Tải bản đầy đủ (.pdf) (29 trang)

TIỂU LUẬN KINH tế CHÍNH TRỊ và CHỦ NGHĨA xã hội KHOA học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (224.76 KB, 29 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC ĐÔNG ĐÔ
KHOA LUẬT KINH TẾ

TIỂU LUẬN
KINH TẾ CHÍNH TRỊ VÀ CHỦ NGHĨA XÃ
HỘI KHOA HỌC

Giảng viên hướng dẫn : T.S Nguyễn Thái Sơn
Sinh viên thực hiện

: Lê Quang Biện

Lớp

: Luật Kinh tế K22-07

Mã sinh viên

: ……………………………

Hà Nội, 2020

1


MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU……………………………………………………………………………….3
PHẦN NỘI DUNG………………………………………………………………………….4
Phần I. Kinh tế chính trị……………………………………………………………………..4
Học thuyết giá trị thặng dư của Mác và giá trị của nó trong việc xác định bản chất chủ nghĩa
tư bản hiện nay


I.

Học thuyết giá trị thặng dư………………………………………………………4
1. Sự chuyển hóa tiền tệ thành tư bản…………………………………………. 4
2. Q trình sản xuất giá trị thặng dư…………………………………………..9
3. Tiền công trong chủ nghĩa tư bản …………………………………………..12
4. Tích lũy tư bản………………………………………………………………13
5. Hình thái tư bản và những hình thức biểu hiện của giá trị thặng dư ………. 14

II.

Giá trị của học thuyết giá trị thặng dư trong việc xác định bản chất chủ nghĩa tư
bản hiện nay……………………………………………………………………..15
Bản chất chủ nghĩa tư bản hiện nay………………………………………….15

Phần II. Chủ nghĩa xã hội khoa học…………………………………………………………18
Chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội Việt Nam hiện nay
I.

Lý luận của Mác- Lê-nin về chủ nghĩa xã hội…………………………………..18
1. Lý luận của Mác- Lê-nin về chủ nghĩa xã hội……………………………….18
2. Cách mạng tháng 10 Nga, thắng lợi của Mác - Lê-nin trong hiện thực……..19
3. Vấn đề quá độ lên chủ nghĩa xã hội…………………………………………19
4. Đặc điểm của thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội…………………………..20

II.

Con đường đi lên chủ nghĩa xã hội Việt Nam hiện nay………………………..21
1. Tính tất yếu của thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam………….21
2. Quan điểm tại đại hội lần thứ XII của Đảng………………………………..24


KẾT LUẬN………………………………………………………………………………...27
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO…………………………………………………..28

2


LỜI MỞ ĐẦU

Trước hết, về phần kinh tế chính trị, trong công cuộc đổi mới của đất nước
hiện nay, yêu cầu học tập, tìm hiểu và nghiên cứu kinh tế chính trị của Các-Mác
ngày càng được đặt ra một cách bức thiết và thường xuyên. Việc nghiên cứu
nhắm tới mục đích khắc phục những sự lạc hậu về mặt lý luận kinh tế, nhưng tư
tưởng bảo thủ, giáo điều, tách rời lý luận với cuộc sống đồng thời góp phần vào
việc hình thành tư duy kinh tế mới.
Trong những học thuyết mà Nhà kinh tế chính trị học và triết học thiên
tài- Các-mác để lại cho nhân loại, có thể nói rằng học thuyết về giá trị thặng dư là
một phát hiện vĩ đại nhất của Mác ở thế kỉ XIX. Lê-nin cũng đã từng đánh giá
học thuyết giá trị thặng dư là “viên đá tảng của học thuyết kinh tế Các-mác”. Học
thuyết ra đời trên cơ sở nghiên cứu phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa. Học
thuyết đã vạch trần thực chất bóc lột tư bản chủ nghĩa cội nguồi đối lập kinh tế
giữa giai cấp vô sản và giai cấp tư sản, vũ trang cho giai cấp vô sản lý luận cách
mạng sắc bén trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa tư bản. Nhận thức được vai
trò quan trọng của học thuyết, bài tiểu luận này sẽ bàn về những cơ sở lý luận của
học thuyết, những vai trị quan trọng đồng thời tìm hiểu vai trị của nó trong việc
xác định bản chất chủ nghĩa tư bản.
Phần thứ hai, chủ nghĩa xã hội khoa học, tiểu luận đề cập đến vấn đề chủ
nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta hiện nay. Sau hai
cuộc khác chiến trường kì chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, giành được độc
lập, đất nước tiếp tục con đường mình đã lựa chọn đó là đi lên xây dựng xã hội

chủ nghĩa. Văn kiện Đại hội XI của Đảng khẳng định đi lên xây dựng Chủ nghĩa
xã hội: ”là một quá trình cách mạng sâu sắc, triệt để, đấu tranh phức tạp giữa cái
cũ và cái mới nhằm tạo ra sự biến đổi về chất trên tất cả các lĩnh vực của đời sống
xã hội, nhất thiết phải trải qua một thời kỳ quá độ lâu dài với nhiều bước phát
3


triển, nhiều hình thức tổ chức kinh tế, xã hội đan xen.” (trích VKĐH XI của
Đảng- trang 70).
Tuy nhiên để tiếp tục tiến lên, con đường phía trước chắn chắn sẽ cịn rất
nhiều những chơng gai và khó khăn, đó là bước quá độ để dân tộc Việt Nam nhỏ
bé có thể sánh vai với các cường quốc năm châu như ước nguyện của Chủ tịch
Hồ Chí Minh. Đặc biệt với thế hệ trẻ, sự thấu hiểu sâu sắc con đường mà đất
nước đang theo đuổi sẽ giúp chúng ta biết được mình đang đứng ở đâu, đi theo
đường nào, để cùng chung tay, chung sức góp phần đưa đất nước đi lên. Mong
rằng, sau một phần của bài tiểu luận này, em có thể biết rõ hơn về con đường mà
chúng ta đang đi, nhận thức về nó sâu sắc hơn sẽ có thể hiểu được nhiệm vụ mà
cả nước phải thực hiện, con đường mà chúng ta phải vượt qua.

PHẦN NỘI DUNG
Phần I.
Kinh tế chính trị
HỌC THUYẾT GIÁ TRỊ THẶNG DƯ CỦA CÁC-MÁC VÀ GIÁ TRỊ CỦA NÓ
TRONG VIỆC XÁC ĐỊNH BẢN CHẤT CHỦ NGHĨA TƯ BẢN HIỆN NAY
I.

Học thuyết giá trị thặng dư
1. Sự chuyển hóa tiền tệ thành tư bản
Công thức chung của chủ nghĩa tư bản
Tiền là sản vật cuối cùng của lưu thông hàng hóa, đồng thời cũng là hình thức

biểu hiện đầu tiên của tư bản. Tuy nhiên, bản thân tiền không phải là tư bản. Tiền
chỉ biến thành tư bản trong những điều kiện nhất định, khi chúng được sử dụng để
bóc lột lao động của người khác.
Trong lưu thơng hàng hóa giản đơn thì tiền vận động theo cơng thức:
H-T-H
(hàng- tiền- hàng)
Sự chuyển hóa của hàng hóa thành tiền, rồi tiền lại chuyển hóa thành hàng hóa,
nghĩa là người sản xuất bán hàng lấy tiền rồi lại dùng tiền mua hàng hóa khác
phục vụ cho những nhu cầu tiêu dùng nhất định của mình. Ví dụ như một người
trồng được rau và đem rau đó đi bán, tiền bán rau có được, người này dùng để
mua quần áo chẳng hạn. Tiền ở đây là phương tiện lưu thơng, chỉ đóng vai trò
4


trung gian, phù hợp nền sản xuất của những người thợ thủ cơng và nơng dân. Mục
đích của lưu thơng hàng hóa giản đơn là giá trị sử dụng.
Trong sản xuất tư bản, tiền vận động theo công thức:
T-H-T
(tiền- hàng- tiền)
, tức là sự chuyển hóa của tiền thành hàng hóa, rồi hàng hóa lại chuyển ngược lại
thành tiền. Ví dụ một người kia nhập quần áo về bán, dùng tiền mua một lượng
quần áo, rồi lại bán số đó ra thị trường nhằm thu được lợi nhuận. Tiền vừa là điểm
xuất phát, vừa là điểm kết thúc, hàng hóa ở đây chỉ đóng vai trị trung gian. Mục
đích của lưu thông tư bản là giá trị, và giá trị tăng thêm, số tiền thu về phải nhiều
hơn số tiền bỏ ra.
Như vậy, thì tư bản phải vận động theo cơng thức
T-H-T’
T’ tức là tiền sau một vịng lưu thơng sẽ được tính bằng cơng thức:
T’=T+∆t
Trong đó, ∆t là số tiền trội hơn so với số tiền đã ứng ra, Các Mác gọi số tiền phụ

trội đó là giá trị thặng dư. Còn số tiền ứng ra ban đầu, tiền ban đầu dùng để mua
hàng ở đầu chu trình lưu thơng này, với mục đích thu được giá trị thặng dư trở
thành tư bản và tiền chỉ biến thành tư bản khi được dùng để mang lại giá trị thặng
dư cho nhà tư bản.
Mục đích của lưu thơng tư bản là mang lại giá trị mới lớn hơn giá trị ban
đầu, tức là thu giá trị thặng dư. Sự vận động của tư bản là khơng giới hạn vì sự lớn
lên của giá trị khơng có giới hạn. Cơng thức T-H-T’ là cơng thức chung của mọi
tư bản, dù đó là tư bản công nghiệp, tư bản thương nghiệp hay tư bản cho vay.
Mâu thuẫn của công thúc chung của tư bản
Tư bản vận động theo công thức T-H-T’ trong đó T’=T+∆ t.
Cơng thức trên làm cho người ta lầm tưởng rằng : cả sản xuất và lưu thông
đều tạo ra giá trị và giá trị thặng dư.
Trong lưu thông, dù trao đổi ngang giá hay không ngang giá cũng không tạo
ra giá trị mới và do đó khơng tạo ra giá trị thặng dư. Nếu mua- bán ngang giá thì
chỉ có sự thay đổi hình thành của giá trị từ tiền thành hàng hoặc từ hàng thành
tiền. Còn tổng số giá trị trong tay mỗi người tham gia trao đổi trước sau vẫn
không thay đổi. Tiền không lớn hơn, do đó khơng tạo ra giá trị thặng dư.
5


Trong trường hợp trao đổi khơng ngang giá, hàng hóa có thể bán cao hơn
hoặc thấp hơn giá trị thực của hàng hóa nhưng cũng khơng làm tăng giá trị thặng
dư vì tính chung tổng thể tỏng nền kinh tế hàng hóa, mỗi người sản xuất đều vừa
là người bán, vừa là người mua. Cái lợi mà họ thu được khi bán sẽ bù lại cái thiệt
khi mua hoặc ngược lại. Trong trường hợp có những kẻ chuyển mua rẻ, mua may,
bán đắt hay lừa lọc, ép giá, nói thách, nói xạo để được lợi thì chính bản thân người
thực hiện hành vi đó được lợi nhưng tổng giá trị tồn xã hội cũng khơng hề tăng
lên, bởi vì số giá trị mà những người này thu được chẳng qua chỉ là sự ăn chặn,
đánh cắp số giá trị của người khác. Như vậy trao đổi khơng ngang giá thì khơng
có giá trị tăng thêm.

Xem xét nhân tố tư bản ngồi lưu thơng đồng nghĩa với việc khơng có sự tiếp
xúc tiền- hàng. Nếu người có tiền khơng tiếp xúc gì với lưu thơng ví dụ như đem
chơn, cất, dấu, tích trữ, tàng trữ, khơng đầu tư gì cả…thì cũng khơng thể làm cho
tiền của mình tăng thêm lên được, sẽ khơng có hiện tượng lãi mẹ đẻ lãi con. Mặt
khác, nếu hàng không được đưa vào lưu thông nghĩa là hàng sẽ dùng trực tiếp vào
sản xuất hoặc tiêu dùng thì cũng khơng tăng giá trị thặng dư được. Cụ thể, khi
hàng dùng vào sản xuất thì giá trị của nó sẽ dịch chuyển vào sản phẩm. Cịn khi
hàng dùng vào cá nhân thì cả giá trị và gía trị sử dụng cũng mất đi.
Như vậy, cả trong lẫn ngồi lưu thơng xét tất cả các nhân tố thì T không tăng
thêm. Nhưng nhà tư bản không thể vận động ngồi lưu thơng, có nghĩa là nhà tư
bản phải tìm thấy trên thị trường mua được một thứ hàng hóa (trong lưu thơng),
nhưng nhà tư bản khơng bán hàng hóa đó, vì nếu bán cũng khơng thu được gì.
Nhà tư bản tiêu dùng hàng hóa đó (ngồi lưu thơng), tạo ra giá trị mới lớn hơn giá
trị bản thân nó, phần giá trị dơi ra so với sức lao động là giá trị thặng dư.
Thơng qua hàng hóa sức lao động này mà tạo ra sự chuyển hóa trong lưu
thơng tạo ra giá trị mới, theo đó cơng thức T-H-T’ có thể được hiểu là : T là tư
bản, là số tiền đầu tư ban đầu, trong đó một phần sẽ đầu tư để mua máy móc, nhà
xưởng, một phần mua nguyên liệu và một phần thuê nhân công, H chính là hàng
hóa sức lao động thơng qua sức lao động của con người sẽ tác động vào máy móc
vật liệu để tạo nên những hàng hóa có giá trị cao hơn so với giá trị ban đầu và nhà
tư bản chỉ việc chiếm đoạt H này và bán để thu về T’ (giá trị mới cao hơn và đã
bao hàm trong đó giá trị thặng dư).
Như vậy, cơng thức đầy đủ có thể viết :
Sức lao động
6


T –H … sản xuất hàng hóa…H’- T’
Tư liệu sản xuất
Như vậy thì mâu thuẫn chung của cơng thức là : ” Tư bản không thể xuất

hiện từ lưu thông và cũng khơng thể xuất hiện gnoaif lưu thơng. Nó phải xuất hiện
trong lưu thông và đồng thời không trong lưu thông.”
Hàng hóa sức lao động
Các Mác nhận thấy giá trị thặng dư khơng có trong lưu thơng, cũng khơng ở
ngồi lưu thơng, cho nên phải có một loại hình hàng hóa nào đó có tính năng đặc
biệt, sinh ra giá trị. Và đó chính là sức lao động.
Sức lao động là tồn bộ những năng lực (gồm thể lực và trí lực) tồn tại trong
một con người và được người đó sử dụng vào sản xuất.
Trong mọi xã hội, sức lao động cũng đều là điều kiện cần thiết để sản xuất,
nhưng sức lao động chỉ trở thành hàng hóa khi có hai điều kiện :
Người lao động phải được tự do về thân thể, có quyền sở hữu sức lao động
của mình và chỉ bán sức lao động ấy trong một thời gian nhất định.
Người lao động khơng có tư liệu sản xuất cần thiết để tự mình đứng ra tổ
chức sản xuất nên muốn sống chỉ còn cách sức lao động cho người khác sử dụng.
Sự tồn tại đồng thời hai điều kiện nói trên tất yêu biến sức lao động thành
hàng hóa. Sức lao động biến thành hàng hóa biểu hiện một giai đoạn mới trong sự
phát triển xã hội : giai đoạn sản xuất hàng hóa trở thành phổ biến, đó là sản xuất
hàng hóa tư bản chủ nghĩa. Hàng hóa sức lao động là nhân tố tách chủ nghĩa tư
bản ra khỏi sản xuất hàng hóa giản đơn. Như vậy sức lao động biến thành hàng
hóa là điều kiện quyết định để chuyển hóa tiền tệ thành tư bản.
Sức lao động là hàng hóa đặc biệt : Sức lao động phải là hàng hóa và giống
hàng hóa thơng thường khác nhưng có tính đặc biệt. Trong quan hệ mua bán, chỉ
bán quyền sử dụng chứ không bán quyền sở hữu và có thời gian nhất định. Trong
mua bán chịu, giá trị sử dụng thực hiện trước giá trị thực hiện sau. Vì sức lao động
phải bán trong mọi điều kiện- mua bán trong mọi điều kiện để sinh sống.
Cũng như hàng hóa khác thì hàng hóa sức lao động của hai thuộc tính và giá
trị và giá trị sử dụng.
Giá trị hàng hóa sức lao động cũng giống như hàng hóa thơng thường, lượng
giá trị sức lao động cũng được đo bằng thời gian lao động xã hội cần thiết để sản
xuất và tái sản xuất sức lao động. Nhưng khác hàng hóa thơng thường về sức lao

7


động là năng lực (khả năng) tồn tại trong cơ thể sống của con người, để tái sản
xuất ra năng lượng đó người cơng nhân phải tiêu dùng một khối lượng sinh hoạt
nhất định để thực hiện nhu cầu tái tạo sức lao động. Như vậy, lượng giá trị sức lao
động được đo lường gián tiếp bằng giá trị sinh hoạt.
Yếu tố cấu thành giá trị sức lao động :
+ Giá trị tư liệu sinh hoạt cho bản thân người công nhân
+Giá trị tư liệu sinh hoạt trong gia đình anh ta
+ Chi phí đào tạo
Sự vận động của lượng giá trị sức lao động (tăng và giảm) : Nhân tố làm tăng
là do chi phí đào tạo tăng, do địi hỏi của cách mạng khoa học kỹ thuật. Nhân tố
làm giảm lượng giá trị sức lao động : do giá trị tư liệu sinh hoạt giảm và năng suất
lao động của ngành sản xuất tư liệu sinh hoạt tăng.
Giá trị sức lao động đặc biệt khác hàng hóa thơng thường : nó mang yếu tố
tinh thần và lịch sử. Con người sống trong những điều kiện kinh tế cụ thể ngoài
nhu cầu vật chất cịn có nhu cầu tinh thần.
Giá trị sử dụng của hàng hóa sức lao động cũng giống như hàng hóa khác đó
là giá trị sử dụng cũng được thể hiện khi tiêu dùng. Nhưng nó khác ở chỗ nhà tư
bản tiêu dùng sức lao động của công nhân và bắt công nhân lao động kết hợp với
tư liệu sản xuất để tạo ra hàng hóa. Trong q trình lao động đó người cơng nhân
đã tạo ra một giá trị mới (v + m). Trong đó, một bộ phận ngang bằng với giá trị
sức lao động của người công nhân nhà tư bản dùng để trả lương cho người công
nhân đó( đó là v), cịn một bộ phận dơi ra ngoài bộ phận sức lao động (m) nhà tư
bản chiếm khơng.
Như vậy, có thể nói rằng giá trị sức lao động khi nhà tư bản tiêu dùng nó tạo
ra một giá trị mới lớn hơn giá trị bản thân nó. Hay nói cách khác : Giá trị sử dụng
đặc biệt của hàng hóa sức lao động là nguồn gốc của giá trị và giá trị thặng dư.
2. Quá trình sản xuất giá trị thặng dư

Sản xuất giá trị thặng dư
Giá trị thặng dư được Các Mác xem là phần chênh lệch giữa giá trị hàng hóa
và số tiền nhà tư bản bỏ ra. Trong quá trình kinh doanh, nhà tư bản bỏ ra tư bản
giữa hình thức tư liệu sản xuất là tư bản bất biến và bỏ ra tư bản để thuê mướn lao
động gọi là tư bản khả biến. Tuy nhiên người lao động đã đưa vào hàng hóa một
lượng giá trị lớn hơn số tư bản khả biến mà nhà tư bản trả cho người lao động.
8


Phần dư ra đó gọi là giá trị thặng dư. Tức là sản lượng của hàng hóa làm ra có giá
trị cao hơn phần tiền mà nhà tư bản trả cho cơng nhân và mức chênh lệch đó
chính là giá trị thặng dư.
Quá trình lao động với tư cách là q trình nhà tư bản tiêu dùng sức lao động
có hai đặc trưng :
+Công nhân làm việc dưới sự điều khiển của nhà tư bản như là một bộ phận
của tư bản và được nhà tư bản sử dụng với hiệu quả cao nhất
+Sản phẩm làm ra thuộc quyền sở hữu của nhà tư bản chứ không phải của
công nhân
Vậy giá trị thặng dư là một bộ phận của giá trị mới dơi ra ngồi giá trị sức lao
động cho cơng nhân làm thuê tạo ra và bị nhà tư bản chiếm không.
Bản chất của tư bản
Tư luận sản xuất chỉ trở thành tư bản khi nó trở thành tài sản của các nhà tư
bản và được dùng để bóc lột lao động làm thuê. Khi chế độ tư bản bị xóa bỏ thì tư
liệu sản xuất khơng cịn là tư bản nữa.
Vậy tư bản là giá trị mang lại giá trị thặng dư. Đó là một định nghĩa rất
chung về tư bản, nó bao trùm cả tư bản cổ xưa lẫn tư bản hiện đại. Nhưng sau khi
nghiên cứu quá trình sản xuất giá trị thặng dư, có thể định nghĩa chính xác tư bản
là giá trị mang lại giá trị thặng dư bằng cách bóc lột cơng nhân làm thuê. Như vậy
bản chất của tư bản là thể hiện quan hệ sản xuất xã hội mà trong đó giai cấp tư
sản chiếm đoạt giá trị thặng dư do giai cấp công nhân sáng tạo ra.

Sự phân chia tư bản (Tư bản bất biến và tư bản khả biến)
Muốn tiến hành sản xuất, nhà tư bản phải ứng tư bản ra để mua tư liệu sản
xuất và sức lao động, tức là biến tư bản tiền tệ thành các yếu tố của quá trình sản
xuất, thành các hình thức tồn tại khác nhau của tư bản sản xuất. Trước hết, xét bộ
phận tư bản tồn tại dưới hình thức tư liệu sản xuất. Tư liệu sản xuất có nhiều
loại , có loại được sử dụng tồn bộ trong q trình sản xuất, nhưng chỉ hao mịn
dần, do đó chuyển dần từ phần giá trị của nó và sản phẩm như máy móc, thiết bị,
nhà xưởng …, có loại khi đưa vào sản xuất thì chuyển tồn bộ giá trị của nó trong
một chu kỳ sản xuất như nguyên liệu, nhiên liệu. Song, giá trị của bất kì tư liệu
sản xuất nào cũng đều do lao động cụ thể của công nhân mà được bảo toàn và di
chuyển vào sản phẩm, nên giá trị đó khơng thể lớn hơn giá trị tư liệu sản xuất đã
9


bị tiêu dùng để sản xuất ra sản phẩm. Cái bị tiêu dùng của tư liệu sản xuất là giá
trị sử dụng, kết quả của việc tiêu dùng đó là tạo ra một giá trị sử dụng mới. Giá trị
tư liệu sản xuất được bảo toàn dưới dạng giá trị sử dụng mới chứ không phải là
được sản xuất ra.
Việc phát hiện ra tính chất hai mặt của lao động thể hiện trong hàng hóa
giúp Các Mác xác định sự khác nhau giữa tư bản bất biến và tư bản khả biến. Sự
phân chia đó dựa vào vai trị khác nhau của các bộ phận tư bản trong quá trình
sản xuất giá trị thặng dư, do đó nó vạch rõ bản chất bóc lột của chủ nghĩa tư bản,
chỉ có lao động của công nhân làm thuê mới tạo ra giá trị thặng dư cho nhà tư
bản.
Tư bản bất biến là bộ phận tư bản tồn tại dưới hình thái tư liệu sản xuất mà
giá trị được bảo tồn và chuyển vào sản phẩm, tức là giá trị không thay đổi về
lượng trong quá trình sản xuất. Tư bản bất biến gồm máy móc nhà xưởng,
nguyên nhiên vật liệu. Giá trị của chúng được bảo tồn và chuyển dịch nguyên vẹn
vào giá trị sản phẩm. Giá trị tư liệu sản xuất được làm từ dưới hình thức giá trị sử
dụng mới.

Tư bản khả biến là bộ phận tư bản ứng trước dùng để mua hàng hóa sức lao
động khơng tái hiện ra, nhưng thông qua lao động trừu tượng, người công nhân
làm thuê đã sáng tạo ra một giá trị mới, lớn hơn giá trị của sức lao động, tức là có
sự biến đổi về số lượng. Tư bản khả biến tồn tại dưới hình thức tiền lương.
Việc phát hiện ra tính chất hai mặt của lao động sản xuất hàng hóa giúp Các
Mác tìm ra chìa khóa để xác định sự khác nhau giữa tư bản khả biến và tư bản bất
biến. Sự phân chia đó vạch rõ nguồn gốc của m, chỉ có bộ phận tư bản khả biến
mới tạo ra giá trị thặng dư, còn tư bản bất biến chỉ là điều kiện cần thiết để tiến
hành sản xuất. Sự phân chia đó cũng cho thấy vai trò của mỗi bộ phận tư bản
trong việc tạo ra giá trị hàng hóa. Giá trị của hàng hóa gồm (c+v+m). Tư bản bất
biến là điều kiện cần thiết không thể thiếu được để sản xuất ra giá trị thặng dư,
cịn tư bản khả biến có vai trị quyết định trong q trình đó, vị nó chính là bộ
phận tư bản đã lớn lên.
Hai phương pháp sản xuất giá trị thặng dư
Sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối
Giá trị thặng dư tuyệt đối là giá trị thặng dư thu được do kéo dài tuyệt đối
ngày lao động trong điều kiện thời gian lao động cần thiết không đổi. Việc kéo
10


dài ngày lao động không thể vượt quá giới hạn sinh lý của cơng nhân (vì họ cần
phải có thời gian ăn, ngủ, nghỉ ngơi, giải trí để phục hồi sức khỏe) nên gặp phải
sự phản kháng gay gắt của giai cấp cơng nhân địi giảm giờ làm. Theo chủ nghĩa
Mác-Lênin thì vì lợi nhuận, khi độ dài ngày lao động khơng thể kéo dài thêm, nhà
tư bản tìm cách tăng cường độ lao động của công nhân. Tăng cường độ lao động
về thực chất cũng tương tự như kéo dài ngày lao động. Vì vậy kéo dài thời gian
lao động và tăng cường độ lao động là để sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối.
Phương pháp này được áp dụng phổ biến trong giai đoạn đầu của chủ nghĩa
tư bản khi cịn dựa trên lao động thủ cơng.
Ví dụ: Ngày lao động 8 giờ chia thành:

+Thời gian lao động cần thiết là 4 giờ
+ Thời gian lao động thặng dư là 4 giờ
Tỷ suất giá trị thặng dư là: m’= 4/4*100% =100%
Sản xuất m tuyệt đối bằng cách kéo dào thời gian lao động thành 10 giờ
trong khi thời gian lao động cần thiết là 6 giờ.
Tỷ suất giá trị thặng dư là: m’= 4/6*100%= 150%
Với sựu thèm khát giá trị thặng dư, nhà tư bản phải tìm mọi cách để kéo dài
ngày lao động. Nhưng ngày lao động có những giới hạn nhất định. Giới hạn trên
của ngày lao động do thể chất và tinh thần của người lao động quyết định, còn
giới hạn dưới của ngày lao động là thời gian lao động cần thiết.
Như vậy, về mặt kinh tế, ngày lao động phải dài hơn thời gian lao động cần
thiết nhưng không thể vượt quá giới hạn về vật chất và tinh thần của người lao
động. Độ dài cụ thể của ngày lao động sẽ cuộc đấu tranh giữa giai cấp vô sản và
tư sản trên cơ sở tương quan lực lượng quyết định. Do đó cuộc đấu tranh của giai
cấp cơng nhân nên chế độ ngày làm 8 giờ đã được thực hiện ở các nước tư bản
chủ nghĩa.
Sản xuất giá trị thặng dư tương đối
Giá trị thặng dư tương đối là giá trị thặng dư thu được do rút ngắn thời gian
lao động cần thiết, kéo dài tương ứng thời gian lao động thặng dư trong điều kiện
độ dài ngày lao động không đổi.
Ví dụ: Ngày lao động 8 giờ chia thành:
Thời gian lao động cần thiết là 4 giờ
Thời gian lao động thặng dư là 4 giờ
Tỷ suất giá trị thặng dư là m’= 4/4*100%=100%
11


Sản xuất giá trị thặng dư bằng cách rút ngắn thời gian lao động cần thiết còn
2 giờ. Thời gian lao động thặng dư là 6 giờ.
Tỷ suất giá trị thặng dư là; m’=6/2*100%=300%

Bằng cách nào để rút ngắn thời gian lao động cần thiết, biết rằng thời gian
lao động cần thiết bằng giá trị tạo ra sức lao động, bằng giá trị tư liệu sinh hoạt.
Muốn rút ngắn giá trị lao động cần thiết hạ thấp giá trị sức lao động, hạ thấp giá
trị tư liệu sinh hoạt. Khi đã có nên sản xuất cơng nghiệp thì có sự kết hợp cả hai
phương pháp trên.
Giá trị thặng dư siêu ngạch là giá trị thặng dư thu được ngoài mức trung
bình do tăng năng suất lao động cá biệt, hạ thấp giá trị cá biệt so với giá trị xã hội.
Giá trị thặng dư siêu ngạch và giá trị thặng dư tương đối có một cơ sở
chung, đó là đều dựa trên cơ sở tăng năng suất lao động nên giá trị thặng dư siêu
ngạch chỉ là biến tướng của giá trị thặng dư tương đối. Tuy vậy giữa chúng vẫn
có sự khác nhua. Đó là giá trị thặng dư tương đối dựa trên năng suất lao động xã
hội còn giá trị thặng dư siêu ngạch dựa trên năng suất lao động cá biệt. Giá trị
thặng dư siêu ngạch sẽ được thay thế bằng giá trị thặng dư tương đối khi trình độ
kỹ thuật mới được áp dụng cá biệt trở thành được áp dụng phổ biến. Vì vậy giá trị
thặng dư siêu ngạch mang tính chất tạm thời. Mác gọi giá trị thặng dư siêu ngạch
là hình thức biến tướng của giá trị thặng dư tương đối. Sự khác nhau giữa chúng
còn thể hiện ở chỗ: giá trị thặng dư tương đối do toàn bộ giai cấp các nhà tư bản
thu được. Nó biểu hiện sự tiến bộ kỹ thuật của chủ nghĩa tư bản được áp dụng
rộng rãi. Xét về mặt đó thì nó thể hiện quan hệ của giai cấp cơng nhân và tồn bộ
giai cấp các nhà tư bản.
Giá trị thặng dư siêu ngạch là mục đích trực tiếp cạnh tranh mà mỗi nhà tư
bản cố gắng đạt được trong cạnh tranh với các nhà tư bản khác. Xét về mặt này,
giá trị thặng dư siêu ngạch không chỉ biểu hiện mối quan hệ giữa công nhân làm
thuê và nhà tư bản mà còn thể hiện mối quan hệ giữa các nước tư bản với nhau.
Như vậy, giá trị thặng dư siêu ngạch là động lực trực tiếp mạch nhất thúc đẩy các
nhà tư bản cải tiến kỹ thuật hoàn thiện tổ chức sản xuất và tổ chức lao động để
tăng năng suất lao động, làm giảm giá trị của hàng hóa.
3. Tiền cơng trong chủ nghĩa tư bản

12



Tiền công bằng tiền mà công nhân nhận từ nhà tư bản. Bản chất của tiền công
bằng giá trị lức lao động biểu hiện thành tiền, bằng giá cả sức lao động. Cho nên,
lao động khơng phải là hàng hóa.
Một số hình thức cơ bản của tiền cơng như tiền cơng tính theo thời gian và tiền
cơng tính theo sản phẩm. Tiền cơng tính theo thời gain là hình thức tiền cơng mà
số lượng của nó ít hay nhiều tùy theo thời gian lao động của công nhân dài hay
ngắn. Tiền cơng ngày hay tháng chưa nói rõ được mức tiền cơng đó cao hay thấp,
vì cịn tùy theo ngày lao động dài hay ngắn. Tiền cơng tính theo sản phẩm là hình
thức mà tiền cơng mà số lượng của nó phụ thuộc vào số lượng sản phẩm hay số
lượng những bộ phận của sản phẩm mà công nhân đã sản xuất ra hoặc là số lượng
cơng việc đã hồn thành. Tiền cơng tính theo sản phẩm là hình thức chuyển hóa
của tiền cơng tính thoe thời gian.
4. Tích lũy tư bản
Thực chất và động cơ của tích lũy tư bản
Thực chất của tích lũy tư bản là tích lũy tư bản là tư bản hóa một phần giá trị
thặng dư.
Muốn sản xuất mở rộng, nhà tư bản không thể sử dụng hết giá trị thặng dư
cho tiêu dùng cá nhân, mà dùng một phần giá trị thặng dư làm tư bản phụ thêm.
Ví dụ: Một nhà tư bản có quy mô ban đầu là 1000 USD, với m’=100% sẽ
thực hiện tích lũy với quy mơ như sau: c/v=4/1
Năm thứ nhất 800c+200v+200m

Tiêu dùng cá nhân
Tích lũy 100

Năm thứ hai 880c+220v+220m

Tiêu dùng cá nhân 110

Tích lũy 110

Kết luận: Nguồn gốc duy nhất của tích lũy tư bản là giá trị thặng dư. Tích
lũy tư bản là q trình tăng quy mơ vốn tư bản bằng cách lấy một phần của giá trị
thặng dư của quá trình sản xuất trước làm vốn bổ sung cho quá trình tiếp theo để
thu được nhiều giá trị thặng dư hơn.
Nghiên cứu tích lũy và tái sản xuất mở rộng tư bản chủ nghĩa cho phép rút
ra những kết luận vạch rõ hơn bản chất bóc lột của quan hệ sản xuất tư bản chủ
nghĩa.
13


Một là, nguồn gốc duy nhất của tư bản tích lũy là giá trị thặng dư và tư bản
tích lũy chiếm tỷ lệ ngày càng lớn trong toàn bộ tư bản.
Hai là, q trình tích lũy đã làm cho quyền sở hữu trong nền kinh tế hàng
hóa biến thành quyền chiếm đoạt tư bản chủ nghĩa. Nhà tư bản chẳng những
chiếm đoạt một phần lao động của công nhân, mà cịn là người sở hữu hợp pháp
lao động khơng cơng đó.
Động cơ thúc đẩy, do mục đích sản xuất của nhà tư bản là giá trị thặng dư và
sự tăng thêm (m). Để thực hiện mục đích đó các nhà tư bản khơng ngừng tích lũy
để mở rộng sản xuất, xem đó là phương tiện trong bản để tăng cường bóc lột cơng
nhân làm th. Động cơ thứ hai là do tác động của quá trình cạnh tranh gay gắt
trên thị trường buộc các nhà tư bản khơng ngừng tích lũy mở rộng quy mơ sản
xuất.
Vai trị của tập trung tư bản trong sự phát triển của chủ nghĩa tư bản
Tập trung tư bản có ý nghĩa hồn thành những cơng trình to lớn trong một
thời gian ngắn và tạo điều kiện ứng dụng các thành tựu khoa học kỹ thuật vào sản
xuất và đời sống làm cho chủ nghĩa tư bản phát triển nhanh.
+ Năng suất lao động: Năng suất lao động tăng lên thì giá trị tư liệu sinh
hoạt và giá trị tư liệu sản xuất giảm, do đó cùng một khối lượng giá trị thặng dư

như cũ thì bây giờ nhà tư bản sẽ mua được nhiều hơn tư liệu sản xuất làm thúc
đẩy mở rộng quy mơ tích lũy tư bản.
+ Chênh lệch ngày càng tăng giữa tư bản được sử dụng (toàn bộ giá trị máy
móc) và tư bản tiêu dùng (phần đã khấu hao vào sản phẩm): Máy móc hoạt động
sẽ mất dần giá trị nhưng trong suốt thời gian hoạt động máy móc vẫn có tác dụng
nhưng khi đủ giá trị, từ đó tạo ra sự chênh lệch, được tích lũy lại làm cho quy mô
của tư bản ngày càng tăng.
+ Đại lượng tư bản ứng trước (tăng vốn ban đầu): Quy mô của tư bản ứng
trước càng lớn, nhất là tư bản khả biến càng lớn thì khối lượng giá trị thặng dư
thu được càng lớn, do đó tăng quy mơ tích lũy tư bản.
5. Hình thái tư bản và những hình thức biểu hiện của giá trị thặng dư
Chi phí sản xuất tư bản chủ nghĩa, lợi nhuận và tỷ suất lợi nhuận
Chi phí sản xuất tư bản chủ nghĩa là chi phí về tư bản bất biến và tư bản
khả biến mà nhà tư bản bỏ ra để sản xuất hàng hóa.
Giá trị hàng hóa w=c+v+m
14


Khi xuất hiện chi phí sản xuất tư bản chủ nghĩa thì cơng thức giá trị hàng
hóa sẽ chuyển thành: w= k+m
Như vậy, giữa chi phí thực tế và chi phí sản xuất có sự khác nhau cả về
lượng lẫn chất. Về lượng: (c+v) < (c+v+m) (kVì tư bản sản xuất được chia thành tư bản cố định và tu bản lưu động nên chi
phí sản xuất tư bản chủ nghĩa ln ln nhỏ hơn tư bản ứng trước (K).
Ví dụ: Một nhà tư bản sản xuất đầu tư tư bản với số tư bản cố định (c1) là
1200 đơn vị tiền tệ; số tư bản lưu động (c2 và v) là 480 đơn vị tiền tệ (trong đó giá
trị của nguyên, nhiên vật liệu (c2) là 300, tiền công (v) là 180). Nêu tư bản cố định
hao mòn hết trong 10 năm, tức là mỗi năm hao mòn 120 đơn vị tiền tệ thì:
Chi phí sản xuất (k) là: 120+480= 600 đơn vị tiền tệ
Tư bản ứng trước (K) là: 1200+480=1680 đơn vị tiền tệ

Tức là K>k.
II.

Giá trị của học thuyết giá trị thặng dư trong việc xác định bản chất chủ nghĩa
tư bản hiện nay
Học thuyết giá trị thặng dư được xem như là “hòn đá tảng”, những giá trị
cốt lõi của chủ nghĩa Mác – Lênin, được bổ sung, phát triển trong bối cảnh mới.
C. Mác đã nghiên cứu sự sản xuất ra giá trị thặng dư, nhằm vạch rõ nguồn gốc và
bản chất của nó, từ đó vạch rõ bản chất bóc lột tư bản chủ nghĩa, v.v… Sau gần 2
thế kỷ, C.Mác đã phát minh ra học thuyết giá trị thặng dư, nhờ đó tìm ra và nhận
thức rõ quy luật vận động kinh tế của xã hội tư bản chủ nghĩa, tạo cơ sở khoa học
vững chắc cho cuộc đấu tranh xóa bỏ mọi bất cơng xã hội, triệt để giải phóng giai
cấp, giải phóng xã hội và con người.
Bản chất của chủ nghĩa tư bản hiện nay
Tư bản ngày nay khơng cịn bóc lột giá trị thăng dư, nếu có thì chủ nghĩa tư
bản chỉ cịn bóc lột “người máy”. Vì trong các xí nghiệp hiện đại, tự động hóa,
q trình sản xuất ra sản phẩm khơng cần hoặc cần rất ít lao động sống, nhưng giá
trị do các xí nghiệp này tạo ra tăng gấp bội so với các xí nghiệp cổ điển dùng rất
nhiều công nhân,... . Trong thực tế, đời sống cơng nhân có nâng lên do thu nhập
cũng tăng thơng qua việc tham gia cổ phần trong các nhà máy, xí nghiệp tư bản.
Bản thân tư liệu sản xuất khơng phải là tư bản, nó chỉ là yếu tố cơ bản của
sản xuất trong bất cứ xã hội nào. Tư liệu sản xuất chỉ trở thành tư bản khi nó trở
thành tài sản của nhà tư bản và được dùng để bóc lột lao động làm thuê. Khi chế
15


độ tư bản bị xóa bỏ thì tư liệu sản xuất khơng cịn là tư bản nữa. Như vậy, tư bản
không phải là một vật mà là một quan hệ sản xuất xã hội nhất định giữa người và
người trong q trình sản xuất, nó có tính chất tạm thời trong lịch sử.
Vì vậy, chúng ta cần bàn thêm về tư liệu sản xuất (máy móc, trang thiết bị,

nhiên vật liệu trong q trình sản xuất) được C. Mác kí hiệu là c gồm có c1 và
c2. Nó có đặc điểm là trong quá trình sản xuất, giá trị của chúng được bảo tồn và
chuyển dịch nguyên vẹn vào giá trị sản phẩm. Nghĩa là bản thân nó khơng tự tạo
ra một lượng giá trị mới trong đó có giá trị thăng dự, khác với quan điểm tư sản
cho rằng mọi tư liệu sản xuất đều tạo ra giá trị thặng nên tư bản khơng bóc lột sức
lao động, vì nó do máy móc tạo ra. Giá trị tư liệu sản xuất được bảo tồn dưới hình
thức giá trị sử dụng mới. Hàng hóa máy móc, nguyên nhiên vật liệu ban đầu được
mua trên thị trường còn dưới dạng đầu vào của q trình sản xuất. Khi đưa vào
sản xuất hàng hóa tiêu dùng, thì chúng biến đổi thành một sản phẩm mới phục vụ
cho tiêu dùng. Và hàng hóa này khi đi vào tiêu dùng thì người tiêu dùng chỉ sử
dụng giá trị sử dụng của chúng (giá trị sử dụng là cơng dụng của hàng hóa).
Ví dụ, trang bị 2 máy vi tính hiện đại nhất hiện nay cho 2 lao động có trình
độ cơng nghệ thơng tin khác nhau, thì kết quả năng suất lao động sẽ khác nhau.
Nghĩa là người có trình độ và thành thạo việc sử dụng máy tính cao sẽ cho năng
suất lao động cao. Ngược lại, người có trình thấp, việc sử dụng máy tính chưa
thành thạo thì năng suất lao động sẽ thấp. Điều đó đã chứng minh năng suất lao
động là do sức lao động của con người tạo ra trên cơ sở quyết định của trình độ
tay nghề. Máy móc chính là yếu tố của quá trình lao động, là phương tiện giúp
con người tạo ra năng suất, chứ máy móc không quyết định việc tạo ra năng suất
lao động.
Cho nên có thể khẳng định, tư bản bất biến (máy móc, trang thiết bị, nguyên
nhiên vật liệu) không tạo ra giá trị thăng dư, nó là điều kiện cần thiết để cho quá
trình sản xuất giá trị thặng dư được diễn ra. Nguồn gốc tạo giá trị thặng là sức lao
động của người làm thuê.
Vậy, sức lao động được biểu hiện như thế nào? Có tham gia gì vào q
trình sản xuất giá trị thặng dư. Tư bản khả biến là một bộ phận tư bản dùng để
mua sức lao động (trả lương, th mướn cơng nhân), đại lượng của nó thay đổi
16



trong quá trình sản xuất và tạo ra giá trị thặng dư và ký hiệu là v. Tư bản khả biến
có thể tạo ra sự biến đổi về giá trị, có vai trị quyết định trong q trình sản xuất
ra giá trị thặng dự, vì nó chính là bộ phận tư bản đã lớn lên.
Để sản xuất ra giá trị thặng dư, nhà tư bản phải ứng trước một tư bản ra để
mua tư liệu sản xuất và sức lao động. Trong quá trình sản xuất, giá trị của tư liệu
sản xuất được lao động cụ thể của người công nhân chuyển vào sản phẩm mới,
lượng giá trị của chúng không đổi. Bộ phận tư bản ấy được gọi là tư bản bất biến.
Nhưng đối với bộ phận tư bản dùng để mua sức lao động thì trong quá trình sản
xuất, bằng lao động trừu tượng của mình, người cơng nhân tạo ra một giá trị mới
không chỉ bù đắp đủ giá trị sức lao động của cơng nhân mà cịn tạo ra giá trị
thặng dư cho nhà tư bản. Như vậy, bộ phận tư bản này đã có sự biến đổi về lượng
và được gọi là tư bản khả biến.
Ngày nay, với cuộc cách mạng công nghiệp 4.0, lực lượng sản xuất phát
triển như vũ bão đã tiến mạnh vào các ngành sản xuất vật chất của xã hội; của cải
vật chất tạo ra thật nhiều đáp ứng nhu cầu tiêu dùng ngày càng phong phú, đa
dạng cho con người. Điều đó làm cho con người dễ nhầm tưởng máy móc trực
tiếp và quyết định tạo ra năng suất, cũng đồng tạo ra giá trị thặng dư, nên tư bản
ngày nay khơng cịn bóc lột cơng nhân làm th.
Bản thân sản xuất giá trị thăng dư là quy luật tuyệt đối của chủ nghĩa tư bản.
Nghĩa là ở đâu có chủ nghĩa tư bản thì ở đó có sự tồn tại của giá trị thăng dư. Giá
trị thăng dư là cơ sở tồn tại, phát triển của chủ nghĩa tư bản, khơng những phản
ánh mục đích mà cả phương pháp, thủ đoạn và phương tiện để đạt mục đích của
nền sản xuất tư bản chủ nghĩa.
Về mục đích của sản xuất tư bản chủ nghĩa không phải là sản xuất ra giá trị
sử dụng và cũng khơng phải vì sản xuất ra giá trị nói chung, mà sản xuất ra giá trị
thặng dư. Đối với tất cả nhà tư bản, giá trị thăng dư càng nhiều càng tốt.
Về phương pháp và thủ đoạn bóc lột cơng nhân làm th để có giá trị thặng
dư ngày càng lớn là kéo dài ngày lao động, tăng cường độ lao động, tăng năng
suất lao động. Phương tiện để đạt được mục đích trên là ứng dụng tiến bộ khoa
17



học cơng nghệ vào q trình sản xuất trên cơ sở hình thành và phát triển nền đại
cơng nghiệp cơ khí. Do vậy, sản xuất giá trị thặng dư là quy luật tuyệt đối của
phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa. Nó là một bộ phận giá trị mới dơi ra
ngồi giá trị sức lao động, do cơng nhân làm thuê tạo ra và thuộc về nhà tư bản, là
lao động không công của công nhân làm thuê, thể hiện bản chất bóc lột của quan
hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa.
Tóm lại, do sự tác động của quy luật giá trị thặng dư nên sự phát triển của
nền sản xuất tư bản chủ nghĩa diễn ra dưới hình thức mâu thuẫn đối kháng. Sự tác
động của quy luật này làm cho mâu thuẫn cơ bản – mâu thuẫn giữa tính chất xã
hội hóa của sản xuất với hình thức chiếm hữu tư nhân tư bản và với toàn bộ mâu
thuẫn của chủ nghĩa tư bản ngày càng sâu sắc, tạo cơ sở kinh tế, xã hội quyết định
địa vị lịch sử của chủ nghĩa tư bản. 
Phần II.
Chủ nghĩa xã hội khoa học
CHỦ NGHĨA XÃ HỘI VÀ CON ĐƯỜNG ĐI LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI VIỆT NAM
HIỆN NAY
I.

Lý luận Mác- Lê-nin về chủ nghĩa xã hội
1. Lý luận của Mác- Lê-nin về chủ nghĩa xã hội
C. Mác đã vận dụng hình thái kinh tế xã hội để phân tích một xã hội hiện
thức là xã hội tư bản. Ông đã tìm ra quy luật phát triển và diệt vong của nó, đồng
thời dự báo về sự ra đời của hình thái kinh tế xã hội mới cao hơn- hình thái cộng
sản chủ nghĩa, mà giai đoạn đầu là chủ nghĩa xã hội.
Chủ nghĩa tư bản đóng vai trị quan trọng trong việc phát triển lực lượng sản
xuất, tạo ra nền đại cơng nghiệp cơ khí và gắn liền với nó là giai cấp vơ sản cách
mạng. Chủ nghĩa tư bản phát triển mạnh thì nền đại cơng nghiệp và giai cấp vô
sản cũng phát triển theo. Sự phát triển của nền đại cơng nghiệp làm cho nền sản

xuất có tính chất xã hội mâu thuẫn với chế độ chiếm hữu tư nhân tư bản chủ
nghĩa. Sự phát triển của lực lượng sản xuất có tính chất xã hội địi hỏi phải “thủ
tiêu mâu thuẫn ấy”, phải “tự giải thoát khỏi cái tính chất tư bản của chúng, đến
chỗ thực tế thừa nhận tính chất của chúng là những lực lượng sản xuất xã hội”.
Nghĩa là phải xóa bỏ chế độ chiếm hữu tư nhận tư bản chủ nghĩa, xác lập chế độ

18


sở hữu có tính chất xã hội- chế độ cơng hữu. Do đó, một xã hội mới ra đời thay
thế chủ nghĩa tư bản, đó là chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản.
Cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, chủ nghĩa tư bản chuyển từ giai đoạn tự
do cạnh tranh sang giai đoạn độc quyền, giai đoạn đế quốc chủ nghĩa. Đến giai
đoạn này, tính chất xã hội của lực lượng sản xuất trong các nước tư bản đã đạt đến
trình độ cao, và theo Lê-nin, nó làm cho những “quan hệ kinh tế- tư nhân và
những quan hệ tư hữu là một cái vỏ, khơng cịn phù hợp với nội dung của nó nữa”.
Điều đó địi hỏi phải làm cách mạng vơ sản để xóa bỏ chủ nghĩa tư bản, xác lập
chủ nghĩa xã hội.
Ông chỉ ra hai con đường cơ bản quá độ lên chủ nghĩa xã hội:
+ Con đường thứ nhất: tiến lên chủ nghĩa xã hội, đây là con đường đi lên chủ
nghĩa xã hội đối với các nước tư bản phát triển .
+ Con đường thứ hai: quá độ lên chủ nghĩa xã hội thông qua nhiều khâu trung
gian. nhiều bước quá độ. Đây là con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội đối với
các nước lạc hậu kinh tế kém phát triển.
2. Cách mạng tháng 10 Nga, thắng lợi của Mác, Lê-nin trong hiện thực
Cách mạng tháng 10 Nga thành đã mở ra một thời đại mới, thời đại quá độ
từ tư bản chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới. Cuộc
cách mạng này là bằng chứng sinh động, hiện thực và đầy sức thuyết phục về tính
cách mạng và khoa học của chủ nghĩa Mác-Lênin. Thắng lợi của Cách mạng
tháng 10 thể hiện sự ưu việt của chủ nghĩa Mác-Lênin so với các cơ hội xét lại

trong phong trào cộng sản và công nhân quốc tế.
Thành công của Cách mạng tháng 10 khẳng định rằng chỉ có cuộc cách mạng
dưới sự lãnh đạo của một đảng dựa trên nền tảng tư tưởng chủ nghĩa Mác-Lênin
giành chính quyền về tay giai cấp vơ sản mới thực sự đem lại quyền lợi cho người
lao động.
3. Vấn đề quá độ lên chủ nghĩa xã hội
Thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là thời kỳ cải biến cách mạng sâu sắc
toàn bộ các lĩnh vực đời sống của xã hội, tạo ra những tiền đề vật chất và tinh
thần cần thiết để hình thành một xã hội mà trong đó những nguyên tắc căn bản
của xã hội, xã hội chủ nghĩa sẽ được thực hiện. Thời kỳ này bắt đầu từ khi giai
19


cấp cơng nhân giành được chính quyền nhà nước cho đến khi xã hội chủ nghĩa đã
tạo ra được những cơ sở của mình trong các lãnh vực của đời sống xã hội.
Quá độ lên chủ nghĩa xã hội là một tất yếu lịch sử, bởi vì chủ nghĩa xã hội –
giai đoạn đầu của hình thái kinh tế- xã hội cộng sản chủ nghĩa không thể tự phát ra
đời trong lòng xã hội cũ. Chủ nghĩa tư bản dù phát triển ở trình độ cao chỉ cũng tạo
ra những tiền đề vật chất cho sự ra đời của chủ nghĩa xã hội, cịn bản thân cơng
cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội phải thơng qua q trình đấu tranh gian khổ của
giai cấp công nhân và nhân dân lao động nhằm giành lấy chính quyền nhà nước và
sử dụng bộ máy nhà nước của mình để cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới từ cơ
sở hạ tầng đến kiến trúc thượng tầng.
Quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở mỗi nước có những nét đặc thù do điều kiện
lịch sử cụ thể đất nước đó. Nhiệm vụ của các Đảng cộng sản và nhân dân mỗi nước
là vận dụng nguyên lý phổ biến của Chủ nghĩa Mac – Lênin về thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội vào hoàn cảnh lịch sử cụ thể phù hợp với đặc điểm và truyền
thống quý báu của nước mình đồng thời tận dụng các ưu thế của thời đại để định ra
mục tiêu tổng quá, phương hướng và bước đi thích hợp nhằm thực hiện thành cơng
bước q độ đi lên chủ nghĩa xã hội. Lênin viết: “Tất cả các dân tộc đều sẽ đi lên

chủ nghĩa xã hội, đó là điều khơng tránh khỏi nhưng các dân tộc tiến tới chủ nghĩa
xã hội khơng phải hồn tồn giống nhau, mỗi dân tộc sẽ đưa đặc điểm của mình
vào hình thức này hay loại khác của chun chính vô sản, vào nhịp độ này hay
nhịp độ khác của việc cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với các mặt khác nhau của đời
sống xã hội .”
4. Đặc điểm của thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội
Đặc điểm nổi bật nhất là những nhân tố của xã hội mới và tàn tích của xã
hội cũ tồn tại đan xen lẫn nhau, đấu tranh trên mọi lãnh vực của đời sống kinh tế,
chính trị, văn hố, xã hội, tư tưởng, tập quán trong xã hội …biểu hiện dưới dạng
cái cũ còn tồn tại những bộ phận, những tàn dư (của xã hội cũ bị đánh bại nhưng
chưa bị tiêu diệt hoàn toàn) xen kẻ với cái mới nảy sinh đã ra đời nhưng chưa
hồn chỉnh, cịn non yếu. Lênin nhấn mạnh tính tự phát tiểu tư sản và tính kỷ luật
của giai cấp vơ sản là một trong những đặc điểm nổi bật của thời kỳ quá độ. Thời
kỳ quá độ là thời kỳ cải biến cách mạng toàn diện, vừa cải tạo, vừa xây dựng diễn
ra trên tất cả các lĩnh vực của đời đới sống xã hội để củng cố, phát triển cách
20


mạng và để hình thành về căn bản xã hội xã hội chủ nghĩa. Thời kỳ quá độ là thời
kỳ đấu tranh giai cấp quyết liệt, gay go, phức tạp diễn ra trên tất cả mọi lĩnh vực .
Với những đặc điểm trên, có thể hiểu rằng thời kỳ quá độ là thời
kỳ lâu dài, khó khăn tồn diện và là khó khăn tất yếu, bao gồm khó khăn khách
quan và chủ quan địi hỏi giai cấp cơng nhân phải biết phân biệt, bình tĩnh và chủ
động khắc phục. Thể hiện cụ thể:
Về chính trị: Cái bản chất nhất thời của thời ký quá độ là sự quá độ về
chính trị, ở đó nhà nước chun chính vơ sản được thiết lập, củng cố và ngày
càng hoàn thiện.
Về kinh tế: đó là một nền kinh tế nhiều thành phần. Trong thời kỳ này, bên
cạnh các thành phần kinh tế xã hội chủ nghĩa cịn có những thành phần kinh tế
khác, trong đó có cả những thành phần kinh tế tư bản tư nhân. Gắn liền với các

thành phần kinh tế là cơ cấu xã hội với nhiều giai tầng có lợi ích căn bản khác
nhau thậm chí đối lập nhau.
Về mặt xã hội: Trong thời kỳ này cịn có sự khác biệt cơ bản giữa thành thị
và nông thôn, đồng bằng và miền núi, lao động trí óc và lao động chân tay, vấn đề
bình đẳng và cơng bằng xã hội cần phải được xác lập dần dần.
Về mặt văn hóa – tư tưởng: Bên cạnh lối sống , nền văn hóa mới vừa hình
thành cịn tồn tại những tàn tích của nên văn hóa cũ, lối sống cũ, tư tưởng lạc hậu,
thậm chí phản động gây cản trở khơng nhỏ cho con đường đi lên chủ nghĩa xã hội
của các dân tộc sau khi mới được giải phóng.
Như vậy, cách mạng xã hội chủ nghĩa diễn ra trên tất cả các lĩnh vực, có
quan hệ gắn kết với nhau, tác động qua lại lẫn nhau, thúc đẩy lẫn nhau cùng phát
triển. Cách mạng xã hội chủ nghĩa là một q trình cải biến tồn diện xã hội cũ
thành xã hội mới, trong đó kết hợp chặt chẽ giữa cải tạo và xây dựng mà xây
dựng là chủ yếu.
II.

Con đường đi lên chủ nghĩa xã hội Việt Nam hiện nay
1. Tính tất yếu của thời kì q độ lên CNXH ở Việt Nam
Tính tất yếu khách quan của con đường đi lên CNXH ở Việt Nam được thể
hiện ở cả hai mặt lý luận và thực tiễn.

21


Về lý luận : xuất phát từ quy luật chung về sự phát triển của lịch sử loài
người trải qua các hình thái kinh tế- xã hội mà Đảng ta lãnh đạo đất nước tiến lên
CNXH là phù hợp với quy luật. Chúng ta đều biết loài người đã từng trải qua các
hình thái kinh tế- xã hội khác nhau. Hiện nay trên thế giới chúng ta đang ở thời kỳ
quá độ từ chủ nghĩa tư bản sang chủ nghĩa cộng sản. Mỗi hình thái kinh tế- xã hội
sau ra đời trên cơ sở kế thừa phát huy những ưu điểm của hình thái kinh tế- xã hội

trước nó nhưng trước khi xuất hiện hình thái kinh tế- xã hội cộng sản chủ nghĩa,
thì các hình thái trước đó dựa trên chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất, cội nguồn
của giai cấp và áp bức, bất công giai cấp. Chuyển hình thái kinh tế- xã hội là
chuyển từ phong trào sản xuất cũ sang phong trào sản xuấy mới tiến bộ hơn.
Phong trào sản xuất cộng sản chủ nghĩa dựa trên nền tảng công hữu về tư liệu sản
xuất chủ yếu, điều kiện đầu tiên để thủ tiêu áp bức, bóc lột giữa giai cấp thống trị
với giai cấp bị trị. Đưa đất nước đi lên CNXH sau khi giành độc lập dân tộc, đó là
Đảng ta đã căn cứ vào qui luật khách quan của sự phát triển xã hội loài người như
lịch sử phát triển của giới tự nhiên.
Quy luật chung về sự phát triển của xã hội lồi người khơng phải ở bất cứ
thời điểm nào, trên bất kỳ quốc gia nào cũng đều diễn ra giống nhau, mà lịch sử
loài người đã từng chứng kiến có những nước phát triển bỏ qua một hoặc hai hình
thái kinh tế xã hội chứ khơng theo một trình tự nhất định. Như vây, qui luật chung
ấy đã vận dụng vào những điều kiện cụ thể của một đất nước cụ thể trong một
giai đoạn cụ thể để trở thành những quy luật đặc thù. Mà Việt Nam ta là một
trong những nước đó:
Về cơ sở thực tiễn: nước ta có nền kinh tế lạc hậu, nhưng có Đảng cộng sản
Việt Nam lãnh đạo, có khối liên minh công – nông vững chắc và được sự giúp đỡ
của các nước XHCN cho nên quá độ lên CNXH ở Việt Nam là một tất yếu lịch
sử. Nước ta quá độ lên CNXH không qua chế độ. Tư bản chủ nghĩa là sự chọn lực
thích hợp với đặc điểm tình hình của đất nước và quy luật phát triển của lịch sử.
Thời đại ngày nay là thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên CNXH trên phạm vi
toàn thế giới, Việt Nam lựa chọn con đường đi lên CNXH là phù hợp với xu thế
tiến bộ của thời đại.
Từ khi thực dân Pháp xâm lược nước ta đến năm 1930 các phong trào cứu
nước của nhân dân ta từ phong trào Cần Vương đến các phong trào theo lập
trường tiểu tư sản, qua khảo nghiệm đều lần lượt thất bại. Từ năm 1930 dưới
ngọn cờ lãnh đạo của Đảng cộng sản, nhân dân ta đã phát huy cao độ truyền
22



thống anh hùng bất khuất, chiến đấu không ngại hy sinh gian khổ, ròng rã gần
nữa thế kỷ để giành độc lập thống nhất cho tổ quốc hoàn thành cơ bản nhiệm vụ
của cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân. Bài học kinh nghiệm đầu tiên của
thắng lợi là “nắm vững ngọn cờ độc lập dân tộc và CNXH”. Nhân dân ta chiến
đấu hy sinh không chỉ cốt giành được độc lập dân tộc mà cịn vì cuộc sống tự do
hạnh phúc theo lý tưởng XHCN.
Sau khi hoàn thành về cơ bản nhiệm vụ của cuộc cách mạng dân tộc dân chủ
nhân dân, Đảng đã lãnh đạo nhân dân ta chuyển sang thực hiện nhiệm vụ quá độ
lên CNXH, phù hợp với nguyện vọng của nhân dân và thuận theo chiều hướng
phát triển của lịch sử. Ngọn cờ độc lập dân tộc và CNXH đã động viên được sức
mạnh của toàn dân đồng thời tranh thủ được sự ủng hộ rộng rãi và có hiệu quả
của quốc tế tiêu biểu là sự ủng hộ và giúp đỡ của các nước XHCN. Sự giúp đỡ
ủng hộ đó đã tạo điều kiện thuận lợi để nhân dân ta hoàn thành nhiệm vụ của
cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân và đang q độ lên CNXH.
Hiện nay khơng có sự giúp đỡ của các nước XHCN tiên tiến thì chúng ta có
đứng vững được khơng và có đi lên CNXH được khơng? Chúng ta có cơ sở khoa
học tin tưởng rằng con đường đi lên CNXH bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa ở
nước ta cả trong điều kiện hiện nay vẫn là tất yếu và có khả năng thực hiện là vì:
Một là, Kế thừa truyền thống và những kinh nghiệm cách mạng đã tích luỹ,
trải qua thử nghiệm tìm tịi, qua việc phát huy trí tuệ của toàn Đảng, toàn dân,
Đảng ta đã xây dựng được đường lối đổi mới đúng đắn, hình thành những nét chủ
yếu quan niệm về XH XHCN mà nhân dân ta xây dựng và con đường xây dựng
CNXH ở nước ta. Công cuộc đổi mới là do Đảng chủ trương và tổ chức thực hiện
mấy năm qua đã thu được thành tựu to lớn có ý nghĩa rất quan trọng. Nhờ có
đường lối đổi mới đúng đắn, đất nước đã thốt khỏi cuộc khủng hoảng kinh tế- xã
hội để từng bước vượt qua đói nghèo tiến lên giàu mạnh, nhân dân có cuộc sống
ấm no hạnh phúc.
Hai là, Đội ngũ cán bộ Đảng viên tuy có bộ phận thối hố biến chất, giảm
ý chí chiến đấu nhưng số đơng vẫn là những người trung thành với sự nghiệp

cách mạng, trung thành với đường lối của Đảng, có ý chí biến đường lối đó thành
hiệnthực. Nhiều người đã trãi qua rèn luyện gian khổ mấy chục năm chiến đấu họ
gắn bó cuộc đời với Đảng với dân tộc và chế độ. Điều quan trọng là Đảng ta đoàn
kết trung thành với sự nghiệp cách mạng vững vàng về chính trị có khả năng lãnh
đạo đất nước đối phó với những khó khăn thử thách trong thời đại mới .
23


Ba là, Nhân dân ta có truyền thống yêu nước nồng nàn, ý chí tự cường,tự
chủ dân tộc, tinh thần đồn kết, ý chí cộng đồng gắn kết cá nhân- gia đình- làng
xã- tổ quốc thành một khối thống nhất, tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, lao
động cần cù, thông minh và sáng tạo.
Bốn là, Việt Nam là một nước có 86 triệu dân, nhân lực dồi dào, tài nguyên
đa dạng. Nhân dân ta đã xây dựng CNXH được mấy chục năm đã bước đầu xây
dựng được cơ sở chính trị- kinh tế- xã hội của CNXH. Điều quan trọng là đã từng
bước tìm ra con đường đúng đắn đi lên CNXH. Những bài học kinh nghiệm thành
công cũng như thất bại của CNXH thế giới và của bản thân giúp chúng ta có thêm
kinh nghiệm để khắc phục những khó khăn mà chúng ta đang trải qua là vấn đề
thiếu vốn, thiếu công nghệ, kiến thức quản lý để xây dựng CNXH nguồn vốn ấy
trước hết phải tự ta tạo ra từ các nguồn trong nước, kết hợp với mở rộng quan hệ
quốc tế, với chính sách đối ngoại đúng đắn, đa phương hố, đa dạng hóa cho phép
chúng ta có thể thu hút vốn đầu tư, khoa học- công nghệ và kinh nghiệm quản lý
từ nước ngoài.
Năm là , Sự lãnh đạo của Đảng ta, một Đảng giàu tinh thần cách mạng
gắn với quần chúng là nhân tố vô cùng quan trọng. Trong những thời điểm phong
trào XHCN, phong trào cộng sản và công nhân quốc tế có sự khủng hoảng, chế
độ XHCN ở Liên Xơ và Đông Âu sụp đỗ, Đảng ta vẫn vững vàng lãnh đạo nhân
dân ta thực hiện đường lối đổi mới vượt qua sự khủng hoảng kinh tế- xã hội đưa
công cuộc xây dựng CNXH và bảo vệ đất nước của nhân dân ta tiến lên một cách
vững chắc.

2. Quan điểm tại Đại hội lần thứ XII của Đảng
Đại hội lần thứ XII của Đảng ta khẳng định: “Qua 30 năm đổi mới, đất nước ta
đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử trên con đường xây dựng chủ
nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa…Đất nước ra khỏi khủng hoảng kinh
tế - xã hội và tình trạng kém phát triển, trở thành nước đang phát triển có thu nhập trung
bình, đang đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế. Kinh tế tăng
trưởng khá, nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa từng bước hình thành,
phát triển. Chính trị - xã hội ổn định, quốc phịng, an ninh được tăng cường. Văn hóa xã hội có bước phát triển, bộ mặt đất nước và đời sống của nhân dân có nhiều thay đổi.
Dân chủ xã hội chủ nghĩa được phát huy và ngày càng mở rộng. Đại đoàn kết toàn dân

24


tộc được củng cố và tăng cường. Công tác xây dựng Đảng, xây dựng Nhà nước pháp
quyền và cả hệ thống chính trị được đẩy mạnh. Sức mạnh về mọi mặt của đất nước
được nâng lên, kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất,
toàn vẹn lãnh thổ và chế độ xã hội chủ nghĩa. Quan hệ đối ngoại ngày càng mở rộng và
đi vào chiều sâu, vị thế và uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế được nâng
cao. Những thành tựu đó tạo tiền đề, nền tảng quan trọng để nước ta tiếp tục đổi mới và
phát triển mạnh mẽ trong những năm tới; khẳng định đường lối đổi mới của Đảng là
đúng đắn, sáng tạo; con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của nước ta là phù hợp với thực
tiễn của Việt Nam và xu thế phát triển của lịch sử”. Hiện nay, chúng ta đang thực hiện
q trình đẩy mạnh cơng nghiệp hố, hiện đại hố đất nước, giải phóng và phát triển
lực lượng sản xuất, khơi dậy mọi tiềm năng để phát triển sản xuất, hình thành nền
kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Tiếp tục mở rộng quan hệ hợp
tác quốc tế với phương châm: “Việt Nam là bạn, là đối tác tin cậy và là thành viên
có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế. “Thực hiện phương châm này giúp cho
chúng ta tận dụng được vốn và khoa học công nghệ hiện đại của các nước phát triển
nhằm phát triển nhanh lực lượng sản xuất, tránh tụt hậu xa hơn về kinh tế và có thể
rút ngắn được thời kỳ quá độ. Bên cạnh đó, chúng ta có nguồn nhân lực dồi dào;

nhân dân ta có truyền thống yêu nước, có tinh thần khắc phục khó khăn vượt qua
gian khổ, có ý chí vươn lên làm giàu cho quê hương, đất nước. Mặt khác, những cơ
sở kinh tế của nước ta ngày càng được củng cố và phát triển đủ sức cạnh tranh và
đứng vững trong nền kinh tế thị trường. Nghị quyết Trung ương 5, khóa XII tiếp tục
khẳng định việc hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Trong đó nhấn mạnh “phát triển kinh tế tư nhân trở thành một động lực quan trọng
của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”. 
Tóm lại, nước ta đi lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản
chủ nghĩa là hoàn toàn phù hợp với quy luật khách quan và xu thế của thời đại. Đi
lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa cịn là sự lựa chọn của chính
lịch sử Việt Nam, nó đáp ứng được những địi hỏi của thực tiễn đất nước với
nguyện vọng của nhân dân. Quan điểm này một lần nữa được Đảng ta khẳng định
trong văn kiện đại hội đảng toàn quốc lần thứ IX: “Con đường đi lên của nước ta là
sự phát triển quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa”. Văn kiện
đại hội đảng toàn quốc lần thứ XII tiếp tục khẳng định: “…Con đường đi lên
CNXH của nước ta là phù hợp với thực tiễn của Việt Nam và xu thế phát triển của
25


×