phát triển và kết thúc hoặc chuyển hoá sang giai đoạn khác, khơng có
hoạt động thực tiễn nào tồn tại vĩnh viễn. Mặt khác, hoạt động thực tiễn chịu sự
chi phối của mỗi giai đoạn lịch sử cả về đối tuợng, phương tiện cũng như mục
đích hoạt động.
Tóm lại, hoạt động thực tiễn là một phạm trù không thể thiếu đối với nhận
thức khoa học, với quá trình hoạt động trong lĩnh vực lý luận, nghiên cứu lý luận
7


cần phải hiểu rõ và nắm chắc được tính đúng đắn của thực tiễn đó là yêư tố góp
phần làm nên thành công trong công việc của mỗi người.
1.3. Nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn
Sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn bắt nguồn từ mối quan hệ giữa con
người và thế giới khách quan. Con người ln tác động tích cực vào thế giới
khách quan, tự nhiên và xã hội, cải biến thế giới khách quan bằng thực tiễn.
Trong q trình đó sự phát triển nhận thức của con người và sự biến đổi thế giới
khách quan là hai mặt thống nhất. Điều đó quy định sự thống nhất biện chứng
giữa lý luận và thực tiễn trong hoạt động sinh tồn của cá nhân và cộng đồng.
Giữa lý luận và thực tiễn giường như hai mặt tương đối độc lập với nhau
nhưng lại có mối quan hệ biện chứng, tác động qua lại lẫn nhau. Trong đó thực
tiễn ln ln giữ vai trị quyết định. Để khẳng định vấn đề này Lênin đã nhận
xét rằng: “Thực tiễn cao hơn lý luận (nhận thức) vì nó có ưu điểm khơng những
có tính phổ biến mà của cả tính hiện thực trực tiếp” [7, tr.230].
Vai trị của thực tiễn đối với nhận thức đựơc thể hiện ở những khía cạnh sau:
Thực tiễn là cơ sở, là động lực, là mục đích và tiêu chuẩn của lý luận, lý
luận hình thành, phát triển phải xuất phát từ thực tiễn, đáp ứng yêu cầu thực tiễn
Thực tiễn là cơ sở của lý luận. Xét một cách trực tiếp, những tri thức được
khái quát thành lý luận là kết quả của quá trình hoạt động thực tiễn của con
người. Thông qua kết quả hoạt động thực tiễn, kể cả thành cơng cũng như thất
bại, con người phân tích cấu trúc, tính chất và các mối quan hệ của các yếu tố,

các điều kiện trong các hình thức thực tiễn để hình thành lý luận. Qúa trình hoạt
động thực tiễn còn là cơ sở để bổ sung và điều chỉnh những lý luận đã đựơc khái
quát. Mặt khác, hoạt động thực tiễn của con người làm nảy sinh những vấn đề
mới địi hỏi q trình nhận thức phải tiếp tục giải quyết. Thơng qua đó, lý luận
được bổ sung, mở rộng. Chính vì vậy, V.I.Lênin nói: “Nhận thức lý luận phải
trình bày khách thể trong tính tất yếu của nó, trong những quan hệ tồn diện của
nó, trong sự vận động mâu thuẫn của nó, tự nó và vì nó” [8, tr.227]
Thực tiễn là động lực của lý luận. Hoạt động của con người khơng chỉ là
nguồn gốc để hồn thiện các cá nhân mà cịn góp phần hồn thiện các mối quan
8


hệ giữa con người với tự nhiên, với xã hội. Lý luận được vận dụng làm phương
pháp cho hoạt động. Thực tiễn, mang lại lợi ích cho con người càng kích thích
con người tích cực bám sát thực tiễn để khái qt lý luận. Q trình đó diễn ra
khơng ngừng trong sự tồn tại của con người, làm cho lý luận ngày càng đầy đủ,
phong phú và sâu sắc hơn. Nhờ vậy hoạt động con người không bị hạn chế trong
khơng gian và thời gian. Thơng qua đó, thực tiễn đã thúc đẩy một ngành khoa
học mới ra đời - khoa học lý luận.
Thực tiễn là mục đích của lý luận. Mặc dù lý luận cung cấp những tri thức
khái quát về thế giới để làm thoả mãn nhu cầu hiểu biết của con người, nhưng
mục đích chủ yếu của lý luận là nâng cao năng lực hoạt động của con người
trước hiện thực khách quan để đưa lại lợi ích cao hơn, thoả mãn nhu cầu ngày
càng tăng của cá nhân và xã hội. Tự thân lý luận không thể tạo nên những sản
phẩm đáp ứng nhu cầu của con người. Nhu cầu đó chỉ được thực hiện trong hoạt
động thực tiễn. Hoạt động thực tiễn sẽ biến đổi trong tự nhiên và xã hội theo
mục đích của con người, đó thực chất là mục đích của lý luận. Tức lý luận phải
đáp ứng nhu cầu hoạt động thực tiễn của con người.
Thực tiễn là tiêu chuẩn chân lý của lý luận. Tính chân lý của lý luận chính
là sự phù hợp của lý luận với hiện thực khách quan và được thực tiễn kiểm

nghiệm, là giá trị phương pháp của lý luận đối với hoạt động thực tiễn của con
người. Do đó, mọi lý luận phải thơng qua thực tiễn để kiểm nghiệm. Chính vì
thế mà C.Mác nói: “vấn đề tìm hiểu tư duy của con người có thể đạt đến chân lý
khách quan khơng hồn tồn khơng phải là vấn đề lý luận mà là một vấn đề thực
tiễn. Chính trong thực tiễn mà con người phải chứng minh chân lý” [2, tr.210].
Thông qua thực tiễn những lý luận đạt đến chân lý sẽ được bổ sung vào kho tàng
tri thức nhân loại; những kết luận chưa phù hợp thực tiễn thì tiếp tục điều chỉnh
bổ sung hoặc nhận thức lại giá trị của lý luận nhất thiết phải được chứng minh
trong hoạt động thực tiễn.
Tuy thực tiễn là tiêu chẩn chân lý của lý luận nhưng không phải mọi thực
tiễn đều là tiêu chuẩn của chân lý. Thực tiễn là tiêu chuẩn chân lý của lý luận khi
thực tiễn đạt đến tính tồn vẹn của nó. Tính tồn vẹn của thực tiễn là thực tiễn đã
9


trải qua quá trình tồn tại, vận động, phát triển và chuyển hố. Đó là chu kỳ tất
yếu của thực tiễn. Thực tiễn có nhiều giai đoạn phát triển khác nhau. Nếu lý luận
chỉ khái quát một giai đoạn nào đó, một bộ phận nào đó của thực tiễn thì lý luận
có thể xa rời thực tiễn. Do đó, chỉ những lý luận nào phản ánh được tính tồn
vẹn của thực tiễn thì mới đạt đến chân lý. Chính vì vậy mà Lênin cho rằng:
“Thực tiễn của con người lặp đi lặp lại hàng nghìn triệu lần được in vào ý thức
của con người bằng những hình tượng lơgíc. Những hình tượng này có tính
vững chắc của một thiên kiến, có một tính chất cơng lý, chính vì (và chỉ vì) sự
lặp đi lặp lại hàng nghìn triệu lần ấy [8, tr.234].
Quá trình thăng trầm của chủ nghĩa xã hội thế giới cho chúng ta thấy rõ
điều đó. Sau khi giành được chính quyền, những người vơ sản tiến hành xây
dựng chủ nghĩa xã hôi với cơ chế kế hoạch hố, tập trung, bao cấp thơng qua hai
hình thức sở hữu là toàn dân và tập thể. Tương ứng với hai hình thức sở hữu đó
là hai hình thức kinh tế quốc doanh và tập thể. Thời kì đầu chủ nghĩa xã hội đã
đạt được nhiều thành tựu rực rỡ. Từ đây chúng ta cho rằng cơ chế đó, hai thành

phần kinh tế đó và những lý luận ra đời trên nền tảng ấy vừa khẳng định tính ưu
việt của chủ nghĩa xã hội, vừa khẳng định lý luận xây dựng chủ nghĩa xã hội là
hoàn toàn khoa học. Khủng hoảng của chủ nghĩa xã hội từ những năm 70 của
thế kỷ XX dẫn đến sụp đổ một loạt nước xã hội chủ nghĩa vào cuối những năm
80 đầu những năm 90 của thế kỷ đó chứng tỏ thực tiễn của chủ nghĩa xã hội
chưa bộc lộ hết, chưa phát triển toàn vẹn nên lý luận chưa phản ánh đúng hiện
thực khách quan.
Tuy xét đến cùng thực tiễn là tiêu chuẩn chân lý duy nhất của lý luận,
nhưng vì thực tiễn luôn vận động và phát triển, đồng thời thực tiễn cũng rất
phong phú và đa dạng, do đó ngồi tiêu chuẩn thực tiễn cịn có thể có những tiêu
chuẩn khác như tiêu chuẩn lơgíc, tiêu chuẩn giá trị… Song các tiêu chuẩn đó
vẫn phải trên nền tảng của thực tiễn. Chính vì vậy chúng ta có thể nói khái quát
thực tiễn là tiêu chuẩn của lý luận.
Qúa trình phát triển nhận thức của con người nhất thiết dẫn đến sự hình
thành lý luận. Đó khơng chỉ là sự tổng kết, khái quát từ lịch sử nhận thức mà còn
10


từ nhu cầu của thực tiễn. Thực tiễn phong phú đa dạng, ln vận động và biến
đổi, nhưng để hình thành lý luận, trước hết lý luận phải đáp ứng thực tiễn. Con
người nhận thúc hiện thực khách quan để giải quyết những vấn đề con người
quan tâm. Năng lực của con người ngày càng được nâng cao chính nhờ khả năng
thông qua hoạt động phản ánh, khái quát thành tri thức lý luận. Trong sự vô
cùng, vô tận của hiện thực khách quan, con người khơng hề chống ngợp mà
bằng mọi biện pháp để nhận thức. Lồi người có khả năng trở thành chủ thể
nhận thức để phản ánh sự vô tận của hiện thực khách quan, nhưng để đáp ứng
hoạt động thực tiễn của con người. Đó là những lý luận mang tính phương pháp
cho hoạt động cải tạo hiện thực khách quan. Mọi hoạt động của con người đều
nhằm đạt hiệu quả cao. Lý luận, trước hết phải đáp ứng mục đích đó. Quan hệ
giữa người với người, giữa người với tự nhiên đòi hỏi con người phải có lý luận

sâu sắc về chúng. Con người hình thành lý luận chủ yếu để làm phương pháp
cho hoạt động sáng tạo tri thức, phát minh sáng chế những tư liệu sản xuất, tư
liệu sinh hoạt nhằm nâng cao năng lực sáng tạo của con người. Do đó hệ thống
lý luận nào góp phần giải quyết đúng đắn, phù hợp mục đích của con người thì
được con người quan tâm khái qt. Vì lẽ đó lý luận phải đáp ứng nhu cầu phát
triển của thực tiễn.
Thực tiễn chỉ đạo lý luận, ngược lại lý luận phải được vận dụng vào thực
tiễn, tiếp tục bổ sung và phát triển trong thực tiễn. C.Mác đã từng nói, người thợ
xây khơng bao giờ tinh xảo như con ong xây tổ nhưng người thợ xây hơn hẳn
con ong ở chỗ, trước khi xây dựng một cơng trình họ đã hình thành được hình
tượng của cơng trình ấy trong đầu họ. Tức là hoạt động của con người là hoạt
động có ý thức. Ban đầu hoạt động của con người chưa có lý luận chỉ đạo, song
con người phải hoạt động để đáp ứng nhu cầu tồn tại của mình. Thơng qua đó,
con người khái quát thành lý luận. Từ đó những hoạt động của con người muốn
có hiệu quả nhất thiết phải có lý luận soi đường hoạt động thực tiễn của con
người mới trở thàng tự giác, có hiệu quả và đạt được mục đích mong muốn.
Lý luận đóng vai trị soi đường cho thực tiễn vì lý luận có khả năng định
hướng mục tiêu xác định lực lượng biện pháp thực hiện. Lý luận còn dự báo
11


được khả năng phát triển cũng như các mối quan hệ của thực tiễn, dự báo được
những rủi ro có thể xảy ra, những hạn chế những thất bại có thế có trong q
trình hoạt động. Như vậy lý luận khơng chỉ giúp con người hoạt động hiệu quả
mà cịn là cơ sở để khắc phục những hạn chế và tăng năng lực hoạt động của con
người. Mặt khác lý luận cịn có vai trị giác ngộ mục tiêu, lý tưởng liên kết các
cá nhân thành cộng đồng, tạo thành sức mạnh to lớn của quần chúng trong cải
taọ tự nhiên và cải tạo xã hội. Chính vì vậy, C.Mác đã khẳng định “vũ khí của sự
phê phán cố nhiên không thể thay thế được sự phê phán của vũ khí, lực lượng
vật chất chỉ có thể bị đánh đổ lực lượng vật chất, nhưng lý luận cũng sẽ trở

thành lực lượng vật chất, một khi nó thâm nhập vào quần chúng” [3, tr.580].
Mặc dù lý luận mang tính khái qt cao song nó cịn có tính lịch sử, cụ thể.
Do đó khi vận dụng lý luận chúng ta cần phân tích một cách cụ thể mỗi tình hình
cụ thể. Nếu vận dụng máy móc giáo điều, kinh viện thì chẳng những hiểu sai giá
trị của lý luận mà còn làm phương hại đến thực tiễn, làm sai lệch sự thống nhất
tất yếu giữa lý luận và thực tiễn.
Lý luận hình thành là kết quả của nhận thức lâu dài và khó khăn của con
người trên cơ sở hoạt động thực tiễn. Hoạt động thực tiễn tuy đa dạng phong
phú nhưng khơng phải khơng có tính quy luật. Tính quy luật của thực tiễn được
khái quát dưới hình thức lý luận. Mục đích của lý luận khơng chỉ là phương
pháp mà còn là định hướng cho hoạt động thực tiễn. Đó là định hướng mục tiêu,
biện pháp sử dụng lực lượng, định hướng giải quyết các mối quan hệ trong hoạt
động thực tiễn. Khơng những thế, lý luận cịn định hướng mơ hình của hoạt
động thực tiễn. Vận dụng lý luận vào hoạt động thực tiễn, trước hết từ lý luận để
xây dựng mơ hình thực tiễn theo những mục đích khác nhau của q trình hoạt
động, dự báo các diễn biến, các mối quan hệ lực lượng tiến hành và những phát
sinh của nó trong q trình phát triển để phát huy các nhân tố tích cực, hạn chế
những yếu tố tiêu cực nhằm đạt kết quả cao hơn.
Lý luận tuy là lơgíc của thực tiễn, song lý luận có thể lạc hậu hơn so với
thực tiễn. Vận dụng lý luận vào thực tiễn đòi hỏi chúng ta phải bám sát diễn biến
12


của thực tiễn để kịp thời điều chỉnh, bổ sung những khiếm khuyết của lý luận,
hoặc có thể thay đổi lý luận cho phù hợp với thực tiễn.
Mối quan hệ giữa lý luận và thực tiễn còn được làm sáng tỏ cụ thể hơn khi
xem xét nó từ quan hệ giữa chủ thể và khách thể. Thực tiễn là khâu trung gian
cơ bản giữa chủ thể và khách thể, thực tiễn là hình thức liên hệ thực tại khách
quan nhờ đó chủ thể tự đối tượng hóa bản thân, các ý định, các mục đích của
mình. Điều này cho thấy thực tiễn và lý luận không thể tuyệt đối độc lập với

nhau. Bởi vì quan hệ lý luận giữa con người và khách thể không bao giờ tách
rời, biệt lập với thực tiễn. Hơn nữa, lý luận bao giờ cũng phục tùng thực tiễn,
phục vụ thực tiễn và lý luận bao giờ cũng phát triển trên cơ sở cải tạo thực tiễn
của xã hội. Vì vậy khơng có sự đối lập giữa lý luận và thực tiễn, tính độc lập của
lý luận chỉ là tương đối, lý luận cách mạng khơng phải hồn tồn là thực tiễn
cách mạng, tuy nhiên do lý luận được sinh ra bởi các nhu cầu của thực tiễn xã
hội nên lý luận cách mạng trở thành một bộ phận của thực tiễn xã hội.
Tóm lại, quan hệ giữa lý luận và thực tiễn là một q trình mang tính lịch
sử xã hội cụ thể. Đây là quan hệ thống nhất biện chứng nắm bắt được tính biện
chứng của q trình đó là tiền đề quan trọng bậc nhất giúp chúng ta có một lập
trường thực tiễn sáng suốt, tránh được chủ nghĩa thực dụng ,máy móc và lý luận
sng. Có thể nói rằng, C.Mác là người đầu tiên đưa phạm trù thực tiễn vào
nhận thức luận, nhờ đó ơng đã làm nên cuộc cách mạng thực sự trong tư duy
cũng như trong hoạt động. Đến Lênin đã phát triển và nâng cao vai trò của thực
tiễn trong lý luận nhận thức. Lênin có cơng to lớn trong việc làm sáng tỏ mối
quan hệ biện chứng giữa lý luận và thực tiễn, về học thuyết chân lý trên cơ sở
khoa học hiện đại.
Chương 2. NGUYÊN TẮC THỐNG NHẤT GIỮA LÝ LUẬN VỚI
THỰC TIỄN VÀ VẤN ĐỀ NGĂN NGỪA, KHẮC PHỤC BỆNH NGHIỆM,
BỆNH GIÁO ĐIỀU Ở ĐỘI NGŨ CÁN BỘ NƯỚC TA HIỆN NAY
2.1. Bệnh nghiệm, bệnh giáo điều ở đội ngũ cán bộ nước ta hiện nay
Khắc phục bệnh kinh nghiệm, bệnh giáo điều chủ nghĩa trong cán bộ ta là
vấn đề có ý nghĩa lý luận cũng như thực tiễn hết sức to lớn. Công cuộc đổi mới
13


do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo đã đạt được những thành tựu đáng kể, song
cũng còn nhiều vấn đề lý luận và thực tiễn đòi hỏi phải được giải quyết trên tầm
trí tuệ mới, chứ khơng thể chỉ bằng hành trang của tư duy cũ. Muốn vậy, phải
khắc phục những yếu kém trong tư duy của cán bộ ta, trong đó có bệnh kinh

nghiệm, bệnh giáo điều. Để khắc phục và ngăn ngừa có hiệu quả căn bệnh này,
cân pải hiểu rõ nguồn gốc của nó, bởi lẽ chỉ trên cơ sở đó chúng ta mới đề ra
được những biện pháp phù hợp.
Theo chúng tôi, bệnh kinh nghiệm, bệnh giáo điều trong cán bộ ta có
những nguồn gốc chủ yếu sau đây:
Một là, Trình độ tư duy lý luận của cán bộ ta nói chung thấp.
Có thể nói trình độ lý luận thấp là một trong những tác nhân trực tiếp làm
nảy sinh bệnh kinh nghiệm, bệnh giáo điều trong cán bộ ta, cịn trình độ tư duy
lý luận thấp là một trong những nguồn gốc sâu xa của căn bệnh này. Tư duy lý
luận, còn gọi là tư duy lơgích trừu tượng, là kiểu tư duy tiến hành chủ yếu trên
cơ sở không phải của hành động thao tác thực tiễn trực tiếp hay của hình ảnh
cảm tính trực quan mà của những quy tắc lơgích giúp cho con người phải ánh
những mối liên hệ bản chất của sự vật hoặc những mối quan hệ nhân quả sâu sắc
nhất giữa các sự vật, hiện tượng của thế giới khách quan.
Ở đây, phải huy động không phải những hình ảnh cảm tính, kinh nghiệm
mà các khái niệm, phạm trù, quy luật về thế giới tự nhiên hay xã hội. Trình độ tư
duy lý luận cao hay thấp sẽ dẫn đến lý luận có trình độ cao hay thấp, khoa học
hay khơng khoa học và lý luận đó tất nhiên sẽ tác động trở lại ở những mức độ
khác nhau tới thực tiễn và tới chính tư duy. Nếu trình độ lý luận thấp thì nó
khơng đóng được vai trò chỉ đạo, định hướng, dẫn đường cho hoạt động thực
tiễn, và do đó dễ làm cho người ta buộc phải dựa dẫm một cách máy móc vào
kinh nghiệm là điều dễ hiểu. Nhưng để có lý luận thì phải có tư duy lý luận, hơn
nữa nếu khơng có trình độ tư duy lý luận khoa học và sáng tạo thì khơng thể tiếp
thụ, trau dồi lý luận Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối chủ trương
chính sách của Đảng một cách sâu sắc, triệt để, không thể biến những lý luận
sách vở thành vốn tri thức của mình, nghĩa là dù có học thuộc lịng lý luận thì
14


vẫn có thể mắc phải bệnh kinh nghiệm, bệnh giáo điều. Cho nên, muốn tránh nó

nhất thiết phải nâng cao trình độ lý luận. Song muốn nâng cao trình độ lý luận
thì phải nâng cao trình độ tư duy lý luận mà hạt nhân là phương pháp duy vật
biện chứng. Bởi vậy, khắc phục bệnh kinh nghiệm, bệnh giáo điều khơng phải
chỉ là nâng cao trình độ lý luận tức là thay đổi, bổ sung, hoàn thiện, phát triển
những khái niệm, những phạm trù, quan điểm, mà trước hết và chủ yếu là phải
nâng cao phương pháp tư duy khoa học sáng tạo từ trình độ thấp tới trình độ cao,
trên cơ sở đó làm cho trình độ lý luận được nâng lên. Đây là một q trình
khơng có giới hạn, bởi hiện thực luôn luôn vận động và phát triển.
Hai là ảnh hưởng của xã hội nông nghiệp cổ truyền phương Đông.
Chủ nghĩa Mác xem tư duy như là sản phẩm của sự phát triển lịch sử của
thực tiễn xã hội, như là hình thức lý luận của hoạt động người, là sản phẩm của
hoạt động thực tiễn. Tư duy cũng khơng tồn tại ngồi xã hội, ngồi ngơn ngữ,
ngồi những kiến thức mà lồi người tích luỹ được. Ngay những nhiệm vụ mà
con người đặt ra để tư duy cũng nẩy sinh từ các điều kiện sống của họ. Tư duy
con người luôn luôn mang bản chất xã hội.
Nền sản xuất nông nghiệp phương Đông cùng với chế độ cơng xã nơng
thơn tồn tại hàng nghìn năm ở nước ta đã ảnh hưởng rất lớn tới phong cách tư
duy của người Việt Nam. Đó thực chất là một nền sản xuất nhỏ, tự cung tự cấp
khép kín, manh mún và phẳng lặng như “mặt nước ao tù”, cắt đứt các mối liên
hệ cả trong nước và thế giới. Chính nền sản xuất đó đã làm cho tầm nhìn của con
người bị hạn hẹp, thiếu nhìn xa trơng rộng, nặng về tư duy kinh nghiệm hơn là
tư duy lý luận. Sản xuát lúa nước với những chu kỳ được lặp đi lặp lại gần như
là vĩnh cửu cùng với những chu kỳ của thời tiết, khí hậu dần dần đã tạo nên cho
con người thói quen ỷ lại, dựa dẫn vào kinh nghiệm cũ, ít địi hỏi phải năng
động sáng tạo. Với trình độ sản xuất nơng nghiệp lạc hậu, phụ thuộc nhiều vào
thời tiết khí hậu, địi hỏi nhiều ở sự vận động của cơ bắp hơn là của trí tuệ, trong
khi đó khoa học kỹ thuật lại khơng phát triển thì kinh nghiệ sản xuất đóng vai
trị hết sức to lớn. Đây là một nguyên nhân hình thành một cách tự phát tư tưởng
sùng bái kinh nghiệm, tuyệt đối hóa vai trị của kinh nghiệm. Chúng ta cũng
15



không thể không đồng ý với ý kiến của một số nhà nghiên cứu cho rằng: Cùng
với xã hội nông nghiệp cổ truyền phương Đông, nước ta từ khi chưa thoát khỏi
xã hội nguyên thuỷ đã gặp ngay giặc ngoại xâm từ phương Bắc và nạn ngoại
xâm đã đe doạ thường trực suốt 20 thế kỷ. Hồn cảnh đó bắt ông cha ta chỉ được
nghĩ đến những chuyện thiết thực trước mắt, ít có thì giờ để lo tính cái lâu dài,
phát triển khoa học kỹ thuật và phát triển tư duy hệ thống chính xác. Trong hồn
cảnh đó việc hình thành thái độ tuyệt đối hố kinh nghiệm là điều khó tránh
khỏi. Sự đe doạ thường trực của giặc ngoại xâm và của thiên tai đã cố kết cộng
đồng các dân tộc Việt gắn bó chặt chẽ với nhau, từ đó hun đúc nên tâm hồn cốt
cách Việt Nam giàu lịng nhân ái, vị tha, thương u đồn kết, đùm bọc lẫn
nhau. Đó là giá trị tinh thần truyền thống dân tộc vơ cùng q báu nhưng chính
nó lại là nguyên nhân nảy sinh lối tư duy thường nặng về tình hơn về lý, làm hạn
chế sự phát triển tư duy lý luận.
Ba là ảnh hưởng của tư tưởng phong kiến, tiểu tư sản.
Chế độ phong kiến đã đè nặnglên đời sống tinh thần của xã hội nước ta
hàng nghìn năm bằng các học thuyết của Nho-Phật-Lão. Các học thuyết này đã
ảnh hưởng rất lớn tới mỗi người Việt Nam, đặc biệt là Nho giáo. Do nhu cầu
củng cố chế độ phong kiến tập quyền, từ thế kỷ XV, Nho giáo đã chiếm được vị
trí độc tơn trong xã hội phong kiến Việt Nam. Tất nhiên nó đã để lại những tác
động tích cực nhất định. Song, ở đây chúng ta chỉ xem xét khía cạnh tác động,
ảnh hưởng của nó tới việc làm nảy sinh và phát triển thực tiễn tư duy kinh
nghiệm, bệnh kinh nghiệm chủ nghĩa ở nước ta.
Có thể nói tác động rõ nét nhất của Nho giáo tới tư duy kinh nghiệm là
tinh thần phục cổ thái q của nó. Mặc dù ơng tổ của Nho giáo khuyên răn
người ta rằng “ôn cổ tri nhi tân, khả dĩ vi sư dã” (ôn việc cũ để biết cái mới, thì
có thể làm thầy mọi người), nhưng lại ln ln khẳng định “thuật như bất tác,
tín nhi hiếu cổ” (tôi chỉ thuật lại chứ không sáng tạo gì cả, tơi tin và u cái cổ).
Tơn trọng quá khứ là cần thiết và đáng trân trọng, song cái quan trọng hơn

là phải biết rút ra những bài học lịch sử. Nhưng Nho giáo lại dạy người ta chỉ
biết suy nghĩ và hành động theo kinh nghiệm của người xưa, điều gì trái với cổ
16


nhân, khơng có trong sách “Thánh hiền” thì khơng phải chân lý. Chính lối tư
duy đó dễ dẫn người ta tới chỗ hoài nghi cái lạ, dè dặt với cái mới, sùng bái kinh
nghiệm cũ, chỉ biết làm theo kinh nghiệm. Tinh thần “trọng cổ khinh kim” ấy đã
tạo nên cho người ta thói quen chỉ biết phê phán nhưng gì trái với cổ nhhân, trái
với lời dạy của “Thánh hiền”, chỉ thích cái mới trong khn khổ cái cũ. Trong
khi đó nho giáo lại củng cố đầu óc bảo thủ bằng tư tưởng “ nội hạ ngoại di” theo
kiểu tự đại tự cao của phong kiến Trung Quốc. Từ đó khơng chịu học hỏi các
dân tộc khác, chỉ biết có mình, tự cho mìh là giỏi, dẫn tới đóng cửa, lạ lẫm trước
những thành tựu mà nhân loại đã đạt được. Những điều này đã góp phần làm
cho tư duy lý luận trở nên yếu kém, bệnh kinh nghiệm, bệnh giáo điều có điều
kiện nảy sinh và phát triển.
2.2. Vận dụng nguyên tắc thống nhất giữa lý luận với thực tiễn vào
nhận thức vấn đề ngăn ngừa, khắc phục bệnh nghiệm, bệnh giáo điều ở đội
ngũ cán bộ nước ta hiện nay
Vận dụng sáng tạo nguyên tắc thống nhất lý luận với thực tiễn để khắc
phục bệnh kinh nghiệm, bệnh giáo điều trong cán bộ ta hiện nay rất quan trọng,
tuy nhiên đó khơng phải là chuyện giản đơn một sớm một chiều, nó địi phải có
thời gian và phải có những biện pháp tổng thể. Trước mắt cần phải có những giải
pháp cụ thể, nhằm hạn chế ngăn ngừa một cách có hiệu quả. Đảng ta ln ln
chú trọng khắc phục căn bệnh này. Từ văn kiện Đại hội lần thứ III tháng 9-1960,
Đảng ta đều có đề cập tới nhiệm vụ khắc phục bệnh kinh nghiệm, bệnh giáo điều
trong cán bộ ta. Song phải thẳng thắn thừa nhận rằng hiệu quả cịn thấp. Đó là vì
một phần do chúng ta chưa có cơ chế để thực hiện có hiệu quả những biện pháp
đó. Theo chúng tơi, để khắc phục và ngăn ngừa có hiệu quả bệnh kinh nghiệm,
bệnh giáo điều trong cán bộ ta, trước mắt cần thực hiện một số biện pháp cơ bản

dưới đây:
Một là, nâng cao trình độ văn hố, khoa học, kỹ thuật cho nhân dân nói
chung, cho cán bộ nói riêng, trên cơ sở đó nâng cao trình độ năng lực tư duy lý
luận cũng như trình độ lý luận cho đội ngũ cán bộ. Thực tế chỉ ra rằng, muốn
làm được điều này, trước hết phải nâng cao trình độ của đội ngũ cán bộ làm công
17


tác lý luận, tuyên truyền giáo dục chủ nghĩa Mác - Lênin; phải đổi mới công tác
giáo dục đào tạo, công tác thông tin khoa học, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng
trên lĩnh vực này; phải trau dồi hơn nữa phương pháp tư duy duy vật biện chứng.
Đối với mỗi cán bộ đảng viên, cùng với việc trau dồi phảm chất đạo đức cách
mạng, phải không ngừng ra sức học tập, vì trình độ tư duy lý luận khơng phải
người ta sinh ra vốn đã có sẵn mà là kết quả của nhiều yếu tố khác nhau, trong đó
việc học tập bằng những hình thức khác nhau để nâng cao vốn tri thức, cơ sở
không thể thiếu để nâng cao trình độ tư duy lý luận, là vơ cùng quan trọng.
Hai là, tăng cường tổng kết thực tiễn quán triệt sự thống nhất giữa thực
tiễn và lý luận vì trau dồi rèn luyện tư duy lý luận không chỉ thơng qua học tập
mà cịn phải thơng qua sự vận dụng và trải nghiệm thực tiễn. Tổng kết thực tiễn
thì khơng thể có lý luận. Cùng với tăng cường tổng kết thực tiễn, phải quán triệt
tốt sự thống nhất giữa thực tiễn và lý luận. phải nhanh chóng bồi dưỡng, đào tạo
để hình thành đội ngũ cán bộ vừa có trình độ tư duy lý luận, trình độ lý luận, vừa
am hiểu thực tiễn, bởi lẽ “có kinh nghiệm mà khơng có lý luận cũng như một
mắt sáng một mắt mù” [5, tr.189], hơn nữa hoạt động thực tiễn sẽ vịng vo, mị
mẫm quanh quẩn, thậm chí mất phương hướng. Xa vời thực tiễn thì lý luận sẽ
trở nên giáo điều, sách vở, trống rỗng.
Ba là, khắc phục tâm lý sản xuất nhỏ, tư tưởng phong kiến, tiểu tư sản. Để
khắc phục chúng có hiệu quả, chúng ta phải kết hợp đồng bộ nhiều biện pháp:
kinh tế, hành chính, văn hố, giáo dục, v.v..., trong đó biện pháp kinh tế đóng vai
trị vơ cùng quan trọng. Chỉ có nền sản xuất lớn với quy trình cơng nghệ sản

xuất tiên tiến, cơng cụ lao động tinh vi có hàm lượng trí tuệ cao mới khắc phục
được tâm lý sản xuất nhỏ, cũng như tư tưởng phong kiến, tiểu tư sản. Tuy vậy,
ngay từ bây giờ khi chưa có đủ cơ sở vật chất to lớn ấy, chúng ta phải từng bước
tuyên truyền, cải tạo, giáo dục nhằm hạn chế tối đa ảnh hưởng tiêu cực của
chúng tới phong cách tư duy của cán bộ ta. Đồng thời, phải xây dựng được bầu
khơng khí dân chủ trong cơng tác nghiên cứu lý luận, nghiên cứu khoa học và
giải quyết thoả đáng mối quan hệ giữa lý luận và chính trị.
Bốn là, đẩy mạnh sự nghiệp cơng nghiệp hố, hiện đại hố đất nước. Đây
là giải pháp cơ bản có tính quyết định để khắc phục triệt để lối tư duy của người
18


sản xuất nhỏ. Nền sản xuất nhỏ, manh mún, phân tán đã sinh ra những con
người có tầm nhìn hạn hẹp, chỉ biết hành động theo thói quen và những kinh
nghiệm cũ, an phận, kém chí tiến thủ vươn lên. Nền sản xuất nhỏ với những
công cụ thủ công là chủ yếu và dựa vào những kinh nghiệm sản xuất được
truyền lại từ thế hệ này sang thế hệ khác, đòi hỏi sự vận động của cơ bắp, sự cần
cù chịu khó nhiều hơn là sự vận động của trí óc đã làm cho tư duy lý luận chẳng
những không được phát triển mà còn trở nên yếu kém.
Người sản xuất nhỏ bị bó hẹp trong mối quan hệ làng xã khép kín, khơng
được tiếp xúc với nền cơng nghiệp hiện đại và những thành tựu văn hoá, khoa
học kỹ thuật tiên tiến nên họ thường hạn chế về tầm nhìn, cách suy nghĩ, dễ trở
nên bảo thủ, trì trệ, cục bộ, bản vị địa phương, phường hội, gia trưởng, v.v.. Tất
cả những điều này đã cản trở tư duy phát triển có tính hệ thống, chặt chẽ về
lơgích, nhưng lại thúc đẩy tư duy kinh nghiệm, bệnh kinh nghiệm chủ nghĩa nảy
sinh, tồn tại và phát triển. Cho nên muốn khắc phục và ngăn ngừa có hiệu quả
bệnh kinh nghiệm chủ nghĩa thì cùng với việc thực hiện những biện pháp khác
cần phải đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá để đưa đất nước đi
lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa. Chỉ có nền sản xuất lớn hiện đại với quy trình
cơng nghệ tiên tiến, những cơng cụ lao động có hàm lượng trí tuệ cao, thì mới

khắc phục được căn bản và triệt để những hậu quả của nền sản xuất nhỏ để lại.
Chính quy trình cơng nghệ sản xuất tiên tiến với những cơng cụ lao động có hàm
lượng trí tuệ cao này địi hỏi những người sản xuất phải có trình độ văn hố,
trình độ chun mơn nghiệp vụ nhất định thì mới đáp ứng được yêu cầu của sản
xuất và quản lý. Nền sản xuất như vậy sẽ tạo ra những điều kiện vật chất thích
ứng người sản xuất phải động não, phải biết tư duy sáng tạo trong lao động sản
xuất, dám nghĩ, dám tìm tịi cái mới, v.v..
Những giải pháp này phải được thực hiện đồng bộ, song điều quan trọng
là phải có được cơ chế phù hợp, tức là phải có được những chính sách cụ thể
được thể chế hoá về mặt nhà nước, tạo điều kiện cho những biện pháp đó được
thực thi trên thực tế. Có như vậy chúng ta mới dần dần khắc phục và ngăn ngừa
có hiệu quả được bệnh kinh ngiệm, bệnh giáo điều, góp phần nâng cao năng lực
trí tuệ của Đảng.
19


KẾT LUẬN
Thực tiễn phát triển kinh tế - xã hội ở nước ta trong những năm qua cho
thấy, cùng với những căn bệnh khác, đội ngũ cán bộ đã mắc phải bệnh kinh
nghiệm, bệnh giáo điều. Theo hướng tiếp cận tương đối có hệ thống cho phép
chúng ta nhận thức đúng đắn bệnh kinh nghiệm, bệnh giáo điều và tác hại to lớn
của nó cả trong hoạt động nhận thức cũng như hoạt động thực tiễn.
Cuộc đấu tranh khắc phục và ngăn ngừa bệnh kinh nghiệm, bệnh giáo
điều phải được tiến hành một cách tích cực thường xuyên, liên tục, bền bỉ và gắn
bó hữu cơ với q trình đổi mới xã hội trên mọi lĩnh vực, đồng thời phải gắn liền
với đấu tranh chống những ảnh hưởng độc hại của tư tưởng tiểu tư sản, tư tưởng
phong kiến, bảo thủ, cục bộ địa phương, chủ nghĩa thành tích, chủ nghĩa cá
nhân, thói ỷ lại, bệnh lười học tập v.v... Nắm vững và vận dụng sáng tạo chủ
nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đặc biệt là nguyên tắc thống nhất
giữa lý luận và thực tiễn, chủ trương đường lối của Đảng, chính sách của Nhà

nước mà trong đó phương pháp tư duy biện chứng duy vật là nền tảng, là điều
kiện cốt yếu nhất để khắc phục, ngăn ngừa bệnh kinh nghiệm, bệnh giáo điều có
hiệu quả.

20


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. C.Mác và Ph.ăng-ghen toàn tập, tập 3, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật,
Hà Nội, 1976.
2. C.Mác và Ph.ăng-ghen tồn tập, tập 13, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật,
Hà Nội, 1976.
3. C.Mác và Ph.ăng-ghen tồn tập, tập 20, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật,
Hà Nội, 1976.
4. Hồ Chí Minh, tồn tập, tập 3, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2011.
5. Hồ Chí Minh, tồn tập, tập 9, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2011.
6. V.I.Lênin, toàn tập, tập 3, Nxb Tiến bộ Mátxcơva, 1976.
7. V.I.Lênin, toàn tập, tập 5, Nxb Tiến bộ Mátxcơva, 1976.
8. V.I.Lênin, toàn tập, tập 15, Nxb Tiến bộ Mátxcơva, 1976.
9.V.I.Lênin, toàn tập, tập 30, Nxb Tiến bộ Mátxcơva, 1976.

21



×