Tải bản đầy đủ (.docx) (17 trang)

Chức năng Giáo dục của Gia đình ở Việt Nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (107.21 KB, 17 trang )

KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ

TIỂU LUẬN HỌC PHẦN
CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC

Tên đề tài

CHỨC NĂNG GIÁO DỤC CỦA GIA ĐÌNH Ở
VIỆT NAM HIỆN NAY

Hồ Chí Minh, tháng 8 năm 2021
1


PHẦN MỞ ĐẦU
Gia đình là nơi “chơn rau cắt rốn”, là chốn dừng chân của mỗi cá nhân sau một
ngày làm việc mệt mỏi. “Mỗi cây mỗi hoa mỗi nhà mỗi cảnh” tuy khác nhau nhưng
gia đình là tế bào của xã hội. Gia đình có vững mạnh thì xã hội mới văn minh. Khơng
ai có thể phủ nhận được vai trị của gia đình đối với cá nhân và xã hội.
Trong giai đoạn đầu của lịch sử nhân loại, gia đình đã là đơn vị đầu tiên và duy
nhất đảm nhiệm vai trị của giáo dục. Ơng bà, cha mẹ chính là người thầy của trẻ cả về
nghĩa đen và nghĩa bóng. Trong mơi trường gia đình, trẻ bắt đầu hình thành nhân cách,
lối sống và đặc biệt là nhân sinh quan. Có thể nói, gia giáo là bước đầu tiên của q
trình xã hội hóa giáo dục trong xã hội.
Trong những năm gần đây, cùng với sự phát triển không ngừng của nền kinh tế,
sự thay đổi bộ mặt chung của xã hội. Giáo dục gia đình khơng chỉ gồm những ảnh
hưởng từ phía cá nhân đối với cá nhân (giữa cha mẹ với con cái, giữa ông bà với cháu)
mà còn bao gồm ảnh hưởng của cả tập thể gia đình liên kết với nhau tác động từng cá
nhân qua lối sống, nếp sống, ở mỗi gia đình. Việc giáo dục trong gia đình giờ đây trở
nên sinh động, phong phú, phù hợp với tâm lý, nhu cầu của mỗi thành viên trong gia
đình.



NỘI DUNG
1. Khái niệm gia đình

Gia đình là một hình thức cộng đồng xã hội đặc biệt, được hình thành, duy trì
và củng cố chủ yếu dựa trên cơ sở hôn nhân, quan hệ huyết thống và quan hệ nuôi
dưỡng, cùng với những quy định về quyền và nghĩa vụ của các thành viên trong gia
đình. [1]
2. Các chức năng cơ bản của gia đình
2.1 Chức năng tái sản xuất ra con người
2


Chức năng này vốn dĩ nó tồn tại một cách tự nhiên, vì xã hội chỉ tồn tại được
khi hành vi sinh sản vẫn cịn được duy trì. Bản thân F. Engel, một nhà duy vật vĩ đại
cũng cho rằng theo quan điểm duy vật, nhân tố quyết định trong lịch sử suy cho cùng
là... sự tái sản xuất ra bản thân con người, là sự truyền nòi giống. Chức năng sinh sản
của gia đình là một giá trị trường tồn. [2]
Thực hiện chức năng này quyết định đến mật độ dân cư và nguồn lực lao động
của một quốc gia và quốc tế. Vì vậy, tùy theo từng nơi, phụ thuộc vào nhu cầu của xã
hội, chức năng này được thực hiện theo xu hướng hạn chế hay khuyến khích. Như
Nhật Bản đang có những chính sách thưởng tiền để khuyến khích sinh con trong khi
Việt Nam cần phải kế hoạch hóa gia đình với tiêu chí “2 con là đủ”.
2.2 Chức năng kinh tế và tổ chức tiêu dùng

Gia đình là một đơn vị sản xuất ra của cải vật chất cho xã hội, hơn thế nữa nó
cũng là đơn vị tiêu dùng chủ yếu các sản phẩm do nền kinh tế sản xuất ra. Thực hiện
tốt chức năng này, khơng những tạo cho gia đình có cơ sở để tổ chức tốt đời sống, nuôi
dạy con cái, mà cịn đóng góp to lớn đối với sự phát triển của xã hội.


[1]

2.3 Chức năng thỏa mãn nhu cầu tâm sinh lí, duy trì tình cảm gia đình

Đây là chức năng thường xuyên của gia đình, bao gồm việc thỏa mãn tình cảm
tinh thần và thể xác giữa hai vợ chồng; thỏa mãn tình cảm giữa cha mẹ và con cái
(sống vì nhau, chăm sóc nhau), tình cảm giữa anh chị em trong gia đình (thương yêu,
đùm bọc lẫn nhau). Sự quan tâm, chăm sóc lẫn nhau giữa các thành viên trong gia đình
vừa là nhu cầu tình cảm vừa là trách nhiệm, đạo lý, lương tâm của mỗi người.
Do vậy, gia đình là chỗ dựa tình cảm cho mỗi cá nhân, là nơi nương tựa về mặt
tinh thần chứ không chỉ là nơi nương tựa về vật chất của con người. Phần đông mọi
người trong xã hội đều coi gia đình là “tổ ấm”, nơi người ta đi về, nơi người ta chia sẻ
với nhau về niềm vui, nỗi buồn, tức là nơi tình cảm của con người được thỏa mãn.
2.4 Chức năng văn hóa chính trị

3


Với chức năng văn hóa, gia đình là nơi lưu giữ truyền thống văn hóa của dân
tộc cũng như tộc người. Những phong tục, tập quán, sinh hoạt văn hóa của cộng đồng
được thực hiện trong gia đình. Gia đình khơng chỉ là nơi lưu giữ mà cịn là nơi sáng
tạo và thụ hưởng những giá trị văn hóa của xã hội.
Với chức năng chính trị, gia đình là một tổ chức chính trị của xã hội, là nơi tổ
chức thực hiện chính sách, pháp luật của nhà nước và quy chế (hương ước) của làng xã
và hưởng lợi từ hệ thống pháp luật, chính sách và quy chế đó. Gia đình là cầu nối của
mối quan hệ giữa nhà nước với công dân. [1]
2.5 Chức năng giáo dục của gia đình
Nhiều nhà tâm lý học đã cho rằng, sự hình thành nhân cách con người từ giáo
dục gia đình là những dấu ấn kiến thức đầu tiên không dễ phai mờ đối với con người.
Những bài học cơ bản mà mỗi người tiếp thu được trong gia đình sẽ giống như những

vết mực đầu tiên trên trang vở trắng, tạo thành những nguyên tắc sống cho một nhân
cách trong suốt cuộc đời họ.
Thứ nhất: Gia đình có vai trị giáo dục đạo đức cho thế hệ trẻ.
Nhà thơ R. Tagore đã từng nói “Một ngày mà quên giáo hóa, ta lùi về gần thú
tính hơn”

[3]

, mà trong đó sự giáo huấn ở đây nằm ở phạm trù đạo đức (học từ gia

đình), khơng phải là kiến thức trường học. Đa số trẻ từ lứa tuổi trẻ em đến vị thành
niên, ngồi thời gian học tập trên trường lớp thì thời gian dành cho gia đình là nhiều
nhất.
Gia đình là nơi chúng ta được học những thứ trường lớp không dạy. Giáo dục
gia đình khơng chỉ giới hạn trong việc cha mẹ bảo ban, dạy dỗ con về hành vi ứng xử,
đạo đức mà còn được thể hiện qua rất nhiều khía cạnh, từ kinh nghiệm, tri thức, lối
sống, ý thức, ứng xử, cho đến những vấn đề như tôn giáo hoặc chính trị.
Trong q trình lớn lên của trẻ thì hành vi đạo đức mang tính nêu gương của
ơng, bà, cha, mẹ và những người lớn tuổi trong gia đình có ảnh hưởng lớn đến q
trình hình thành nhân cách, đạo đức cho thế hệ trẻ khi trưởng thành.
4


Thứ hai: Gia đình có vai trị giáo dục học tập văn hóa cho con trẻ.
Nếu giáo dục văn hóa tốt sẽ tạo ra một nền tảng tri thức phổ thơng cơ bản và có
vai trị những hiểu biết nhất định về một ngành nghề giúp trẻ có việc làm ổn định, tạo
ra của cải vật chất, nâng cao chất lượng sống cho bản thân và gia đình, đáp ứng yêu
cầu ngày càng cao của xã hội trong bối cảnh cuộc Cách mạng khoa học công nghiệp
4.0 đang phát triển mạnh mẽ.
Thứ ba: Gia đình có vai trị giáo dục tinh thần yêu lao động, tính tự lập cho thế

hệ trẻ.
Chính trong gia đình, con người mới thể hiện một cách đầy đủ nhất những nhu
cầu khát vọng lao động để nâng cao đời sống vật chất cho gia đình từ đó các thế hệ trẻ
sẽ thấy được ý nghĩa của lao động và yêu lao động. Bên cạnh đó đời sống gia đình
được tổ chức tốt, cuộc sống của mỗi thành viên cũng được đảm bảo quyền riêng tư, là
điều kiện rất quan trọng để mỗi con trẻ trong gia đình có cơ hội được ni dưỡng, rèn
luyện tính tự lập để phát triển năng lực toàn diện của bản thân
Thứ tư: Gia đình có vai trị giáo dục giới tính cho thế hệ trẻ.
Việc giáo dục giới tính trong gia đình giúp thế hệ trẻ nâng cao được đạo đức,
phẩm hạnh, hiểu biết và tự bảo vệ được sức khỏe sinh sản của bản thân. Giáo dục giới
tính cho thế hệ trẻ góp phần làm cho trẻ hiểu biết về sức khỏe sinh sản tạo ra một thế
hệ tương lai phát triển toàn diện đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của công cuộc đổi
mới đất nước hiện nay.
3. Các yếu tố tác động tới chức năng giáo dục của gia đình ở Việt Nam trong giai

đoạn hiện nay
Từ bản thân các thành viên trong gia đình: phụ thuộc vào con người, kiến thức
và kinh nghiệm của các bậc cha mẹ, vào thời gian dành ra cho con cái, vào tính cách
mỗi người, lối suy nghĩ “cha mẹ sinh con trời sinh tính”, thói quen dỗ con bằng cách
cho xem điện thoại, quan niệm việc dạy dỗ là của giáo viên…

5


Từ sự phát triển kinh tế, thị trường đã tạo cơ hội cho mỗi cá nhân, mỗi gia đình
có điều kiện tích lũy, làm giàu. Nhờ đó chức năng giáo dục của gia đình được cải thiện
đáng kể. Trong gia đình con trai và con gái đều được tới trường học tập và được chuẩn
bị cơ sở vật chất cần thiết cho việc thực hiện giáo dục tại gia đình.
Từ sự phát triển của khoa học, công nghệ tạo điều kiện để con người có cơ hội
tiếp xúc với các ứng dụng mới. Sự phổ biển internet, điện thoại di động… đã có những

tác động khơng nhỏ tới việc giáo dục nói chung và giáo dục tại gia đình nói riêng.
Từ sự ổn định của mơi trường chính trị, là một yếu tố góp phần phát triển mọi
mặt của xã hội. Khi mơi trường sống có trật tự, ổn định thì việc thực hiện các chức
năng của gia đình, trong đó có chức năng giáo dục sẽ được đầu tư hơn về mặt thời
gian, cơng sức, qua đó sẽ thu được những hiệu quả như mong đợi.
Từ ảnh hưởng của yếu tố văn hóa, sự tác động của phong tục, tập quán. Trong
thời kỳ phong kiến, do ảnh hưởng sâu đậm của tư tưởng Nho giáo nên trong gia đình,
sự giáo dục thường được thực hiện bởi người đàn ông – người giữ vai trò gia trưởng,
cùng với những tư tưởng như “thương cho roi cho vọt”, trọng nam khinh nữ, “dạy vợ”.
Ngày nay, với việc tăng cường quyền bình đẳng giới, trong gia đình và ngồi xã hội
người phụ nữ được tôn trọng và được trao quyền nhiều hơn, cả trong giáo dục con cái.
Từ pháp luật, Các quy định trong Hiến pháp, Luật Hơn nhân và gia đình, Luật
Bảo vệ chăm sóc và giáo dục trẻ em, Luật Giáo dục… đã ghi nhận trách nhiệm giáo
dục con cái là của cha mẹ và quyền lợi của trẻ em trong gia đình là cơ sở pháp lý đảm
bảo việc thực hiện chức năng giáo dục của gia đình. Qua đó cụ thể vai trị giáo dục
trong gia đình hơn, mỗi người tự nhận thức, không xem nhẹ việc đào tạo con trẻ.
Sự ảnh hưởng của các yếu tố trên không diễn ra một cách riêng lẻ và một chiều
mà có sự tác động đồng bộ, qua lại giữa các yếu tố. Khi một trong các yếu tố có sự
thay đổi sẽ kéo theo sự thay đổi của một hoặc một số yếu tố khác. Như khi nền kinh tế
xã hội có những thay đổi sẽ kéo theo những biến đổi trong đời sống chính trị, trong lối
sống, trong phong tục…
6


4. Thực trạng việc thực hiện chức năng giáo dục của gia đình ở Việt Nam hiện

nay
Trong xã hội Việt Nam truyền thống, giáo dục gia đình là cơ sở của giáo dục xã
hội thì ngày nay, giáo dục xã hội bao trùm lên giáo dục gia đình và đưa ra những mục
tiêu, những yêu cầu của giáo dục xã hội cho giáo dục gia đình [4]

4.1 Tích cực
4.1.1

Về phía cộng đồng,
Phong trào như “kế hoạch hóa gia đình”, cơng tác chăm sóc và giáo dục trẻ

em… đã có những bước tiến đáng kể trong những năm qua. Ở nhiều địa phương, tỷ lệ
trẻ em suy dinh dưỡng có xu hướng giảm, tỷ lệ trẻ em được đến trường, trẻ được tiêm
chủng theo chương trình tiêm chủng quốc gia, và ý thức người dân về chăm sóc và
giáo dục trẻ em được tăng cao…
4.1.2 Về phía gia đình
Đa số các bậc cha mẹ và ngay cả bản thân thế hệ trẻ đều nhận thức rõ vai trò
của việc nâng cao kiến thức văn hóa khoa học cơng nghệ, quan niệm đầu tư cho “con
cái” chính là đầu tư cho phát triển đã trở nên khá phổ biến. Nội dung giáo dục gia đình
hiện nay khơng nặng về giáo dục đạo đức, ứng xử trong gia đình, dịng họ, làng xã, mà
hướng đến giáo dục kiến thức khoa học hiện đại, trang bị cơng cụ để con cái hịa nhập
với thế giới. [1]
Theo thống kê tỷ lệ chưa tốt nghiệp phổ thông cơ sở đối với lứa tuổi từ 20 - 44
(cần nuôi dạy con cái nhiều) ở nữ từ 42% đến 55%, ở nam là từ 38,4% đến 41,8%.

[5]

Trình độ và kiến thức của cha mẹ hạn chế đã làm ảnh hưởng đến việc giáo dục học tập
của con cái. Nếu cha mẹ tạo ra được bầu khơng khí học tập trong gia đình (cha mẹ đọc
sách báo khơng những tăng thêm sự hiểu biết, mà cịn tạo khơng khí yên tĩnh cho con
cái học tập, giúp chúng giải đáp những vướng mắc các vấn đề về kiến thức văn hóa, xã
hội...), sẽ tạo cho con cái lịng hăng say thi đua học tập, đem lại kết quả ngày càng tiến
bộ.
7



Trước đây, người Việt Nam thường quan niệm khi nam nữ lớn lên độ 13 đến 16
tuổi “Gái thập tam, nam thập lục” đã được coi là phát triển đầy đủ về mặt giới tính, có
thể dựng vợ gả chồng. Ca dao Việt Nam có câu “lấy chồng từ thuở mười ba, đến năm
mười tám em đà năm con”. Vấn đề giáo dục giới tính trước đây ở nước ta, kể cả trong
nhà trường, dường như không được đề cập tới, một mặt do khoa học (y học, tâm lý, xã
hội học, giáo dục học,...) chưa phát triển mạnh mẽ và phổ biến rộng rãi; mặt khác, do
ảnh hưởng của quan niệm truyền thống, nên người ta e ngại, né tránh khơng nói tới
vấn đề giới tính, tình dục, nói tới là “vạch đường cho hươu chạy” và coi đó thuộc
phạm trù đạo đức, mà quan hệ khác giới, bạn bè, tình u, là thầm kín và giữ khn
phép chặt chẽ “nam nữ thụ thụ bất thân”. Trong xã hội hiện nay, do sự phát triển của
khoa học, công nghệ, của điều kiện kinh tế, văn hóa và xã hội, những quan niệm về
giới và giới tính đã có nhiều thay đổi theo hướng tiến bộ, nhất là các gia đình ở khu
vực thành phố, thị xã. Do đó, việc giáo dục giới tính cũng phù hợp hơn, hiệu quả hơn
và tôn trọng quyền con người hơn. Đa phần, các em vào tuổi dậy thì, cha mẹ (nhất là
người mẹ) đã chủ động quan tâm giáo dục cho các em về những nội dung liên quan
đến vấn đề giới tính, tình dục, về sức khỏe sinh sản vị thành niên, về tình bạn, tình
u, vệ sinh thân thể, về hơn nhân và gia đình...
Đồng thời, gia đình Việt Nam cũng đã tiếp thu nhiều tinh hoa của gia đình hiện
đại như: tôn trọng tự do cá nhân; tôn trọng sự lựa chọn cá nhân; dân chủ, bình đẳng
trong quan hệ; bình đẳng về nghĩa vụ, trách nhiệm và thụ hưởng; không phân biệt đối
xử nam, nữ, trai, gái, dâu, rể... Với những yếu tố trên, rõ ràng gia đình Việt Nam vẫn
đang và sẽ là một giá trị xã hội bền vững. Đây chính là cơ sở hiện thực để gia đình
Việt Nam tiếp tục tồn tại và phát triển vững chắc và cũng là cơ sở để gia đình ngày
càng thực hiện tốt hơn chức năng giáo dục của mình.
4.2 Hạn chế

Thực tế cho thấy, ở một bộ phận gia đình hiện nay, nhân cách của con trẻ đang
chịu tác động xấu bởi tư tưởng cá nhân chủ nghĩa, lối sống thực dụng, trọng tiền tài,
vật chất nói chung, thiếu vắng sự chăm sóc, dạy dỗ, bảo vệ con trẻ nói riêng. Nhận

8


thức sâu sắc thực trạng này, văn kiện các kỳ Đại hội của Đảng, nhất là những nhiệm kỳ
gần đây đã nhấn mạnh: “Tình trạng suy thối, xuống cấp về đạo đức, lối sống, sự gia
tăng tệ nạn xã hội và tội phạm đáng lo ngại, nhất là trong lớp trẻ” [6]
Về phía gia đình, nhiều phụ huynh cịn thiếu kiến thức, kinh nghiệm và thời
gian dành cho giáo dục con cái. Mặt khác nhiều gia đình đang lúng túng trong cách
giáo dục con cái. Sự thay đổi của xã hội cũng như những ảnh hưởng của cuộc sống
hiện đại tới mỗi thành viên trong xã hội đã khiến nhiều gia đình khó khăn trong việc
giáo dục con em mình, và phó mặc cho nhà trường, xã hội. Bên cạnh đó, những hồn
cảnh đặc biệt của gia đình như cha mẹ ly hơn, bất hồ, bạo hành… sẽ dẫn tới hành vi
rối nhiễu, trầm cảm, tâm lý lệch lạc, phạm pháp… của trẻ em sau này.
Hiện nay, việc giáo dục lao động và rèn luyện tính tự lập cho con cái cịn có sự
khác nhau giữa gia đình ở thành thị và gia đình nơng thơn. Đối với gia đình thành thị,
còn khá phổ biến tâm lý cho rằng, những công việc nặng nhọc là việc làm của người
lớn, cha mẹ phải làm tất cả, con cái chỉ lo học tập. Xuất phát từ nhận thức ấy nên ở
nhiều gia đình, ngồi việc học tập, con cái khơng phải tham gia bất cứ việc gì. Thậm
chí, những mơn học thủ cơng, thực hành thí nghiệm nhà trường giao... cũng do cha mẹ
và người lớn làm thay, từ đó nảy sinh tâm lý dựa dẫm, ỷ lại vào cha mẹ. Hầu hết các
em sống trong những gia đình như vậy, khi phải tham gia các hoạt động ngoại khóa,
lao động ở nhà trường hay do đồn, đội tổ chức… thì thường tỏ ra lúng túng, trốn
tránh hoặc làm qua loa. Đây là hiện tượng khơng bình thường. Đối với gia đình nông
thôn, trẻ em phải tham gia lao động từ rất sớm, nhiều em nhỏ nhưng phải làm việc
nặng nhọc quá sức, nhất là đối với trẻ em gái. Do tính đặc thù của công việc nhà nông,
nhất là vào thời vụ, hầu như mọi thành viên phải tập trung vào sản xuất, trẻ em thậm
chí phải nghỉ học để giúp gia đình, nên chúng thường phải lao động quá sức và kéo dài
suốt cả ngày, mà khơng có thời gian nghỉ ngơi
Ý thức tiêu dùng trong lớp trẻ hiện nay đang có những biểu hiện lệch lạc. Trong
tình hình hiện nay, sự nghiệp đổi mới tạo cơ hội cho nhiều gia đình làm giàu chính

đáng. Nhưng ngay cả những gia đình giàu có, do tập trung vào mục đích kinh tế, nên
9


việc giáo dục con cái cũng có những hạn chế và thiên lệch. Một điều tất yếu là gia
đình nhiều tiền có nhu cầu tiêu dùng nhiều, nếu thế hệ trẻ không được giáo dục, cũng
dễ bị tiêm nhiễm tâm lý tiêu xài, đua đòi, chơi sang, tiêu dùng hàng ngoại, hợp mốt,...
Đến một lúc nào đó, khi cha mẹ kiếm tiền ít đi, khơng đáp ứng đầy đủ, thì con cái trở
nên xoay xở, trộm cắp, lừa đảo và dễ dàng rơi vào phạm tội. Vì vậy, “giáo dục cách
tiêu dùng cũng là một mặt giáo dục quan trọng đối với con người hiện đại”.
Có những bậc làm cha làm mẹ vì ít được học hỏi và thiếu kinh nghiệm nên rất
bất cẩn. Họ thường chỉ phản ứng theo bản năng, nghĩa là chỉ tuân theo tiếng gọi của tự
nhiên mà khơng suy nghĩ hay có sự chuẩn bị nào. Khi đứa trẻ được sinh ra thì cha mẹ
chúng chỉ cố lo cho con đủ ăn, đủ mặc (với ý nghĩ rằng như vậy cũng đã tốt lắm rồi),
gửi chúng đến trường rồi phó mặc tồn bộ việc giáo dục cho nhà trường. Đây là một
sai lầm rất căn bản vì thời gian ở trường của bé thường ít hơn thời gian ở nhà. Nếu các
bậc cha mẹ biết rằng mọi lời ăn tiếng nói, cử chỉ và cách cư xử của mình đều để lại
những ấn tượng đầu tiên và sâu đậm nhất trong cuộc đời con họ thì có lẽ họ đã khơng
dám bất cẩn đến như vậy.
Nhiều bậc cha mẹ mong đợi ở con cái quá nhiều. Họ mong con mình phải ln
thơng minh, nhanh nhảu và học giỏi; mong con mình phải ln xuất sắc trong mọi lĩnh
vực. Điều này thật tham lam! Có một sự thật mà ai cũng biết là không phải tất cả trẻ
con được sinh ra đều thông minh, khoẻ mạnh và lanh lợi. Mặc dù các bậc cha mẹ có
xu hướng lý tưởng thường làm hết cách để con họ có những điều kiện tốt nhất để học
tập, vui chơi và sinh hoạt nhưng nhiều trẻ em đã không thoả mãn được những tham
vọng của cha mẹ. Những đứa trẻ tội nghiệp này thường cảm thấy thiếu tự tin, không
xứng đáng với sự quan tâm và mong mỏi của cha mẹ các em. Cảm giác bị đè nặng bởi
sự mong đợi của cha mẹ làm em thiếu tự nhiên và càng kém tự tin hơn.
Trong xã hội, sự phân tầng xã hội, phân hóa giàu nghèo đã dẫn đến nhiều trẻ em
trong các gia đình nghèo bị thất học, phải rời xa gia đình lao động giúp việc cho gia

đình khá giả khác, phải làm việc nặng nhọc... dẫn đến không được tiếp nhận hoặc tiếp
nhận không đầy đủ sự giáo dục của gia đình. Cùng với đó, hiện tượng coi thường giáo
10


dục gia đình đang xảy ra ngày càng nhiều tác động đáng kể tới sự phá vỡ nền tảng đạo
đức gia đình. Hiện tượng bng lỏng giáo dục phẩm chất đạo đức và cách ứng xử
đúng đắn, tình nghĩa đã gây ra nhiều hậu quả tiêu cực.
Tình trạng ly hơn có xu hướng tăng cao; ngoại tình; sống chung khơng kết hơn;
tệ nạn mại dâm; tình dục đồng giới; tình trạng trẻ em nghiện hút; trẻ em hư, phạm tội,
lang thang có xu hướng tăng; bạo lực gia đình; bn bán phụ nữ; bất bình đẳng giới;
mua bán hơn nhân có yếu tố nước ngồi; xu hướng tơn sùng tiền bạc trong quan hệ
giữa người với người; tình trạng bn lậu, tham nhũng, hối lộ, mua quan bán chức
diễn ra phổ biến trong xã hội... đang tác động đến từng cộng đồng, tập thể, cá nhân,
từng gia đình ở mọi nơi, mọi lúc, mọi hoàn cảnh, mọi phương diện, cũng cho thấy
phần nào sự bất lực của xã hội và sự bế tắc của một số gia đình trong việc chăm sóc,
giáo dục trẻ em. Trong gia đình, tình trạng giáo dục trẻ bằng sự trừng phạt hay vũ lực
còn tồn tại với tỷ lệ khá lớn. Một khảo sát cho thấy, có 12,2% số người được hỏi đồng
ý với sử dụng đòn roi trong việc giáo dục con cái, 34% cho rằng “tùy mức độ” mà có
thể đánh địn, như vậy người dân vẫn còn quan điểm giáo dục bằng vũ lực. Nhiều
người cịn quan niệm rằng chồng có quyền “dạy” vợ con mình bằng cách sử dụng vũ
lực” [7.]
Bên cạnh đó, trong bối cảnh tồn cầu hóa, gia đình khơng cịn là một tổ chức
bền vững mang tính khép kín. Để có được các nguồn thu nhập mới ni sống gia đình,
nhiều cha, mẹ phải rời xa tổ ấm tìm việc làm ở các đơ thị, các khu cơng nghiệp, họ
khơng những khơng có điều kiện gần gũi chăm sóc, giáo dục con nhỏ mà bản thân
cũng gặp rất nhiều nguy cơ và rủi ro khi sống xa gia đình.
Trong điều kiện hiện nay, khi khá nhiều phương pháp giáo dục gia đình truyền
thống khơng cịn được coi trọng như trước, đồng thời những phương pháp mới lại
chưa thật định hình, thì việc giáo dục trong gia đình ở nước ta đã có những lúng túng,

vướng mắc. Nhiều gia đình, trước hiện tượng con cái hư hỏng đã quay trở về với
những phương pháp cổ truyền, nghiêm khắc, khắt khe và thậm chí khơng ngần ngại sử
dụng địn roi với chúng. Có nhiều gia đình cho đến nay vẫn còn áp dụng những quy
11


chuẩn chặt chẽ được gọi là “gia quy”, “gia giáo”, “gia phong” truyền thống mà nhiều
khi đã xâm phạm cả quyền trẻ em.
Việc lạm dụng các ứng dụng công nghệ ảnh hưởng tới sức khỏe, tâm lý của cá
nhân. Điều này gây những khó khăn khơng nhỏ cho việc thực hiện chức năng giáo dục
của gia đình bởi thời gian các thành viên bên nhau ngày càng thu hẹp, sự gắn bó giữa
các cá nhân bị suy giảm đáng kể.
5. Những giải pháp nâng cao chức năng giáo dục của gia đình ở Việt Nam hiện

nay
Nâng cao nhận thức về vị trí, vai trị của gia đình đối với giáo dục thế hệ trẻ ở
nước ta hiện nay.
Đổi mới nhận thức không chỉ là đổi mới nhận thức về mặt nội dung, phương
pháp giáo dục mà điều quan trọng là phải thấy được sự gắn kết giữa giáo dục gia đình
với giáo dục nhà trường và giáo dục xã hội, trong đó cơng tác giáo dục thế hệ trẻ trước
hết thuộc về gia đình, song cũng là sự nghiệp của toàn xã hội.
Tiếp tục đẩy mạnh cải cách giáo dục - đào tạo, tạo điều kiện để kết hợp chặt chẽ
giữa nhà trường với gia đình trong giáo dục thế hệ trẻ. Có như vậy, giáo dục - đào tạo
mới tránh được nguy cơ tụt hậu, lạc hậu, góp phần nâng cao năng lực hội nhập nhằm
góp phần xây dựng nền kinh tế tri thức, tạo điều kiện và cơ hội cho thế hệ trẻ phát huy
tối đa ưu thế và khả năng thích ứng với sự phát triển của xã hội tri thức.
Xây dựng gia đình ấm no, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc
Một là, xây dựng gia đình ấm no. Hiện nay yêu cầu về ấm no của gia đình đã có
những thay đổi so với trước đây, chỉ số gia đình no ấm khơng chỉ là ăn no, mặc ấm, mà
phải vươn lên ăn ngon, mặc đẹp, tiện nghi sinh hoạt, vui chơi hiện đại, văn minh. Nhà

nước cần có chính sách xóa đói giảm nghèo, giúp đỡ gia đình tích cực thực hiện việc
chuyển đổi cơ cấu kinh tế hộ gia đình, tạo việc làm và chuyển dịch lao động nông
nghiệp sang các ngành nghề khác, áp dụng những tiến bộ khoa học công nghệ mới,

12


giảm bớt sự nặng nhọc của lao động thủ công bằng máy móc, đặc biệt là giảm lao
động nặng nhọc cho phụ nữ và trẻ em.
Hai là, xây dựng gia đình bình đẳng. Bầu khơng khí dân chủ, quyền bình đẳng
về các mối quan hệ giữa các thành viên, giữa các thế hệ... ngày càng được tôn trọng và
đề cao.
Đổi mới nội dung, phương pháp giáo dục gia đình đối với thế hệ trẻ
Về phương pháp giáo dục: Việc giáo dục con cái khơng thể chỉ bằng lời nói mà
phải bằng những công việc cụ thể, mọi hành vi, thái độ, lối sống của người lớn có tác
động trực tiếp tới việc hình thành, phát triển nhân cách của trẻ. Cách giáo dục bằng
phương pháp hành chính bắt trẻ phục tùng mệnh lệnh của ông bà, cha mẹ, cần thay
bằng phương pháp định hướng, khích lệ. Bởi trong hồn cảnh như vậy, lòng tự trọng
của trẻ được đề cao, một khi cha mẹ định hướng trong học tập và rèn luyện để trẻ thấy
mình phải tự làm và bắt đầu làm từ đầu... Bởi việc giáo dục nghiêng về sự định hướng
là để con cái tự nhìn nhận, phân biệt đúng sai và tự điều chỉnh, phát huy tính chủ động
và sáng tạo của chúng. Không quá nghiêm khắc, khắt khe, song cũng không nuông
chiều, dễ dãi quá mức, gây cho chúng tâm lý hưởng thụ vật chất, ít quan tâm đến cha
mẹ và người xung quanh. Muốn giáo dục có kết quả, người làm cha mẹ phải tìm thấy
ở con em mình những đức tính tốt đẹp, dù đây chỉ mới là mầm mống, để khích lệ, giúp
đỡ trẻ phát triển, trên cơ sở đó mà hạn chế cái xấu.
Về nội dung giáo dục, bên cạnh các giá trị truyền thống của gia đình Việt Nam
như: thái độ, cử chỉ, ăn nói lễ phép, tơn kính người trên, hiếu thảo…cịn cần có sự giáo
dục cơ bản từ gia đình các lĩnh vực như: văn hóa lao động, văn hóa sinh hoạt, văn hóa
tiêu dùng, văn hóa giao tiếp … nếu trước đây và ngay cả một bộ phận gia đình hiện

nay, cha mẹ giáo dục con cái phải ngoan ngoãn, vâng lời theo nguyên tắc trên bảo,
dưới nghe hay tuân theo sự áp đặt một chiều, thì ngày nay sự ngoan ngỗn, vâng lời
phải được xem xét, nhìn nhận từ hai phía chủ thể giáo dục (cha mẹ) và khách thể giáo
dục (con cái). Đạo đức ngày nay không chỉ là sự ngoan ngỗn, vâng lời, mà cịn phải
là tự ý thức về trách nhiệm, nghĩa vụ và phải ln phấn đấu vượt qua khó khăn để học
13


tập, có nghề nghiệp chun mơn, biết sống tự lập, năng động và sáng tạo... Do đó, cha
mẹ phải giáo dục con cái học tập để đáp ứng sự phát triển xã hội với nhiều ngành nghề
mới xuất hiện.
Về hình thức giáo dục, việc giáo dục trong gia đình có thể được hỗ trợ bằng
việc trang trí khơng gian gia đình, khơng gian riêng của trẻ để rèn luyện tính tự lập cho
trẻ.
Về phía phụ huynh, phụ huynh cần hiểu rõ các khía cạnh của cuộc sống xã hội
hiện đại. Điều quan trọng hơn là cần xây dựng gia đình thực sự là tổ ấm cho các em
lớn khôn và trưởng thành, không vi phạm pháp luật, không mắc tệ nạn xã hội; đảm
bảo đời sống kinh tế gia đình. Bên cạnh đó, tăng cường sự phối hợp giữa nhà trường
và gia đình, giữa nhà trường và có cơ quan tổ chức khác trong việc quản lý, giáo dục
các em. Các cụ ta ngày xưa coi việc thường xuyên gần gũi tâm sự với con cái là rất
quan trọng. Nó sẽ giúp cha mẹ và con cái hiểu nhau hơn, cha mẹ dễ định hướng cho
con cái, giúp chúng sửa chữa sai lầm một cách kịp thời. Tuy nhiên, việc giáo dục con
cái trong gia đình chỉ đạt được hiệu quả khi chính các bậc cha mẹ cũng phải thực sự là
những tấm gương sáng cho con cái học tập. Những điều tra của chúng tơi cho thấy, có
khoảng 75% số người được hỏi khẳng định rằng muốn giáo dục tốt các con, bản thân
các bậc cha mẹ phải gương mẫu. Qua đó, các bậc cha mẹ phải khơng ngừng học hỏi,
tìm hiểu những tri thức khoa học, xã hội, trang bị và nâng cao kiến thức, khả năng
chăm sóc, dạy dỗ và giáo dục con cái, để không chỉ góp phần tăng cường, nâng cao và
phát huy được vai trị giáo dục gia đình, nhất là với các bậc cha mẹ ở khu vực nơng
thơn, miền núi mà cịn khắc phục phương pháp giáo dục chỉ dựa trên kinh nghiệm và

cảm tính
Tăng cường sự lãnh đạo, quản lý và tổ chức thực hiện của các cơ quan nhà
nước, các đồn thể, các tổ chức xã hội về cơng tác bảo vệ và chăm sóc, giáo dục trẻ
em.
6. Rút ra bài học cho bản thân

14


Với vai trò là một thế hệ trẻ đã và đang được nhận sự giáo dục của gia đình, và
sẽ là bậc phụ huynh mai sau có vai trị giáo dục thế hệ trẻ, em tự rút ra cho mình một
số nhận thức và phương hướng như sau:
i) Giữ gìn những thói quen đẹp, truyền thống của gia đình, nói rộng hơn

là tình thương gia đình đặc trưng của văn hóa phương Đơng: hiếu thảo ơng bà,
hiếu kính cha mẹ, đùm bọc anh chị em, chăm sóc và yêu thương lẫn nhau…
ii) Xây dựng bản thân mỗi ngày với vai trò là thế hệ trẻ. Cần phải phát

triển việc giáo dục học tập về đạo đức và văn hóa, dù trong bất kì hồn cảnh và
phương diện nào thì việc tự phát triển bản thân ln có lợi. Với tư cách là thế hệ
trẻ, việc tự phát triển bản thân giúp chúng ta có nhiều cơ hội tìm kiếm việc làm,
tạo ra tài sản, qua đó có thể chu cấp đầy đủ về vật chất và tinh thần cho gia
đình. Nếu với tư cách là phụ huynh, việc có kiến thức cũng sẽ giúp con cái có
khả năng phát triển, con được sống trong bầu khơng khí tìm hiểu tri thức mỗi
ngày.
iii) Sẽ luôn cố gắng thu xếp dành thời gian cho gia đình, cùng nhau chia

sẻ những kiến thức, những kỷ niệm, qua đó tăng cường được sự gắn bó và kết
hợp giữa các thành viên trong gia đình, dễ dàng hơn trong việc sẻ chia giáo dục.
iv) Tha thứ cho cha mẹ: Có thể việc lớn lên trong một mơi trường gia


đình đầy sự bất bình đẳng, thiếu sự cảm thông sẽ là một trở ngại lớn trong q
trình trưởng thành. Nhưng có một điều cần phải biết đó là, ba mẹ của chúng ta
cũng đã từng nhận một nền giáo dục giống như vậy từ ông bà. Và ba mẹ chúng
ta đâ không may mắn nhận thức kịp sự quan trọng của giáo dục gia đình, dẫn
đến hậu quả chúng ta có tình u thương nhưng khơng có sự thơng cảm, q
nhiều kì vọng, miệt thị và bị dè bỉu, chê bai.
v) Điều chúng ta cần làm bây giờ đó là cần cố gắng xây dựng một gia

đình tồn diện khi chúng ta trở thành bậc cha mẹ, khơng kế thừa những thói
quen – quan niệm cũ mà cần phát huy những tư tưởng mới về giáo dục trong gia
15


đình. Và đó là một q trình lâu dài về hệ tư tưởng, cần tích lũy kiến thức và
kinh nghiệm mỗi ngày trong suốt quá trình học tập và rèn luyện.

KẾT LUẬN
Trong bối cảnh gia đình Việt Nam hiện nay đang phải đương đầu với một loạt
thách thức khi chuyển từ mơ hình gia đình truyền thống sang gia đình hiện đại, để tồn
tại và phát triển, không chỉ mỗi gia đình tìm cách thích ứng với những điều kiện mới
mà mỗi thành viên trong gia đình cũng phải tự điều chỉnh các mối quan hệ trong gia
đình.
Để gia đình ln là điểm tựa, là cội nguồn của tình cảm, là mơi trường quan
trọng hình thành nhân cách và giáo dục nếp sống cho trẻ thì cần tăng cường vai trị của
gia đình với ý nghĩa là rào cản vi phạm pháp luật của mỗi cá nhân. Công tác giáo dục
trong gia đình được thể hiện cụ thể bằng việc lựa chọn phương pháp giáo dục đúng,
tăng cường trách nhiệm trong quản lý giáo dục con cái, kiểm tra các hoạt động hằng
ngày của các con để kịp thời uốn nắn, sửa chữa những lệch lạc trong suy nghĩ và hành
động, không để các em bị lợi dụng, lôi kéo vào con đường tiêu cực là việc làm cần

thiết.
Chính vì thế, quan tâm củng cố, ổn định và xây dựng gia đình, chính là để xóa
bỏ những khó khăn và thách thức đang làm suy yếu gia đình, suy yếu động lực của sự
phát triển. Giải quyết tốt các vấn đề của gia đình, là giải quyết tốt các vấn đề xã hội, là
cơ sở, điều kiện để mỗi gia đình - một tế bào bền vững và cũng là "tổ ấm" thật sự của
mỗi thành viên và là môi trường chắc chắn tạo nguồn nhân lực có chất lượng cho đất
nước để có được những đóng góp, nỗ lực cao nhất cho mục tiêu "Dân giàu, nước
mạnh, dân chủ, cơng bằng, văn minh".
Bài tiểu luận cịn nhiều hạn chế về kiến thức, quá trình tìm kiếm tài liệu cũng
như hiểu biết thực tiễn của bản thân còn nhiều hạn chế nên vẫn cịn nhiều thiết sót
trong bài tiểu luận. Em hi vọng sẽ nhận được lời phê bình cũng như góp ý của cơ. Em
xin cảm ơn!
16


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. GS. TS Hồng Chí Bảo (Chủ biên), GS. TS Dương Xuân Ngọc và PGS. TS Đỗ Thị

Thạch (Đồng chủ biên). Giáo trình chủ nghĩa xã hội khoa học (Dành cho bậc đại học
không chuyên lý luận chính trị. Bộ GD&DT. Hà Nội 2019.
2. Friedrich Engels, Bách khoa toàn thư Wikipedia
3. Tư tưởng của R. Tagore về xây dựng con người
4. Lê Ngọc Văn, Gia đình và biến đổi gia đình ở Việt Nam, Nxb. KHXH, H. 2012, tr.

238.
5. Tổng cục Thống kê
6. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb

Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006, tr.172-173
7. Phan Thị Luyện, “Nhận thức và ý thức pháp luật của cá nhân và cồng đồng về vấn


đề bạo lực đối với phụ nữ và trẻ em” (bài tham luận trong hội thảo: “Phòng chống bạo
lực đối với phụ nữ và trẻ em”, 2015



×