Tải bản đầy đủ (.docx) (120 trang)

Tên gọi các loài hải sản vùng biển bình định

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.4 MB, 120 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC QUY NHƠN

NGUYỄN THỊ NỮ

TÊN GỌI CÁC LỒI HẢI SẢN
VÙNG BIỂN BÌNH ĐỊNH

Chun ngành: Ngôn ngữ học
Mã số: 8229020

Người hướng dẫn: TS. Nguyễn Quý Thành


LỜI CAM ĐOAN

Tơi cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu của riêng tôi và được sự
hướng dẫn trực tiếp của Tiến sĩ Nguyễn Quý Thành. Các số liệu, kết quả được
trình bày trong luận văn này là trung thực và chưa từng được ai công bố trong
bất kỳ công trình nào. Tơi xin hồn tồn chịu trách nhiệm về nội dung luận
văn.
Người cam đoan

Nguyễn Thị Nữ


LỜI CẢM ƠN

Để hoàn thành luận văn này, trước hết tôi xin chân thành cảm ơn TS.
Nguyễn Quý Thành đã tận tình hướng dẫn và giúp đỡ tơi trong suốt q trình
làm luận văn.


Tơi xin gửi lời cảm ơn đến Phịng Đào tạo SĐH, Trường ĐH Quy Nhơn
đã có những hướng dẫn cụ thể và tạo điều kiện giúp tôi hồn thành luận văn.
Tơi xin cảm ơn người dân Bình Định, đặc biệt là ngư dân trên địa bàn
huyện Phù Mỹ, huyện Phù Cát, huyện Hoài Nhơn và thành phố Quy Nhơn tỉnh
Bình Định đã có những góp ý, câu trả lời về những vấn đề liên quan đến luận
văn.
Cảm ơn gia đình, bạn bè và người thân đã ln ủng hộ, giúp đỡ tôi!


MỤC LỤC
••
LỜI CAM ĐOAN2
LỜI CẢM ƠN
DANH MỤC CÁC BẢNG
MỞ ĐẦU ........................................................................................................ 1
1. Lý do chọn đề tài ............................................................................................ 1
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu ..................................................................... 1
3. Đối tượng và mục tiêu nghiên cứu..................................................................4
4. Nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu.................................................................... 4
5. Phương pháp nghiên cứu ................................................................................. 5
6. Đóng góp của luận văn .................................................................................... 5
7. Cấu trúc của luận văn ...................................................................................... 6
Chương 1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG ........................................................ 7
1.1.
Khái quát về định danh ........................................................................ 7
1.1.1. Khái niệm định danh ..................................................................... 7
1.1.2. Định danh từ vựng..........................................................................8
1.1.3. Đặc trưng ngôn ngữ và văn hoá qua định danh ........................... 11
1.2.
Các đơn vị từ vựng ............................................................................ 14

1.2.1. Từ ................................................................................................. 14
1.2.2. Ngữ định danh .............................................................................. 17
1.3.
Khái quát về vùng biển Bình Định .................................................... 18
1.3.1. Thềm biển Bình Định ................................................................. 18
1.3.2. Dân cư ven biển Bình Định..........................................................20
1.4.
Thống kê tên gọi hải sản vùng biển Bình Định ................................. 21
Tiểu kết chương 1 .......................................................................................... 22
Chương 2. ĐẶC ĐIỂM NGUỒN GỐC VÀ CẤU TẠO CỦA TÊN GỌI HẢI
SẢN VÙNG BIỂN BÌNH ĐỊNH .................................................................. 24
2.1.
Tên gọi hải sản vùng biển Bình Định xét về nguồn gốc ngơn ngữ ... 24
2.1.1. Tên gọi hải sản có đơn vị cấu tạo thuần Việt .............................. 25
2.1.2. Tên gọi hải sản có đơn vị cấu tạo vay mượn................................26
2.2. Tên gọi hải sản vùng biển Bình Định xét về cấu tạo...........................31
2.2.1. Đơn vị cấu tạo tên gọi hải sản ..................................................... 31
2.2.2. Phương thức cấu tạo tên gọi hải sản............................................ 35
2.2.3. Sự phân bậc các thành tố cấu tạo trong tên gọi hải sản .............. 40
Tiểu kết chương 2 ...................................................................................... 47


Chương 3. ĐẶC ĐIỂM ĐỊNH DANH VÀ SẮC THÁI ĐỊA PHƯƠNG CỦA
TÊN GỌI HẢI SẢN VÙNG BIỂN BÌNH ĐỊNH ..........................................49
3.1. Đặc điểm định danh của tên gọi hải sản vùng biển Bình Định .........49
3.1.1. Phương thức định danh hải sản vùng biển Bình Định ................49
3.1.2. Phương thức biểu đạt tên gọi hải sản vùng biển Bình Định .......58
3.2. Sắc thái địa phương của tên gọi hải sản vùng biển Bình Định...........62
3.2.1. Đặc điểm tri nhận hiện thực của ngư dân Bình Định qua phương
thức định danh hải sản..............................................................................62

3.2.2. Văn hóa tâm linh của ngư dân Bình Định qua phương thức định
danh hải sản .............................................................................................68
3.2.3. Ngôn ngữ và văn nghệ dân gian Bình Định qua tên gọi hải sản.. 73
Tiểu kết chương 3 .......................................................................................80
KẾT LUẬN ....................................................................................................82
BÀI BÁO CÔNG BỐ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI .......................................85
TÀI LIỆU THAM KHẢO...............................................................................86
PHỤ LỤC
QUYẾT ĐỊNH GIAO ĐỀ TÀI LUẬN VĂN THẠC SĨ (Bản sao)


DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 1.1. Thống kê số lượng tên gọi hải sản vùng biển Bình Định...............22
Bảng 2.1. Số lượng đơn vị cấu tạo tên gọi hải sản theo nguồn gốc................25
Bảng 2.2. Số lượng cấu trúc định danh tên gọi sản vùng biển Bình Định......31
Bảng 2.3. Số lượng yếu tố Y theo từ loại........................................................33
Bảng 2.4. Số lượng tên gọi hải sản theo phương thức cấu tạo........................35
Bảng 2.5. Số lượng từ ghép chính phụ theo bậc cấu tạo của tên gọi hải sản.. 44
Bảng 3.1. Số lượng phương thức định danh hải sản ..................................... 49
Bảng 3.2. Số lượng phương thức biểu đạt tên gọi hải sản ............................ 62


1


2
Phạm vi nghiên cứu của đề tài là đặc điểm nguồn gốc và cấu tạo; đặc
điểm định danh và sắc thái địa phương của tên gọi hải sản vùng biển Bình
Định; chủ yếu là tên gọi các lồi cá, mực, tơm, cua, sị, ốc.
5. Phương pháp nghiên cứu

Để nghiên cứu đề tài này chúng tôi đã sử dụng một số phương pháp
nghiên cứu sau:
5.1. Phương pháp điều tra điền dã
Phương pháp này được sử dụng để thống kê tên gọi các lồi hải sản vùng
biển Bình Định. Việc sưu tầm, thống kê được dựa trên cách gọi tên các loài hải
sản của ngư dân các huyện Hoài Nhơn, Phù Mỹ, Phù Cát và thành phố Quy
Nhơn.
5.2. Phương pháp phân tích ngôn ngữ
Sau khi thống kê và phân loại tên gọi các lồi hải sản vùng biển Bình
Định, chúng tơi tiến hành phân tích để lý giải các vấn đề liên quan như: đặc
điểm nguồn gốc và cấu tạo, phương thức định danh, ngữ nghĩa... từ đó rút ra
các nhận định, đánh giá và kết luận.
5.3. Phương pháp so sánh
Luận văn sử dụng phương pháp so sánh để thấy rõ tính đặc thù, điểm
tương đồng và khác biệt trong tên gọi các loài hải sản ở các địa bàn khác nhau
trong tỉnh Bình Định, làm rõ mối quan hệ định danh với văn hóa và ngơn ngữ
của người dân địa phương.
6. Đóng góp của luận văn
Luận văn cung cấp bức tranh về hệ thống tên gọi các loài hải sản vùng
biển Bình Định với đầy đủ các đặc trưng về cấu tạo, phương thức định danh.
Bên cạnh đó, luận văn cũng khảo sát mối quan hệ giữa ngôn ngữ và các yếu tố
văn hố bên trong ngơn ngữ gắn liền với việc nhận thức về thế giới khách quan
của người dân địa phương qua cách thức định danh. Hệ thống định danh này đã
góp phần tạo nên những đặc trưng văn hóa - dân tộc, mang dấu ấn lịch sử của


3
cư dân Bình Định.
Kết quả của luận văn góp phần làm phong phú thêm nguồn tài liệu về hải
sản của tỉnh nhà, đồng thời có thể phục vụ cho việc tìm hiểu lịch sử, văn hóa,

ngơn ngữ của tỉnh Bình Định.
7. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo, Phụ lục, nội dung
chính của Luận văn gồm 3 chương.
Chương 1: Những vấn đề chung, trình bày những kiến thức lí luận và thực
tiễn cơ bản làm cơ sở cho việc thực hiện đề tài, như: khái niệm định danh,
phương thức định danh; các đơn vị từ vựng; mối quan hệ giữa ngôn ngữ và văn
hóa; khái qt về vùng biển Bình Định; số liệu thống kê về tên gọi hải sản
vùng biển Bình Định.
Chương 2: Đặc điểm nguồn gốc và cấu tạo của tên gọi hải sản vùng biển
Bình Định, trình bày kết quả miêu tả đặc điểm nguồn gốc; cấu tạo: đơn vị cấu
tạo, phương thức cấu tạo, tên hải sản vùng biển Bình Định.
Chương 3: Đặc điểm định danh và sắc thái địa phương của tên gọi hải
sản vùng biển Bình Định, trình bày kết quả khảo sát tên gọi hải sản vùng biển
Bình Định về phương thức định danh; sắc thái văn hóa địa phương qua tên gọi
hải sản.


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG
1.1. Khái quát về định danh
1.1.1. Khái niệm định danh
Định danh (nomination) là thuật ngữ có nguồn gốc từ tiếng La tinh với
nghĩa là tên gọi. Thuật ngữ này biểu thị kết quả quá trình gọi tên của các đơn vị
ngôn ngữ. Thuật ngữ định danh được hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau.
Ngay từ buổi sơ khai, con người đã có nhu cầu gọi tên cho sự vật hiện
tượng... Bởi vì muốn phân biệt các sự vật, hiện tượng thì mỗi sự vật, hiện
tượng cần có tên gọi. Theo Đỗ Hữu Châu (1998), trong cuốn Cơ sở ngữ nghĩa
học từ vựng, “Con người cần đến tên gọi các đối tượng xung quanh như cần
đến khơng khí” [6, tr.167]. Vì thế định danh trở thành một trong những chức

năng quan trọng bậc nhất của ngôn ngữ.
Trong Đặc trưng văn hóa - dân tộc của ngơn ngữ và tư duy Nguyễn Đức
Tồn định nghĩa: “Định danh chính là đặt tên gọi cho một sự vật, hiện tượng”
[39, tr.162]. Qua q trình nhận thức cảm tính, con người nhận biết được sự vật
và qua quá trình nhận thức lý tính, con người có thể đặt tên cho sự vật. Định
danh là thể hiện tư duy của con người “Tri giác cảm tính cho ta sự vật, lý tính
cho ta tên gọi sự vật” [29, tr.88].
Có thể nói định danh là một nhu cầu của ngôn ngữ, đúng hơn là nhu cầu
của con người trước thế giới khách quan. Theo Từ điển giải thích thuật ngữ
ngơn ngữ học do Nguyễn Như Ý (chủ biên) thì định danh có nghĩa là: “Sự cấu
tạo các đơn vị ngơn ngữ có chức năng dùng để gọi tên, chia tách các đoạn của
hiện thực khách quan trên cơ sở đó hình thành những khái niệm tương ứng về
chúng dưới dạng các từ, cụm từ, ngữ cú và câu” [46, tr.89]. Đối tượng của lý
thuyết định danh là nghiên cứu, miêu tả những quy luật về cách cấu tạo các


đơn vị có nghĩa của ngơn ngữ, về sự tương tác qua lại giữa tư duy - ngôn ngữ hiện thực khách quan.
Cơ sở định danh xuất phát từ mối quan hệ giữa hiện thực - khái niệm - tên
gọi. Lí thuyết định danh nghiên cứu và miêu tả cấu trúc của đơn vị định danh,
từ đó xác định những tiêu chí hoặc những đặc trưng cần và đủ để phân biệt đơn
vị định danh này với đơn vị định danh khác.
Hiện thực khách quan được hình dung như là cái biểu vật của tên gọi,
còn tên gọi được nhận thức như là một dãy âm thanh được phân đoạn ứng với
một cấu trúc cụ thể của ngơn ngữ đó. Chính mối tương quan giữa cái biểu vật
và cái biểu nghĩa và xu hướng của mối quan hệ này trong những hành vi định
danh cụ thể sẽ tạo nên cấu trúc cơ sở của sự định danh.
Nguyễn Đức Tồn đã xác định một phương thức định danh mà theo tác giả
là rất phổ biến trong tiếng Việt, đó là cách chuyển nghĩa (ẩn dụ, hốn dụ...), ví
dụ: ghẹ - tình nhân, cáo - ranh mãnh, ... Đây là phương thức định danh gián
tiếp “Về thực chất, phương thức định danh gián tiếp gắn bó khăng khít với sự

chuyển nghĩa của các từ...” [39, tr.225].
Trong phạm vi nghiên cứu, luận văn chủ yếu nghiên cứu theo phương
thức định danh trực tiếp (sử dụng tổ hợp ngữ âm biểu thị đặc trưng nào đó
trong số các đặc trưng của sự vật, hiện tượng; mô phỏng âm thanh tức là tượng
thanh; ghép từ; vay mượn).
1.1.2. Định danh từ vựng
Thuật ngữ từ vựng được dùng để chỉ đối tượng mà tiếng Anh gọi là
(lexicon). Nếu chiết tự thì “vựng” là sưu tập, tập hợp. Từ vựng là tập hợp các
từ và các đơn vị tương đương với từ trong một ngôn ngữ. Các đơn vị từ vựng
bao gồm cả các từ lẫn những đơn vị tương đương với từ, tức là cụm từ cố định.
Từ vựng của một ngôn ngữ là cái khách quan, là bộ phận cấu thành ngôn ngữ.
Nhờ sự tri nhận của con người mà sự vật, hiện tượng mới có tên gọi. Sự gọi tên


này đã tạo ra các từ, các cụm từ cố định, từ đó hình thành nên hệ thống từ
vựng.
Định danh từ vựng có vai trị quan trọng đối với cuộc sống con người.
Theo Đỗ Hữu Châu trong Cơ sở ngữ nghĩa học từ vựng: “Với khả năng đặt tên
sự vật, con người hoàn toàn chiếm lĩnh được thế giới tự nhiên cả trong tồn tại
cảm tính và cả trong tồn tại lý tính của nó” [6, tr.194].
Tên gọi sự vật, hiện tượng có thể có tính lí do hay khơng lí do, phi võ
đốn hay võ đốn. C. Mác đã nói “Tên gọi của sự vật nào đó khơng có gì
chung với bản chất của nó, tơi hồn tồn khơng biết gì về người này, nếu như
tơi chỉ biết anh ta là Jakov” [39, tr.177]. Theo F.de Saussure “Mối tương quan
giữa cái biểu hiện và cái được biểu hiện là võ đốn” hay “Tín hiệu ngơn ngữ
là võ đốn” [12, tr.141].
Các tác giả Nguyễn Thiện Giáp, Đoàn Thiện Thuật, Nguyễn Minh Thuyết
trong cuốn Dẫn luận ngôn ngữ học, cho rằng “Những khái niệm được biểu thị
hoàn toàn do qui ước, hay là do thói quen của tập thể qui định chứ khơng thể
giải thích lí do” [14, tr.56].

Đỗ Hữu Châu khẳng định rằng “Nguyên tắc tạo thành các tên gọi là
ngun tắc có lí do” nhưng “Ngun tắc chi phối các tên gọi trong hoạt động
bình thường của nó là ngun tắc khơng có lí do” [6, tr.166].
Tác giả Nguyễn Đức Tồn thì nhận định các tên gọi đều có lí do “Tất cả
mọi kí hiệu ngơn ngữ đều có lí do, chứ khơng phải võ đốn” [39; tr.177]. Tác
giả khẳng định: “Khơng có lí do thì có lẽ khó mà đặt được tên cho một sự vật
mới” [39, tr.178]. Như vậy theo quan điểm của các tác giả, định danh có thể có
lí do hoặc khơng có lí do.
Tham gia vào q trình định danh gồm có hai thành tố là chủ thể định
danh và đối tượng được định danh. Phụ thuộc vào chủ thể định danh và đối
tượng được định danh sẽ có hai loại lí do khác nhau: lí do chủ quan (phụ thuộc


vào chủ thể định danh) và lí do khách quan (phụ thuộc vào đối tượng được
định danh).
Lí do khách quan - nghĩa là một đặc trưng, một thuộc tính nào đó của bản
thân sự vật được chọn để làm dấu hiệu khu biệt gọi tên - loại lí do dễ nhận thấy
nhất, ví dụ, tên gọi các lồi cá được đặt dựa theo hình dáng: cá cờ, cá bánh
lái, mực ống, ốc móng tay, banh lơng, ...
Lí do chủ quan thì khơng phải ai cũng nhận thấy được. Chỉ có chủ thể
định danh mới biết được lí do tại sao dùng tên gọi này để gọi tên người hoặc sự
vật. Ví dụ, khi nhìn vào tên gọi một số lồi hải sản, chúng ta không nhận thấy
được lý do: cá dóc, cá róc, cá cu, cá liệt, vẹm, nhum, so, chem chép, .
Khi có một đối tượng cần định danh người ta sẽ tiến hành các thao tác sau
đây:
Thứ nhất là quy loại đối tượng mới vào nhóm đối tượng nào đó đã có tên
trong ngơn ngữ.
Thứ hai là vạch ra những đặc trưng vốn có của đối tượng mới rồi chọn
một đặc trưng được coi là tiêu biểu mang tính khu biệt của đối tượng mới với
đối tượng khác.

Thứ ba là sử dụng biện pháp cấu tạo từ theo loại hình ngơn ngữ làm
phương tiện định danh.
Nguyễn Đức Tồn đã nêu ví dụ minh họa cho điều này: để đặt tên lồi cây
cảnh cỡ nhỏ, thân có gai, lá kép có răng cưa, hoa màu hồng, có hương thơm, ...
quá trình định danh diễn ra như sau: trước hết người Việt quy nó vào khái niệm
đã có tên gọi trong ngôn ngữ là hoa và chọn đặc trưng màu sắc đập vào mắt
cũng đã có tên gọi là hồng. Khi đó, loại cây này sẽ có tên gọi là hoa hồng.
Nhưng sau đó người ta thấy màu sắc hoa của lồi cây ấy khơng chỉ là màu
hồng, mà cịn có thể là trắng, đỏ thẫm nhung, nên đã có các tên gọi hoa hồng
bạch, hoa hồng nhung, .


Đối với tên gọi hải sản cũng vậy, để đặt tên cho lồi cá sống ở rạn san hơ,
hình dáng giống con bướm, .. .quá trình diễn ra như sau: trước hết người dân
quy nó về khái niệm đã có tên gọi trong ngôn ngữ là cá và chọn đặc trưng hình
dáng đập vào mắt cũng đã có tên gọi là bướm. Khi đó, lồi cá này sẽ có tên gọi
là cá bướm. Nhưng sau đó người ta thấy màu sắc của lồi cá ấy có rất nhiều
màu ví như màu trắng, màu nâu nhạt, . nên đã có các tên gọi cá bướm trắng, cá
bướm nâu nhạt, ...
Để định danh các sự vật, hiện tượng, người ta thường lựa chọn đặc trưng
của sự vật, hiện tượng để làm cơ sở gọi tên nó. Đặc trưng của sự vật, hiện
tượng thường có đặc điểm nổi bật về hình thức, màu sắc. Tên gọi có vai trị
quan trọng đối với tư duy của con người. Nhờ có tên gọi, con người phân biệt
được sự vật, hiện tượng này với sự vật, hiện tượng khác. Qua tên gọi của sự
vật, hiện tượng, chúng ta có thể hiểu về đặc điểm văn hóa của từng dân tộc.
Như vậy, định danh từ vựng giúp cho chúng ta thấy được lối tư duy của
một cộng đồng ngơn ngữ và tâm lí dân tộc hay nét độc đáo của một cộng đồng
ngôn ngữ.
1.1.3. Đặc trưng ngôn ngữ và văn hoá qua định danh
1.1.3.1. Khái niệm văn hóa

Văn hóa là một thuật ngữ có tính phổ biến và xuất hiện rất sớm. Trong
lịch sử cổ đại Trung Quốc, văn hóa được hiểu là cách thức hành xử trong xã
hội của tầng lớp thống trị. Còn ở phương Tây, khái niệm văn hóa bắt nguồn từ
chữ Latinh cultus, có nghĩa là gốc là gieo trồng, được dùng theo nghĩa Cultus
Agri (gieo trồng ruộng đất) và Cultus Animi (gieo trồng tinh thần). Về sau khái
niệm này phát triển với nhiều nghĩa khác nhau tạo ra sự phong phú về nội dung
cho từ văn hóa. Hiện nay đã có khoảng trên 500 định nghĩa khác nhau về văn
hóa. Mỗi định nghĩa có cách nhìn nhận và tiếp cận về văn hóa ở những phương
diện khác nhau.


Theo tác giả Trần Ngọc Thêm, từ “văn hố” có nhiều nghĩa, nó được
dùng để chỉ những khái niệm có nội hàm hết sức khác nhau. Tuy được dùng
theo nhiều nghĩa khác nhau, nhưng suy cho cùng, khái niệm “văn hố” bao giờ
cũng có thể quy về hai cách hiểu chính: theo nghĩa hẹp và theo nghĩa rộng.
Theo nghĩa hẹp, văn hoá được giới hạn theo chiều sâu hoặc theo chiều
rộng, theo không gian hoặc theo thời gian, ... Giới hạn theo chiều sâu, văn hóa
được hiểu là những giá trị tinh hoa của nó (nếp sống văn hố, văn hoá nghệ
thuật, .). Giới hạn theo chiều rộng, văn hoá được dùng để chỉ những giá trị
trong từng lĩnh vực (văn hoá giao tiếp, văn hoá kinh doanh, .). Giới hạn theo
khơng gian, văn hố được dùng để chỉ những giá trị đặc thù của từng vùng
(văn hoá Tây Nguyên, văn hoá Nam Bộ, .). Giới hạn theo thời gian, văn hoá
được dùng để chỉ những giá trị trong từng giai đoạn (văn hố Hồ Bình, văn
hố Đơng Sơn, .)
Theo nghĩa rộng, văn hoá thường được xem là bao gồm tất cả những gì do
con người sáng tạo ra.
UNESCO đã định nghĩa văn hóa như sau: “Văn hóa nên được đề cập đến
như là một tập hợp của những đặc trưng về tâm hồn, vật chất, tri thức và xúc
cảm của một xã hội hay một nhóm người trong xã hội mà nó chứa đựng, ngồi
văn học và nghệ thuật, cả cách sống, phương thức chung sống, hệ thống giá trị,

truyền thống và đức tin” (Tuyên bố chung của Unesco về tính đa dạng của văn
hóa).
Như vậy, văn hóa là sản phẩm của con người, được tạo ra và phát triển
trong quan hệ qua lại giữa con người và xã hội. Song chính văn hóa lại tham
gia vào việc tạo ra thế giới quan và nhân cách của con người, giúp duy trì sự
bền vững và trật tự xã hội. Văn hóa được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác
thơng qua q trình xã hội hóa và được tái tạo, phát triển trong quá trình lao
động và tương tác xã hội của con người.


1.1.3.2. Đặc trưng ngơn ngữ và văn hóa qua định danh
Có thể nói, ngơn ngữ là một thành tố cơ bản và quan trọng của văn hoá,
chi phối và tác động đến sự phát triển của văn hoá. Về mối quan hệ này, Cao
Xuân Hạo viết: “Những ảnh hưởng của các nhân tố văn hoá đối với cấu trúc
của một ngơn ngữ là điều khó có thể hồ nghi, tuy khơng phải bao giờ cũng dễ
chứng minh. Và do đó, ít ra cũng có thể tìm thấy những sự kiện ngơn ngữ nào
đó có thể cắt nghĩa được bằng những sự kiện thuộc bản sắc văn hoá của khối
cộng đồng nói thứ tiếng hữu quan, và đến lượt nó, các sự kiện ngơn ngữ lại có
thể gợi cho ta những điều hữu ích về cách cảm nghĩ của người bản ngữ và từ
đấy về nền văn hoá của họ” [16, tr.289].
Để tìm hiểu về đặc trưng văn hóa của một dân tộc, trước tiên, chúng ta
phải tìm hiểu về ngơn ngữ của họ. Bởi vì, ngơn ngữ đóng vai trị là “cơng cụ
giao tiếp cơ bản” [39, tr.44].
Sự hình thành và phát triển của ngôn ngữ đi liền với văn hóa của mỗi dân
tộc sử dụng ngơn ngữ đó. Giữa ngơn ngữ và văn hóa có mối quan hệ biện
chứng với nhau. Ngôn ngữ là phương tiện thúc đẩy sự hình thành văn hóa của
mỗi dân tộc, là phương tiện lưu trữ văn hóa cũng như sự biểu hiện và truyền
đạt các giá trị văn hóa từ thế hệ này sang thế hệ khác hoặc giữa các xã hội khác
nhau hay từ người này sang người khác trong cộng đồng. Sự biến đổi và phát
triển của ngôn ngữ đi đôi với sự biến đổi và phát triển của văn hóa.

Điều này đã được F. de Saussure khẳng định: “Phong tục của một dân tộc
có tác động đến ngơn ngữ, và mặt khác, trong một chừng mực khá quan trọng,
chính ngơn ngữ làm nên dân tộc [12, tr.47]. Ngôn ngữ và văn hóa có mối quan
hệ chặt chẽ. Khi định danh sự vật, mỗi dân tộc có cách định danh khác nhau.
Nguyên nhân là do ảnh hưởng của ngôn ngữ, đặc điểm tâm lí dân tộc, điều
kiện tự nhiên - văn hóa xã hội.
Trong Đặc trưng văn hóa - dân tộc của ngôn ngữ và tư duy, Nguyễn Đức


Tồn đã khẳng định. “Cùng một đối tượng có thể được gọi tên trong các ngôn
ngữ theo cách khác nhau phụ thuộc vào đối lập kiểu nào về tâm lí, lịch sử, dân
tộc và xã hội đã làm cơ sở cho sự định danh” [39, tr.219].
Ví dụ lồi cá có thân dài, hình trụ trịn, hơi dẹp bên, giữa thân hơi phình
to, đầu dài, nhiều xương, tuy hơi nhiều xương một chút nhưng có ưu điểm là
thịt cá rất trắng, thơm và ngọt, làm chả rất ngon, tiếng Việt toàn dân gọi là cá
mối thì người dân Bình Định gọi là cá mấu. Hay ốc vú nàng (lồi ốc hình chóp,
hình dạng hơi giống nhũ hoa người phụ nữ), người dân Bình Định gọi là ốc dú
nàng, hay con hải sâm vú thì được gọi là hải sâm dú. Nguyên nhân là do có sự
biến đổi ngữ âm, đó là phát âm địa phương đọc âm “ôi” > “âu”, phụ âm đầu
“v” > “d”.
Tóm lại, đặc trưng ngơn ngữ, văn hóa của định danh thể hiện ở tên gọi
của đối tượng được định danh. Tên gọi của đối tượng được định danh phụ
thuộc vào chủ thể định danh (chủ quan) và việc lựa chọn đặc trưng của đối
tượng được định danh (khách quan).
Như vậy, nghiên cứu việc tri nhận hiện thực qua định danh các lồi hải
sản vùng biển Bình Định là một việc làm cần thiết, một hướng nghiên cứu
đúng khi tìm hiểu về văn hóa Bình Định.
1.2. Các đơn vị từ vựng
1.2.1. Từ
1.2.1.1. Khái niệm

Khi nói về khái niệm từ, các nhà ngôn ngữ học đều thừa nhận sự tồn tại
của từ. Từ là một trong những đối tượng thu hút sự quan tâm của các nhà ngôn
ngữ học. Mặt khác, đơn vị này là đơn vị đa diện, rất khác nhau ở trong một
ngôn ngữ và tất nhiên là trong các ngôn ngữ khác nhau trên thế giới.
Việc nhận diện và định nghĩa từ lại rất khó. Vì vậy, khơng có sự thống
nhất trong cách định nghĩa về từ. Nói chung, khơng có định nghĩa nào về từ


làm mọi người thoả mãn. Hiện nay có tới trên 300 định nghĩa khác nhau về từ.
Để tiện lợi cho việc nghiên cứu, người ta vẫn thường chấp nhận một quan niệm
nào đấy về từ tuy khơng bao qt tồn thể, nhưng cũng chỉ để lọt ra ngoài
phạm vi của nó một số lượng khơng nhiều các trường hợp ngoại lệ.
Theo F.de Saussure: “từ, mặc dù khó định nghĩa, vẫn là một đơn vị mà trí
tuệ buộc phải chấp nhận, một cái gì có địa vị trung tâm trong cơ thể của ngơn
ngữ” [12, tr.214]. Cái khó nhất trong việc định nghĩa từ là sự khác nhau về
cách định hình, chức năng và các đặc điểm ý nghĩa trong các ngơn ngữ khác
nhau, thậm chí trong cùng một ngơn ngữ.
Trong tiếng Việt, vấn đề xác định ranh giới của từ vẫn còn nhiều ý kiến
khác nhau. Theo các tác giả Trương Văn Chình - Nguyễn Hiến Lê, “Từ là âm
có nghĩa dùng trong ngôn ngữ để diễn tả ý đơn giản nhất, nghĩa là ý khơng thể
phân tích ra được” [9, tr.61].
Tác giả Nguyễn Tài Cẩn định nghĩa: “Từ là đơn vị nhỏ nhất có thể vận
dụng độc lập ở trong câu” [5, tr.326]. Theo Nguyễn Kim Thản, “Từ là đơn vị
cơ bản của ngơn ngữ có thể tách khỏi đơn vị khác lời nói để vận dụng độc lập
và là khối hoàn chỉnh về ngữ âm, ý nghĩa (từ vựng, ngữ pháp) và chức năng
ngữ pháp” [35, tr.64].
Theo Nguyễn Thiện Giáp: “Từ là đơn vị nhỏ nhất của ngôn ngữ, độc lập
về mặt ý nghĩa và hình thức” [14, tr.61]. Định nghĩa trên hàm chứa hai vấn đề
cơ bản: khả năng tách biệt của từ và tính hồn chỉnh của từ.
Khi nghiên cứu đối tượng là từ, trong Từ vựng - ngữ nghĩa tiếng Việt, Đỗ

Hữu Châu đã đưa ra định nghĩa về từ của tiếng Việt như sau: “Từ của tiếng
Việt là một hoặc một số âm tiết cố định, bất biến mang những đặc điểm ngữ
pháp nhất định, nằm trong những kiểu cấu tạo nhất định, tất cả ứng với một
kiểu ý nghĩa nhất định, lớn nhất trong tiếng Việt và nhỏ nhất để tạo câu” [8,
tr.16]. Đây là định nghĩa về từ được nhiều người chấp nhận, chỉ ra được đặc


điểm khái quát cơ bản của từ là: khả năng tách biệt của từ (tính độc lập của từ);
tính hồn chỉnh của từ (từ có vỏ âm thanh hồn chỉnh, có nội dung).
Chúng tơi dựa vào định nghĩa từ của Đỗ Hữu Châu làm cơ sở cho nghiên
cứu luận văn.
1.2.1.2. Cấu tạo từ
Phương thức cấu tạo từ là cách thức mà ngơn ngữ tác động vào hình vị để
cho ta từ.
Tiếng Việt có các phương thức cấu tạo từ như sau:
Thứ nhất, phương thức từ hóa hình vị. Từ hóa hình vị là phương thức tạo
từ bằng cách tác động vào bản thân một hình vị, làm cho nó có có những đặc
điểm ngữ pháp và ý nghĩa của từ, biến hình vị thành từ mà khơng thêm bớt gì
cả vào hình thức của nó.
Mơ hình:

Hình vị (A) từ đơn A.

Phương thức từ hóa hình vị sẽ cho ta từ đơn. Từ đơn “là những từ một
hình vị. Về mặt ngữ nghĩa chúng khơng lập thành những hệ thống có một kiểu
ngữ nghĩa chung. Chúng ta lĩnh hội và ghi nhớ nghĩa của từng từ một riêng rẽ.
Kiểu cấu tạo khơng đóng vai trị gì đáng kể trong việc lĩnh hội ý nghĩa của từ”
[8, tr.40].
Từ đơn có thể có một âm tiết (cá, mực, tơm, cua, ốc, sị, ...) hay nhiều âm
tiết. Những từ đơn nhiều âm tiết có thể gốc Việt như: bồ hóng, ễnh ương, mồ

hơi, bồ nơng, .gốc vay mượn tiếng nước ngồi như: cà phê, xà phịng, karaoke,
mì chính, sủi cảo, xì dầu, ...
Thứ hai, phương thức ghép: là phương thức ghép hai hoặc hơn hai hình vị
có nghĩa, kết hợp chúng với nhau để sản sinh ra một từ mới mang đặc điểm
ngữ pháp và ngữ nghĩa như một từ.
Mơ hình:

Hình vị (A) + (B) từ ghép AB.

Phương thức ghép cho ta từ ghép. Từ ghép “được sản sinh do sự kết hợp


hai hoặc một số hình vị (hay đơn vị cấu tạo) tách biệt, riêng rẽ, độc lập đối với
nhau” [8, tr.54]. Ví dụ, phương thức ghép tác động vào các hình vị cá, mực tạo
thành từ ghép cá mực, tác động vào các hình vị ốc, nhảy để tạo thành từ ghép
ốc nhảy, vào hình vị mực, ống để tạo thành từ ghép mực ống, ...
Từ ghép có hai loại là từ ghép đẳng lập và từ ghép chính phụ.
Từ ghép đẳng lập (từ ghép hợp nghĩa): cá mực, tôm cua, ốc hến, hoa lá,
quần áo, sách vở, .
Từ ghép chính phụ (từ ghép phân nghĩa): xe tải, hoa lan, cá chuồn, mực
lá, cua huỳnh đế, ốc lông, ốc giác, sị điệp, tơm hùm, .
Thứ ba, phương thức láy: là phương thức tác động vào một hình vị cơ sở
làm xuất hiện một hình vị láy giống nó tồn bộ hay bộ phận về âm thanh. Cả
hình vị cơ sở và hình vị láy tạo thành một từ láy.
Mơ hình:

Hình vị (A) từ láy AA'.

Phương thức láy tạo ra từ láy. Từ láy “là những từ được cấu tạo theo
phương thức láy, đó là phương thức lặp lại tồn bộ hay bộ phận hình thức âm

tiết (với thanh điệu giữ nguyên hay biến đổi theo quy tắc biến thanh tức là quy
tắc thanh điệu biến đổi theo hai nhóm, gồm nhóm cao: thanh hỏi, thanh sắc,
thanh ngang và nhóm thấp: thanh huyền, thanh ngã, thanh nặng) của một hình
vị hay đơn vị có nghĩa” [8, tr.41]. Ví dụ, phương thức láy tác động vào hình vị
vàng tạo thành từ láy vàng vàng, tác động vào hình vị đỏ tạo thành từ láy đo
đỏ, đỏ đỏ, tác động vào hình vị chang tạo thành từ láy chang chang, .
1.2.2. Ngữ định danh
Ngữ định danh là những cụm từ cố định biểu thị các sự vật, hiện tượng
hay khái niệm nào đó về thực tế. Mỗi sự vật, hiện tượng hay khái niệm có
nhiều thuộc tính khác nhau. Khi đặt tên cho những sự vật, hiện tượng hay khái
niệm, người ta thường dựa vào một hoặc một số thuộc tính nào đó của chúng
làm căn cứ để hiểu toàn bộ sự vật, hiện tượng hay khái niệm.


Ranh giới giữa từ (cụm từ) và ngữ định danh rất khó phân biệt rạch rịi vì
chúng đều có chức năng định danh, gọi tên sự vật, hiện tượng. Chẳng hạn như:
cá đuôi gai xanh nhạt, cá đuôi gai trắng tím, cá đuối bồng mõm nhọn, cá đuối
bồng chấm xanh, cá bướm cờ hai sọc đen, ... là từ hay là ngữ định danh. Để
tiện cho việc nghiên cứu, chúng tôi sắp xếp chúng vào từ (cụm từ).
1.3. Khái quát về vùng biển Bình Định
1.3.1. Thềm biển Bình Định
Bình Định là tỉnh duyên hải Nam Trung bộ, nằm trong vùng kinh tế trọng
điểm miền Trung. Lãnh thổ của tỉnh trải dài 110 km theo hướng Bắc - Nam,
diện tích tự nhiên: 6.071,3 km2, diện tích vùng lãnh hải: 36.000 km2. Do sự lấn
sát của các khối kiến tạo phía tây ra biển, nên ngồi dải hẹp ven bờ có độ dốc
nhỏ, cịn lại phần lớn có độ gấp lớn và có nhiều nếp gấp, từ Quy Nhơn đến
Tam Quan các đường đẳng sâu 50m, 200m hầu như chạy song song với vạch
bờ. Trong đó từ bờ ra đến độ sâu 500m độ dốc đáy biển nhỏ và biến đổi tương
đối chậm, từ độ sâu 500m ra đến 2000m là khu vực biển có độ dốc lớn nhất
của vùng biển này.

Khí hậu biển Bình Định có tính chất nhiệt đới ẩm, gió mùa, chịu ảnh
hưởng lớn của gió mùa Đơng Bắc, gió mùa Tây Nam và hệ thống dịng chảy
cũng như chế độ thủy triều trong biển đông. Nhiệt độ trung bình năm là 27°C.
Độ ẩm tuyệt đối trung bình là 27,9% và độ ẩm tương đối 79%. Tổng lượng
mưa trung bình năm là 1.751mm, cực đại là 2.658mm, cực tiểu là 1.131mm.
Mùa mưa bắt đầu từ tháng 9 - 12; mùa khô kéo dài từ tháng 1 - 8. Đây là điều
kiện khí hậu thuận lợi cho sự phát triển đa dạng sinh học biển.
Đường bờ biển dài 134 km dọc theo huyện Hoài Nhơn, Phù Mỹ, Phù Cát
và Thành phố Quy Nhơn. Do ảnh hưởng nhô ra của các dãy núi, cũng như khí
hậu và tác động của các quá trình thủy văn tạo nên sự phức tạp của vạch bờ,
đồng thời tạo nên nhiều đầm phá ven biển; tiêu biểu nhất là đầm Thị Nại. Dạng


địa hình đầm phá cùng với vị trí địa lý thuận lợi gần các ngư trường hải sản lớn
là Hoàng Sa và Trường Sa, hải sản vùng biển Bình Định khá đa dạng, phong
phú với trữ lượng lớn. Đặc biệt là cá thu, cá ngừ đại dương, cá mú, mực, tôm,
cua, ốc, ... Đây nguồn lợi hết sức to lớn tạo điều kiện cho việc nuôi trồng, đánh
bắt hải sản.
Dọc ven bờ biển tỉnh Bình Định cịn có 33 đảo lớn nhỏ được chia thành
10 cụm đảo hoặc đảo đơn lẻ. Có 3 cửa biển lớn tập trung nhiều tàu thuyền neo
đậu và hoạt động khai thác hải sản là: Quy Nhơn, Đề Gi và Tam Quan. Ngoài
ra ven biển Bình Định cịn có nhiều làng, xã nghề cá với các bến cá hình thành
trên các bãi ngang, bãi nhỏ ven biển.
Theo báo cáo tổng hợp của Sở Tài nguyên và Môi trường về quy hạch bảo
tồn đa dạng sinh học biển Bình Định giai đoạn 2015 - 2025 và định hướng đến
năm 2030, Bình Định là tỉnh có tài nguyên biển đa dạng. Vùng ven bờ biển
Bình Định nằm trong khu vực miền Trung là nơi có điều kiện thuận lợi cho sự
hình thành và phát triển của các rạn san hô bởi nhiệt độ nước thường xuyên
cao và ít chịu ảnh hưởng của hệ thống sơng ngịi. Rạn san hơ phân bố tập trung
nằm trong tam giác Hịn Khơ, Hịn Đất, Cù Lao Xanh với diện tích khoảng 62

ha, chiếm 54,7% tổng diện tích rạn. Rạn san hơ là nơi sinh sống của nhiều lồi
thủy hải sản có giá trị kinh tế, đặc biệt là bãi đẻ của lồi rùa biển q hiếm có
nguy cơ tuyệt chủng.
Nguồn lợi hải sản ở vùng biển Bình Định khá đa dạng và phong phú với
trên 500 lồi cá, trong đó có 38 lồi có giá trị kinh tế. Tỷ lệ cá nổi chiếm 65%
với trữ lượng khoảng 38.000 tấn, khả năng khai thác 21.000 tấn. Tỷ lệ cá đáy
chiếm 35% với trữ lượng khoảng 22.000 tấn, khả năng khai thác 11.000 tấn.
Tơm biển có 20 lồi với trữ lượng khoảng 1.000 - 1.500 tấn. Mực có trữ lượng
khoảng 1.500 - 2.000 tấn.
Vùng biển Bình Định có trữ lượng cao về nguồn lợi tôm hùm giống,


phong phú về thành phần lồi với các lồi tơm hùm có giá trị kinh tế. Về khai
thác tơm hùm giống: tồn tỉnh có 1.369 tàu cá cở nhỏ chun khai thác tôm
hùm giống với sản lượng hàng năm khoảng 455.460 con (năm 2008).
Có thể nói tất cả những yếu tố trên tạo điều kiện thuận lợi cho cuộc sống
của ngư dân. Hoạt động khai thác, nuôi trồng hải sản diễn ra sôi động, nhộn
nhịp tạo nên đặc trưng vùng biển Bình Định. Đó cũng là cơ sở của sự phong
phú, đa dạng tên gọi hải sản; của tín ngưỡng văn hóa biển, phản ánh đời sống
tinh thần của ngư dân.
1.3.2. Dân cư ven biển Bình Định
Dọc đường bờ biển dài 134 km của Bình Định gồm các huyện Hồi Nhơn
(các xã ven biển Hoài Hương, Tam Quan, Hoài Thanh, Hoài Hải, Hoài Mỹ),
huyện Phù Mỹ (các xã ven biển: Mỹ Đức, Mỹ Thắng, Mỹ An, Mỹ Thọ, Mỹ
Thành), huyện Phù Cát (các xã ven biển: Cát Tiến, Cát Hải, Cát Khánh, Cát
Minh) và thành phố Quy Nhơn (các xã Nhơn Lý, Nhơn Hải, Nhơn Hội, Nhơn
Châu; phường Ghềnh Ráng...). Ngồi ra, hoạt động đánh bắt, ni trồng hải
sản cũng diễn ra sôi nổi quanh đầm Thị Nại ở các địa bàn dân cư: phường
Nhơn Bình, Đống Đa, Hải Cảng, Thị Nại và xã Nhơn Hội (thành phố Quy
Nhơn), xã Phước Thuận, Phước Sơn, Phước Hòa, Phước Thắng (huyện Tuy

Phước) và xã Cát Chánh (huyện Phù Cát). Đầm trải dài theo hướng Bắc Nam
với chiều dài khoảng 12 km, rộng 4 km, thông ra cửa biển Quy Nhơn.
Dân cư sinh sống ven biển Bình Định đã hình thành từ rất lâu đời.
Ngược dòng lịch sử trở về trước, qua các cơng trình nghiên cứu cổ sử cịn
lại, có thể thấy người Chăm đã sinh sống ở Bình Định mà trước người Chăm là
người cổ Sa Huỳnh. Cuộc sống của người Sa Huỳnh cũng như của người
Chăm gắn bó với biển, biển giữ vị trí chính yếu trong đời sống vật chất và văn
hóa tinh thần của họ. Năm 1471, vua Lê Thánh Tơng thân chinh mở rộng bờ
cõi về phía Nam, đánh dấu thời điểm người Việt bắt đầu chuyển cư mạnh mẽ


vào vùng đất duyên hải này. Người Việt nơi đây quen dần với biển. Với khả
năng chinh phục thiên nhiên, con người trở nên mạnh mẽ trong cuộc mưu sinh,
hơn nữa sự đa dạng của nguồn tài nguyên biển còn là động lực để con người
chinh phục biển cả. Một lý do quan trọng hơn để người Việt ở Bình Định nói
riêng và Nam Trung Bộ nói chung có khả năng hướng ra biển là nhờ cuộc sống
cộng cư với người Chăm. Cuộc sống cộng cư với người Chăm giúp bộ phận
người Việt di cư hiểu hơn về biển.
Ngày nay, có thể nói, phần lớn dân cư ven biển nói chung và dân cư ven
biển Bình Định nói riêng dân trí cịn thấp, đa phần quan niệm của người dân
sống phụ thuộc vào biển là phải sinh con trai, càng nhiều con trai càng tốt để
có nhân lực đi biển. Hầu hết các em trai thường học hết cấp 2, hoặc nhiều em
chưa xong lớp 9 đã bỏ học. Vì nhà nghèo, vì các em phải mưu sinh q sớm.
Có những đứa trẻ mới 9, 10 tuổi đã phải theo ba, chú, bác, bà con của mình đi
biển, làm quen dần với cuộc sống lênh đênh nơi biển cả.
Dấu ấn về một vùng đất mà cuộc sống của con người gắn liền với con
tơm, con cá cịn in đậm trong ca dao với bao tâm tình ngọt ngọt tha thiết.
Anh về qua cửa Đề Gi
Nghe mùi chả cá chân đi khơng đành
Hay

Gị Bồi có nước mắm cơm
Ai đi cũng nhớ cá tơm Gị Bồi
1.4. Thống kê tên gọi hải sản vùng biển Bình Định
Để tìm hiểu tên gọi các lồi hải sản vùng biển Bình Định, chúng tơi đã
tiến hành điều tra điền dã tại các huyện giáp biển của tỉnh Bình Định: huyện
Hồi Nhơn, Phù Mỹ, Phù Cát và thành phố Quy Nhơn. Cùng với điều tra điền
dã là sưu tầm thêm trên các loại văn bản, chúng tôi thu thập được 610 tên gọi
các loài hải sản, thể hiện trong bảng sau:


Bảng 1.1. Thống kê số lượng tên gọi hải sản vùng biển Bình Định

STT

Phân loại hải sản

Số lượng

Tỉ lệ (%)

1



423

69,3

2


Mực

16

2,6

Tơm

31

5,1

4

Cua

29

4,8

5

Sị, ốc
Hải sản khác

83
28

13,6
4,6


610

100

3

6

rri Á

Tổng cộng

Qua bảng thống kê, ta thấy vốn từ chỉ tên gọi các lồi hải sản có sự phong
phú, đa dạng. Tuy nhiên, con số này có thể phản ánh chưa thật đầy đủ từ chỉ
tên gọi các loài hải sản so với thực tế. Chẳng hạn có vơ vàn các lồi hải sản
trong lịng biển thì ta khó có thể biết hết tên gọi của chúng. Sự phong phú của
tên gọi các loài hải sản phản ánh sự phong phú của hiện thực đời sống tác động
vào ngôn ngữ, đồng thời cũng thể hiện mức độ gắn bó với nguồn lợi hải sản
của người dân ven biển Bình Định.
Tiểu kết chương 1
Bình Định có nguồn tài ngun biển phong phú với nhiều lồi hải sản có
giá trị. Người Bình Định đã biết cách tận dụng nguồn tài nguyên có sẵn ấy để
phục vụ nhu cầu sống của mình, tăng thu nhập, ổn định kinh tế, cuộc sống vì
thế dần dần ấm no hơn. Nét đẹp, văn hóa của biển Bình Định cịn được thể
hiện trong tên gọi các lồi hải sản. Vì vậy, tên gọi các lồi hải sản vùng biển
Bình Định là nguồn ngữ liệu đáng được nghiên cứu.
Khi tìm hiểu tên gọi các lồi hải sản vùng biển Bình Định, cần có những
tri thức lí luận về định danh, các đơn vị từ vựng làm cơ sở cho việc khảo sát
đặc điểm nguồn gốc, cấu tạo và đặc điểm định danh của tên gọi hải sản trong

các chương tiếp theo. Vấn đề đặc trưng ngơn ngữ và văn hóa qua cách định


×