Tải bản đầy đủ (.doc) (31 trang)

Tiểu luận triết học: Nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn và sự vận dụng trong hoạt động nhận thức và thực tiễn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (247.42 KB, 31 trang )

Đề tài: Nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn. Sự vận dụng trong hoạt động nhận
thức và thực tiễn

Lời mở đầu
Ngày nay, triết học là một bộ phận không thể tách rời với sự phát triển của bất
cứ hình thái kinh tế nào. Những vấn đề triết học về lý luận nhận thức, phương
pháp biện chứng... luôn là cơ sở, là phương hướng, là tôn chỉ cho hoạt động
thực tiễn, xây dựng và phát triển xã hội. Nếu xuất phát từ một lập trường triết
học đúng đắn, con người có thể có được những cách giải quyết phù hợp với các
vấn dề do cuộc sống đặt ra. Việc chấp nhận hay không chấp nhận một lập
trường triết học nào đó sẽ không chỉ đơn thuần là sự chấp nhận một thế giới
quan nhất định, một cách lý giải nhất định về thế giới, mà còn là sự chấp nhận
một cơ sở phương pháp luận nhất định chỉ đạo cho hoạt động.
Chúng ta biết rằng, triết học là một trong ba bộ phận cấu thành của chủ nghĩa
Mác. Lênin đã chỉ rõ rằng chủ nghĩa duy vật biện chứng đó chính là triết học của
chủ nghĩa Mác. Cho đến nay, chỉ có triết học Mác là mang tính ưu việt hơn cả.
Trên cơ sở nền tảng triết học Mác - Lênin, Đảng và Nhà nước ta đã học tập và
tiếp thu tư tưởng tiến bộ, đề ra những mục tiêu, phương hướng chỉ đạo chính
xác, đúng đắn để xây dựng và phát triển xã hội, phù hợp với hoàn cảnh đất
nước. Mặc dù có những khiếm khuyết không thể tránh khỏi song chúng ta luôn
đi đúng hướng trong cải tạo thực tiễn, phát triển kinh tế, từng bước đưa đất
nước ta tiến kịp trình độ các nước trong khu vực và thế giới về mọi mặt. Chính
những thành tựu của xây dựng chủ nghĩa xã hội và qua nhiều năm đổi mới là
những minh chứng xác đáng nhất. Trên cơ sở đó, để hiểu rõ thêm những gì
đang diễn ra xung quanh, Chúng ta sẽ cùng nhau xem xét và thảo luận đề tài
“Nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn. Sự vận dụng trong hoạt
động (nhận thức/thực tiễn)”.
Đề tài triển khai gồm 2 phần chính:
Phần I : Một số khái niệm liên quan đến phạm trù lý luận, thực tiễn và mối quan
hệ giữa lý luận và thực tiễn
Phần II : Vận dụng nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn vào trong


hoạt động.

Xin chân thành cảm ơn !

Nhóm thực hiện: Nhóm 7

1


Đề tài: Nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn. Sự vận dụng trong hoạt động nhận
thức và thực tiễn

PHẦN I :
MỘT SỐ KHÁI NIỆM LIÊN QUAN ĐÊN PHẠM TRÙ LÝ LUẬN, THỰC TIỄN VÀ
MỐI QUAN HỆ GIỮA LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
I/ Phạm trù lý luận và phạm trù thực tiễn
1.Nhận thức luận của các nhà triết học trước Mác
Becon – nhà triết học duy vật Anh, người đặt nền móng cho sự phát triển của chủ
nghĩa duy vật siêu hình TK XVII-XVIII, có thể được coi là nhà triết học đầu tiên
thấy được vai trò của thực tiễn, của khoa học thực nghiệm trong quá trình nhận
thức, trong quá trình hình thành tri thức. Ông đã nhấn mạnh nhiệm vụ của triết học
là tìm ra con đường nhận thức giới tự nhiên. Theo ông, quá trình nhận thức phải
kiên quyết chống chủ nghĩa kinh viện, chủ nghĩa kinh nghiệm. Nhận thức phải xuất
phát từ giới tự nhiên và thực nghiệm để tìm ra mối quan hệ nhân quả, phát hiện và
kiểm tra chân lý.
Phoiơbắc-nhà triết học duy vật Đức đầu thế kỷ XIX đã đề cập đến thực tiễn,
nhưng đối với ông, chỉ có lý luận mới thực sự là hoạt động chân chính của con
người, còn thực tiễn mang tính chất con người bẩn thỉu.
Hêghen – nhà triết học duy tâm Đức cuối thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX đã có một số
tư tưởng hợp lý, sâu sắc về thực tiễn. Hêghen cho rằng, bằng thực tiễn, chủ thể tự

“nhân đôi” mình, đối tượng hoá bản thân mình trong quan hệ với thế giới bên
ngoài, nhưng ông chỉ giới hạn thực tiễn ở ý niệm, ở hoạt động tư tưởng. Đối với
ông, thực tiễn là “suy lý lôgíc”.
Các nhà triết học duy vật trước Mác cho rằng, quá trình hình thành ý thức của con
người mang tính thụ động. Do đó nhận thức luận của họ còn nhiều hạn chế. Họ
chưa đặt ra vai trò của thực tiễn đối với nhận thức. Song cái được của họ là đã đề
cập đến vai trò của thực nghiệm trong khoa học và đây thực sự là một trong
những tiền đề đặt nền tảng cho quan niệm thực tiễn của triết học Mác.
2. Phạm trù thực tiễn và lý luận trong triết học Mac-Lenin
2.1 Phạm trù thực tiễn:
Phạm trù thực tiễn là một trong những phạm trù nền tảng, cơ bản của triết học
Mác - Lênin nói chung và của lý luận nhận thức mácxít nói riêng. Trong lịch sử

Nhóm thực hiện: Nhóm 7

2


Đề tài: Nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn. Sự vận dụng trong hoạt động nhận
thức và thực tiễn

triết học không phải mọi trào lưu đều đã đưa ra quan niệm một cách đúng đắn về
phạm trù này. Chẳng hạn chủ nghĩa duy tâm chỉ hiểu thực tiễn như là hoạt động
tinh thần sang tạo ra thế giới của con người, chứ không xem nó là hoạt động vật
chất, là hoạt động lịch sử xã hội. Ngược lại, chủ nghĩa duy vật trước Mác, mặc
dù đã hiểu thực tiễn là một hành động vật chất của con người nhưng lại xem đó
là hoạt động con buôn, đê tiện, bẩn thỉu. Nó không có vai trò gì đối với nhận thức
của con người.
Khắc phục những yếu tố sai lầm, kế thừa và phát triển sáng tạo những yếu tố
hợp lý trong những quan niệm về thực tiễn của các nhà triết học trước

đó, C.Mác và Ph.Ăngghen đã đưa ra một quan niệm đúng đắn, khoa học về thực
tiễn và vai trò của nó đối với nhận thức cũng như đối với sự tồn tại và phát triển
của xã hội loài người. Với việc đưa phạm trù thực tiễn vào lý luận nhận thức, các
nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác Lênin đã tạo nên một bước chuyển biến cách
mạng trong triết học nói chung và trong lý luận nhận thức nói riêng.
Thực tiễn là toàn bộ hoạt động vật chất có mục đích mang tính lịch sử –xã hội
của con người nhằm cải tạo tự nhiên, xã hội và bản thân con người.
Thực tiễn biểu hiện rất đa dạng với nhiều hình thức ngày càng phong phú, song
có ba hình thức cơ bản là hoạt động sản xuất vật chất, hoạt động chính trị xã hội
và hoạt động thực tiễn có mục đích .
2.1.1 Thực tiễn là toàn bộ hoạt động sản xuất vật chất
là hình thức hoạt động cơ bản, đầu tiên của thực tiễn. Đây là hoạt động mà
trong đó con người sử dụng các phương tiện, công cụ, sức mạnh vật chất của
mình để tác động vào tự nhiên, xã hội nhằm cải tại, biến đổi chúng phù hợp
với nhu cầu của mình. Đây là một quá trình tương tác giữa chủ thể và khách
thể. Trong đó, chủ thể hướng vào việc cải tạo khách thể. Cho nên thực tiễn
trở thành khâu trung gian nối liền ý thức con người với thế giới bên ngoài.
2.1.2 Hoạt động thực tiễn có mục đích
là một hình thức đặc biệt của thực tiễn. Đây là hoạt động được tiến hành trong
những điều kiện do con người tạo ra gần giống, giống hoặc lặp lại những trạng
thái của tự nhiên và xã hội nhằm xác định các quy luật biến đổi và phát triển của

Nhóm thực hiện: Nhóm 7

3


Đề tài: Nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn. Sự vận dụng trong hoạt động nhận
thức và thực tiễn


đối tượng nghiên cứu.. Động vật chỉ hoạt động theo bản năng để phù hợp với thế
giới bên ngoài một cách thụ động còn con người chủ động thích nghi với thế giới
bên ngoài bằng cách cải tạo thể giới thoả mãn theo nhu cầu và mục đích của
mình.Khi hoạt động thực tiễn, để đạt hiệu quả cao, con người tạo ra những vật
phẩm không có sẵn trong tự nhiên, đó chính là những công cụ, và sử dụng chúng.
Dạng hoạt động thực tiễn này ngày càng có vai trò quan trọng trong sự phát triển
của xã hội, đặc biệt là trong thời kỳ cách mạng khoa học và công nghệ hiện
đại
2.1.3 Thực tiễn có tính chất lịch sử xã hội
là hoạt động của các tổ chức cộng đồng người khác nhau trong xã hội nhằm
cải biến những mối quan hệ xã hội để thúc đẩy xã hội phát triển.
Mỗi hình thức hoạt động cơ bản của thực tiễn có một chức năng quan trọng khác
nhau, không thể thay thế được cho nhau song giữa chúng có mối quan hệ chặt
chẽ với nhau, tác động qua lại lẫn nhau. Trong mối quan hệ đó, hoạt động sản
xuất vật chất là hoạt động cơ bản nhất, đóng vai trò quyết định đối với các hoạt
động khác. Bởi vì, nó là hoạt động nguyên thuỷ nhất và tồn tại một cách khách
quan, thường xuyên nhất trong đời sống của con người và nó tạo ra những điều
kiện, của cải thiết yếu có tính quyết định đối với sự sinh tồn và phát triển của con
người. Không có hoạt động sản xuất vật chất thì không thể có các hình thức hoạt
động khác. Các hình thức hoạt động khác suy cho cùng cũng xuất phát từ hoạt
động sản xuất vật chất và phục vụ cho hoạt động sản xuất của con người.
Nói như thế không có nghĩa là các hình thức hoạt động chính trị xã hội và thực
nghiệm khoa học là hoàn toàn thụ động, lệ thuộc một chiều vào hoạt động sản
xuất vật chất. Ngược lại, chúng có tác động kìm hãm hoặc thúc đẩy hoạt
động sản xuất phát triển. Chẳng hạn, nếu hoạt động chính trị xã hội mang tính
chất tiến bộ, cách mạng và nếu hoạt động thực nghiệm khoa học mà đúng đắn
sẽ tạo đà cho hoạt động sản xuất phát triển. Còn nếu hoạt động chính trị xã hội
mà lạc hậu, phản cách mạng và nếu hoạt động thực nghiệm mà sai lầm, không
khoa học sẽ kìm hãm sự phát triển của hoạt động sản xuất vật chất.
Chính sự tác động qua lại lẫn nhau của các hình thức hoạt động cơ bản đó

làm cho thực tiễn vận động, phát triển không ngừng và ngày càng có vai trò
Nhóm thực hiện: Nhóm 7

4


Đề tài: Nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn. Sự vận dụng trong hoạt động nhận
thức và thực tiễn

quan trọng đối với nhận thức.
2.2 Phạm trù lý luận
Lý luận là kinh nghiệm đã được khái quát trong ý thức của con người, là
toàn bộ tri thức về thế giơí khách quan , là hệ thống tương đối độc lập của các tri
thức có tác dụng táI hiện trong logic của các khái niệm cái logic khách quan của
các sự vật. Nói cách khác lý luận là hệ thống những tri thức được khái quát từ
thực tiễn, phản ánh những mối liên hệ bản chất, những quy luật của các sự vật
hiện tượng.
Khác với các quan điểm duy tâm, tôn giáo Triết học Mác-Lênin khẳng định
lý luận là kết quả của quá trình nhận thức. Quá trình nhận thức đi từ nhận thức
cảm tính đến nhận thức lý tính, từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng.
Nhận thức cảm tính (trực quan sinh động ) là giai đoạn đầu, trình độ thấp của
quá trình nhận thức, nó phản ánh trực tiếp, cụ thể, sinh động hiện thực khách
quan vào các giác quan của con người bao gồm 3 hình thức cơ bản: cảm giác,
tri giác và biểu tượng. Nhận thức lý tính (tư duy trừu tượng) là giai đoạn cao,
trình độ cao của quá trình nhận thức, nó được hình thành từ những tài liệu do
nhận thức cảm tính đem lại, bao gồm 3 hình thức cơ bản là khái niệm, phán
đoán và suy luận. Như vậy lý luận là kết quả của quá trình phát triển cao của
nhận thức, là trình độ cao của nhận thức.
Lý luận mang tính hệ thống, nó ra đời trên cơ sở đáp ứng nhu cầu của xã hội
nên bất kỳ một lý luận nào cũng mang tính mục đích và ứng dụngvà nó mang

tính hệ thống cao, tổ chức có khoa học.
2.3 Vai trò rất to lớn của thực tiễn đối với nhận thức
Hoạt động thực tiễn là cơ sở, là nguồn gốc, là động lực, là mục đích, là tiêu
chuẩn của nhận thức.
Sở dĩ như vậy vì thực tiễn là điểm xuất phát trực tiếp của nhận thức. Nó đề ra
nhu cầu, nhiệm vụ, cách thức và khuynh hướng vận động và phát triển của
nhận thức. Chính con người có nhu cầu tất yếu khách quan là giải thích và cải
tạo thế giới mà buộc con người phải tác động trực tiếp vào các sự vật, hiện
tượng bằng hoạt động thực tiễn của mình. Sự tác động đó làm cho các sự vật,
hiện tượng bộc lộ những thuộc tính, những mối liên hệ và quan hệ khác nhau
giữa chúng, đem lại những tài liệu cho nhận thức, giúp cho nhận thức nắm bắt
được bản chất, các quy luật vận động và phát triển của thế giới. Trên cơ sở đó
mà hình thành nên các lý thuyết khoa học chẳng hạn như sự xuất hiện học

Nhóm thực hiện: Nhóm 7

5


Đề tài: Nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn. Sự vận dụng trong hoạt động nhận
thức và thực tiễn

thuyết mácxít vào những năm 40 của thế kỷ XIX cũng bắt nguồn từ hoạt động
thực tiễn của các phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân chống lại giai
cấp tư sản bấy giờ. Ngay cả những thành tựu khoa học mới đây nhất là khám
phá và giải mã bản đồ gen người cũng ra đời từ chính hoạt động thực tiễn, từ
nhu cầu đòi hỏi phải chữa trị những căn bệnh nan y và từ nhu cầu tìm hiểu, khai
thác những tiềm năng bí ẩn của con người... Có thể nói, suy cho cùng không có
một lĩnh vực tri thức nào mà lại không xuất phát từ thực tiễn, không nhằm vào
việc phục vụ, hướng dẫn thực tiễn. Do đó, nếu thoát ly thực tiễn, không dựa vào

thực tiễn thì nhận thức sẽ xa rời cơ sở hiện thực nuôi dưỡng sự phát sinh, tồn
tại và phát triển của mình.
2.3.1. Thực tiễn là cơ sở, nguồn gốc của nhận thức
Trong hoạt động thực tiễn, con người làm biến đổi thế giới khách quan, bắt các
sự vật, hiện tượng của thế giới khách quan phải bộc lộ những thuộc tính và quy
luật của chúng. Trong quá trình hoạt động thực tiễn luôn luôn nảy sinh các vấn
đề đòi hỏi con người phải giải đáp và do đó nhận thức được hình thành. Như
vậy, qua hoạt động thực tiễn mà con người tự hoàn thiện và phát triển thế giới
quan( tạo điều kiện cho nhận thức cao hơn).Qua hoạt động thực tiễn, não bộ
con người cũng ngày càng phát triển hơn, các giác quan ngày càng hoàn thiện
hơn.Thực tiễn là nguồn tri thức, đồng thời cũng là đối tượng của nhận thức.
Chính hoạt động thực tiễn đã đặt ra các nhu cầu cho nhận thức, tạo ra các
phương tiện hiện đại giúp con người đi sâu tìm hiểu tự nhiên.
2.3.2 Thực tiễn là động lực của nhận thức
Ngay từ đầu, nhận thức đã bắt nguồn từ thực tiễn, do thực tiễn quy định. Mỗi
bước phát triển của thực tiễn lại luôn luôn đặt ra những vấn đề mới cho nhận
thức, thúc đẩy nhận thức tiếp tục phát triển. Như vậy thực tiễn trang bị những
phương tiện mới, đặt ra những nhu cầu cấp bách hơn, nó rà soát sự nhận thức.
Thực tiễn lắp đi lắp lại nhiều lần, các tài liệu thu thập được phong phú, nhiều vẻ,
con người mới phân biệt được đâu là mối quan hệ ngẫu nhiên bề ngoài, đâu là
mối liên hệ bản chất, những quy luật vận động và phát triển của sự vật.
2.3.3. Thực tiễn là mục đích của nhận thức
Những tri thức khoa học chỉ có ý nghĩa thực tiễn khi nó được vận dụng vào thực
tiễn. Mục đích cuối cùng của nhận thức không phải là bản thân các tri thức mà là
nhằm cải tạo hiện thức khách quan, đáp ứng những nhu cầu vật chất và tinh

Nhóm thực hiện: Nhóm 7

6



Đề tài: Nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn. Sự vận dụng trong hoạt động nhận
thức và thực tiễn

thần xã hội. Sự hình thành và phát triển của nhận thức là bắt nguồn từ thực tiễn,
do yêu cầu của thực tiễn.
Nhận thức chỉ trở về hoàn thành chức năng của mình khi nó chỉ đạo hoạt
động thực tiễn, giúp cho hoạt động thực tiễn có hiệu quả hơn. Chỉ có thông qua
hoạt động thực tiễn, thì tri thức con người mới thể hiện được sức mạnh của
mình, sự hiểu biết của con người mới có ý nghĩa.
2.3.4 Thực tiễn là tiêu chuẩn của nhận thức
Bằng thực tiễn mà kiểm chứng nhận thức đúng hay sai. Khi nhận thức đúng thì
nó phục vụ thực tiễn phát triển và ngược lại.
2.3.5 Thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý
a.Chân lý
Là những tri thức phản ánh đúng đắn thế giới khách quan được thực tiễn
khẳng định ( nội dung khách quan, có ý nghĩa giá trị đối với đời sống con người).
Chân lý mang tính khách quan, nó không phụ thuộc vào số đông như chân lý tôn
giáo
Tính khách quan của chân lý là tính độc lập về nội dung phản ánh của nó đối với
ý thức của con người và loài người. Điều đó có nghĩa là nội dung của những tri
thức đúng đắn không phải là sản phẩm thuần túy chủ quan, không phải là sự xác
lập tùy tiện của con người hoặc có sẵn ở trong nhận thức mà nội dung đó
thuộc về thế giới khách quan, do thế giới khách quan quy định
Chân lý không chỉ có tính khách quan mà nó còn có tính tuyệt đối và tính
tương đối. Tính tuyệt đối của chân lý là tính phù hợp hoàn toàn và đầy đủ giữa
nội dung phản ánh của tri thức với hiện thực khách quan. Về nguyên tắc, chúng
ta có thể đạt đến tính tuyệt đối của chân lý (chân lý tuyệt đối). Bởi vì, trong thế
giới khách quan không tồn tại một sự vật, hiện tượng nào mà con người hoàn
toàn không thể nhận thức được. Khả năng đó trong quá trình phát triển là vô

hạn. Song khả năng đó lại bị hạn chế bởi những điều kiện cụ thể của từng thế
hệ khác nhau và bởi điều kiện xác định về không gian và thời gian của đối
tượng được phản ánh. Do đó chân lý lại có tính tương đối.
Tính tương đối của chân lý là tính phù hợp nhưng chưa hoàn toàn đầy đủ
giữa nội dung phản ánh của những tri thức với hiện thực khách quan. Điều đó
có nghĩa là giữa nội dung của chân lý với khách thể được phản ánh chỉ
mới phù hợp từng phần, từng bộ phận, ở một số mặt, một số khía cạnh nào
Nhóm thực hiện: Nhóm 7

7


Đề tài: Nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn. Sự vận dụng trong hoạt động nhận
thức và thực tiễn

đó trong những điều kiện nhất định.
Ngoài tính khách quan, tính tuyệt đối và tính tương đối, chân lý còn có tính cụ
thể. Tính cụ thể của chân lý là đặc tính gắn liền và phù hợp giữa nội dung phản
ánh với một đối tượng nhất định cùng các điều kiện, hoàn cảnh lịch sử, cụ thể.
Điều đó có nghĩa là mỗi tri thức đúng đắn bao giờ cũng có một nội dung nhất định.
Nội dung đó không phải là sự trừu tượng thuần túy thoát ly hiện thực mà nó luôn
luôn gắn liền với một đối tượng xác định, diễn ra trong một không gian, thời gian
hay một hoàn cảnh nào đó, trong một mối liên hệ, quan hệ cụ thể. Vì vậy, bất kỳ
chân lý nào cũng gắn liền với những điều kiện lịch sử - cụ thể, cũng có tính cụ thể.
Nếu thoát ly những điều kiện lịch sử cụ thể thì những tri thức được hình thành
trong quá trình nhận thức sẽ rơi vào sự trừu tượng thuần túy. Như vậy, mỗi
chân lý đều có tính khách quan, tính tương đối, tính tuyệt đối và tính cụ thể. Các
tính chất đó của chân lý có quan hệ chặt chẽ với nhau, không tách rời nhau. Thiếu
một trong các tính chất đó thì những tri thức đạt được trong quá trình nhận thức
không thể có giá trị đối với đời sống của con người.

b. Thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý
Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng, tiêu chuẩn để kiểm tra
chân lý không phải là ý thức tư tưởng, tư duy mà là thực tiễn. Bởi vì chỉ có thông
qua hoạt động thực tiễn, tri thức mới trở lại tác động vào thế giới vật chất, qua
đó nó được ”hiện thực hoá”, “vật chất hơn” thành các khách thể cảm tính. Từ đó
mới có căn cứ để đánh giá nhận thức của con người đúng hay sai, có đạt tới
chân lý hay không.
Thực tiễn có rất nhiều hình thức khác nhau, nên nhận thức của con người cũng
được kiểm tra thông qua rất nhiều hình thức khác nhau.Thực tiễn của xã hội
luôn luôn vận động và phát triển và trong mỗi giai đoạn lịch sử đều có giới hạn.
Nó không thể chứng minh hay bác bỏ hoàn toàn một tri thức nào đó của con
người mà nó được thực tiễn tiếp theo chứng minh, bổ sung thêm.
Như vậy tiêu chuẩn thực tiễn cũng mang tính chất biện chứng và như vậy mới
có khả năng kiểm tra một cách chính xác sự phát triển biện chứng của nhận
thức.
II Nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn :
Mối quan hệ giữa lý luận và thực tiễn được thể hiện bằng mối quan hệ giữa
nhận thức và thực tiễn. Giữa lý luận và thực tiễn thống nhất biện chứng với
nhau. Sự thống nhất đó bắt nguồn từ chỗ: chúng đều là hoạt động của con
Nhóm thực hiện: Nhóm 7

8


Đề tài: Nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn. Sự vận dụng trong hoạt động nhận
thức và thực tiễn

người, đều nhằm mục đích cải tạo tự nhiên và cải tạo xã hội để thoả mãn nhu
cầu của con người. Lý luận được hình thành không phải ở bên ngoài thực tiễn
mà trong mối liên hệ chặt chẽ với thực tiễn. Hai hoạt động này thống nhất không

tách rời nhau, gắn bó xâm nhập, làm cơ sở, tiền đề cho nhau phát triển. Giữa
thực tiễn và lý luận có mối liên hệ biện chứng với nhau, tác động qua lại lẫn
nhau, và trong đó thực tiễn giữ vai trò quyết định.
1. Lý luận bắt nguồn từ thực tiễn
Lý luận dựa trên nhu cầu của thực tiễn và lấy được chất liệu của thực
tiễn. Thực tiễn là hoạt động cơ bản nhất của con người, quyết định sự tồn tại và
phát triển xã hội. Lý luận không có mục đích tự nó mà mục đích cuối cùng là
phục vụ thực tiễn. Sức sống của lý luận chính là luôn luôn gắn liền với thực tiễn,
phục vụ cho yêu cầu của thực tiến.
2. Lý luận mở đường và hướng dẫn hoạt động của thực tiễn
Lý luận Mác - Lênin hướng dẫn con đường đấu tranh của giai cấp vô sản.
Sựthành công hay thất bại của hoạt động thực tiễn là tuỳ thuộc vào nó được
hướng dẫn bởi lý luận nào, có khoa học hay không? Sự phát triển của lý luận là
do yêu cầu của thực tiễn, điều đó cũng nói lên thực tiễn không tách rời lý luận,
không thể thiếu sự hướng dẫn của lý luận.
Vai trò của lý luận khoa học là ở chỗ: nó đưa lại cho thực tiễn các tri thức
đúng đắn về các quy luật vận động, phát triển của hiện thực khách quan, từ đó
mới có cơ sở để định ra mục tiêu và phương pháp đúng đắn cho hoạt động thực
tiễn.
Quan hệ lý luận và thực tiễn mang tính chất phức tạp, quan hệ đó có thể
là thống nhất hoặc mâu thuẫn đối lập.
3. Lý luận và thực tiễn là thống nhất
Lý luận và thực tiễn thống nhất khi giai cấp thống trị còn mang tinh thần
tiến bộ và còn giữ sứ mệnh lịch sử. Khi lý luận và thực tiễn thống nhất thì chúng
sẽ tăng cường lẫn nhau và phát huy vai trò của nhau. Sự thống nhất đó là một
trong những nguyên lý căn bản của triết học Mác- Lênin.
4. Thống nhất giữa lý luận và thực tiễn là một nguyên tắc căn bản của chủ
nghĩa Mác- Lênin.

Nhóm thực hiện: Nhóm 7


9


Đề tài: Nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn. Sự vận dụng trong hoạt động nhận
thức và thực tiễn

Lý luận là kim chỉ nam cho hành động, soi đường, dẫn dắt, chỉ đạo thực tiễn. Lý
luận xuất phát từ thực tiễn, dựa trên cơ sở thực tiễn, đi sâu đi sát thực tiễn, coi
trọng việc tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận phải liên hệ với thực tiễn bởi vì
chỉ có thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý để kiểm nghiệm lại lý luận đúng hay
sai. Nếu lý luận xa rời thực tiễn sẽ dẫn tới các sai lầm của bệnh chủ quan, giáo
điều, máy móc, bệnh quan liêu. Tuy nhiên tự bản thân lý luận luôn luôn phải đổi
mới để theo kịp sự phát triển của thực tiễn để khỏi phải lạc hậu, lỗi thời và phải
làm vai trò hướng dẫn chỉ đạo và thúc đẩy hoạt động thực tiễn bởi vì chỉ có một
lý luận khoa học, cách mạng thì hoạt động thực tiễn mới đạt hiệu quả cao được.
Lý luận có vai trò rất lớn đối với thực tiễn, tác động trở lại thực tiễn, góp phần
làm biến đổi thực tiễn thông qua hoạt động của con người.
Thực tiễn là cơ sở, nguồn gốc, động lực của lý luận. Bởi vì nó là nền tảng, là
điểm xuất phát, là nơi diễn ra hoạt động lý luận. Mặt khác hoạt động thực tiễn
thúc đẩy cho hoạt động lý luận con người và thông qua nó con người phát triển
bản chất, năng lực trí tuệ của mình. Thực tiễn còn là mục đích của nhận thức,
của lý luận bởi vì hoạt động lý luận không phải chỉ để lý luận mà là cải tạo tự
nhiên, xã hội nhằm phục vụ cho nhu cầu con người. Thực tiễn phải được chỉ
đạo, hướng dẫn bởi lý luận, khoa học, cách mạng. Nếu thực tiễn không có lý
luận dẫn đường thì thực tiễn sẽ trở nên mù quáng. Còn nếu thực tiễn được chỉ
đạo bởi lý luận sai lầm và phản cách mạng thì hậu quả sẽ khó lường.
5. Sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn góp phần thúc đẩy sự phát triển
của trình độ nhận thức:
Trình độ nhận thức ngày càng nâng cao thông qua sự phát triển và bổ sung của

tri thức kinh nghiệm và trình độ lý luận. Tri thức kinh nghiệm và trình độ lý luận là
2 yếu tố quan trọng đối với sự phát triển của trình độ nhận thức của con người.
Trong đó tri thức kinh nghiệm đại diện cho thực tiễn còn trình độ lý luận đại diện
cho lý luận.Tri thức kinh nghiệm được thu thập từ quan sát và thí nghiệm. Bao
gồm tri thức kinh nghiệm thông thường thu được từ quan sát hằng ngày trong
cuộc sống và lao động sản xuất và tri thức kinh nghiệm khoa học thu nhận được
từ những thí nghiệm khoa học.
Không nên coi thường kinh nghiệm, song cũng không nên cường điệu, không
nên dừng lại ở kinh nghiệm mà cần nâng cao lên trình độ lý luận.
Trình độ lý luận là tri thức khái quát từ tri thức kinh nghiệm. Lý luận không tự
phát mà có được trên cơ sở đúc kết kinh nghiệm và từ những lý luận cơ sở. Tri
thức lý luận mang tính trừu tượng và khái quát. Nhận thức sâu sắc về bản chất,

Nhóm thực hiện: Nhóm 7

10


Đề tài: Nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn. Sự vận dụng trong hoạt động nhận
thức và thực tiễn

quy luật của sự vật, hiện tượng. Lý luận tác động lại thực tiễn và thành định
hướng cho các hành động thực tiễn nhưng có hạn chế như do gián tiếp và trừu
tương nên có khả năng xa rời thực tiễn và trở thành ảo tưởng, giáo điều.Coi
trọng lý luận, không nên cường độ hóa lý luận và coi thường thực tiễn, tách lý
luận khỏi thực tiễn.
Sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn được thể hiện qua con đường biện
chứng của sự nhận thức
Nhận thức của con người diễn ra trên cơ sở thực tiễn và không ngừng vận
động, phát triển. Sự vận động và phát triển của nhận thức diễn ra một cách biện

chứng.Từ trực quan sinh động đến tư duy trìu tượng và từ tư duy trìu tượng đến
thực tiễn - đó là con đường biện chứng của sự nhận thức chân lý, của sự nhận
thức thực tại khách quan. Trực quan sinh động (hay nhận thức cảm tính) là giai
đoạn đầu của quá trình nhận thức, được hình thành trong quá trình thực tiễn.
Giai đoạn này được hình thành thông qua các hình thức cơ bản nối tiếp nhau:
cảm giác, tri giác, biểu tượng...Tư duy trì tượng (hay nhận thức lý tính) là giai
đoạn cao của quá trình nhận thức dựa trên cơ sở những tài liệu do giai đoạn
trực quan sinh động mang lại.
Nhận thức của con người phát triển đến giai đoạn tư duy trìu tượng chưa phải
là chấm dứt, mà nó lại tiếp tục vận động trở về với thực tiễn. Nhận thức phải trở
về với thực tiễn vì:
+ Mục đích của nhận thức là phục vụ hoạt động thực tiễn. Vì vậy nó phải
trở về chỉ đạo hoạt động thực tiễn cải tạo thế giới.
+ Đến giai đoạn tư duy trìu tượng vẫn có khả năng phản ánh sai lạc hiện
thực. Vì vậy, nhận thức phải quay trở về thực tiễn để kiểm tra kết quả nhận thức,
phân biệt đâu là nhận thức đúng, đâu là nhận thức sai lầm.
+ Thực tiễn luôn luôn vận động, phát triển. Vì vậy nhận thức phải trở về
với thực tiễn để trên cơ sở thực tiễn mới tiếp tục bổ sung, phát triển nhận thức.
Từ trực quan sinh động dến tư duy trìu tượng, và từ tư duy trìu tượng đến thực
tiễn là một vòng khâu của quá trình nhận thức. Nó cứ lặp đi lặp lại làm cho nhận
thức của con người phát triển không ngừng, ngày càng phản ánh sâu sắc bản
chất, quy luật của thế giới khách quan.

Nhóm thực hiện: Nhóm 7

11


Đề tài: Nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn. Sự vận dụng trong hoạt động nhận
thức và thực tiễn


PHẦN II :
VẬN DỤNG NGUYÊN TẮC THỐNG NHẤT GIỮA LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
TRONG HOẠT ĐỘNG
I.

Quá trình phát triển kinh tế Việt Nam

Công cuộc đổi mới chính thức bắt đầu từ việc Đảng ta thừa nhận và cho phép
phát triển kinh tế nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường. Đó là tất
yếu khách quan trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội hiện nay
Sự nghiệp đổi mới của nước ta cung cấp một bài học to lớn về nhận thức. Đó là
bài học về quán triệt quan điểm thực tiễn, nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa Mác
LêNin
Sau cuộc kháng chiến chống Pháp thắng lợi dựa vào kinh nghiệm của các nước
xã hội chủ nghĩa lúc đó nước ta bắt đầu xây dựng mô hình kế hoạch hóa tập
trung dựa trên chế độ công hữu về tư liệu sản xuất. Các hình thức tổ chức sản
xuất và dịch vụ quốc doanh được phát triển mạnh. Cùng với quốc doanh hợp tác
xã cũng phát triển rộng rãi ở thành thị và nông thôn.Với sự nỗ lực toàn Đảng
toàn dân, cùng với sự giúp đỡ nhiệt tình của các nước chủ nghĩa xã hội trên thế
giới mô hình kế hoạch hóa lúc đó phát huy tốt ưu việt của mình. Nước ta từ một
nền sản xuất lạc hậu, manh mún bằng công cụ kế hoạch hóa, nước ta đã tập
trung được vào trong tay một số lượng vật chất quan trọng về cơ sở vật chất kỹ
thuật, cơ sở hạ tầng thành thị và nông thôn, đất đai, vốn… để tập trung ổn định
và phát triển kinh tế
Vào những năm sau của thập niên 60, miền Bắc đã có những chuyển biến mới
về kinh tế xã hội. Trong thời kỳ đầu nền kinh tế tập trung bao cấp phù hợp với
nhiệm vụ sản xuất và chiến đấu trong chiến tranh. Năm 1975 sau ngày giải
phóng mới ở miền Nam, kinh tế Việt Nam đã thay đổi. Từ năm 1975 đến năm
1985 các thành phần kinh tế cá thể, kinh tế tư bản tư nhân bị hạn chế phát triển

nhiều nên tiềm năng to lớn của thành phần này đóng góp vào nền kinh tế không
đáng kể trong khi đó thành phần quốc doanh lại phát triển ồ ạt trên mọi lĩnh vực.
Tuy rằng thời kỳ này nền kinh tế có đạt được tốc độ tăng trưởng nhất định

Nhóm thực hiện: Nhóm 7

12


Đề tài: Nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn. Sự vận dụng trong hoạt động nhận
thức và thực tiễn

nhưng sự phát triển không bền vững bởi vì dựa vào điều kiện bao cấp, bội chi
ngân sách, vay nợ nước ngoài. Do phát triển tràn lan với quản lý theo cơ chế
bao cấp, kế hoạch hóa tập trung nên nhà nước gặp nhiều khó khăn trong cơ chế
quản lý điều hành các doanh nghiệp quốc doanh, nhiều doanh nghiệp làm ăn
thua lỗ nền kinh tế lâm vào khủng hoảng và tụt hậu. Nhận thấy được tình hình
kinh tế trong thời gian qua, đại hội Đảng lần thứ VI. Trên cơ sở phân tích, đánh
giá tình hình đất nước, tự phê bình về những sai lầm khuyết điểm, đổi mới tư lý
luận trải qua nhiều tìm tòi, khảo nghiệm từ thực tiễn, Đại hội đề ra đường lối đổi
mới.
- Trước hết là đổi mới cơ cấu kinh tế (cơ cấu công – nông nghiệp; cơ cấu nội bộ
ngành nông nghiệp; ngành công nghiệp nhẹ và tiểu thủ công nghiệp; công
nghiệp nặng và kết cấu hạ tầng; cơ cấu kinh tế huyện).
- Thực hiện ba chương trình kinh tế bao gồm chương trình lương thực, thực
phẩm; chương trình hàng tiêu dùng; chương trình hàng xuất khẩu.
- Xây dựng và củng cố quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa, sử dụng và cải tạo
đúng đắn các thành phần kinh tế. Đại hội VI đã đưa ra quan điểm mới về cải tạo
xã hội chủ nghĩa dựa trên 3 nguyên tắc: Nhất thiết phải theo quy luật về sự phù
hợp giữa quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất để

xác định bước đi và hình thức thích hợp. Phải xuất phát từ thực tế của nước ta
và là sự vận dụng quan điểm của Lênin coi nền kinh tế có cơ cấu nhiều thành
phần là một đặc trưng của thời kỳ quá độ. Trong công cuộc cải tạo xã hội chủ
nghĩa phải xây dựng quan hệ sản xuất mới trên cả 3 mặt xây dựng chế độ công
hữu về tư liệu sản xuất, chế độ quản lý và chế độ phân phối xã hội chủ nghĩa.
Đại hội đã đề ra phương hướng nhiệm vụ xây dựng và củng cố quan hệ sản
xuất xã hội chủ nghĩa, sử dụng và cải tạo các thành phần kinh tế xã hội chủ
nghĩa; thành phần kinh tế phi xã hội chủ nghĩa; kinh tế tư bản tư nhân; kinh tế tự
nhiên, tự cấp, tự túc. Đổi mới cơ chế quản lý kinh tế, chính sách xã hội, kế
hoạch hoá dân số và giải quyết việc làm cho người lao động.
Đại hội Đảng lần thứ VI có ý nghĩa cực kỳ quan trọng, những đường lối, quan
điểm của đại hội vạch ra là sự vận dụng đúng đắn và sáng tạo của chủ nghĩa
Mác-LêNin, tư tưởng Hồ Chí Minh vào thực tiễn nước ta.

Nhóm thực hiện: Nhóm 7

13


Đề tài: Nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn. Sự vận dụng trong hoạt động nhận
thức và thực tiễn

Thời kỳ 1986-1990, Việt Nam tập trung triển khai Ba Chương trình kinh tế lớn:
lương thực - thực phẩm, hàng tiêu dùng, hàng xuất khẩu. Các hình thức ngăn
sông cấm chợ, chia cắt thị trường được xóa bỏ dần, kế hoạch kinh tế của nhà
nước được thực hiện trên cơ sở hạch toán. Đặc biệt, các thành phần kinh tế
ngoài quốc doanh và tập thể được thừa nhận và bắt đầu được tạo điều kiện hoạt
động. Nền kinh tế dần dần được thị trường hóa. Song Đảng chủ trương và thực
hiện kinh tế quốc doanh là chủ đạo, chi phối các thành phần kinh tế khác. Cơ
chế quản lý nền kinh tế bằng mệnh lệnh hành chính dần dần giảm đi.

Kinh tế Việt Nam bắt đầu có những chuyển biến tốt. Từ chỗ phải nhập khẩu
lương thực, Việt Nam đã sản xuất đủ tự cung cấp, có dự trữ và còn xuất khẩu
gạo. Khoán 10 được triển khai từ năm 1988 trên quy mô toàn quốc càng khuyến
khích nông dân sản xuất lúa gạo. Hàng hóa, nhất là hàng tiêu dùng, nhiều hơn
và đa dạng hơn. Xuất khẩu tăng mạnh, thâm hụt thương mại giảm. Từ năm
1989, Việt Nam bắt đầu xuất khẩu dầu thô, đem lại nguồn thu xuất khẩu lớn.
Lạm phát được kiềm chế dần dần.
Tháng 6 năm 1991, Đảng Cộng sản Việt Nam tổ chức Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ VII, tại đây một văn kiện quan trọng đã ra đời, đó là "Cương lĩnh xây
dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội". Cương lĩnh này sau
đó liên tục được bổ sung và điều chỉnh trong các kỳ họp của Ban Chấp hành
trung ương Đảng và Đại hội Đại biểu toàn quốc tiếp theo. Cương lĩnh này và các
văn kiện có tính chất sửa đổi nó tuyên bố rằng nhiệm vụ trung tâm của xây dựng
cơ sở vật chất của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là: “đẩy mạnh công nghiệp hóa,
hiện đại hóa” “gắn liền với phát triển một nền nông nghiệp toàn diện”. Các văn
kiện này nêu phương hướng: "thiết lập quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa từ
thấp đến cao với sự đa dạng về hình thức sở hữu. Phát triển nền kinh tế hàng
hóa nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa, vận hành theo cơ chế
thị trường có sự quản lý của nhà nước" và "phát triển nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa".
Thời kỳ 1993-1997 là thời kỳ kinh tế Việt Nam kiềm chế thành công lạm phát
đồng thời lại tăng trưởng nhanh chóng. Sau đó, kinh tế tăng trưởng chậm lại
trong 2 năm 1998-1999. Tuy bắt đầu tăng tốc dần từ năm 2000, nhưng nền kinh

Nhóm thực hiện: Nhóm 7

14


Đề tài: Nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn. Sự vận dụng trong hoạt động nhận

thức và thực tiễn

tế có lúc rơi vào tình trạng giảm phát và thiểu phát. Các năm 2007-2008, lạm
phát tăng tốc và hàng năm đều ở mức 2 chữ số.
Thập niên 1990 và 2000 là thời kỳ mà Việt Nam tích cực hội nhập kinh tế mà
đỉnh cao là việc ký hiệp định gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới và hiệp định
đối tác kinh tế song phương với Nhật Bản.
II. Lý luận thực tiễn trong sự phát triển kinh tế xã hội và đổi mới kinh tế hiện
nay
2.1 Sự phát triển kinh tế xã hội
Công cuộc đổi mới đổi mới ở nước ta cung cấp bài học to lớn về nhận thức. Đó là
bài học về quán triệt quan điểm lý luận và thực tiễn, quan điểm cơ bản và hàng
đầu của triết học Mác. Sự nghiệp đổi mới mang tính chất mới mẻ và đầy những
khó khăn đòi hỏi phải có lý luận khoa học soi sáng. Sự khám phá về lý luận phải
trở thành tiền đề và điều kiện cơ bản làm cơ sở cho sự đổi mới trong hoạt động
thực tiễn. Tuy nhiên, lý luận không bỗng nhiên mà có và cũng không thể chờ
chuẩn bị xong xuôi về lý luận rồi tiến hành đổi mới được. Hơn nữa thực tiễn là cơ
sở để nhận thức, lý luận. phải qua thực tiễn rồi mới có kinh nghiệm , mới có cơ sở
để khái quát thành lý luận
Vì vậy quá trình đổi mới ở nước ta chính là vừa học vừa làm, vừa làm vừa tổng
kết lý luận, vừa đúc rút thành quan điểm, thành quan điểm để rồi quay trở lại quá
trình đổi mới.
Trải qua 20 năm đổi mới, một trong những bài học quan trọng mà Đảng ta
rút ra là: “trong quá trình đổi mới phải kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ
nghĩa xã hội trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Đổi
mới không phải từ bỏ mục tiêu chủ nghĩa xã hội mà là làm cho chủ nghĩa xã hội
được nhận thức đúng đắn hơn và được xây dựng có hiệu quả hơn. Đổi mới
không phải xa rời mà là nhận thức đúng, vận dụng sáng tạo và phát triển chủ
nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, lấy đó làm nền tảng tư tưởng và kim
chỉ nam cho hành động cách mạng. Thực tiễn phong phú và những thành tựu to


Nhóm thực hiện: Nhóm 7

15


Đề tài: Nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn. Sự vận dụng trong hoạt động nhận
thức và thực tiễn

lớn của công cuộc đổi mới hai mươi năm qua đã chứng minh giá trị to lớn của
bài học đó, đồng thời cho thấy việc khẳng định lấy chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động là bước
phát triển quan trọng trong nhận thức và tư duy lý luận của Đảng ta. Tất nhiên,
để làm rõ bước phát triển quan trọng trong nhận thức và tư duy lý luận ấy của
Đảng ta, cần phải phân tích và làm rõ tính khoa học và cách mạng trong các luận
điểm, tư tưởng cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, nhất là
phải làm rõ sự vận dụng sáng tạo của Đảng ta trong tiến trình thực hiện công
cuộc đổi mới đất nước.
Một điều rõ ràng là, trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta, khi
thực tiễn đất nước nảy sinh hàng loạt vấn đề cần được giải đáp về mặt lý luận,
Đảng ta đã luôn luôn đứng trên lập trường, quan điểm, phương pháp của chủ
nghĩa Mác-Lênin để tổng kết những kinh nghiệm thực tiễn và đưa ra được
đường lối, chủ trương, chính sách cùng với bước đi và cách làm cụ thể phù hợp
với thực tiễn cách mạng nước ta. Chẳng hạn, trong quá trình đổi mới đất nước
theo định hướng xã hội chủ nghĩa, Đảng ta đã coi đổi mới tư duy lý luận, tư duy
chính trị về chủ nghĩa xã hội là khâu đột phá, coi đổi mới kinh tế là trọng tâm và
phải đi trước một bước. Đảng ta cũng khẳng định, đổi mới kinh tế và đổi mới
chính trị phải gắn kết với nhau, nhưng đổi mới chính trị phải trên cơ sở thành tựu
của đổi mới kinh tế và phục vụ cho tiếp tục đổi mới kinh tế, ngược lại, đổi mới
kinh tế phải đúng định hướng chính trị, phải góp phần tăng cường ổn định chính

trị. Thực tiễn những năm đổi mới đã mang lại nhiều bằng chứng xác nhận tính
đúng đắn của những quan điểm nêu trên.
Có thể khẳng định, chúng ta không thể đưa công cuộc đổi mới đất nước theo
định hướng xã hội chủ nghĩa đến thành công nếu xa rời quan điểm thống nhất lý
luận và thực tiễn. Mặt khác, việc tìm ra những giải pháp để đưa công cuộc đổi
mới đến thành công không thể không gắn liền vận dụng và phát triển sáng tạo lý
luận của chủ nghĩa Mác – Lênin thông qua tổng kết kinh nghiệm thực tiễn theo
phương pháp khoa học của chủ nghĩa Mác-Lênin. Như vậy, đổi mới đất nước
theo định hướng xã hội chủ nghĩa và phát triển lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh là một quá trình thống nhất. Đó là sự thống nhất giữa lý luận

Nhóm thực hiện: Nhóm 7

16


Đề tài: Nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn. Sự vận dụng trong hoạt động nhận
thức và thực tiễn

và thực tiễn, sự thống nhất giữa tính khoa học và tính cách mạng của lý luận
Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh.
Trước hết cần khẳng định sự ra đời của chủ nghĩa xã hội hiện thực là hoàn
toàn phù hợp với quy luật vận động, phát triển khách quan của lịch sử xã hội,
phù hợp với tiến trình lịch sử tự nhiên của các hình thái kinh tế - xã hội. Cho dù
đến nay, chủ nghĩa xã hội vẫn chưa xuất hiện ở những nơi mà chủ nghĩa tư bản
đã phát triển đến trình độ cao. Theo học thuyết hình thái kinh tế - xã hội của Mác
thì lực lượng sản xuất, xét đến cùng, bao giờ cũng là cái đóng vai trò quyết định
trong việc thay đổi phương thức sản xuất, dẫn đến thay đổi toàn bộ các quan hệ
xã hội, thay đổi một chế độ xã hội mà Mác gọi là hình thái kinh tế - xã hội. Trên
cơ sở đó, Mác đi đến kết luận: xã hội loài người phát triển trải qua nhiều giai

đoạn kế tiếp nhau, ứng với mỗi giai đoạn của sự phát triển đó là một hình thái
kinh tế - xã hội. Và tiến bộ xã hội chính là sự vận động theo hướng tiến lên của
các hình thái kinh tế - xã hội, là sự thay thế hình thái kinh tế - xã hội này bằng
hình thái kinh tế - xã hội cao hơn, tiến bộ hơn. Mác khẳng định: “tôi coi sự phát
triển của các hình thái kinh tế - xã hội là một quá trình lịch sử - tự nhiên. Quá
trình lịch sử - tự nhiên của sự phát triển xã hội chẳng những có thể diễn ra bằng
con đường phát triển tuần tự từ hình thái kinh tế - xã hội này lên hình thái kinh tế
- xã hội khác, mà còn có thể diễn ra bằng con đường bỏ qua một giai đoạn phát
triển nào đó, một hình thái kinh tế - xã hội nào đó trong những điều kiện và hoàn
cảnh khách quan cụ thể nhất định.
Như vậy về mặt lý luận, chúng ta có thể khẳng định sự nghiệp xây dựng chủ
nghĩa xã hội theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta hiện nay là
quy luật khách quan trong quá trình phát triển của dân tộc, phù hợp với quy luật
phát triển khách quan của lịch sử và xu thế phát triển của thời đại. Chúng ta đã
chứng kiến sự sụp đổ của các nước xã hội chủ nghĩa Liên Xô và Đông Âu và đã
trải nghiệm những thành công của công cuộc đổi mới chủ nghĩa xã hội ở Việt
Nam và Trung Quốc. Theo chúng tôi trong những nguyên nhân dẫn đến thất bại
của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và các nước Đông Âu trước
đây có nguyên nhân xa rời bản chất cách mạng và khoa học của chủ nghĩa Mác
- Lênin và tách rời lý luận, thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội.

Nhóm thực hiện: Nhóm 7

17


Đề tài: Nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn. Sự vận dụng trong hoạt động nhận
thức và thực tiễn

Có thể nói, học thuyết về chủ nghĩa xã hội, về thời kỳ quá độ và về khả

năng xây dựng chủ nghĩa xã hội không qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa
là bộ phận quan trọng nhất của chủ nghĩa Mác-Lênin. Là một học thuyết khoa
học và cách mạng, học thuyết Mác - Lênin đã đáp ứng yêu cầu và nhiệm vụ
cách mạng của thời đại, phản ánh chính xác những nhu cầu cơ bản cuộc đấu
tranh cách mạng của giai cấp vô sản nhằm thay đổi thế giới và giải phóng con
người. Để hoàn thành sự nghiệp vĩ đại đó, các Đảng cộng sản phải vận dụng
sáng tạo bản chất khoa học và cách mạng của chủ nghĩa Mác-Lênin trong tiến
trình cách mạng, nhất là trong xây dựng chủ nghĩa xã hội ở những nước lạc hậu,
bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa, quá độ dần lên chủ nghĩa xã hội.
Tuy nhiên, sau sự sụp đổ của Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu,
đã có không ít người hoài nghi tính đúng đắn của học thuyết Mác - Lênin về chủ
nghĩa xã hội. Các thế lực phản động quốc tế coi sự sụp đổ đó là “sự cáo chung”
của toàn bộ lý luận mác xít về chủ nghĩa xã hội, về thời kỳ quá độ và khả năng
quá độ lên chủ nghĩa xã hội không qua chế độ tư bản chủ nghĩa. Trong tình hình
cực kỳ khó khăn phức tạp như vậy, công cuộc đổi mới do Đảng cộng sản Việt
Nam khởi xướng và lãnh đạo đã thể hiện mạnh mẽ sức sống của chủ nghĩa xã
hội hiện thực và thu được những thành tựu ngày càng to lớn. Thắng lợi của
đường lối đổi mới đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hai
mươi năm qua đã cho thấy, những luận điểm, tư tưởng cơ bản của chủ nghĩa
Mác-Lênin về chủ nghĩa xã hội vẫn giữ nguyên giá trị, vẫn là cơ sở lý luận, là kim
chỉ nam cho mọi hành động của chúng ta trên con đường xây dựng chủ nghĩa xã
hội. Vấn đề không phải là bản thân lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin về chủ
nghĩa xã hội và thời kỳ quá độ xây dựng chủ nghĩa xã hội. Vấn đề nằm ở chỗ
chúng ta có nhận thức thật sự đúng đắn bản chất khoa học và cách mạng của
chủ nghĩa Mác - Lênin và biết vận dụng một cách sáng tạo nó trong thực tiễn xây
dựng chủ nghĩa xã hội hay không. Thực tiễn cho thấy, công cuộc đổi mới đất
nước ngày càng đi vào chiều sâu thì chúng ta càng phải đối diện với những vấn
đề khó khăn, phức tạp mới. Đất nước hiện đang đứng trước cả cơ hội lớn và
thách thức lớn. Tất cả đều đòi hỏi chúng ta phải nhận thức lại cho đúng, vận
dụng sáng tạo, bổ sung và phát triển lý luận Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh


Nhóm thực hiện: Nhóm 7

18


Đề tài: Nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn. Sự vận dụng trong hoạt động nhận
thức và thực tiễn

cho phù hợp với bối cảnh mới của thế giới và trong nước hiện nay. Vận dụng
sáng tạo bản chất khoa học và cách mạng của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh, Đảng ta đã ngày càng làm sáng tỏ con đường tiến lên chủ nghĩa
xã hội ở nước ta thời kỳ đổi mới. Đó là con đường “phát triển quá độ lên chủ
nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, tức là bỏ qua việc xác lập vị trí
thống trị của quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng tư bản chủ nghĩa, nhưng
tiếp thu, kế thừa những thành tựu mà nhân loại đã đạt được dưới chế độ tư bản
chủ nghĩa, đặc biệt về khoa học và công nghệ, để phát triển nhanh lực lượng
sản xuất, xây dựng nền tảng kinh tế hiện đại”
Rõ ràng, chúng ta đang trong giai đoạn quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ
qua chế độ tư bản chủ nghĩa với phương thức “phát triển rút ngắn” nhằm đạt tới
mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Xây dựng
chủ nghĩa xã hội, đương nhiên là một sự nghiệp to lớn, lâu dài, đầy khó khăn
phức tạp. Nhưng thực tiễn luôn luôn là tiêu chuẩn của chân lý. Thực tiễn hai
mươi năm đổi mới đã đưa đất nước ra khỏi khủng hoảng kinh tế kéo dài, đã
hoàn thành những nhiệm vụ cơ bản của chặng đường đầu của thời kỳ quá độ và
bước sang thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa theo định hướng xã
hội chủ nghĩa. Công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội của chúng ta đang tiến lên
phía trước, bởi chủ nghĩa xã hội đổi mới của Việt Nam là biểu hiện sinh động sự
thống nhất biện chứng giữa lý luận và thực tiễn của chủ nghĩa Mác-Lênin. Con
đường tiến lên chủ nghĩa xã hội của chúng ta là không gì có thể ngăn cản nổi,

bởi vì đó là quy luật tiến hóa khách quan của lịch sử, lại đang được Đảng ta
nhận thức và vận dụng sáng tạo.
Quá trình đổi mới là quá trình nâng cao trình độ lý luận của mình, cố gắng phát
triển lý luận, đổi mới tư duy lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ
nghĩa xã hội
Quán triệt thống nhất giữa lý luận và thực tiễn của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, phát huy tính độc lập, sáng tạo, đồng thời kế thừa tinh hoa
trí tuệ dân tộc, những kinh nghiệm và thành tựu khoa học, văn hóa của thế giới,
nhất định chúng ta sẽ xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội trên đất nước ta,
góp phần quan trọng vào sự nghiệp cách mạng chung của những người cộng

Nhóm thực hiện: Nhóm 7

19


Đề tài: Nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn. Sự vận dụng trong hoạt động nhận
thức và thực tiễn

sản và nhân dân thế giới. Với thành công ngày càng to lớn của công cuộc đổi
mới, đất nước ta, một lần nữa trở thành nơi gửi gắm niềm tin và sự kỳ vọng của
bạn bè quốc tế. Việt Nam hôm nay đang được nhìn nhận một cách đầy ngưỡng
mộ: “Đường lối đổi mới trong đó kết hợp kinh tế thị trường với kế hoạch, tiến lên
chủ nghĩa xã hội trên cơ sở công nhận sự tồn tại của nhiều thành phần kinh tế là
con đường của những người mở đường mới mẻ trong lịch sử... hy vọng rằng
Đảng cộng sản Việt Nam và nhân dân Việt Nam, đã từng chiến thắng trong cuộc
đấu tranh đầy gian khổ trước đây, sẽ thành công trước thách thức mới trên
chặng đường mà chưa một ai đi qua”
2.2 Nghiên cứu& tham khảo : “Mô hình kinh tế tổng quát trong thời kỳ quá
độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam” (Hội thảo khoa học quốc gia tại trường

ĐH KTQD ngày 22/09/2009)
Với mục đích huy động sự tham gia đóng góp công sức và trí tuệ của các nhà
khoa học từ các trường đại học, học viện, viện nghiên cứu, một số cơ quan
hoạch định chính sách nhằm làm rõ hơn cơ sở lý luận và thực tiễn để xây dựng
mô hình kinh tế tổng quát của Việt Nam trong giai đoạn 2011-2020, sáng 22/9,
Trường Đại học Kinh tế Quốc dân phối hợp với Hội đồng Lý luận Trung ương
thuộc BCH Trung ương đảng cộng sản Việt Nam tổ chức Hội thảo khoa học quốc
gia với chủ đề "Mô hình kinh tế tổng quát trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội ở Việt Nam: Cơ sở lý luận và thực tiễn"
Về mô hình kinh tế tổng quát của Việt Nam trong thời gian tới. kinh tế thị
trường là sản phẩm của nền văn minh nhân loại. Trên thế giới, kinh tế thị trường
có nhiều mô hình khác nhau. Trong tất cả các mô hình ấy, không có kinh tế thị
trường tự do thuần túy mà đều có sự can thiệp của Nhà nước với những mức độ
và hình thức khác nhau. Thực tiễn của các nước trên thế giới cho thấy, kinh tế
thị trường hoàn toàn có thể được xây dựng ở các nước có thể chế chính trị khác
nhau với các mô hình cụ thể khác nhau theo điều kiện và mục tiêu cụ thể của
từng nước. Tuy nhiên về cơ bản, cơ chế thị trường phải nắm giữ vai trò cốt lõi
với những quy luật cơ bản của nó chi phối toàn bộ hoạt động của nền kinh tế.
Sự khác biệt chủ yếu thể hiện ở các nội dung cơ bản như: Vai trò của nhà nước;

Nhóm thực hiện: Nhóm 7

20


Đề tài: Nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn. Sự vận dụng trong hoạt động nhận
thức và thực tiễn

Khu vực kinh tế công; Hệ thống thuế; Trợ cấp xã hội; Tính mở của thị trường.
Những yếu tố này được quyết định bởi trình độ phát triển kinh tế xã hội, điều

kiện lịch sử cũng như những đặc thù về văn hóa xã hội của từng quốc gia. Kinh
tế thị trường của Việt Nam cũng không nằm ngoài những nguyên tắc như vậy.
Mặc dù còn tồn tại nhiều quan điểm khác nhau, nhưng đa số các ý kiến tại hội
thảo đề xuất mô hình tổng quát là xây dựng một nền kinh tế thị trường Việt Nam
hiện đại. Thực sự đây không phải là một mô hình hoàn toàn mới, nó chỉ là sự
khẳng định một cách kiên quyết hơn những nguyên tắc cơ bản của kinh tế thị
trường và con đường tiến tới sự phồn vinh của đất nước với những chiến lược,
chính sách phù hợp với điều kiện và đặc điểm văn hóa, lịch sử, xã hội và chính
trị của Việt Nam.
Về sở hữu và các khu vực trong nền kinh tế. Các ý kiến cho rằng, Việt Nam
cần bảo đảm sự đồng bộ trên cả quan hệ sở hữu, quan hệ quản lý và quan hệ
phân phối. Trong quan hệ sở hữu, cần tôn trọng tính đa dạng của các hình thức
sở hữu và xu hướng liên kết giữa các chủ sở hữu, hình thành các tổ chức kinh
doanh có hình thức hỗn hợp. Với quan hệ quản lý, cần đổi mới đồng bộ quản lý
cả ở tầm vi mô và tầm vĩ mô, sự không tương thích trong quản lý ở hai cấp này
sẽ trở thành cản trở lớn với sự phát triển.
Nguyên tắc chung cần quán triệt là các bộ phận cấu thành nền kinh tế quốc dân
không phân biệt hình thức sở hữu đều bình đẳng với nhau và bình đẳng trước
pháp luật, chúng có quan hệ tương hỗ với nhau trong một hệ thống thống nhất
và đều có những đóng góp vào thực hiện mục tiêu chung của cả cộng đồng quốc
gia. Nhà nước và xã hội không thể có sự phân biệt đối xử dưới bất kỳ hình thức
nào, phải tạo lập môi trường bình đẳng, minh bạch, thông thoáng và ổn định để
huy động và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực vào phát triển kinh tế - xã hội
của đất nước. Phần lớn các ý kiến cho rằng không nên phân định nền KTTT định
hướng XHCN ở Việt Nam hiện nay thành 5 thành phần kinh tế mà nên phân chia
thành 2 khu vực kinh tế là khu vực kinh tế nhà nước (kinh tế công) bao gồm toàn
bộ mọi nguồn lực kinh tế, tài sản, tài nguyên, của cải quốc gia do Nhà nước
thống nhất quản lý và khu vực kinh tế tư nhân. Việc phân định nền kinh tế nước
ta hiện nay thành 5 thành phần vừa không đúng (xét cả về lý luận và thực tiễn),


Nhóm thực hiện: Nhóm 7

21


Đề tài: Nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn. Sự vận dụng trong hoạt động nhận
thức và thực tiễn

không cần thiết (chẳng để làm gì vì yêu cầu đảm bảo bình đẳng trước pháp luật),
và cũng không thể thực hiện được (vì các tiêu chí để phân chia rất không rõ
ràng).
Liên quan đến vai trò của kinh tế nhà nước, tồn tại nhiều ý kiến khác nhau.
Một số lớn các nhà khoa học cho rằng kinh tế nhà nước cũng chỉ có thể tạo ra
một trong những điều kiện quan trọng để phát triển kinh tế, chứ không thể đóng
được vai trò định hướng và điều tiết nền kinh tế, lại càng không thể đóng được
vai trò tạo môi trường để phát triển kinh tế được. Vai trò ấy phải thuộc về Nhà
nước XHCN dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Để thực hiện vai trò của
mình, Nhà nước phải sử dụng nhiều công cụ khác nhau trong mối quan hệ
tương hỗ với nhau. Trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN, hệ
thống luật pháp phải được coi là công cụ chủ yếu và quan trọng hàng đầu. Đồng
thời, Nhà nước cũng còn phải sử dụng nhiều công cụ chính sách khác (như
thuế, tài chính, tiền tệ, kế hoạch…) và công cụ vật chất (ngân sách nhà nước,
dự trữ quốc gia, hệ thống cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội…). Thực tế cuộc khủng
hoảng tài chính toàn cầu và tình trạng suy thoái kinh tế diễn ra ở nhiều nước
cũng đòi hỏi Nhà nước đã phải can thiệp sâu hơn và nhiều hơn vào đời sống
kinh tế để ngăn chặn nguy cơ sụp đổ của hệ thống tài chính – ngân hàng và cả
hệ thống kinh tế quốc gia.
Hơn nữa, việc xác định “kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo” vô hình chung lại
tạo nên mâu thuẫn với luận điểm đã được khẳng định và nhận được sự đồng
tình cao cho rằng “Các thành phần kinh tế đều là những bộ phận hợp thành

quan trọng của nền kinh tế và bình đẳng với nhau, cùng tồn tại trong môi trường
vừa cạnh tranh, vừa hợp tác với nhau”. Chính vì vậy cần nhấn mạnh vai trò chủ
đạo của Nhà nước trong quản lý kinh tế và nguyên lý bình đẳng thực sự với
nhau trước pháp luật, cùng phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh
của các bộ phận hợp thành nền kinh tế.
Về hội nhập kinh tế quốc tế trong mô hình kinh tế tổng quát. Với Việt Nam,
hội nhập kinh tế quốc tế nhằm phát huy lợi thế của đất nước và mở rộng hợp tác
bình đẳng cùng có lợi với các nước khác, không phân biệt chế độ chính trị. Điều
có ý nghĩa quan trọng là phải có tư duy mới và quan điểm "đột phá" hơn nữa về

Nhóm thực hiện: Nhóm 7

22


Đề tài: Nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn. Sự vận dụng trong hoạt động nhận
thức và thực tiễn

xây dựng nền kinh tế Việt Nam độc lập tự chủ trong điều kiện hội nhập. Cần có
chính sách mềm dẻo phù hợp với luật pháp, thông lệ quốc tế, mà trước hết là
các cam kết quốc tế và thích ứng với điều kiện của quốc gia trong phân công lao
động và hợp tác quốc tế. Độc lập tự chủ trong thời đại ngày nay phải bao hàm
kinh tế mở cửa với thế giới, tranh thủ sức mạnh của thời đại, tham gia đẩy đủ
vào quá trình toàn cầu hoá, khu vực hoá, sẵn sàng hợp tác song phương và đa
phương trên cơ sở đôi bên cùng có lợi. Sau gần 4 giờ thảo luận sôi nổi, nghiêm
túc và thẳng thắn, Hội thảo "Mô hình kinh tế tổng quát trong thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam: Cơ sở lý luận và thực tiễn" đã thành công tốt đẹp.
Hội thảo đã góp phần khẳng định vị thế khoa học của Trường Đại học Kinh tế
Quốc dân trong xã hội.
III . Phương hướng giải pháp cho thời gian tới

1)

Vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh cũng

như các tri thức khoa học mà nhân loại đã đạt được vào điều kiện cụ thể của
nước ta
Đảng ta lấy chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng
và kim chỉ nam cho hành động. Bởi vì, chủ nghĩa Mác-Lênin là lý luận cách mạng
và khoa học, vạch ra quy luật và xu thế phát triển tất yếu khách quan của xã hội
loài người và con đường đấu tranh để cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới. Tư
tưởng Hồ Chí Minh là sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin
vào hoàn cảnh cụ thể của nước ta; là hệ thống quan điểm cơ bản của đường lối
cách mạng Việt Nam; là sự kế thừa và phát huy những tinh hoa tư tưởng của dân
tộc và nhân loại; là đạo đức cách mạng của mọi người. Nắm vững bản chất khoa
học và cách mạng của chủ nghĩa Mác-Lênin. Vận dụng sáng tạo chủ nghĩa MácLênin và tư tưởng Hồ Chí Minh cho phù hợp với điều kiện nước ta hiện nay. Vận
dụng sáng tạo các tri thức khoa học của nhân loại trong công cuộc xây dựng chủ
nghĩa xã hội ở nước ta.
2) Nghiên cứu tổng kết kinh nghiệm thực tiễn của Việt Nam và quốc tế để
tiếp tục hoàn thiện lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ
nghĩa xã hội ở nước ta.

Nhóm thực hiện: Nhóm 7

23


Đề tài: Nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn. Sự vận dụng trong hoạt động nhận
thức và thực tiễn

Tổng kết kinh nghiệm thực tiễn để hoàn thiện lý luận về chủ nghĩa xã hội. Từ khi

bắt đầu công cuộc đổi mới đến nay, Đảng ta đã có bước phát triển rõ rệt về trình
độ lý luận, tư duy lý luận của Đảng đã được đổi mới và có những tiến bộ đáng
kể. Những thành tựu tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận đã cung cấp nhiều
luận cứ khoa học cho việc bổ sung và phát triển đường lối đổi mới của Đảng,
tăng cường sự thống nhất về chính trị, tư tưởng trong Đảng, sự đồng thuận
trong nhân dân, góp phần vào những thành công to lớn của Đảng và nhân dân
ta trong công cuộc đổi mới.
Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đạt được, như Nghị quyết Đại hội IX của
Đảng đã nhận định “công tác lý luận chưa theo kịp sự phát triển của thực tiễn và
yêu cầu của cách mạng, chưa làm sáng tỏ nhiều vấn đề quan trọng trong công
cuộc đổi mới để phục vụ việc hoạch định chiến lược, chủ trương, chính sách của
Đảng, tăng cường sự nhất trí về chính trị, tư tưởng trong xã hội". Hiện nay còn
nhiều vấn đề trong nước và thế giới đặt ra mà lý luận chưa có lời giải đáp hoặc
giải đáp chưa đủ sức thuyết phục. Nói chung trình độ tư duy lý luận của Đảng về
nhiều mặt vẫn trong tình trạng bất cập so với yêu cầu của thực tiễn cách mạng,
vì vậy vai trò tiên phong, dẫn đường của lý luận cách mạng bị hạn chế.
Những yếu kém, bất cập của công tác lý luận do nhiều nguyên nhân trong đó có
những nguyên nhân chủ quan về lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp, các ngành, về
chế độ, chính sách ; về xây dựng đội ngũ cán bộ lý luận ; về cơ chế nghiên cứu
lý luận ; về đào tạo, bồi dưỡng lý luận ; về cơ sở vật chất cho công tác lý luận.
Trong tình hình hiện nay, nhiệm vụ bao trùm và cấp bách của công tác lý luận
của Đảng là nắm vững và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lê-nin, tư tưởng
Hồ Chí Minh, bám sát và đẩy mạnh tổng kết thực tiễn đổi mới, tham khảo có
chọn lọc lý luận và kinh nghiệm nước ngoài, tăng cường nghiên cứu lý luận để
tiếp tục làm sáng tỏ hơn quan niệm về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ
nghĩa xã hội ở nước ta. Văn kiện Đại hội IX của Đảng đã khẳng định : “Đẩy
mạnh tổng kết thực tiễn và nghiên cứu lý luận, thảo luận dân chủ, sớm làm rõ và
kết luận những vấn đề mới, bức xúc nảy sinh từ thực tiễn ; từng bước cụ thể
hóa, bổ sung, phát triển đường lối, chính sách của Đảng ; đấu tranh với những
khuynh hướng tư tưởng sai trái”. Với mục đích như vậy, việc tổng kết một số vấn


Nhóm thực hiện: Nhóm 7

24


Đề tài: Nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn. Sự vận dụng trong hoạt động nhận
thức và thực tiễn

đề lý luận - thực tiễn là việc làm rất cần thiết và có ý nghĩa quan trọng. Bộ Chính
trị đã cho ý kiến về nội dung tổng kết, trong đó tập trung vào 5 vấn đề lớn là :
- Đặc điểm mới của thời đại, những xu hướng chủ yếu của thế giới hiện nay.
- Phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
- Tăng trưởng kinh tế với phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã
hội trong từng bước phát triển.
- Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân.
- Đảng và xây dựng Đảng trong điều kiện mới.Từ kết quả tổng kết lý luận - thực
tiễn 5 vấn đề nêu trên, đánh giá khái quát quá trình đổi mới và việc thực hiện
đường lối đổi mới của Đảng, trên cơ sở đó làm sáng tỏ hơn quan niệm về chủ
nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta ; đối chiếu với
Cương lĩnh năm 1991 của Đảng, để bổ sung, phát triển, hoàn thiện Cương lĩnh
đó.
Tổng kết kinh nghiệm thực tiễn để hoàn thiện con đường đi lên CNXH.
Nhận thức về chủ nghĩa xã hội (CNXH) và con đường đi lên CNXH ở nước ta đã
trải qua một quá trình lâu dài và không đơn giản. Trong quá trình đó Đảng ta đã
vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, tham khảo
kinh nghiệm quốc tế, xuất phát từ thực tiễn đất nước, có nhiều tìm tòi, sáng tạo
trong nhận thức lý luận, nhất là trong thời kỳ đổi mới.
Trong những năm đổi mới nhờ kiên định con đường XHCN, chúng ta vừa giữ
vững thành quả cách mạng và mục tiêu cách mạng, vừa kiên quyết đổi mới, dám

từ bỏ những phương pháp và mô hình sai lầm, sáng tạo phương pháp mới, cách
làm mới, mô hình mới để xây dựng CNXH có hiệu quả hơn. Chúng ta vừa giữ
vững ổn định chính trị - xã hội, vừa phát triển kinh tế - xã hội với tốc độ tương
đối cao; vừa giữ vững nền độc lập dân tộc vừa chủ động và tích cực hội nhập
kinh tế quốc tế. Như vậy, sự kiên định con đường XHCN đòi hỏi phải dám đổi
mới và biết đổi mới; đổi mới mạnh mẽ, toàn diện và đồng bộ hơn, cả về nhận
thức và hoạt động thực tiễn.
ở đây có mối quan hệ biện chứng giữa kiên định và đổi mới: muốn kiên định con
đường XHCN, phải đổi mới được nhận thức và đưa được nhận thức đó vào thực
tiễn, tạo ra được những thành quả của CNXH trong cuộc sống; trái lại, có kiên

Nhóm thực hiện: Nhóm 7

25


×