MỤC LỤC
1
Lý do chọn đề tài ........................................................................... 4
2
Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài...................................... 6
3
Mục tiêu, nhiệm vụ nghiên cứu....................................................... 11
4
Mục tiêu nghiên cứu........................................................................ 11
5
Nhiệm vụ nghiên cứu...................................................................... 12
6
Đối tượng, phạm vi nghiên cứu ...................................................... 12
7
Đối tượng nghiên cứu ..................................................................... 12
8
Phạm vi nghiên cứu ........................................................................ 12
9
Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu:..................................... 12
10
Cơ sở lý luận ................................................................................... 12
11
Phương pháp nghiên cứu cụ thểỞ .................................................. 13
12
Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài: .......................................... 13
13
Ý nghĩa lý luận ............................................................................... 13
14
Ý nghĩa thực tiễn............................................................................. 14
15
Cấu trúc của luận văn: .................................................................... 14
15.1 Chương 1: QUAN NIỆM VỀ ĐẠO ĐỨC NHÀ BÁO VÀ LÝ LUẬN
CHUNG VỀ BÁO MẠNG ĐIỆN TỬ..................................................... 16
15.2 Quan niệm về đạo đức nhà báo ................................................... 16
15.3 Khái niệm “đạo đức” và “đạo đức nghề nghiệp” ...................... 16
15.4 Đạo đức nhà báo .......................................................................... 18
15.5 Vai trò của đạo đức nhà báo ........................................................ 21
15.6 Mối quan hệ giữa đạo đức và pháp luật ..................................... 25
15.7 Những yêu cầu về đạo đức nhà báo ở Việt Nam ........................ 30
15.8 Đặc điểm của văn hóa báo chí Việt Nam .................................... 30
15.9 Những yêu cầu chung về đạo đức nhà báo ở Việt Nam............. 32
15.10 Về Báo mạng điện tử..................................................................... 37
15.11 1.4.1 Lược sử ra đời của báo mạng điện tử trên Thế giới ......... 37
15.12 Sự ra đời và phát triển của báo mạng điện tử ở Việt Nam ...... 40
15.13 TIỂU KẾT CHƯƠNG 1 ............................................................... 51
15.14 Chương 2: THỰC TRẠNG VẤN ĐỀ VI PHẠM ĐẠO ĐỨC NHÀ
BÁO TRÊN BÁO MẠNG ĐIỆN TỬ HIỆN NAY ................................ 52
15.15 Những biểu hiện vi phạm đạo đức nghề nghiệp của nhà báo trên
báo mạng điện tử hiện nay ..................................................................... 52
15.16 Đăng tải quá nhiều các đề tài tiêu cực, thiếu tính thẩm mĩ và giá trị
nhân văn................................................................................................... 53
15.17 Đề tài xã hội giật gân, câu khách................................................. 53
16
........................................................................................................
16.1 Đề tài về hơn nhân, tình dục, tình u, giới tính để khơi gợi trí tị
mị của độc giả.......................................................................................... 58
16.1.1- “Ông lão 80 lấy vợ kém 52 tuổi, sinh con” – 2 kỳ của Vietnam Net (
“Hạnh phúc của ông lão 80 và vợ kém 52 tuổi” –
Dantri.com.vn; “Ông lão 80 lấy vợ kém 52 tuổi, sinh con” – Nld.com.vn; "Đại
gia" Hà thành 80 và chuyện cưới vợ kém 52 tuổi” – Kienthuc.net.vn; “Ông
lão 80 và cơ học trị 28 tuổi phải dun chồng vợ” – News.zing.vn; “Gái đẹp
tuổi 20 yêu mê mệt ông lão 80” – Baodatviet.vn ..................................... 59
16.2 Đào sâu các vấn đề đời tư của người nổi tiếng........................... 60
16.3 Đưa tin sai sự thật, thiếu chính xác............................................. 64
16.4 Đưa tin sai khơng đính chính....................................................... 68
16.5 Dẫn tin, bài, ảnh khơng trích nguồn ........................................... 69
16.6 Xâm phạm đời tư của người khác mà không được sự cho phép, vi
phạm quyển bảo vệ thông tin cá nhân................................................... 70
16.7 Lợi dụng chức vụ, quyền hạn của nhà báo, cơ quan báo chí vì mục
đích cá nhân............................................................................................. 72
16.8 Đòi và nhận hối lộ....................................................... 72
16.9 Viết bài với mục đích cá nhân, thương mại: .............................. 74
16.10 Nguyên nhân hiện tượng vi phạm đạo đức của nhà báo trên báo
mạng điện tử hiện nay ............................................................................ 78
16.11 TIỂU KẾT CHƯƠNG 2 .................................................................... 90
16.12 Chương 3: ĐỀ XUẤT GIẢI PHÁP, KIẾN NGHỊ ĐỂ KHẮC PHỤC
TÌNH TRẠNG VI PHẠM ĐẠO ĐỨC CỦA NHÀ BÁO TRÊN BÁO
MẠNG ĐIỆN TỬ.................................................................................... 91
17
Nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về báo chí............................ 91
18
Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của nhà nước............. 91
19
Tạo môi trường thuận lợi cho đạo đức nhà báo phát huy .............. 94
20
Đề xuất các hình thức khen thưởng, kỷ luật................................... 96
21
Đề xuất bộ quy chuẩn đạo đức báo chí cho báo mạng điện tử ỞỞ 97
22
Nâng cao trình độ đội ngũ lãnh đạo, quản lý báo chí..................... 99
23
Nâng cao trình độ đội ngũ phóng viên/ biên tập viên .................... 102
24
Nâng cao chất lượng đào tạo báo chí ............................................. 102
25
Thắt chặt quy trình tuyển dụng báo mạng điện tử..................... 105
26
Những yêu cầu mới đối với các phóng viên/ biên tập viên báo mạng
điện tử........................................................................................................ 107
27
Nâng cao văn hóa tiếp nhận và tham gia cho cơng chúng .............. 112
28
KẾT LUẬN..................................................................................... 114
29
TÀI LIỆU THAM KHẢO .............................................................. 118
30
...............................................................................................................
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Nghề nghiệp nào cũng cần có những quy định, những chuẩn mực riêng
trong hoạt động của mình và nghề làm báo cũng khơng phải là một ngoại lệ.
Thật khó hình dung nổi nếu như đời sống xã hội, nhất là một xã hội văn minh,
lại thiếu đi hoạt động của phương tiện thông tin đại chúng. Tính từ khi tờ báo
đầu tiên ra đời (năm 1690), trong bốn thế kỷ tồn tại, báo chí đã trở thành
phương tiện, đồng thời trở thành món ăn tinh thần khơng thể thiếu được của
con người. Nói cách khác, báo chí đã tự xác định cho mình những chức năng
to lớn phục vụ con người và phục vụ cho sự tồn tại, phát triển xã hội loài
người. Ngược lại, con người càng phát triển, xã hội càng phát triển, càng đòi
hỏi nhiều hơn và tạo ra những khả năng mới, kỳ diệu cho việc thu nhận, chuyển
tải và tái hiện thông tin - tức là cho hoạt động báo chí. Hoạt động báo
chí thuộc về hoạt động chính trị - xã hội liên quan mật thiết đến tư tưởng, tình
cảm của con người. Ở đó, dù khách quan đến mức nào, người làm báo cũng
bộc lộ cách nhìn, thái độ, phương pháp tiếp cận và sự bình giá của mình
đối với những gì đang diễn ra trong cuộc sống. Và bằng tầm ảnh hưởng rộng
lớn của mình, có thể hiểu rằng báo chí góp phần định hướng cho sự hình thành
tư tưởng của mỗi người và sự thống nhất cao trên phạm vi tồn xã hội.
Tìm hiểu, nghiên cứu về đạo đức nhà báo không chỉ cần thiết cho những người
làm báo chí, truyền thơng mà ngay cả đối với những người tiếp nhận
thông tin điều này cũng vô cùng cần thiết bởi trong xu hướng phát triển của
báo chí hiện đại, ranh giới giữa nhà báo và cơng chúng tiếp nhận đang ngày
càng được rút ngắn, xóa nhòa.
Trong những thập kỷ gần đây, bước nhảy vọt của kỹ thuật truyền thông
là một trong những hiện tượng gây tác động mạnh mẽ đến đời sống xã hội,
làm thay đổi bản chất xã hội cũng như đời sống tâm lý, các chuẩn mực văn
hóa và thói quen của con người. Sự ra đời và phát triển của Internet đã tạo
tiền đề cho sự ra đời và phát triển của báo mạng điện tử - loại hình báo chí
mới mẻ với những đặc điểm khơng một loại hình báo chí nào cạnh tranh được
như khả năng đa phương tiện (multimedia), tính tương tác cao, khả năng
truyền tải thơng tin khơng hạn chế, tính thời sự và phi định kì khiến cho thơng
tin trên báo mạng điện tử là thơng tin sống động nhất, nóng nhất, tươi mới nhất
vì có thể cập nhật từng giờ, từng phút, thậm chí từng giây. Nhưng đi kèm
với những tiện ích đó, vấn đề đạo đức báo chí trong môi trường truyền thông
kỹ thuật số lại càng trở thành một vấn đề thời sự nóng bỏng hiện nay. Những
khối lượng thông tin lớn được chuyển tải tin tức từng giây, từng phút trên các
trang báo mạng, trang thông tin điện tử khiến con người khơng cịn đủ khả
năng kiểm sốt thơng tin. Hiện tượng vi phạm đạo đức nhà báo trên báo mạng
điện tử đang xuất hiện ngày càng nhiều hơn và trở thành nỗi lo của nhiều người
có trách nhiệm và dư luận xã hội.
Trong một vài năm trở lại đây, sự phát triển mạnh mẽ của Công nghệ
thông tin, đặc biệt là sự xuất hiện của Mạng xã hội đã đẩy các trang báo điện
tử ở Việt Nam vào một cuộc đua khốc liệt trong việc truyền tải thông tin. Chỉ
với một chiếc điện thoại thông minh có khả năng truy cập Internet và một
trang cá nhân trên mạng xã hội, bất cứ công dân nào cũng có thể trở thành
người đưa tin. Đối với hoạt động báo chí, sự xuất hiện của Mạng xã hội giống
như con dao hai lưỡi, và trong cuộc đua khốc liệt để truyền tải thơng tin ấy, đã
khơng ít người làm báo phạm phải sai lầm khi lạm dụng mạng xã hội mà đánh
mất đi lương tâm nghề nghiệp của người cầm bút. Luận văn tập trung nghiên
cứu chủ yếu vào sự sa sút về mặt chất lượng của báo mạng điện tử hiện nay,
mà một trong những nguyên nhân chủ yếu là do vi phạm đạo đức nghề nghiệp
của các nhà báo, từ đó đề xuất một số giải pháp nhằm khắc phục, hạn chế và
giảm thiểu tối đa hiện tượng này.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
2.1. Trên thế giới
Báo chí xuất hiện trên thế giới từ đầu thế kỷ 17. Trải qua quá trình phát
triển vài trăm năm, vấn đề đạo đức, nghề nghiệp của nhà báo ln được quan
tâm. Đã có rất nhiều cuốn sác đề cập hoặc nghiên cứu vấn đề này một cách hệ
thống và bài bản. Bán chạy nhất hiện nay phải kể đến những cuốn như:
+ The Elements of Journalism (Những yếu tố của nghề báo) của tác giả
Bill Kovach & Tom Rosenstiel. Với lời đề tựa: “Điều mà những người làm
báo nên biết và cơng chúng nên địi hỏi”, hai tác giả, bằng ngịi bút sắc sảo
phân tích nền báo chí Mỹ: điểm mạnh và điểm yếu. Các tác giả cũng dành
nhiều trang để nêu những nguyên tắc căn bản của nghề báo trong đó ngun
tắc tơn trọng sự thật được đặt lên hàng đầu.
+ The Principles of Multimedia Journalism (Những nguyên tắc của báo
chí đa phương tiện). Tác giả Richard Hernandez và Jeremy Rue đều là những
nhà báo giàu kinh nghiệm. Hai tác giả đã hệ thống hóa, phân loại các đặc tính
của tác phẩm báo chí trên nền tảng kĩ thuật số. Bằng cách đó, các tác giả đã
tạo cơ hội cho các sinh viên báo chí và các chuyên gia một cách để hiểu về
tầm quan trọng trong việc dàn dựng câu chuyện trong một kỷ nguyên hội tụ.
+ Gatekeeping in Transition (Kiểm duyệt báo chí). Tác giả: Tim P.Vos,
Francois Heinderyckx. Báo chí đang thay đổi từng ngày: từ cách sản xuất, loại
hình, phương tiện lẫn các kênh chuyển tải. Với những thực tế thay đổi đó, việc
kiểm duyệt báo chí có thay đổi gì khơng? Cuốn sách trả lời câu hỏi đó.
+ Ethics for Digital Journalists (Đạo đức cho Nhà báo kỹ thuật số). Tác
giả Lawrie Zion, David Craig. Sự phát triển mạnh mẽ của báo mạng điện tử
đã dẫn đến những sự phức tạp trong đạo đức nghề nghiệp của báo chí. Trong
khi những nguyên tắc đạo đức truyền thống khơng thay đổi nhiều thì việc áp
dụng nó lên một nền tảng điện tử lại đầy khó khăn và thách thức. Trong cuốn
Ethics for Digital Journalists, hai tác giả đã phỏng vấn những nhà báo kinh
nghiệm và các học giả nghiên cứu về báo chí nhằm đưa ra những cách thực
hành tích cực nhất cho báo chí kỹ thuật số.
+ Journalism Ethics: Arguments and Cases for the 21st Century (Đạo
đức báo chí: Lý luận và Dẫn chứng cho thế kỷ 21 ). Tác giả: Roger Patching,
Martin Hirst. Cuốn sách đề cập cả lý thuyết và thực hành của đạo đức báo chí.
+ Explorations in Global Media Ethics (Khám phá đạo đức truyền thông
thế giới). Tác giả: Muhammad Ayish, Shakuntala Rao. Cuốn sách được xuất
bản trong series Nghiên cứu về báo chí.
+ Principles of American Journalism: An Introduction (Những nguyên tắc
của Báo chí Mỹ: Phần giới thiệu). Tác giả: Stephanie Craft và Charles
N.Davis. Đây là cuốn sách giới thiệu cho các sinh viên báo chí giá trị cốt lõi
của báo chí và vai trị quan trọng của nó trong xã hội dân chủ.
+ The New Ethics of Journalism: A Guide for the 21st Century (Những
quy tắc đạo đức mới cho báo chí: Một sự chỉ đường cho thế kỷ 21). Tác giả:
Kelly McBride và Tom Rosenstiel. Tác phẩm bao gồm các chương thể hiện
quyền, trách nghiệm của các nhà báo (vd: giá trị, văn hóa đưa tin), những bối
cảnh liên quan (chủ sở hữu, độc giả, kinh tế học, cơng dân) và những điểm áp
lực (sự chính xác, xung đột lợi ích, thành kiến, đưa tin về những đối tượng dễ
bị tổn thương).
Ở Việt Nam, một số nghiên cứu của các học giả người Nga được dịch
ra tiếng Việt phải kể đến: “Những vấn đề cơ bản của đạo đức nghề nghiệp
nhà báo” (G.V.Ladutina), “Cơ sở lý luận của báo chí” tập 2 (E.P.Prơkhơrốp),
“Cơ sở hoạt động sáng tạo của nhà báo” (G.V.Lazutina), “Nghiệp vụ báo chí
lý luận và thực tiễn” (V.V.Vơrơsilốp), “Báo chí hiện đại nước ngoài: Những
quy tắc và nghịch lý” (X.A.Mikhailốp), “Giao tiếp trên truyền hình trước ống
kính và sau ống kính camera” (X.A.Muratốp), “Báo chí điều
tra” (A.A.Chertưchơnưi), “Truyền thơng, đạo đức nghề nghiệp với trẻ em”
(Helena Thorfinn)
2.2. Ở Việt Nam
Vấn đề đạo đức báo chí từ lâu đã được nhiều học giả quan tâm nghiên
cứu tại Việt Nam. Có thể kể đến một số cuốn sách tiêu biểu như: “Nghề báo
nghiệp văn” – tác giả Phan Quang, nhà xuất bản Thông tấn năm 2005, “Cẩm
nang đạo đức báo chí” – tác giả GS, TS Tạ Ngọc Tấn, PGS, TS Đinh Thị
Thúy Hằng, 2009, “Một số nội dung cơ bản về nghiệp vụ báo chí xuất bản”,
Nhiều tác giả, NXB Thông tin và Truyền thông, 2012, Một số văn bản chỉ đạo
và quản lý của Đảng, Nhà nước về Hoạt động Báo chí, Bộ Thơng tin và
Truyền thông, NXB Thông tin và Truyền thông, 2012, “Đạo đức Nghề Báo:
Những vấn đề lý luận và thực tiễn” – tác giả: PGS. TS Hồng Đình Cúc,
NXB Chính trị Quốc gia...... Đây đều là những tài liệu ý nghĩa, khái quát được
tầm quan trọng của đạo đức báo chí, và đặt ra yêu cầu về đạo đức nghề nghiệp
trong hoạt động của người làm báo.
Đáng chú ý, năm 2011 TS. Nguyễn Thị Trường Giang đã cho xuất bản
cuốn sách chuyên khảo “Đạo đức nghề nghiệp của nhà báo” được hình thành
từ bản Luận án Tiến sỹ truyền thơng đại chúng, chuyên ngành báo chí học.
Sách dày 380 trang, gồm 5 chương và phần phụ lục cùng danh mục 135 tài
liệu tham khảo, đây là cơng trình nghiên cứu cơng phu, cập nhật, rất thú vị và
bổ ích về chủ đề đạo đức nghề nghiệp ln mang tính thời sự trong đời sống
báo chí nước ta thời gian gần đây. Và đầu năm 2014, TS. Nguyễn Thị Trường
Giang tiếp tục ra mắt cuốn sách thứ 2 về đạo đức báo chí, đó là cuốn “100 bản
quy ước đạo đức báo chí trên thế giới”. Tác
giả đã cơng phu sưu tầm và biên dịch nhiều
quy ước đạo đức từ những nguồn khác nhau, và cuối cùng chọn 100 bản để
nghiên cứu, phân tích từ đó đề xuất kiến giải của mình..
Ngồi ra, bàn thêm về Đạo đức báo chí, có 1 số đầu sách như:
+ Giáo trình “Cơ sở lý luận báo chí truyền thông” của các tác giả Dương
Xuân Sơn, Đinh Văn Hường và Trần Quang (Nxb. Đại học Quốc gia, H.
2004). Tại chương 10 (từ trang 226-243) các tác giả bàn về đạo đức nghề
nghiệp của nhà báo thông qua các nguyên tắc trong hoạt động thực tiễn của
nghề báo. Đó là các nguyên tắc thể hiện trong các mối quan hệ giữa nhà báo
với công chúng, nhà báo với nguồn tin, nhà báo với nhân vật trong tác phẩm,
nhà báo với tác giả, nhà báo với ban biên tập, nhà báo với đồng nghiệp.
+ Cuốn “Những vấn đề của báo chí hiện đại” của tác giả Hồng Đình
Cúc và Đức Dũng (Nxb. Lý luận chính trị, H.2007) bàn về đạo đức nghề
nghiệp của người làm báo từ trang 189-206. Trong đó, các tác giả cho rằng,
đạo đức nghề nghiệp là một đòi hỏi của thực tiễn đối với nhà báo. Muốn nâng
cao đạo đức nghề nghiệp thì phải nâng cao trình độ tư duy, phẩm chất chính
trị và nghiệp vụ của nhà báo. Các tác giả đặc biệt nhấn mạnh đến tính khoa
học, tính chính trị, sự nhạy cảm nghề nghiệp và vốn tri thức phong phú trong
phẩm chất nghề nghiệp có sự ảnh hưởng đến đạo đức nghề nghiệp.
+ Cuốn “Báo chí thế giới xu hướng và phát triển” của Đinh Thị Th
Hằng (Nxb. Thơng tấn, H. 2008). Trong đó tác giả đề cập đến mối quan hệ
đạo đức giữa nhà báo và nguồn tin (trang 52-54). Theo tác giả, một trong
những vấn đề quan trọng nhất của đạo đức nghề nghiệp của người làm báo là
làm thế nào để người dân được thông tin một cách “đầy đủ, sâu sắc, cơng
bằng và chính xác”.
+ Luận án Tiến sĩ Truyền thông Đại chúng của tác giả Chử Kim Hoa
“Nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước bằng pháp luật trong lĩnh vực báo in ở
Việt Nam hiện nay” năm 2009...
Ngoài ra, một số Hội thảo khoa học trong nước cũng có bàn về đạo đức
nghề nghiệp của nhà báo như:
+ Tọa đàm khoa học "Sư xâm nhập của các phương tiện truyền thông
mới vào Việt Nam và ứng xử của các nhà báo trẻ" do Đoàn khối các cơ quan
Trung ương tổ chức vào tháng 6/2013.
+ Hội thảo "Trách nhiệm xã hội và đạo đức báo chí trong kỷ nguyên
kỹ thuật số" do Khoa Báo chí và Truyền thơng (Trường ĐH KHXH&NV,
ĐHQGHN) phối hợp với Viện KAS (CHLB Đức) tổ chức ngày
10/06/2015. Hội thảo là một trong những hoạt động thiết thực kỷ niệm 90 năm
Ngày Báo chí Cách mạng Việt Nam.
+ Hội thảo "90 năm báo chí cách mạng Việt Nam: Truyền thống, bản
lĩnh và trách nhiệm" do Ban Tuyên giáo Trung ương, Bộ Thông tin và Truyền
thông và Hội Nhà báo Việt Nam phối hợp tổ chức ngày 18/6/2015 tại Hà Nội.
+ Hội thảo “Đạo đức báo chí trong khai thác và xử lý nguồn tin” do
Hội Nhà báo Khánh Hòa tổ chức ngày 26/09/2014.
+ Hội thảo “Đạo đức nghề báo trong bối cảnh tồn cầu hóa thơng tin”
do Hội Nhà báo Việt Nam phối hợp với Viện KAS (Konrad Adenauer Stiftung)
tổ chức ngày 17/3/2014.
Các hội thảo đã nêu ra nhiều vấn đề liên quan đến đạo đức nghề nghiệp
báo chí ở nước ta, như việc xây dựng bộ quy tắc ứng xử cho các toà soạn trên
cơ sở tham khảo quy tắc đạo đức báo chí của các nước trên thế giới; khả năng
ứng dụng các bộ quy tắc đạo đức báo chí ấy vào hoạt động của các tồ soạn
hiện nay; hay vấn đề đạo đức báo chí truyền hình… Nhiều đại biểu cịn phân
tích một số tình huống nổi cộm của đạo đức báo chí hiện nay.
Qua nghiên cứu, các đề tài nghiên cứu này đều đã khái quát được về
các phạm trù liên quan đến đạo đức nghề nghiệp của nhà báo trong nền kinh
tế thị trường, hoặc tóm lược được sự ra đời của báo mạng điện tử tại Việt
Nam. Tuy nhiên, chưa có đề tài nào gắn được hai vấn đề vi phạm đạo đức báo
chí với thực trạng của báo mạng điện tử trong thời đại bùng nổ công nghệ
thông tin. Hiện nay, truyền thông hội tụ và công nghệ thông tin đã gần như
“thao túng” truyền thơng tồn thế giới, và Việt Nam, với tốc độ phát triển
Internet đáng kinh ngạc, đã hòa mình vào dịng chảy xu hướng đó rất nhanh
chóng. Tuy nhiên, ở một phương diện nào đó, sự nhận thức, nguồn nhân lực,
trình độ và quản lý của chúng ta cịn chưa theo kịp tốc độ phát triển vũ bão
đó, khiến cho vấn đề vi phạm đạo đức của nhà báo trên báo mạng điện tử ngày
càng trở thành vấn đề nhức nhối, ảnh hưởng sâu sắc tới dư luận xã hội.
Kế thừa những cơ sở lý luận nền tảng, cập nhật thêm những kiến thức
mới về truyền thông hội tụ, về mạng xã hội, luận văn này tập trung đi sâu vào
một khía cạnh rõ ràng, nhất quán, trong một phạm vi nhất định, đó là Vấn đề
vi phạm đạo đức nhà báo trên báo mạng điện tử hiện nay – dựa trên việc khảo
sát phản ứng của một số báo mạng điện tử trong năm 2013 và 2014 trước một
số hiện tượng truyền thông nổi cộm.
3. Mục tiêu, nhiệm vụ nghiên cứu
1. Mục tiêu nghiên cứu
Luận văn tập trung khảo sát, nghiên cứu, đánh giá thực trạng vấn đề đạo
đức nhà báo trên báo mạng điện tử hiện nay. Từ đó, đề xuất những giải pháp
để nâng cao đạo đức nghề nghiệp của người làm báo nói chung và báo
mạng điện tử nói riêng.
2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích trên, luận văn tập trung nghiên cứu những nhiệm
vụ sau:
•
Làm rõ những vấn đề liên quan đến cơ sở lý luận và thực tiễn của
•
Khảo sát, phân tích, đánh giá thực trạng vi phạm đạo đức nghề
đề tài.
nghiệp của những người làm báo mạng điện tử ở Việt Nam hiện nay.
•
Chỉ ra nguyên nhân và đề xuất những giải pháp nhằm nâng cao đạo
đức nghề nghiệp của nhà báo Việt Nam nói chung, và đội ngũ làm báo mạng
điện tử nói riêng.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của Luận văn là vấn đề vi phạm đạo đức báo chí
của nhà báo trên báo mạng điện tử hiện nay.
2. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn tập trung khảo sát một số báo mạng có số lượng độc giả lớn ở
Việt Nam hiện nay với các vấn đề nổi bật trong giới truyền thông trong năm
2013 và 2014.
Các báo mạng điện tử bao gồm: Dantri.com.vn; Vnexpress.net;
Vietnamnet.vn;
VTC.vn;
www.thanhnien.com.vn;
www.tienphong.vn;
Nld.com.vn; Tuoitre.vn; Laodong.com.vn, News.zing.vn…
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu:
1. Cơ sở lý luận
Đề tài được thực hiện trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác–Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh và các quan điểm, đường lối của Đảng và Nhà nước Việt
Nam về cơng tác tư tưởng và báo chí; lý luận báo chí về vai trị, chức năng và
ngun tắc hoạt động của báo chí; chuẩn mực về đạo đức nghề nghiệp báo chí
và sự tác động qua lại giữa đạo đức và các hình thái ý thức xã hội khác.
2.
•
Phương pháp nghiên cứu cụ thể
Phương pháp phân tích tài liệu: Dùng để xem xét, phân tích
các thơng tin có sẵn trong các tài liệu, từ đó rút ra những thơng tin cần thiết
phục vụ cho mục đích nghiên cứu của đề tài.
•
Phương pháp phân tích nội dung: Dùng để phân tích nội dung
các tác phẩm báo chí trên báo mạng điện tử (bao gồm cả những bài viết, hình
ảnh, những video clip hoặc những đoạn âm thanh) và những câu trả lời thu
được qua phỏng vấn sâu.
•
Phương pháp phỏng vấn sâu: Được sử dụng dùng để phỏng
vấn một số phóng viên, biên tập viên, nhà quản lý báo chí, nghiên cứu báo
chí, cơng chúng nhằm thu thập ý kiến đánh giá của cá nhân về thực trạng đạo
đức nghề nghiệp của nhà báo hiện nay cũng như nhận thức của họ về vấn đề
này.
•
Phương pháp thống kê: Dùng để thống kê tài liệu, con số, sự
kiện, dữ liệu... có được trong q trình khảo sát.
•
Phương pháp phân tích, tổng hợp: Được dùng để phân tích,
đánh giá và tổng hợp những kết quả nghiên cứu nhằm đưa ra những luận cứ,
luận điểm khái quát…
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài:
6..1 Ý nghĩa lý luận
Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần đổi mới và làm phong phú
thêm lý luận báo chí, truyền thông hiện đại và thực tiễn của báo mạng điện tử
hiện đại và vấn đề vi phạm đạo đức của nhà báo trên báo mạng điện tử ở Việt
Nam hiện nay.
6..2 Ý nghĩa thực tiễn
Kết quả nghiên cứu của luận văn là một trong những cơ sở để các tổ
chức, cá nhân sau đây tham khảo và vận dụng:
•
Các cơ quan chỉ đạo và quản lý báo chí;
•
Các tịa soạn báo chí;
•
Các cơ sở đào tạo báo chí;
•
Các phóng viên, biên tập viên các cơ quan báo chí
•
Những ai quan tâm lĩnh vực này
•
Cho chính tác giả luận văn
7. Cấu trúc của luận văn:
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Phụ lục, Tài liệu tham khảo, luận văn
bao gồm 3 chương, 14 tiết, 116 trang.
Nội dung của luận văn được trình bày theo thứ tự các chương sau đây:
Chương 1: Quan niệm về đạo đức nhà báo và lý luận chung về báo
mạng điện tử.
Chương 2: Thực trạng vấn đề vi phạm đạo đức nhà báo trên báo mạng
điện tử hiện nay
Chương 3: Bài học kinh nghiệm và đề xuất giải pháp, kiến nghị để
khắc phục vấn đề vi phạm đạo đức nghề nghiệp của nhà báo trên báo mạng
điện tử.
Chương 1: QUAN NIỆM VỀ ĐẠO ĐỨC NHÀ BÁO VÀ LÝ LUẬN
CHUNG VỀ BÁO MẠNG ĐIỆN TỬ
1..
Quan niệm về đạo đức nhà báo
1.1.1 Khái niệm “đạo đức” và “đạo đức nghề nghiệp”
Có nhiều định nghĩa khác nhau về khái niệm “Đạo đức”. Theo định
nghĩa của sách giáo khoa Giáo dục công dân bậc Trung học phổ thông, “Đạo
đức là hệ thống các quy tắc chuẩn mực xã hội, mà nhờ đó con người tự giác
điều chỉnh hành vi của mình cho phù hợp với lợi ích của cộng đồng và của xã
hội. Mỗi giai đoạn lịch sử nhất định có những quan niệm về đạo đức khác
nhau”. Và cần phân biệt rất rõ khái niệm “đạo đức” và “pháp luật”. Dù cùng
có mục đích để điều chỉnh hành vi của con người, nhưng đạo đức được thực
hiện dựa trên sự tự giác của con người với các chuẩn mực do xã hội đề ra, còn
pháp luật được thực thi một cách bắt buộc, theo những quy tắc, quy định bằng
văn bản chính thống do nhà nước đề ra.
Tham khảo trên Bách khoa toàn thư mở Wikipedia, “ “Đạo đức” là
một hiện tượng xã hội phản ánh các mối quan hệ hiện thực bắt nguồn từ bản
thân cuộc sống của con người. Đạo đức là tập hợp những quan điểm của một
xã hội, của một tầng lớp xã hội, của một tập hợp người nhất định về thế giới,
về cách sống. Nhờ đó con người điều chỉnh hành vi của mình sao cho phù hợp
với lợi ích của cộng đồng xã hội.”.
Đứng trên khía cạnh khác, “Đạo đức” là một hình thái ý thức xã hội, là
tổng hợp các qui tắc,F02D nguyên tắc, chuẩn mực xã hội nhờ nó con người tự
giác điều chỉnh hành vi của mình sao cho phù hợp với lợi ích và hạnh phúc
của con người, với tiến bộ xã hội trong quan hệ cá nhân - cá nhân và quan hệ
cá nhân –xã hội. Đạo đức là toàn bộ những qui tắc, chuẩn mực nhằm điều
chỉnh và đánhF2 0D giá cách ứng xử của con người với nhau trong quan hệ xã
hội và quan hệ với tự nhiên.
Theo giáo trình “Cơ sở lý luận báo chí truyền thơng”, các tác giả Dương
Xn Sơn, Đinh Văn Hường, Trần Quang thì: "Đạo đức là những tiêu
chuẩn, nguyên tắc được xã hội thừa nhận, quy định hành vi của con người đối
với nhau và đối với xã hội. Các nguyên tắc đạo đức giống như những chiếc
máy điều chỉnh hành vi của con người, nhưng khơng mang tính chất cưỡng
chế mà mang tính tự giác (...) Trên cơ sở lí tưởng và trách nhiệm đạo đức đã
hình thành nên quan niệm về lương tâm và lòng tự trọng của nhà báo chuyên
nghiệp. Đạo đức nghề nghiệp bao gồm các nguyên tắc xử sự đúng đắn để
ngăn ngừa những hành vi không đúng đắn. Căn cứ vào những tiêu chuẩn đạo
đức này và dựa vào tính chất của những hành vi, mỗi nhà báo sẽ phải chịu
đựng sự tự xỉ vả, xấu hổ, phải tự kết tội, hoặc được khích lệ, tự hào, phấn khởi
và hạnh phúc" – [19, tr. 252]
Đạo đức nghề nghiệp: là một bộ phận của đạo đức xã hội, là đạo đức cụ
thể trong đạo đức chung của xã hội. Đạo đức nghề nghiệp xuất hiện để là tên
gọi khoa học về cách sử dụng nghề nghiệp của con người (Déon: bổn phận
cần phải làm, logos: học thuyết - Déontologic được nhà triết học Anh Bentam
sử dụng có ý nghĩa là nghĩa vụ luận, đạo đức nghề nghiệp).
Đạo đức nghề nghiệp là những yêu cầu đạo đức đặc biệt, có liên quan
đến việc tiến hành một hoạt động nghề nghiệp nào đó; Là tổng hợp của các
quy tắc, các nguyên tắc chuẩn mực của 1 lĩnh vực nghề nghiệp trong đời sống,
nhờ đó mà mọi thành viên của lĩnh vực nghề nghiệp đó tự giác điều chỉnh
hành vi của mình cho phù hợp với lợi ích và sự tiến bộ của nó trong
mối quan hệ giữa cá nhân với cá nhân, cá nhân với tập thể với xã hội,...
Tuân theo các tiêu chuẩn đạo đức nghề nghiệp sẽ tạo điều kiện cho việc
nâng cao chất lượng lao động trong lĩnh vực nghề nghiệp.
Phẩm chất đạo đức cá nhân trong xã hội đều có nét chung, nhưng đạo
đức trong lĩnh vực nghề nghiệp có những đặc thù và u cầu riêng biệt. Ví dụ
như:
Thầy thuốc phải có lịng trắc ẩn
Thầy giáo phải là người mơ phạm
Nhà báo phải trung thực
Nhà chính trị phải có lịng nhân hậu đặc biệt với nhân dân ...
1.1.2 Đạo đức nhà báo
Nghề báo tuy khơng có một bộ luật đạo đức nghề nghiệp riêng nhưng
cũng có các văn bản bao gồm các quy tắc đạo đức hành nghề cho báo giới và
được các hội đồn báo chí thơng qua. “Đạo đức nghề nghiệp của nhà báo là
những quy tắc, chuẩn mực quy định thái độ và hành vi ứng xử của nhà báo
trong các mối quan hệ nghề nghiệp”.
Các quy tắc này áp dụng trong nhiệm vụ của nhà báo (nghĩa vụ thông
tin, tôn trọng độc giả, lợi ích xã hội, quyền được biết) và quy định tính chính
đáng cũng như tính đáng tin cậy của nhiệm vụ báo chí (độc lập với các quyền
lực chính trị hoặc kinh tế, tôn trọng đời tư, bảo vệ nguồn cung cấp thơng tin
v.v...).
Tóm lại, có thể nói quy tắc đạo đức hành nghề báo chí bao gồm tồn bộ
các tiêu chuẩn nghề nghiệp giám sát lương tâm nghề nghiệp của một thông tin
viên (nhà báo). Các tiêu chuẩn này dựa trên 2 nguyên tắc căn bản: trách nhiệm
xã hội và sự thật thông tin.
Mặt khác, quy tắc đạo đức nghề cịn góp phần giúp nhà báo tránh được các ý
đồ lũng đoạn thơng tin, tun truyền, đánh bóng hay bóp méo thông tin.
Tuyên bố về các quyền và nghĩa vụ của nhà báo được thông qua năm 1971 ở
Munich có ý nghĩa phổ quát. Nó quy định "quyền tiếp cận thông tin, quyền tự
do ngôn luận và quyền chỉ trích là một trong các quyền tự do căn bản của toàn
thể nhân loại", và "trách nhiệm của nhà báo đối với công chúng được đặt lên
trên hết, cao hơn cả trách nhiệm đối với chủ bút và chính quyền Nhà
nước". Ngồi ra nó quy định các nghĩa vụ của nhà báo như nghĩa vụ tôn trọng
sự thật và đời tư cá nhân, nhất thiết chỉ đưa các tin "có nguồn gốc rõ ràng",
nghĩa vụ "kiểm tra tất cả các thơng tin tỏ ra thiếu chính xác", "khơng tiết lộ
nguồn tin lấy được một cách bí mật".
Nghị quyết 1003 năm 1993 của Hội đồng châu Âu về đạo đức nghề báo
được thơng qua, nhưng chỉ mang tính chất "khuyến nghị" đối với báo chí các
quốc gia thành viên chứ không bắt buộc.
- Lương tâm: Yếu tố nội tâm tạo cho mỗi người khả năng tự đánh giá
hành vi của mình về mặt đạo đức, và do đó tự điều chỉnh mọi hành vi của
mình
- Trách nhiệm: Điều phải làm, phải gánh vác hoặc phải nhận lấy về
mình
Theo TS.Trương Minh Tuấn- Thứ trưởng Bộ Thông tin và Truyền thông,
không cứ là gì phải nghề báo mới đặt vấn đề về đạo đức, mà bất cứ
một nghề nào khác, chuyện đạo đức nghề nghiệp cũng phải được đặt ra, thậm
chí phải được đặt lên hàng đầu rồi mới nói đến chuyên mơn nghiệp vụ của
người hàng nghề đó. Vì rằng khơng có đạo đức khi hành nghề thì khoảng cách
giữa việc hành nghề chính đáng với việc lợi dụng “nghề” để trục lợi hoặc làm
những việc bất chính chỉ là tơ tóc. Với nghề báo, do đặc thù của cơng việc,
câu chuyện về đạo đức lại càng được chú trọng và đặt lên hàng đầu.
Đạo đức của nhà báo không chỉ là sự dũng cảm, dám xông vào những nơi
nguy hiểm nhất để phanh phui những mặt trái của đời sống mà cịn góp
phần trong việc “định hướng” dư luận, ngòi bút của nhà báo phải là mũi tên
dẫn đường để mọi người cùng hướng thiện. Một nhà báo được gọi là “có đạo
đức” phải là người đồng hành cùng nhân dân mình, cùng dân tộc và đất nước
mình, biết chia sẻ những vui, buồn, sướng, khổ với đồng bào mình trong cuộc
trường chinh thốt khỏi đói nghèo, lạc hậu để đến đích ấm no, hạnh phúc. Đạo
đức nhà báo không chỉ là việc đi đến tận cùng của nỗi oan khiên để tìm ra lẽ
phải, lẽ cơng bằng cho người bị oan khuất mà cái chính là, bằng ngịi bút
của mình, bằng sự trung thực và trách nhiệm của mình, nhà báo phải làm công
việc của một bác sĩ phẫu thuật, cắt bỏ vĩnh viễn những khối u có thể trở thành
“tiền lệ xấu”, có thể lây nhiễm thói hư cho cả cộng đồng.
“Một thông tin bị hiểu sai lệch hoặc bị nhà báo làm cho méo mó đi thì
hệ quả của nó khơng chỉ ảnh hưởng đến lợi ích của một cá nhân mà còn gây
hệ lụy cho cả cộng đồng. Ngược lại, một thơng tin kịp thời, chính xác và trung
thực của nhà báo, với sự lan tỏa của nó sẽ có tác dụng tích cực đến cá nhân,
tập thể và đời sống tồn xã hội. Vì vậy, vấn đề đạo đức của nhà báo là
câu chuyện luôn được đề cao và coi trọng nhất là trong thời đại bùng nổ thơng
tin.” [18,tr.15]
Đạo đức nghề báo chính là những ngun tắc, những chuẩn mực được
hình thành trong các mối quan hệ ứng xử nghề nghiệp của nhà báo, được thể
chế hóa, được nhà báo và dư luận xã hội thừa nhận, trở thành những chuẩn
mực điều chỉnh hành vi của nhà báo trong hoạt động thực tiễn nghề
nghiệp.Trách nhiệm chính trị, trách nhiệm pháp lý, trách nhiệm đạo đức trong
hoạt động nghề nghiệp của nhà báo là 3 mặt của một vấn đề, hòa quyện, liên
kết chặt chẽ, là điều kiện, là tiền đề của nhau, cùng hướng tới một mục tiêu
duy nhất là hoàn thành tốt trách nhiệm của nhà báo với sự phát triển của xã
hội, của đất nước.
Đạo đức nghề báo cũng là một nội dung quan trọng của tư tưởng Hồ
Chí Minh, mang giá trị lý luận và thực tiễn sâu sắc, góp phần to lớn vào việc
định hướng và đào tạo cho các thế hệ nhà báo Việt nam đủ đức và tài, trở
thành lực lượng xung kích trên mặt trận tư tưởng, văn hóa của Đảng.Người là
tấm gương sáng ngời về đạo đức của người làm báo.
Đạo đức cách mạng nói chung, đạo đức nghề báo nói riêng theo Hồ Chí
Minh được hiểu là phẩm chất tốt đẹp nhất, là gốc của mọi vấn đề trong cuộc
sống, là phương tiện điều chỉnh các mối quan hệ xã hội của người làm báo, mà
phạm trù pháp luật không điều chỉnh được. Bởi, “Cũng như sông thì có nguồn
mới có nước, khơng có nguồn thì sơng cạn. Cây phải có gốc, khơng có
gốc thì cây héo. Người cách mạng phải có đạo đức, khơng có đạo đức thì dù
tài giỏi mấy cũng khơng lãnh đạo được nhân dân”(1). Đạo đức báo chí khơng
chỉ nằm trong phạm vi điều chỉnh thuộc các quy định của luật báo chí hiện
hành, mà cịn là tâm thức và phương châm hành nghề của tất cả những người
làm báo cách mạng. Thực hiện đúng quy định đạo đức nghề nghiệp, người
làm báo sẽ tránh được những tác động tiêu cực trong cơ chế thị trường, giữ
vững lòng tin của nhân dân, của xã hội đối với lực lượng báo chí cách mạng
nói chung và đối với mỗi người làm báo nói riêng.
1.1.3 Vai trị của đạo đức nhà báo
Bản lĩnh chính trị của người làm báo được thể hiện ngay trong tác phẩm
báo chí. Qua tác phẩm báo chí, nhà báo bày tỏ quan điểm, thái độ với
các sự kiện xảy ra; đấu tranh với các quan điểm sai trái và các tư tưởng thù
địch; lên án phê phán, các hiện tượng tiêu cực, các thói hư tật xấu; bảo vệ
quyền lợi chính đáng của nhân dân. Bản lĩnh chính trị của nhà báo cịn được
thể hiện ở trình độ nhận thức chính trị-xã hội, qua học tập, rèn luyện thực tiễn
của nhà báo, đó là cái tâm, là phẩm chất chính trị của người làm báo. Cùng
với bản lĩnh chính trị, đạo đức nghề nghiệp là yêu cầu hết sức quan trọng với
người làm báo.
Đạo đức báo chí là đạo đức nghề nghiệp mang tính đặc thù do đặc trưng
của nghề nghiệp báo chí quy định. Đạo đức nghề nghiệp báo chí được
thể hiện trong mối quan hệ giữa những người làm báo với nhau; giữa người
làm báo với các tổ chức, cá nhân liên quan đến nghề báo và được biểu hiện
qua hoạt động của nhà báo, đó là lương tâm của nhà báo. Bên cạnh đó, lao
động sáng tạo của người làm báo là sự tái tạo lại hiện thực khách quan một cách
đúng đắn, chân thực nhưng không phản ánh một cách thô thiển, máy móc.
Trước một sự kiện xảy ra nhà báo phải biết chắt lọc thơng tin, tìm ra cái
bản chất nhất, mang tính định hướng dư luận, làm cho cơng chúng hiểu rõ vấn
đề. Sự sáng tạo không phải là sự thêm thắt, hư cấu, thêu dệt trong tác phẩm
của mình về sự kiện xảy ra nhằm mục đích cá nhân. Nếu như vậy nhà báo đã
tự đánh mất mình và vi phạm Luật Báo chí.
Đạo đức nhà báo khơng chỉ có ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng tác
phẩm của nhà báo đó, mà cịn tác động đến tồn xã hội nói chung và đội ngũ
báo chí nói riêng. Trong hơn mười năm qua, vấn để xuống cấp của đạo đức
báo chí trong cơ chế thị trường đã là chủ đề của nhiều cuộc hội thảo do Hội
nhà báo Việt Nam phối hợp với các cơ quan chức năng tổ chức. Nhưng dường
như số lượng những vụ việc, những biểu hiện tiêu cực về đạo đức báo chí vẫn
khơng thuyên giảm mà đang có xu hướng tăng lên.
Trước tiên hãy cùng trả lời câu hỏi: Vì sao với nghề báo, đạo đức nghề
nghiệp được đặc biệt coi trọng, được so sánh với nghề y, nghề luật, an ninh,
tòa án? Có ý kiến cho rằng vì đó là 5 nghề này có vị trí quan trọng đặc biệt và
mối quan hệ rộng rãi với nhiều người trong xã hội. Thế nhưng nghề thực phẩm,
nghề nông hay rất nhiều nghề khác đều có mối quan hệ rất rộng với
người dân; thậm chí cịn có tính tồn dân. Như vậy thì nghề giáo, nghề báo,
nghề y, nghề luật, an ninh, tịa án có gì khác biệt với phần lớn những nghề cịn
lại? Có một sự khác biệt rất lớn về mối tương quan của người làm nghề và đối
tượng phục vụ giữa 5 nghề này với những nghề còn lại. Nếu đặt lên bàn cân
một bên là người làm nghề và một bên là đối tượng phục vụ, thì với 5 nghề
vừa nêu, đối tượng phục vụ nhẹ cân hơn hẳn về vị thế. Dường như người làm
nghề có quyền nhiều hơn đối tượng của mình. Ở thế yếu hơn, những người
được phục vụ khó có khả năng tự bảo vệ mình, họ phải trơng chờ vào đạo đức
nghề nghiệp, vào lương tâm của các nhà báo, cũng như các thẩm phán, bác sĩ,
điều tra viên. Những người được phục vụ mong muốn những người làm nghề
thận trọng và cân nhắc kỹ càng trước mỗi một nhát dao mổ, một kết luận điều
tra, một bản án, một bài báo.
Các nước phát triển trên Thế giới đều có những quy định rất khắt khe
về “đạo đức nhà báo”, thậm chí, ở một số tờ báo lớn cịn có những quy định
riêng về đạo đức nghề nghiệp cho mỗi chức danh trong tịa soạn của mình. Ở
Nga, “Quy định về đạo đức nhà báo” được Hội đồng Nhà báo Nga thông qua
ngày 23/06/1994, tại Moscow với những hạng mục chi tiết về những quy tắc
mà nhà báo phải tuân thủ trong quá trình tác nghiệp như:
“Nhà báo phải tuân thủ chặt chẽ việc tách bạch các sự kiện, thông tin với
những ý kiến, phóng tác, và giả định có trong thơng tin. Nhưng nhà báo cũng
khơng nhất thiết phải giữ tính trung lập công việc.
Khi tác nghiệp, lấy thông tin nhà báo nhất thiết không áp dụng phương
thức phạm luật, thiếu chân chính. Nhà báo phải hiểu và tơn trọng quyền cơ
bản và quyền pháp lý của con người được phép không đưa tin và không trả
lời câu hỏi, trong trường hợp những thơng tin đó quy định rõ trong pháp luật.
Nhà báo phải coi các hành động sau đây là tội phạm báo chí nghiêm trọng,
bao gồm bóp méo sự thật có ác ý, vu cáo, lấy tiền để đưa tin sai sự thật, hoặc
giấu giếm thông tin đúng sự thật trong bất kỳ tình huống nào. Nói chung, nhà
báo khơng nên nhận trực tiếp hoặc gián tiếp bất kỳ khoản tiền thưởng, thù lao
từ đối tượng thứ ba để phát hành tài liệu hoặc phổ biến ý kiến của bên thứ ba.
Khi bị buộc tội đưa tin sai hoặc bóp méo sự thật, nhà báo phải cải chính,
trong trường hợp cần thiết phải xin lỗi trên phương tiện thơng tin báo chí hoặc
phát thanh truyền hình mà anh ta đã đưa tin sai.”;
“Nhà báo khơng nên sử dụng thơng tin bí mật phục vụ lợi ích riêng
hoặc lợi ích của gia đình.
Nhà báo phải tơn trọng và bảo vệ quyền lợi báo chí cho đồng nghiệp và
tuân thủ điều luật về cạnh tranh cơng bằng. Nhà báo nên tránh các tình
huống gây tổn hại cho lợi ích cá nhân và lợi ích nghề nghiệp của đồng
nghiệp, thông qua thỏa thuận hợp tác với những điều kiện thiếu thiện ý về vật
chất, địa vị xã hội, và đạo đức.
Nhà báo phải tôn trọng và kiên quyết bảo vệ quyền tác giả liên quan
đến bất kỳ loại hình hoạt động sáng tạo. Đạo văn là không thể chấp nhận. Sử
dụng tác phẩm của đồng nghiệp trong bất kỳ hình thức nào đều phải ghi rõ
tên tác giả.”
(Trích “Quy định về đạo đức nhà báo” – Hội đồng nhà báo Nga 1994)
Ở Mỹ, dù báo chí được xem là độc lập và tự do báo chí được Hiến pháp
quy định, điều đó khơng có nghĩa là các cơ quan công quyền, các tổ chức tư
nhân hoặc cá nhân khơng tìm cách khuynh lốt hoặc kiểm sốt thông tin sẽ
được xuất bản.
Nhiều tờ báo ở Mỹ đưa ra những quy tắc đạo đức chính thức hoặc khơng
chính thức, nhằm nói rõ với phóng viên những gì họ có thể hoặc khơng
thể nhận. Những quy tắc đó có ích, bởi vì nó giúp cân bằng quan hệ giữa
phóng viên với nguồn tin. Điển hình trong số đó là Quy định của Los Angeles
Times hay The Oregonian.
Ở Châu Á, các Quốc gia đi đầu trong việc quy định đạo đức nghề nghiệp
cho nhà báo có thể kể đến Hàn Quốc và Nhật Bản. Quy chuẩn đạo đức
báo chí Hàn Quốc ra đời năm 1986 do Hiệp hội Biên tập viên báo chí Hàn
Quốc gồm những biên tập viên các tờ báo hàng ngày và các cơ quan báo chí
trên tồn quốc và đã lập nên. Các nhà báo đã cam kết sẽ tuân thủ nghiêm ngặt
những quy chuẩn làm báo và đáp ứng kì vọng của nhân dân về báo chí tốt
đẹp. Khơng chỉ các biên tập biên mà tất cả những ai làm việc có liên quan đến
ngành báo sẽ tuân theo quy chuẩn này. Nhật Bản cũng có bộ “Quy tắc của
báo chí Nhật Bản” với những quy tắc dựa trên “quyền được biết thông tin của
cơng chúng”. Theo đó, “Quyền được biết thơng tin của cơng chúng là một
ngun tắc cơ bản để duy trì một xã hội dân chủ. Quyền này không thể được
đảm bảo nếu khơng có sự tồn tại của truyền thơng, hoạt động với sự đảm bảo
quyền tự do ngôn luận, đồng thời cam kết hướng tới một tiêu chuẩn đạo đức
cao và không phụ thuộc vào bất kỳ thế lực nào. Các cơ quan báo chí quyết
tâm nắm giữ vai trò của họ như là những người tiên phong nhất trong lĩnh vực
này.”; “Tất cả những người tham gia vào công việc biên tập, xuất bản,
quảng cáo và phát hành nên ủng hộ quyền tự do ngôn luận. Bản thân họ cũng
nên có cung cách xử sự đúng đắn để đảm bảo họ hoàn thành đầy đủ trọng
trách này, và để nâng cao lòng tin của độc giả.”
Một vài dẫn chứng như trên để thấy đạo đức báo chí có vai trị vơ cùng
quan trọng trong hoạt động báo chí, điều này đã được nhận thức từ rất lâu,
nhưng luôn mang tính thời sự.
2..
Mối quan hệ giữa đạo đức và pháp luật
Luật pháp là một hình thái ý thức xã hội, là hệ thống các nguyên tắc xử sự
mang tính chất bắt buộc chung, thể hiện ý chí của giai cấp thống trị và do