Tải bản đầy đủ (.docx) (112 trang)

Tác phẩm văn học việt nam trong chương trình trung học cơ sở nhìn từ giá trị đạo đức

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (507.98 KB, 112 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC QUY NHƠN

ĐINH THỊ Ý LAN

TÁC PHẨM VĂN HỌC VIỆT NAM
••
TRONG CHƯƠNG TRÌNH NGỮ VĂN TRUNG HỌC CƠ SỞ
NHÌN TỪ GIÁ TRỊ GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC
•••

Chuyên ngành: Văn học Việt Nam
Mã số: 8 22 01 21

Người hướng dẫn: TS. NGUYỄN VĂN ĐẤU


LỜI CAM ĐOAN

Tơi xin cam đoan cơng trình này là kết quả nghiên cứu của riêng tôi.
Các kết quả nêu trong luận văn là trung thực và chưa từng công bố trong
bất cứ một cơng trình nghiên cứu nào.

Người cam đoan

ĐINH THỊ Ý LAN


LỜI CẢM ƠN
Trước hết, tôi xin chân thành cảm ơn TS. Nguyễn Văn Đấu - người đã
tận tình hướng dẫn, giúp đỡ tơi trong suốt q trình học tập và nghiên cứu để


tơi hồn thành đề tài này.
Tơi xin gửi lời cảm ơn sâu sắc tới q thầy cơ trong khoa Ngữ văn Trường Đại học Quy Nhơn, quý thầy cô thỉnh giảng đã truyền thụ kiến thức và
tạo mọi điều kiện giúp đỡ tơi trong suốt q trình học tập và làm luận văn.
Cuối cùng, tôi xin cảm ơn bạn bè và những người thân đã luôn động
viên, ủng hộ và giúp đỡ tơi trong q trình nghiên cứu.


MỤC LỤC
••
LỜI CAM ĐOAN
LỜI CẢM ƠN
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

Chương 2. TÁC PHẨM VĂN HỌC VIỆT NAM TRONG CHƯƠNG
TRÌNH TRUNG HỌC CƠ SỞ VỚI VẤN ĐỀ GIÁO DỤC CON NGƯỜI

DANH MỤC CƠNG TRÌNH KHOA HỌC ĐÃ CƠNG BỐ CỦA TÁC GIẢ
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
QUYẾT ĐỊNH GIAO ĐỀ TÀI LUẬN VĂN (bản sao)


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
GS

: Giáo sư

HS

: Học sinh


Nxb

: Nhà xuất bản

NQ
NQ/TW
PGS.TS

: Nghị quyết
: Nghị quyết Trung
ương
: Phó giáo sư - Tiến sĩ


QH

: Quyết định
: Quốc Hội

THPT

: Trung học phổ thông

THCS

: Trung học cơ sở

SGK

: Sách giáo khoa



6

MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
1.1. Đạo đức xã hội là một phạm trù lịch sử ra đời cùng với sự hình
thành xã hội lồi người. Theo triết học Mác - Lê-nin, đạo đức được
hiểu là hệ thống các quy tắc của đời sống xã hội và hành vi con
người, là những quan niệm, những nguyên tắc, chuẩn mực, hành vi
ứng xử của con người đối với con người, đối với xã hội, đối với tự
nhiên và đối với chính bản thân mình, có ý nghĩa tích cực thúc đẩy xã
hội phát triển, hướng con người tới chân - thiện - mĩ. Và văn học
nghệ thuật là một hình thái ý thức đóng vai trị quan trọng, tham gia
tích cực vào việc xây dựng đạo đức xã hội [28, 78].
Lịch sử văn học, nghệ thuật nhân loại từ Đông sang Tây, từ cổ chí kim,
trong tất cả ý nghĩa chân chính và cao cả của nó, đều trực tiếp hoặc gián tiếp
tìm đến phản ánh, cảnh báo, dự báo và bộc lộ khát vọng về đạo đức con người.
Nó phản ánh đạo đức xã hội, đấu tranh chống cái ác, cái thấp hèn, bảo vệ cái
cao thượng, cái tốt đẹp là nhiệm vụ tự thân của văn học, nghệ thuật. Qua văn
học nghệ thuật, đạo đức được hun đúc, ý thức đẩy lùi cái ác được bồi đắp, cổ
vũ khát vọng hướng tới cái thiện, cái đẹp, mang lại niềm tin yêu con người và
cuộc sống.
1.2. Ý nghĩa giáo dục của văn học là đặc tính tất yếu, khách quan, độc
lập với ý muốn của nhà văn cũng như người đọc. Văn học mở rộng
sự hiểu biết cũng chính là văn học cải biến thế giới bên trong, thế
giới tinh thần con người, tạo điều kiện cho nó ý thức được chính bản
thân mình, tự lựa chọn cho mình một thái độ sống đúng đắn. Vì thế
các nhà văn lớn xứng đáng với danh hiệu nhà giáo dục với ý nghĩa
sâu sắc nhất. Nhận thức rõ mối quan hệ biện chứng giữa đạo đức và



7

văn học, các nhà giáo dục đã đưa các tác phẩm văn chương vào
chương trình giảng dạy ở nhà trường nhằm giáo dục nhân cách cho
đối tượng học sinh ngay từ sớm, ở tất cả các cấp học. Không phải
ngẫu nhiên mà môn ngữ văn thường chiếm dung lượng thời gian lớn
trong chương trình học của học sinh. Bởi mơn học này vừa là môn
học cơ sở giúp ta học tốt các môn khác, vừa là môn học giúp giáo
dục tư tưởng, tình cảm con người, là mơn học làm đẹp tâm hồn, làm
cho tâm hồn tình cảm thêm phong phú, nhạy cảm, rung động trước
cái đẹp, cái thiện, cái thực của cuộc đời, góp phần giáo dục tư tưởng,
bồi dưỡng và hoàn thiện nhân cách cho học sinh.
1.3. Chương trình Ngữ văn THCS hiện hành nêu lên ba mục tiêu, trong
đó mục tiêu đầu tiên là “cung cấp cho HS những kiến thức phổ
thơng, cơ bản, hiện đại, có tính hệ thống về ngơn ngữ (trọng tâm là
tiếng Việt) và văn học (trọng tâm là văn học Việt Nam), phù hợp với
trình độ phát triển của lứa tuổi và yêu cầu đào tạo nguồn nhân lực
trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”. Mục tiêu thứ
hai là hình thành và phát triển năng lực sử dụng tiếng Việt đã hình
thành ở cấp tiểu học, tiếp nhận văn học, cảm thụ thẩm mĩ... Mục tiêu
thứ ba là bồi dưỡng tinh thần, tinh cảm như tình yêu tiếng Việt, yêu
thiên nhiên, yêu quê hương đất nước; ý thức đối với cội nguồn, tự
hào về lịch sử dân tộc; lịng nhân ái, vị tha; u thích cái đẹp, cái
thiện và có cảm xúc lành mạnh; có hứng thú học tập, ham thích lao
động; có tinh thần tự học và ý thức nghề nghiệp; trung thực và có
trách nhiệm, có ý thức cơng dân, tơn trọng pháp luật, góp phần giữ
gìn, phát huy các giá trị văn hóa Việt Nam qua vẻ đẹp của ngôn từ
nghệ thuật, qua lời ăn tiếng nói khi giao tiếp, qua vẻ đẹp nhân văn

của đề tài, chủ đề, của tư tưởng và hình tượng nghệ thuật. Ba mục


8

tiêu này đã thể hiện rõ chức năng giáo dục, chức năng nhận thức và
chức năng thẩm mĩ của văn học ở chương trình Ngữ văn THCS.
Vì thế, việc đi vào tìm hiểu giá trị giáo dục đạo đức trong chương trình
Ngữ văn THCS là hết sức quan trọng và cần thiết, vừa góp phần định hướng
phát triển nhân cách, năng lực sử dụng tiếng Việt, tiếp nhận văn học, cảm thụ
thẩm mĩ, bồi dưỡng tinh thần, tình cảm như tình u tiếng Việt, u thiên
nhiên, gia đình, lịng tự hào dân tộc, vừa giúp khắc phục tình trạng dạy học
Ngữ văn thiếu hiệu quả trong nhà trường phổ thông hiện nay. Đó cũng là lí do
chúng tơi chọn vấn đề Tác phẩm văn học Việt Nam trong chương trình Ngữ
văn Trung học cơ sở nhìn từ giá trị giáo dục đạo đức làm đề tài cho luận văn
tốt nghiệp của mình.
2. Lịch sử vấn đề
Chức năng giáo dục thường được xem là giáo dục phẩm chất đạo đức,
nhân cách cho con người. Ngay từ thời cổ đại Hi Lạp, Arixtot đưa ra phạm trù
thanh lọc khi người ta xem kịch nếu có khóc thì sẽ làm người ta trong sạch và
cao thượng hơn. Nhà mĩ học Letsxing của Đức cho rằng sân khấu phải trở
thành “một trường học đạo đức”. Ở Việt Nam, việc coi văn học có chức năng
giáo dục đã có từ lâu. Trong bài tựa Lĩnh Nam chích quái, Vũ Quỳnh và Kiều
Phú đã viết: “Việc tuy kì dị mà khơng qi đản, văn tuy thần bí nhưng khơng
nhảm nhí, tuy nói những chuyện hoang đường mà tung tích vẫn có bằng cứ, há
chẳng phải là chẳng khuyên điều thiện, trừng điếu ác, bỏ giả theo thật”. Và từ
xưa đến nay văn học vẫn được coi như một thứ vũ khí giáo dục, tuyên truyền
phục vụ sự nghiệp đấu tranh giữ nước, dựng nước.
Bàn về giá trị đạo đức trong văn chương nghệ thuật từ trước đến nay, đã
có rất nhiều cơng trình, tài liệu của các nhà nghiên cứu, phê bình, lí luận văn

học, các nhà giáo dục đề cập đến. Chúng tôi xin điểm qua những cơng trình, tài
liệu tiêu biểu có liên quan đến đề tài.


9

Luật giáo dục và đào tạo được Quốc Hội nước Cộng hịa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam khóa X thơng qua ngày 02 tháng 12 năm 1998 đã nêu rõ mục
tiêu của giáo dục đào tạo “là đào tạo con người Việt Nam phát triển tồn diện,
có đạo đức, có tri thức, sức khỏe, thẩm mỹ và nghề nghiệp, trung thành với lý
tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; hình thành và bồi dưỡng nhân cách,
phẩm chất và năng lực của con người đáp ứng yêu cầu xây dựng và bảo vệ tổ
quốc...”. Luật giáo dục đã định hướng mục tiêu cần đạt của giáo dục nói riêng
và vấn đề đạo đức học sinh nói chung, tất cả đều thơng qua một phương tiện là
chương trình, nội dung kiến thức cần truyền đạt, trong đó mơn Ngữ văn là một
trong những môn học quan trọng, chiếm nhiều dung lượng và thời gian nhất.
Cùng với Luật giáo dục và đào tạo, các Nghị quyết của Đảng và Quốc
hội cũng đã đề cập một cách toàn diện và sâu sắc về vấn đề này: Nghị quyết
Trung ương 5 khóa VIII năm 1998 đã xác định văn học nghệ thuật là một trong
10 nhiệm vụ trọng tâm. Nghị quyết số 33 năm 1998 của Ban Chấp hành Trung
ương Đảng về “Xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng
yêu cầu phát triển bền vững đất nước” tiếp tục khẳng định phát triển văn học,
nghệ thuật là một trong các nhiệm vụ then chốt góp phần xây dựng, phát triển
văn hóa, con người: mỗi văn nghệ sỹ bên cạnh tài năng, năng khiếu, phải là
những nhà tư tưởng, vừa có tài, vừa có tâm, có tầm, phải là những nhà đạo đức
làm gương cho xã hội, là những công dân với đầy đủ ý thức trách nhiệm, bổn
phận đối với dân tộc, nhân dân, đất nước; người tiếp nhận, cần thường xuyên
bồi dưỡng năng lực cảm thụ nghệ thuật, định hướng thị hiếu, thẩm mỹ lành
mạnh cho công chúng; đối với các nhà quản lý, lãnh đạo, tham mưu văn hóa,
văn nghệ cần nâng cao năng lực, hiểu biết về lĩnh vực nhạy cảm và tinh tế này,

tránh tình trạng có những xử lý, ứng xử chưa đúng đối với tác giả, tác phẩm,
làm mất đi môi trường thuận lợi, mất sự kích thích sức sáng tạo đối với văn
nghệ sỹ.


10

Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
(bổ sung và phát triển năm 2011) tiếp tục bổ sung: Xây dựng nền văn hoá Việt
Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, phát triển toàn diện, thấm nhuần tinh
thần nhân văn, dân chủ, tiến bộ; Kế thừa và phát huy những truyền thống văn
hoá tốt đẹp của cộng đồng các dân tộc Việt Nam, tiếp thu những tinh hoa văn
hoá nhân loại, xây dựng một xã hội dân chủ, công bằng, văn minh, vì lợi ích
chân chính và phẩm giá con người, với trình độ tri thức, đạo đức, thể lực và
thẩm mỹ ngày càng cao, khẳng định và biểu dương các giá trị chân, thiện, mĩ,
phê phán những cái lỗi thời, thấp kém, đấu tranh chống những biểu hiện phản
văn hoá.
Đến năm 2014, nhận thấy sự xuống cấp về đạo đức xã hội, trong đó đặc
biệt là sự suy thối về tư tưởng, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ
cán bộ, đảng viên và cả trong nhân dân trở thành một lực cản đối với công
cuộc xây dựng và phát triển đất nước, Nghị quyết Trung ương 4 và Nghị quyết
Trung ương 9, khóa XI, số 33 cũng đã đặt ra mục tiêu riêng đối với văn học,
nghệ thuật, đó là hồn thiện các chuẩn mực giá trị văn hóa và con người Việt
Nam, tạo mơi trường và điều kiện để phát triển về nhân cách, đạo đức, trí tuệ,
năng lực sáng tạo, thể chất, tâm hồn, trách nhiệm xã hội, nghĩa vụ công dân, ý
thức tuân thủ pháp luật; đề cao tinh thần yêu nước; tự hào dân tộc, lương tâm,
trách nhiệm của mỗi người với bản thân mình, với gia đình, cộng đồng, xã hội
và đất nước. Tiếp đó, NQ 88 QH khóa 13/ 2014 và quyết định số 1501/QĐ
ngày 28/08/2015 ra đời trên tinh thần của Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 04
tháng 11 năm 2013, Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương khóa XI

nêu rõ trong đề án Tăng cường giáo dục lí tưởng Cách mạng, đạo đức, lối sống
cho thanh thiếu niên của ngành giáo dục: giáo dục đào tạo là giáo dục lý tưởng
cách mạng, đạo đức, lối sống thông qua việc học, nhất là môn Ngữ văn “Học
để biết - Học để làm - Học để chung sống - Học để tự khẳng định mình” góp


11

phần tạo chuyển biến căn bản, toàn diện về chất lượng, hiệu quả giáo dục và
phát triển con người Việt Nam tồn diện về Đức, Trí, Thể, Mỹ.
Vấn đề giáo dục đạo đức, nhân cách con người cũng đã được các nhà
nghiên cứu giáo dục đặc biệt quan tâm. Trong Văn học và đạo đức - nhìn từ
lịch sử văn chương Việt, GS Phong Lê đã điểm qua vấn đề văn học - nghệ
thuật qua từng giai đoạn lịch sử gắn bó rất sâu với chức năng giáo dục, trong
đó chủ yếu là giáo dục lòng yêu nước và yêu chủ nghĩa xã hội, tính đảng và
tính giai cấp, nêu gương con người mới. GS cho rằng văn học có quan hệ với
đạo đức, ít ra là trên hai phương diện: đạo đức là đối tượng phản ánh rộng lớn
của văn học (bởi đạo đức là một phương diện sống cơ bản của con người. Là
những quy ước - thành văn hoặc không thành văn mà con người phải tuân thủ,
từ đó kiến tạo nên xã hội người); văn học từng có chức năng giáo dục đạo đức,
hoặc ít ra phải có hiệu quả đạo đức, xét theo lịch sử tồn tại của nó. Vì vậy GS
nhận thấy tầm quan trọng của việc tổ chức hội thảo: Văn học và đạo đức xã
hội. Một hội thảo cần thiết và có ích. Bởi, dẫu văn học hôm nay đứng trước đa
chức năng, trong đó chức năng giải trí đang nổi lên, có lúc gần như lấn át, thì
chức năng nhân đạo hóa của văn học nhằm gây dựng hoặc trả lại chất người
cho con người, nhằm làm cho hoàn cảnh trở nên nhân đạo hơn. GS cho rằng
văn học là sự hướng thiện cho cả người viết và người đọc, nhất là khi con
người đứng trước nguy cơ bị xâm hại và tha hóa, khi các cộng đồng người có
nguy cơ tan vỡ. Và GS cũng khẳng định nếu sự tha hóa, xâm hại, hủy hoại của
cá nhân con người đã đến mức báo động, thì sự tồn tại của văn chương - nghệ

thuật khơng cịn có ý nghĩa gì nữa cả!
Cịn theo PGS.TS Đỗ Ngọc Thống, thơng qua hoạt động đọc, viết, nói
và nghe các kiểu loại văn bản, nhất là văn bản văn học, mơn Ngữ văn hình
thành và phát triển cho HS những phẩm chất cao đẹp: yêu quê hương, đất
nước, con người, chăm học, chăm làm, sống trung thực và có trách nhiệm. Qua


12

những tác phẩm văn học chọn lọc và đặc sắc, giúp học sinh có cơ hội khám
phá bản thân và thế giới xung quanh, thấu hiểu con người, biết đồng cảm sẻ
chia, có lịng trắc ẩn, vị tha; có cá tính và đời sống tâm hồn phong phú, có quan
niệm sống và ứng xử nhân văn. Bồi dưỡng cho học sinh tình yêu đối với tiếng
Việt và văn học, ý thức về cội nguồn và bản sắc của dân tộc để góp phần giữ
gìn, phát triển các giá trị văn hóa Việt Nam. [7]
Ngồi ra cịn có nhiều cơng trình nghiên cứu của nhiều tác giả khác như:
Trần Đình Sử, Trở về với văn bản văn học - Con đường đổi mới căn bản
phương pháp dạy học Văn (Báo Văn nghệ số 10/2009); Bùi Mạnh Hùng, Về
định hướng đổi mới chương trình và sách giáo khoa mơn Ngữ văn, Đỗ Ngọc
Thống, Dạy học Ngữ văn trong nhà trường Việt Nam - hiện trạng, hướng phát
triển và những vấn đề liên quan (Kỷ yếu Hội thảo khoa học quốc gia về dạy
học Ngữ văn ở trường phổ thông Việt Nam do Bộ Giáo dục và Đào tạo tổ chức
tại Huế, 2013)...Các cơng trình nói trên đã định hướng tiếp cận, chỉ ra vai trò
và tầm quan trọng của những giá trị đạo đức trong tác phẩm văn chương ở nhà
trường phổ thơng, giúp chúng tơi có thêm cái nhìn sâu sắc và tồn diện hơn
cho luận văn của mình.
Những quan điểm trên đã xác định được vai trị và vị trí môn Ngữ văn,
một môn học rất quan trọng trong trường phổ thơng, có ý nghĩa trong việc hình
thành, phát triển, định hướng nhân cách cho học sinh. Học văn là học làm
người, học các phép tắc ứng xử trong cuộc sống. Mặt khác, đây là một mơn

học nghệ thuật, kích thích trí tưởng tượng bay bổng, sức sáng tạo của người
học góp phần giúp học sinh phát triển những phẩm chất cao đẹp như: tình yêu
đối với thiên nhiên, tình yêu quê hương, đất nước; ý thức đối với cội nguồn, tự
hào về lịch sử dân tộc; lòng nhân ái, vị tha; u thích cái đẹp, cái thiện và có
cảm xúc lành mạnh.Đó chính là những giá trị đạo đức, giá trị nhân văn mang
thông điệp giáo dục giàu ý nghĩa trong tác phẩm nghệ thuật. Việc lĩnh hội


13

những giá trị, những ý nghĩa ấy và truyền thụ đến học sinh là một con đường
nan giải, phức tạp đòi hỏi người dạy - người truyền thụ kiến thức cần có nghệ
thuật.
Trên cơ sở những thành tựu của những người đi trước, chúng tôi sẽ tiếp
tục kế thừa, đi sâu tìm hiểu và tiếp cận một cách tồn diện vấn đề giá trị đạo
đức của tác phẩm văn chương đặc sắc được chọn lọc trong chương trình Ngữ
văn THCS.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đề tài tập trung nghiên cứu giá trị giáo dục đạo đức và những biểu hiện
của giá trị đạo đức trong những tác phẩm văn học Việt Nam trong chương trình
Ngữ văn trung học cơ sở.
Mặc dù đã hệ thống phần phụ lục các văn bản văn học trong chương
trình ngữ văn THCS nhưng với thời lượng cho phép thực hiện các mục tiêu đặt
ra của đề tài, chúng tôi chọn khảo sát, phân tích, hệ thống một số các văn bản
nghệ thuật tiêu biểu mang các giá trị đạo đức con người công dân, con người
cá nhân trong chương trình Ngữ văn THCS hiện hành, Nxb giáo dục, Hà Nội.
4. Phương pháp nghiên cứu
Để giải quyết vấn đề trên, chúng tôi sử dụng phối hợp linh hoạt một số
phương pháp cơ bản sau:
4.1. Phương pháp hệ thống: Góp phần giúp người nghiên cứu xem xét

toàn bộ các vấn đề liên quan đến đề tài trong quan hệ chỉnh thể thống
nhất.
4.2. Phương pháp phân tích, tổng hợp: được sử dụng kết hợp suốt q
trình thực hiện đề tài, giúp làm sáng rõ các vấn đề ở các phạm vi
khác nhau.
4.3. Phương pháp so sánh - đối chiếu: được sử dụng khi so sánh các tác


14

giả, tác phẩm, các giai đoạn văn học... qua đó mang lại cái nhìn tồn
diện cho các vấn đề nghiên cứu trong luận văn.
5. Đóng góp của luận văn
Tìm hiểu tác phẩm văn học Việt Nam trong chương trình Ngữ văn
THCS nhìn từ giá trị giáo dục đạo đức, luận văn đã giúp người dạy, người học
nhìn lại các giá trị đạo đức trong tác phẩm văn học ở nhà trường THCS một
cách có hệ thống, bao qt và tồn diện. Luận văn còn mở ra cho người tiếp
nhận những hướng khai thác nội dung tác phẩm văn học mới hơn, khác hơn,
khơng dựa vào lối mịn sẵn có từ những sách hướng dẫn dành cho giáo viên và
bài soạn văn dành cho học sinh. Từ đó, rèn luyện cho người dạy, người học
một ý thức sáng tạo trong quá trình lĩnh hội sản phẩm của quá trình sáng tạo
nghệ thuật.
6. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, tài liệu tham khảo, phần nội dung của
luận văn chia thành ba chương:
Chương 1: Tác phẩm văn học với vấn đề giáo dục đạo đức con người
Chương 2: Tác phẩm văn học Việt Nam trong chương trình trung học cơ sở với
vấn đề giáo dục con người công dân
Chương
học

cơ sở
3: với
Tác vấn
phẩmđề
văn
giáo
họcdục
Việt
con
Nam
người
trong
cáchương
nhân trình trung


Chương 1
TÁC PHẨM VĂN HỌC
VỚI VẤN ĐỀ GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC CON NGƯỜI
••
1.1.

Tác phẩm văn học - từ nhận thức cuộc sống, cái đẹp đến giáo

dục đạo đức con người
Con người là chủ thể của mọi sự phát triển, còn văn hóa tạo ra hệ thống
các giá trị chuẩn cho con người vươn tới, từ đó hình thành nên phẩm chất con
người. Văn hóa hình thành nên nhân cách con người mà con người chính là
chủ thể của mọi sự phát triển. Trong văn hóa, văn học nghệ thuật là loại hình,
lĩnh vực quan trọng, đặc biệt, tinh tế, là nhu cầu thiết yếu thể hiện khát vọng

chân, thiện, mĩ của con người. Như vậy, có thể nói văn học nghệ thuật là một
trong những động lực to lớn, trực tiếp góp phần xây dựng nền tảng tinh thần
của xã hội và xây dựng, phát triển văn hóa con người.
Trong các chức năng cơ bản của văn hóa - văn nghệ thì chức năng nhận
thức, chức năng thẩm mỹ và chức năng giáo dục là những chức năng quan
trọng hàng đầu; đồng thời chức năng giao tiếp, tổ chức, điều chỉnh xã hội cũng
góp phần quan trọng khơng kém nhằm xây dựng một xã hội lành mạnh, với các
thành tố lành mạnh tạo nên các giá trị ổn định làm nền tảng cho phát triển, góp
phần điều chỉnh xã hội, xây dựng một xã hội lành mạnh hơn.
1.1.1.

Tác phẩm văn học - cuốn “bách khoa toàn thư” về đời sống

Văn chương phát sinh và phát triển từ lâu trong đời sống xã hội lồi
người, nhưng khơng phải ai cũng thấy được giá trị nhận thức của nó. Mĩ học
Mác - Lênin cho nghệ thuật là phương tiện mà con người dùng để nhận thức
thế giới. Các nhà kinh điển chủ nghĩa Mác luôn thấy rõ và nhấn mạnh ý nghĩa
nhận thức của văn học nghệ thuật. Mác và Ăng-ghen đã nhiều lần nêu rõ ý


nghĩa nhận thức của văn chương. Về bộ tiểu thuyết Tấn trị đời của Balzac, bộ
bách khoa tồn thư về cuộc sống của xã hội Pháp trong nửa đầu thế kỷ XIX,
Ăngghen viết: “Balzac mơ tả tồn bộ lịch sử xã hội Pháp, trong đó ngay cả
những chi tiết kinh tế (thí dụ như việc phân phối lại quyền tư hữu thực tế về
quyền tư hữu cá nhân sau cách mạng), tôi đã học tập được nhiều hơn là tất cả
các sách của các nhà sử học, các nhà kinh tế học, các nhà thống kê chuyên
nghiệp thì ấy cộng chung lại”.
Cũng như C. Mác và F.Ăng-ghen, Lênin đánh giá cao khả năng hiểu
biết, khám phá, sáng tạo của văn học. Một ví dụ tiêu biểu là Người đã đánh giá
rất cao Lev Tolstoy ở khả năng nhận thức và phản ánh đời sống xã hội qua tác

phẩm của ông. Người xem “Tolstoi là tấm gương phản chiếu cách mạng Nga”.
Maxim Gorki, nhà văn của giai cấp vô sản Nga, người ln kính cẩn học hỏi
Lev Tolstoy, đã khẳng định: “Lev Tolstoy đã nói cho chúng ta biết về đời sống
của nước Nga, gần như khơng thua kém tồn bộ nền văn học Nga”. Ở Việt
Nam, thủ tướng Phạm Văn Đồng cũng đã từng phát biểu rất chí lí rằng: “Văn
học nghệ thuật là công cụ để hiểu biết. Khám phá, sáng tạo lại thực tại xã hội”.
Có người cho rằng, “Văn học là bộ bách khoa toàn thư về cuộc sống”, là
tấm gương phản chiếu đời sống. Văn học nghệ thuật có chức năng nhận thức
cuộc sống. Vì sao vậy? Vì trước hết văn học là một kho chứa khổng lồ về tri
thức, mang đến sự hiểu biết, giúp con người khám phá hiện thực, có thể tìm
thấy trong văn học những tri thức về thiên nhiên, vũ trụ, về đời sống xã
hội...những cuốn tiểu thuyết lịch sử như Tam quốc diễn nghĩa của La Quán
Trung, Hoàng Lê nhất thống chí của Ngơ gia văn phái đưa ta về với quá khứ xa
xăm của dân tộc. Thơ văn Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, Nguyễn Đình Chiểu làm
sống lại cuộc sống đau thương và những kì tích anh hùng của người xưa. Đọc
những tác phẩm văn học hiện thực giao đoạn 1930-1945 (Lão Hạc của Nam
Cao, Tắt đèn của Ngô Tất Tố, Bỉ vỏ của Nguyên 1 lồng...), ta thường bắt gặp


hình ảnh người nơng dân bỏ làng ra đi vì sự bần cùng hóa của nơng thơn đang
diễn ra khốc liệt [30,243].
Văn học miêu tả các hiện tượng, đối tượng thuộc thế giới tự nhiên và
đời sống xã hội chính là nhằm khám phá đời sống của con người trong các mối
quan hệ phức tạp. Qua hình tượng nhân vật, nhất là nhân vật điển hình, văn học
giúp ta tìm hiểu thân phận con người, khám phá các tính cách xã hội của một
giai đoạn lịch sử, của một tầng lớp giai cấp nào đó (ví dụ tính cách nhân vật
trong kịch của Môlie mang đặc điểm phổ quát của bản chất người, hay nhân
vật trong sáng tác của Nam Cao mang đặc điểm khái quát cho tầng lớp giai cấp
trong xã hội). Mục đích cuối cùng của nhận thức là hướng tới khái quát, khám
phá ra bản chất, quy luật của hiện tượng, đối tượng. Cho nên, ngoài việc hiểu

biết sâu sắc, rộng rãi về thế giới, văn chương còn phải phát hiện ra bản chất
quy luật của thế giới nhưng không phải bằng những tư duy lo-gic của khoa học
mà là bằng phương thức thể hiện riêng, phương tiện đặc thù. Đó là những hình
tượng nghệ thuật. Chính hình tượng đã mang đến cho con người những tri thức
và sự hiểu biết riêng qua con đường thẩm mĩ, bằng con đường tình cảm thẩm
mĩ. Một “làn ao lóng lánh bóng trăng loe” trong bài Thu ẩm của Nguyễn
Khuyến đã làm dậy lên nỗi nhớ quê của người xa xứ, một anh Pha trong Bước
đường cùng của Nguyễn Công Hoan, một Chí Phèo trong tác phẩm cùng tên
của Nam Cao... ta vẫn nhận ra số phận và tính cách của người nơng dân Việt
Nam trước Cách mạng. Đó là những điều bình thường, chân thực, giản dị trong
cuộc sống hàng ngày được văn học phát hiện khiến người tiếp nhận phải bật
thốt lên: “Đúng, cuộc đời là như vậy, con người là như vậy, thế mà trước đây ta
không hề nhận thấy được”. Văn học ln mở mang trí tuệ, mài sắc cái nhìn của
ta, mang lại cho ta cái nhìn nhạy bén, dạy cho ta biết cách phân biệt đâu là thật,
đâu là giả, đâu là thiện, đâu là ác. Qua miêu tả thiện - ác, đẹp - xấu, nhà văn đã
giúp ta nhận ra ý nghĩa, giá trị của cuộc sống: Mình là ai? Mình sống để làm


gì? Vì sao con người phải sống trong đau khổ? Làm thế nào để có cuộc sống
sung sướng, hạnh phúc? Đó là những câu hỏi đặt ra với người tiếp nhận. Đọc
Hịch tướng sĩ, Bình Ngơ đại cáo, thơ văn của Nguyễn Trãi, Nguyễn Du,
Nguyễn Đình Chiểu, Hồ Xuân Hương.ta hiểu điều gì là đáng yêu, đáng ghét
trong xã hội cũ, ta hiểu được khát vọng vươn lên sống cuộc sống xứng đáng
của họ. Văn học giúp ta hiểu được giá trị của mình, thấy được vị trí của mình,
biết được cần phải làm gì để nâng cao giá trị và năng lực của bản thân
[30,214].
Tóm lại, văn chưong có khả năng nhận thức vơ cùng to lớn trên nhiều
bình diện của hiện thực đời sống về tự nhiên cũng như về xã hội. Nó là “cuốn
sách giáo khoa về đời sống”. Chức năng đó diễn ra trong q trình nhà văn
nhận thức hiện thực bằng tác phẩm nghệ thuật. Tác phẩm nghệ thuật đến lượt

mình trở thành một cơng cụ thẩm mĩ giúp người đọc nhận thức cuộc sống và
hiện thực qua những khám phá và sáng tạo của nhà văn.
1.1.2.

Tác phẩm văn học - nơi kết tinh những sáng tạo thẩm mỹ

Từ thời xa xưa, khi chưa có nghệ thuật, nhu cầu hưởng thụ cái đẹp và
quan hệ thẩm mĩ giữa con người với đời sống đã xuất hiện, đến khi nghệ thuật
phát triển rực rỡ, nhu cầu thẩm mĩ cũng không giới hạn trong phạm vi nghệ
thuật. Trong bất cứ phạm vi, lĩnh vực nào, con người cũng sáng tạo theo quy
luật của cái đẹp. Chính vì thế, Biêlinxki nói rằng: “Cái đẹp là điều kiện khơng
thể thiếu được của nghệ thuật, nếu thiếu cái đẹp thì khơng có và khơng thể có
nghệ thuật. Đó là một chân lí”. Sáng tạo ra cái đẹp là chức năng quan trọng
nhất của văn nghệ. Cái đẹp không chỉ thể hiện ở hình thức bên ngồi mà chính
là nội dung. Với ý nghĩa như thế, văn học nghệ thuật là lĩnh vực hoạt động có
khả năng thỏa mãn tối đa nhu cầu hưởng thụ cái đẹp.
Nghệ thuật thực hiện chức năng thẩm mĩ rất riêng. Nghệ thuật làm thỏa
mãn nhu cầu thẩm mĩ của người đọc bằng việc miêu tả và phản ánh cái đẹp


trong tự nhiên và xã hội. Có thể tìm thấy trong văn học muôn vàn vẻ đẹp của
cỏ, cây, hoa, lá, sông, núi, mây trời: “Long lanh đáy nước in trời/ Thành xây
khói biếc, non phơi bóng vàng”, “Cỏ non xanh tận chân trời/ Cành lê trắng
điểm một vài bông hoa” (Nguyễn Du, Truyện Kiều) hay “Hoa giãi nguyệt,
nguyệt in từng tấm/ Nguyệt lồng hoa, hoa thắm từng bông” (Đặng Trần Côn,
Chinh phụ ngâm), “Tiếng suối trong như tiếng hát xa/ Trăng lồng cổ thụ, bóng
lồng hoa” (Hồ Chí Minh, Cánh khuya). Cái đẹp có khả năng đưa đến cho
chúng ta một khối cảm, một thích thú, một niềm xúc động. Tiếp xúc với tác
phẩm văn học có giá trị, người đọc có cảm giác như đang lạc vào khu rừng đầy
hoa, hương thơm tỏa ngát, khiến ta như quên hết sự tồn tại của thời gian, quên

hết những nhọc nhằn của cuộc sống hàng ngày. Ví dụ qua cái thanh trong của
ao thu, của cái cần câu bé tí teo, của tiếng lá rơi nhẹ động chân bèo, của tầng
mây lơ lưng... tất cả hợp thành thần thái của bức tranh thu rất đặc sắc của làng
quê Bắc Bộ Việt Nam, người đọc như đang dạo gót, thơ thẩn tận hưởng khí trời
mát mẻ, cảnh sắc thanh nhẹ, tinh tế của đất trời [30,208].
Việc phản ánh thường có chọn lọc, do đó cái đẹp của đời sống khi đã
được đưa vào nghệ thuật nó trở nên đẹp bội phần. Vốn ngồi đời sống, nó đã
đẹp, khi đi vào nghệ thuật, qua bàn tay trau chuốt gọt giũa của nhà văn lại càng
đẹp hơn. Thử đơn cử một ví dụ, bài thơ sau của Bảo Định Giang: “Trong đầm
gì đẹp bằng sen/ Lá xanh, bông trắng, lại chen nhị vàng/ Nhị vàng, bông trắng,
lá xanh/ Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn”. Nói đến sen là nói đến cái đẹp.
Sen rất đẹp nhưng chỉ nhìn nó ở ngồi đời thì chưa thấy hết cái đẹp của nó.
Phải nhìn nó trong nghệ thuật ta mới thấy hết, càng nhìn càng thấy đẹp, đẹp từ
màu sắc, hương vị, hình thức đến phẩm chất.
Nghệ thuật làm cho cảm xúc thẩm mĩ của con người được thăng hoa và
dần trở nên tinh tế. Khi tiếp xúc với nghệ thuật, các giác quan của con người
được mài sắc, trở nên tinh tế, nhạy bén hơn khi phân biệt cái thẩm mĩ và phi


thẩm mĩ. Nghệ thuật đào tạo năng khiếu thẩm mĩ, tức là tạo ra năng lực sáng
tạo, đánh giá cái đẹp của con người. Hay nói cách khác nghệ thuật có khả năng
hình thành thị hiếu thẩm mĩ là vì thế. Khơng ai có thể sáng tạo hay thưởng thức
được nghệ thuật nếu khơng biết đến nghệ thuật. Chỉ có tơi luyện trong nghệ
thuật thì năng lực nghệ thuật mới phát triển.
Nghệ thuật đã chọn cho mình một đối tượng đặc biệt: tinh hoa của trời
đất, “Người ta là hoa đất” (Tục ngữ), “Con người là cái đẹp nhất trong thế giới
mà chúng ta cảm giác được” (Tchernychevski), “Con người là lí tưởng của cái
đẹp” (Kant). Nhưng nghệ thuật vẫn xây dựng những con người mang lí tưởng
thẩm mĩ bằng nhiều cách: khi thì phản ánh trực tiếp phương diện tích cực của
đời sống; lúc thì phản ánh những phương diện tiêu cực của hiện thực và hình

tượng các nhân vật phản diện. Dù phản ánh trực tiếp hay gián tiếp về cái đẹp,
nhà văn ln đứng ở góc độ lí tưởng thẩm mĩ để ngợi ca, để soi sáng những
cuộc đời tối tăm, vỗ về những kiếp người đau khổ và làm thay đổi gương mặt
cuộc sống như nó cần phải có.
Tóm lại, văn học ln khơi dậy những khối cảm thẩm mĩ cao đẹp, hình
thành thị hiếu, lí tưởng thẩm mĩ cho con người “Tác phẩm văn học chân chính
giúp cho con người phát triển những cảm xúc thẩm mĩ lành mạnh, nâng cao
năng lực cảm nhận cái đẹp, nâng cao thị hiếu và lý tưởng thẩm mĩ, hiệu chỉnh
những sai lầm, uốn nắn những sự không lành mạnh hay thấp kém trong quá
trình cảm thụ cái đẹp” [30,210]. Lâu nay chúng ta vẫn nói bộ mơn Ngữ văn
trong nhà trường từ trước tới nay vẫn mang trong mình sự mơ mộng, sáng tạo.
Khi học văn, mọi thứ dường như khơng có giới hạn, và cũng nhờ văn học mà
con mắt của HS được mở rộng, được hiểu biết nhiều và khám phá nhiều hơn
đặc biệt là khám phá thế giới thẩm mĩ, kết tinh sáng tạo thẩm mĩ.


1.1.3.

Tác phẩm văn học - khả năng hướng thiện, trau dồi nhân cách

con người
1.1.3.1.

Tác phẩm văn học nuôi dưỡng tâm hồn, niềm tin cho con người

Văn học nghệ thuật là một hình thái ý thức đặc thù trong hình thái ý
thức xã hội, nó nằm trong quy luật nhận thức chung của con người. Vì vậy, văn
học khơng chỉ có chức năng nhận thức thế giới mà cịn có chức năng cải tạo
thế giới. Tác dụng cải tạo của văn học, vì vậy là một thuộc tính tất yếu, là một
đặc điểm mang tính quy luật, tính bản chất.

Văn học cung cấp tri thức, giúp con người nhận thức được giá trị và
năng lực để phấn đấu, sáng tạo. Tác phẩm văn học bao giờ cũng thể hiện nhiệt
tình khẳng định điều này, phủ định điều kia, khát khao nhìn thấy lẽ phải, chân
lí ở đời được thực hiện. Cho nên văn học mang đến sự hưởng thụ thẩm mĩ,
khơi gợi cảm xúc, mở mang trí tuệ, giáo dục con người, thức tỉnh lương tri,
lương tâm, dạy con người biết yêu thương căm giận. Với ý nghĩa như thế, văn
học nghệ thuật là vũ khí tinh thần sắc bén, giúp con người hình thành nhân
cách tồn vẹn, nâng đỡ nhân cách con người phát triển. Chúng ta biết rõ truyện
ngắn Đơi mắt của Nam Cao có ảnh hưởng sâu sắc tới lập trường công dân,
quan điểm tư tưởng, quan điểm nghệ thuật của giới văn nghệ sĩ ở giai đoạn
“nhận đường” của văn nghệ Cách mạng. Có lẽ vì vậy, Tố Hữu gọi Đôi mắt của
Nam Cao là một “tuyên ngôn nghệ thuật” của thế hệ nhà văn cùng thời với
Nam Cao trong những ngày đầu tham gia Cách mạng.
Văn học từ cổ chí kim, từ đơng sang tây bao giờ cũng coi trọng chức
năng hướng thiện. Văn học hướng con người tới cái thiện thơng qua việc hình
thành quan điểm đạo đức. Chính những phẩm chất đạo đức như lịng nhân ái,
đức vị tha hi sinh, tính cần cù nhẫn nại, ý chí vượt khó.. .là hạt nhân tính cách
của các hình tượng nghệ thuật ưu tú: hình tượng con cị trong ca dao, hình
tượng Thạch Sanh trong truyện cổ tích, hình tượng Thúy Kiều, Nguyệt Nga


trong văn học Trung đại đến hình tượng chị Dậu, anh Núp, mẹ Suốt... có ảnh
hưởng mạnh mẽ tới quan điểm đạo đức cuả các thế hệ người Việt Nam.
Văn học khơng chỉ hình thành quan niệm sống mà cịn khơi gợi tình cảm
đạo đức. Văn học khơng chỉ tả lại, kể lại sự việc mà còn kể và tả sao cho người
đọc phải suy ngẫm, phải bộc lộ thái độ, bày tỏ tình cảm trước sự việc đó. Văn
học kéo người đọc vào mạch tình cảm của tác phẩm, khiến người đọc không
thể dửng dưng. Đọc Tắt đèn, Ngô Tất Tố, ta hả hê chứng kiến cảnh chị Dậu vật
nhau với người nhà lí trưởng, túm lấy cổ Cai lệ ấn dúi ra cửa ngã chỏng quèo,
khiến cho hai kẻ tay chân bọn thực dân phải một phen mất mặt, thất kinh hồn

vía. Ta khơng thể dửng dưng khi thấy bọn thực dân bóc lột tiền sưu thuế của
nhân dân, dửng dưng khi chứng kiến cảnh vợ chồng Nghị Quế chèn ép chị Dậu
phải bán gánh khoai, ổ chó và cả đứa con gái đầu lòng do chị rứt ruột sinh ra
với cái giả rẻ mạt để “trang trải món nợ nhà nước”, hay dửng dưng nhìn chị
Dậu bị tên Tri phủ giở trò đồi bại, bị cụ cố Thượng trên tỉnh ngồi tám mươi
tuổi mị vào phịng làm chuyện xấu xa. Cảnh anh Dậu bị đánh đập cùm kẹp
ngồi đình trong khi người đang ốm rề rề suốt mấy tháng trời, nhà văn đã cho
thấy sự tàn bạo của bọn cầm quyền. Khơng ai có thể dửng dưng khi đọc những
trang văn như thế. Với những chi tiết nghệ thuật sống động, lời nói chân thực,
hàm súc, Ngơ Tất Tố khơi dậy ở ta lịng xót xa thương cảm trước số phận con
người, ni mãi lịng căm thù bọn tay sai, thực dân và lũ cường hào địa chủ
phong kiến.
Văn học là nơi ni dưỡng tình cảm nhân ái, tạo sự đồng cảm khiến ta
vui, buồn, hờn, giận trước buồn vui của con người. Văn học dạy cho ta biết
yêu, biết ghét, biết khinh bỉ sự phản trắc, cái tầm thường, thói lười biếng, ích
kỷ. văn học khơi dậy cho ta niềm tin vào sự tất thắng của cái thiện, dạy cho ta
dám xả thân vì nghĩa lớn, đóng góp cho xã hội phần có ích của cuộc đời.
1.1.3.2.

Tác phẩm văn học giúp con người hoàn thiện nhân cách


Văn học ln tác động đến sự hình thành nhân cách con người bằng
hình tượng nghệ thuật. Qua hình tượng nghệ thuật, văn học giúp con người
hình thành nhân cách toàn vẹn. Tiếp xúc với tác phẩm, ta như ta như được tiếp
xúc với cuộc đời thật, biết yêu thương, căm giận, thành kính, ngưỡng mộ hay
căm phẫn... tất cả trỗi dậy rất tự nhiên qua từng câu, chữ được sử dụng để xây
dựng hình tượng. Ta khinh ghét Mã Giám Sinh, Sở Khanh, Hồ Tơn Hiến vì
nhận ra bản chất thật bọn chúng dù chúng cố tình giấu đi qua cái vẻ bề ngoài
sang trọng, học thức, danh giá (“ghế trên ngồi tót sỗ sàng”, “Rẽ song đã thấy

Sở Khanh lẻn vào”, “lạ cho mặt sắt cũng ngây vì tình”), các từ “tót”, “lẻn”,
“ngây” được Nguyễn Du dùng rất đắc đã tố giác bản chất của bọn người dã
tâm ấy. Hình tượng nghệ thuật khơng chỉ gợi dậy sự đồng cảm mà cịn có khả
năng đưa ta vào những cuộc đối thoại trong truyện với các nhân vật trong
truyện, thậm chí tự diễn ra một cuộc đấu tranh, vật lộn giữa cái cao cả thánh
thiện với cái dục vọng thấp hèn. Do đó có thể nói hình tượng nghệ thuật là tấm
gương để con người tự soi mình, tự làm theo lí tưởng dù tác giả khơng kêu gọi.
Bằng cách đó, văn học nghệ thuật nâng đỡ cho nhân cách phát triển, khơi gợi
khả năng tự giáo dục, tự hồn thiện con người mà khơng cần phải cưỡng bức,
bắt buộc, biến nhưng tư tưởng tình cảm, chuyển những nhận thức thành những
hành động thực tiễn [30, 220].
Tóm lại, văn học nghệ thuật là cơng cụ đắc lực góp phần giáo hóa, giáo
dưỡng con người, có vai trị quan trọng trong việc hình thành và tự hồn thiện
nhân cách. Là tấm gương phản chiếu sinh động cuộc sống muôn màu, các tác
phẩm văn học nghệ thuật giúp mỗi người định hướng giá trị, chuẩn mực trong
hành vi, ứng xử, điều chỉnh mọi quan hệ trong đời sống xã hội, hướng tới
những giá trị đích thực của cuộc sống.
1.2.

Tác phẩm văn học - thông điệp mang giá trị giáo dục đạo đức


1.2.1.

Tác phẩm văn học - nơi tôn vinh những phẩm chất tốt đẹp

Từ bao đời nay, văn học luôn lấy con người làm tâm điểm phản ánh và
vẻ đẹp con người kết tinh nên tác phẩm hay. Có phải vì thế mà có ý kiến cho
rằng: “Tác phẩm văn học chân chính bao giờ cũng là sự tơn vinh con người
qua những hình thức nghệ thuật độc đáo”. Hay “Cuộc đời là nơi xuất phát cũng

là nơi đi đến của văn học” (Tố Hữu). Đích đến của cuộc hành trình văn chương
mn thuở chính là cuộc sống của con người. Ra đời từ đời sống, văn học chân
chính mang thiên chức lớn lao cao cả - đó là trở về bồi đắp thêm phần phù sa
màu mỡ cho cuộc đời, làm đẹp thêm con người.
Tác phẩm Những người khốn khổ của V. Huy-gô vượt qua thời gian vẫn
đã cho người đọc biết rằng: Bao nhiêu con người khốn khổ kia đang kêu đòi
một cuộc sống tốt đẹp hơn, dù khốn khổ nhưng họ vẫn khát khao được sống
lương thiện, được cứu giúp người khác. Chẳng phải V. Huỵ-gô đã nâng con
người lên khỏi những nghèo đói tăm tối để thắp sáng cho họ tình yêu thương
cao cả sao?
Chúng ta đồng cảm cùng Đỗ Phủ nỗi đau cao cả trong Mao ốc vị thu
phong sở phá ca (Bài ca nhà tranh bị gió thu phá). Tuy nhà thơ có nỗi đau cho
riêng mình vì nhà bị gió thu tốc mái, mình cùng vợ con phải chịu cảnh mưa
lạnh suốt đêm trường nhưng trên tất cả là nỗi đau chung: Ước có ngôi nhà chắc
chắn ngàn vạn gian để không chỉ cho riêng ơng mà cho tất cả người dân nghèo
hèn, đói rách đều khơng phải chịu cảnh đói rét. Một tấm lòng vị tha, một tinh
thần nhân đạo cao cả vĩ đại đã làm nên một ao ước vĩ đại mà ngàn đời trân
trọng.
Trở về văn học dân tộc, ta thêm yêu kính Nguyễn Du, người đã bằng
kiệt tác Truyện Kiều nâng con người khỏi những ràng buộc khắt khe của lễ
giáo phong kiến vơ hình đang ngăn cản con người đến với tình yêu, đưa con
người vượt qua bao đau khổ với vẻ đẹp của chữ tình, chữ nghĩa, chữ hiếu, chữ


nhân, vẻ đẹp của một trái tim nhân đạo lớn. Tài năng của Nguyễn Du không
phải chỉ là thành công trong miêu tả cảnh, tả người hoặc ở chỗ phản ánh chân
thực những nỗi đau đứt ruột của con người mà là yêu thương, sẻ chia, đồng
cảm, trân trọng, nâng đỡ, làm đẹp thêm cho tấm lòng nàng Kiều, cho Kim
Trọng, cho Từ Hải...clio con người nói chung. Giá trị của tác phẩm nghệ thuật
này là kết quả sáng tạo của người nghệ sĩ bậc thầy, có tấm lịng nhân đạo lớn

lao.
Xã hội cũ có nhiều cái tốt, nhất là trong cuộc sống của người lao động,
người trí thức, viên chức, dù bị cuộc sống xô đẩy, vùi dập họ vẫn giữ được
nhân cách. Trên cơ sở những mẫu người rất thật, các nhà văn đã tái hiện, miêu
tả được nhiều nhân cách trong văn học. Đó là thầy giáo Thứ trong Sống mòn
của Nam Cao, trong cảnh chết mòn vẫn là người cần mẫn trong sạch, tin vào
ngày mai. Đó là nhân vật Huấn Cao trong Chữ người tử tù của Nguyễn Tn,
nhân vật khí phách khơng chịu khuất phục cường quyền. Đó là chị Dậu, người
phụ nữ nơng dân nghèo đức hạnh và có bản lĩnh. Đó là một Chí Phèo điển hình
cho những người nơng dân đau khổ sau lũy tre làng Việt Nam trước Cách
mạng tháng Tám. Chí Phèo của Nam Cao khơng chỉ bị dồn vào “bước đường
cùng”, mà buộc phải bán cả linh hồn và thể xác của mình để trở thành con quỷ
dữ của làng Vũ Đại, bị cướp cả nhân tính, nhân cách, bị đẩỵ ra ngoài cộng
đồng người. Từ một anh canh điền hiền lành chất phác trở thành một thằng sắn
đá, một con quỷ dữ của làng Vũ Đại. Chí Phèo chính là linh hồn đau khổ của
làng Vũ Đại. Tình người được Nam Cao thể hiện rất sâu nặng qua cuộc tình
Thị Nở - Chí Phèo. Có ai đó từng nói: Chỉ với năm ngày thơi nhưng Chí Phèo
đã sống rồi chết như một con người. Thị Nở xấu ma chê quỷ hờn lại mang
trong mình một tình yêu lạ lùng dành cho Chí Phèo - con quỷ dữ của làng Vũ
Đại. Người ta cứ cho rằng tình yêu của Rơ-mê-ơ và Giu-li-ét mới thực sự là
tình u. Nhưng sẽ vẫn là tình u dẫu cho người đàn ơng có là Chí Phèo -


×