Tải bản đầy đủ (.docx) (20 trang)

Tư tưởng Hồ Chí Minh về xã hội học tập. Vận dụng ở Việt Nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (141.52 KB, 20 trang )

KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ

TIỂU LUẬN MƠN
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

Tên đề tài

TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ XÃ HỘI HỌC
TẬP. VẬN DỤNG Ở VIỆT NAM HIỆN NAY.
LIÊN HỆ BẢN THÂN.

Hồ Chí Minh, tháng 8 năm 2021


MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Xã hội học tập theo tư tưởng Hồ Chí Minh
1.1 Khái niệm
1.2 Xã hội học tập là xu thế tất yếu trong điều kiện phát triển nền kinh tế
tri thức
1.3 Bản chất của xã hội học tập: Ai phải học tập suốt đời?
1.4 Nhiệm vụ của xã hội học tập: Cách học tập suốt đời
2. Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh vào việc xây dựng xã hội học tập ở Việt
Nam
3. Liên hệ bản thân
NỘI DUNG
KẾT LUẬN


PHẦN MỞ ĐẦU
Chủ tịch Hồ Chí Minh là vị lãnh tụ vĩ đại của dân tộc Việt Nam, người bạn thân thiết


của phong trào hịa bình, dân chủ và tiến bộ thế giới. Trong di sản quý báu mà Người để lại,
tư tưởng và tấm gương học tập suốt đời xây dựng một xã hội học tập của Chủ tịch Hồ Chí
Minh có ý nghĩa chiến lược và giá trị nhân văn sâu sắc.
Trong thời đại ngày nay, vấn đề học tập suốt đời, xây dựng và phát triển xã hội học
tập đang trở thành xu thế lớn, là yêu cầu tất yếu của mỗi quốc gia trong nền kinh tế tri thức
và hội nhập toàn cầu. Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh là tấm gương sáng ngời về tự học,
học thường xuyên, học suốt đời, xây dựng một xã hội học tập, Bác đề ra quan điểm học tập
suốt đời, học thường xuyên để không bị lùi so với yêu cầu công việc, yêu cầu xã hội. Người
chủ trương xây dựng một nền giáo dục cho mọi người, khơng phân biệt tuổi tác, nghề
nghiệp, với mục đích, nội dung và phương pháp phong phú, linh hoạt.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về xã hội học tập là di sản vô giá, tạo động cơ thôi thúc mọi
người ham học và học suốt đời. Trong nền kinh tế tri thức và hội nhập toàn cầu hiện nay, tư
tưởng về xã hội học tập và học tập suốt đời của Chủ tịch Hồ Chí Minh càng trở nên đúng
đắn và gắn liền với giá trị thời đại. Việc học tập suốt đời sẽ góp phần tạo ra sự bình đẳng cho
mọi người, làm cho mọi người đều có cơ hội học tập phù hợp với điều kiện và nhu cầu của
mình. Vận dụng quan điểm của Người sẽ giúp chúng ta có quan điểm, phương pháp học tập
đúng đắn, thiết thực, góp phần xây dựng một xã hội học tập phát triển và đạt hiệu quả cao.
Bài tiểu luận này bàn về tư tưởng của Hồ Chí Minh về xã hội học, tuy nhiên bài tiểu
luận còn nhiều hạn chế về kiến thức, quá trình tìm kiếm tài liệu cũng như hiểu biết thực tiễn
của bản thân còn nhiều hạn chế nên vẫn cịn nhiều thiết sót trong bài tiểu luận. Em hi vọng
sẽ nhận được lời phê bình cũng như góp ý của thầy. Em xin cảm ơn!

3


NỘI DUNG
1. XÃ HỘI HỌC TẬP THEO TƯ TƯỞNG CỦA HỒ CHÍ MINH
1.1 Khái niệm

Xã hội học tập (XHHT) là một xã hội mà ở đó ai cũng được học tập, học tập khơng

ngừng, học tập suốt đời trong đó học tập trở thành cơng việc của tồn xã hội. [1]
1.2 Xã hội học tập là xu thế tất yếu trong điều kiện phát triển nền kinh tế tri thức:

Sau đại chiến thế giới lần thứ II, rất nhiều nước phải đẩy nhanh sự phát triển nền kinh
tế để mau chóng hàn gắn những vết thương của đất nước, phục hồi nền kinh tế đã bị chiến
tranh tàn phá. Ở một số nước, nhất là những nước châu Âu, công nghiệp đã được vực dậy và
đã có những bước phát triển lớn lao. Vào khoảng phần tư cuối thế kỉ XX, nhờ những phát
minh và những bước đột phá khoa học, có những nước đã vượt qua tình trạng kém phát
triển, nâng cao mức sống với nhịp độ tuy khác nhau, nhưng đều là kết quả tốt đẹp.
Khoa học công nghệ đang phát triển như vũ bão, do đó xã hội cũng liên tục biến đổi.
Khoảng 30 năm đổ lại đây, lượng kiến thức nhân loại thu được về cho khoa học công nghệ
bằng tổng số kiến thức trong hai ngàn năm trước đó. Cách đây khơng lâu nhiều người vẫn
nói: cứ khoảng 7 năm, vốn kiến thức của nhân loại lại tăng gấp đôi, nhưng bây giờ, “7 năm”
đã trở nên lạc hậu và phải thay bằng “18 tháng”. Trong khi đó thì thời gian học khơng tăng,
điều đó đòi hỏi mọi người cần phải liên tục bồi dưỡng kiến thức, nếu không sẽ bị tụt hậu. Sự
không cập nhật tri thức mới trong q trình lão hóa tri thức tăng tốc, nhất là sự bất cập với
công nghệ mới – công nghệ cao là yếu tố hàng đầu của sự phân hóa phát triển – kém phát
triển.
Trong những năm cuối thế kỷ XX đầu thế kỷ XXI, cuộc cách mạng khoa học và công
nghệ đã mang lại những thành tựu vĩ đại, tạo điều kiện để từng bước hình thành một nền
kinh tế mới: Kinh tế tri thức (Knowledge Economy). Sự phân hóa giữa các nước phát triển
và các nước chậm phát triển càng gia tăng. Tại diễn đàn kinh tế OECD năm 2001, báo cáo
của Ban thư ký OECD đã nhận định, những quốc gia có chính sách phát triển kinh tế tri thức
đã tăng trưởng rất nhanh, còn những quốc gia khác đã tụt hậu ngày càng rõ rệt hơn. Sự
không cập nhật tri thức mới trong q trình lão hóa tri thức tăng tốc, nhất là sự bất cập với
4


công nghệ mới, công nghệ cao là yếu tố hàng đầu của sự phân hóa ngày càng sâu sắc giữa
các nước phát triển và các nước kém phát triển.


[1]

Để giải quyết bài tốn phát triển, nhân loại

phải tính đến yếu tố con người, năng lực sáng tạo tri thức mới và từ đó phải tuy lại về vấn đề
giáo dục. Trong bài viết “Giáo dục – sự không tưởng cần thiết”, Jacques Delors, cựu chủ tịch
Hội đồng châu Âu đã viết: “Đối mặt với nhiều thách thức mà tương lai sắp sẵn, nhân loại
xem giáo dục như một biện pháp cần thiết để nhằm thực hiện được những lý tưởng hịa bình,
tự do và cơng bằng xã hội… Giáo dục có vai trị căn bản trong sự phát triển cá nhân và xã
hội. Giáo dục không phải là phương thuốc thần kỳ và cũng không phải là một công thức kỳ
diệu để mở cánh cửa đi vào một thế giới trong đó mọi lý tưởng đều có thể thực hiện được,
mà chỉ là một trong số các phương diện chính sẵn có thúc đẩy hình thái phát triển nhân loại
sâu sắc hơn, hài hịa hơn và do đó, làm giảm bớt tình trạng nghèo khổ, sự bài trừ, sự ngu dốt,
sự áp bức và chiến tranh” [2]
Theo quan điểm của GS.TS Phạm Tất Dong, nguyên Phó Trưởng Ban Khoa giáo
Trung ương, nguyên Phó Viện trưởng Viện Khoa học Giáo dục Việt Nam, hiện là Phó Chủ
tịch Trung ương Hội Khuyến học Việt Nam khi bàn về XHHT, trước tình hình của một thế
giới đầy biến động và bất định, giáo dục phải giúp cho con người có đủ khả năng vượt qua
những thách thức, giải quyết được những mâu thuẫn nảy sinh trong thời đại. Đặc biệt là mâu
thuẫn giữa sự phát triển phi thường về tri thức với năng lực có hạn của con người trong tiếp
thu tri thức mới. Muốn vậy, phải tính đến sự thay đổi mơ hình giáo dục, phương thức giáo
dục và nhất là giúp cho con người được học hành thường xuyên.[1]
Vì sao phải học suốt đời?
Thật ra, không phải chỉ đến thời đại khoa học công nghệ phát triển vượt bậc, thế giới
mới nói về việc học tập suốt đời. Từ xa xưa, các bậc hiền triết đã từng nói đến việc học tập
suốt đời là lẽ sống của mọi người.
Đức Khổng Tử đã nói về việc học rằng: “Đem những điều nghe biết lặng lẽ ghi nhớ
trong lịng, học khơng biết chán, dạy không biết mỏi” (Mặc nhi, chế chi, học như bất yếm,
hối nhân bất nguyện) và “Dạy cho tất cả mọi người khơng có sự phân biệt” (Hữu giáo vơ

loại).
5


V. I. Lênin, vị lãnh tụ vĩ đại của cách mạng vô sản thế giới luôn luôn nêu cao một lẽ
sống “Học, học nữa, học mãi”.
Khi chủ trương xây dựng nước Việt Nam mới, Chủ tịch Hồ Chí Minh từng chỉ rõ,
trong xây dựng nước nhà địi hỏi phải có nguồn nhân lực dồi dào và có những nhân tài. Do
đó, người cổ vũ tồn dân: “chúng ta phải học và hoạt động cách mạng suốt đời. Cịn sống thì
cịn phải học” [3]. Người cịn nhấn mạnh: “khơng học thì khơng theo kịp, cơng việc nó sẽ gạt
mình lại phía sau” [4], mọi người ai cũng cần phải học và học tập suốt đời vì “thế giới tiến bộ
khơng ngừng, ai không học là lùi” [5]. Để chống nạn mù chữ cho toàn dân, Người yêu cầu từ
trẻ đến già, dù là đàn ông hay đàn bà, dù làm công việc gì thì ai cũng phải đi học, người biết
chữ dạy cho người chưa biết chữ, “Vì lợi ích 10 năm thì phải trồng cây. Vì lợi ích trăm năm
thì phải trồng người” [6].
Thêm vào đó, tri thức nhân loại có khối lượng khổng lồ, ln ln phát triển và
khơng ngừng đổi mới. Do đó, những kiến thức ban đầu, kỹ năng và tay nghề mà người học
tiếp thu được trong nhà trường sẽ trở nên lỗi thời nếu không thường xuyên, liên tục được đào
tạo, tự đào tạo và đào tạo lại thì khơng thể đáp ứng, thích ứng với nhu cầu xã hội mới.
1.3 Bản chất của xã hội học tập: Ai phải học suốt đời?

Về bản chất, XHHT là một xã hội mà trong đó mọi người đều học tập, học thường
xuyên, học suốt đời và mọi lực lượng xã hội đều có trách nhiệm tạo cơ hội học tập cho mọi
người dân.
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, để xây dựng một nền giáo dục lâu dài thì ai cũng phải
tham gia học tâp, phải xác định rõ việc học cho từng đối tượng một cách thiết thực. Ai cũng
phải có nghĩa vụ học tập vì một đất nước, vì một thế giới phát triển, học hỏi trong những
thời gian và không cần thiết, không phân biệt tuổi tác, giới tính, nghề nghiệp, trình độ học
vấn… ai cũng có thể làm trị và ai cũng có thể làm thầy để mỗi người được đi vào nhiều
dạng khác nhau của tri thức, để tiếp thu những tri thức mới mà nhân loại sáng tạo ra, và cũng

là để tự mình góp phần tạo ra những tri thức mới
Đối với học sinh tiểu học thì học yêu Tổ quốc, yêu đồng bào, yêu lao động, yêu khoa
học, coi trọng của cơng; học sinh trung học thì học những tri thức phổ thông “chắc chắn,
6


thiết thực, thích hợp với nhu cầu và tiền đồ xây dựng nước nhà”, bỏ những phần không cần
thiết; với sinh viên thì “kết hợp lý luận với thực hành, ra sức học tập lý luận và khoa học tiên
tiến của các nước bạn kết hợp với thực tiễn nước nhà...”. Từ đó, giúp học sinh biết phân biệt
phải trái, đúng sai để ủng hộ cái đúng, chống lại những gì trái với quyền lợi của Tổ quốc và
lợi ích của nhân dân, trái với khoa học, trái với đạo đức…
Học sinh trung học thì cần đảm bảo cho học trị những tri thức phổ thơng chắc chắn,
thiết thực với nhu cầu và tiền đồ xây dựng nước nhà, bỏ những phần nào khơng thực tế cho
đời sống
Đại học thì cần kết hợp lý luận khoa học với thực hành, ra sức học tập lý luận và khoa
học tiên tiến của các nước, kết hợp với thực tiễn của nước ta, để thực hiện giúp ích cho cơng
cuộc nước nhà
Đối với người lớn, cần học những gì phù hợp với trình độ, việc làm và nhu cầu của
từng người; chẳng hạn như: Cán bộ cơng đồn phải học khoa học, cịn người quản lý xí
nghiệp thì học quản lý xí nghiệp; cán bộ văn hóa thì học nghệ thuật, nghiệp vụ, văn hóa;
“Tất cả các giáo viên chớ nên cho học thế này đã là đủ, mà phải tiếp tục học tập thêm để tiến
bộ mãi” [7]…
Người còn cho rằng, trong cuộc sống có rất nhiều vấn đề cần quan tâm, nếu thấy cái
gì học cái ấy thì chúng ta chỉ thu được một mớ kiến thức hỗn tạp, không có tác dụng với
chính người học và cũng khơng đủ thời gian để học, hiểu hết tất cả. Do đó, ngồi việc học ở
nhà trường theo chương trình quy định, chúng ta phải căn cứ vào trình độ nhận thức, cơng
việc đang đảm nhiệm và vị trí của bản thân để lựa chọn những điều cơ bản, thiết thực, những
vấn đề cần cho lĩnh vực công tác đang đảm nhiệm hoặc nhu cầu của mình để học. Và Người
động viên: “Bác thường nghe nói có đồng chí 40 tuổi đã cho mình là già nên ít chịu khó học
tập. Nghĩ như vậy là không đúng, 40 tuổi chưa phải là già. Bác đã 76 tuổi nhưng vẫn cố gắng

học thêm. Chúng ta phải học và hoạt động cách mạng suốt đời. Cịn sống thì cịn phải học,
cịn phải hoạt động cách mạng” [8]
1.4 Nhiệm vụ của xã hội học tập: Cách học tập suốt đời

Thứ nhất, “lấy tự học làm cốt”
7


Đối với Chủ tịch Hồ Chí Minh vấn đề tự học, học tập suốt đời có vai trị đặc biệt quan
trọng, là một trong những nhân tố quyết định tạo nên trí tuệ và nhân cách của mỗi con người.
Trong tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc” (1947), Bác viết: “Lấy tự học làm cốt” [9]. Người dạy:
“Đường đời là một chiếc thang khơng có nấc chót, học tập là một quyển vở khơng có trang
cuối cùng”.
Tự học là lao động khoa học, vất vả hơn rất nhiều so với q trình học có giảng viên,
bởi người học phải độc lập xây dựng kế hoạch, phương pháp học tập, tự tìm hiểu, phân tích
những kiến thức trong sách vở, tài liệu để tiến tới làm chủ tri thức. Theo Hồ Chí Minh, tự
học là tự mình quản lý việc học tập, lĩnh hội tri thức của bản thân. Người học tự vạch ra kế
hoạch học tập cho chính mình, kiên trì và nhẫn nại thực hiện kế hoạch đó một cách bài bản,
sau đó người học tự kiểm tra đánh giá kết quả đã đạt được, rút kinh nghiệm cho bản thân
mình.
Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng học hỏi là một việc phải tiếp tục suốt đời, do đó cần
quan tâm đến phương pháp học tập, trong đó đặc biệt phải coi trọng phương pháp tự học,
“học ở trường, học ở sách vở, học lẫn nhau và học ở nhân dân”
mình,... học ở giai cấp cơng nhân”
Cịn sống thì còn phải học”

[7]

[6]


[10],

“học trong đời sống của

, “chúng ta phải học và hoạt động cách mạng suốt đời.

. Người dạy: “Học tập ở trường của đồn thể khơng phải như

các trường lối cũ, khơng phải có thầy thì học, thầy khơng đến thì đùa. Phải biết tự động học
tập”. Mỗi người cần tranh thủ sự giúp đỡ, hướng dẫn chỉ bảo của thầy cô, bạn bè, đồng
nghiệp và thực hiện phương châm học ở mọi lúc, mọi nơi, học trong khi giao tiếp, trong
công việc hằng ngày, trong việc lớn cũng như việc nhỏ, trong kinh nghiệm thành công cũng
như thất bại và học trong công tác vận động quần chúng.
Trong lý lịch tự khai tại Đảng Cộng sản Pháp cũng như tại một số đại hội, hội nghị,
Bác thường khiêm tốn thì ở phần trình độ học vấn là: tự học. Hay trong bài nói chuyện tại
hội nghị chuyên đề sinh viên quốc tế họp tại Việt Nam ngày 1/9/1961, Bác đã tâm sự: “Về
văn hóa tơi chỉ học hết tiểu học, về hiểu biết phổ thông: 17 tuổi tôi mới thấy ngọn đèn điện
lần đầu tiên, 20 tuổi mới nghe radio lần đầu”
Nhưng chúng ta ai cũng biết, Người có một trình độ học vấn rộng lớn, un bác mà
cả thế giới phải khâm phục và thừa nhận. Nhà nghiên cứu Vasiliep đã viết trong tác phẩm
8


“Về cách mạng Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh”: “Hiếm có chính khách nào của thế kỉ
XX có thể sánh được với Hồ Chí Minh về trình độ học vấn, tầm hiểu biết rộng lớn và sự
thông minh trong cuộc đời…”. Đây hồn tồn khơng phải suy tơn thái quá mà qua các tài
liệu lịch sử cho thấy. Người đã miệt mài học tập của cuộc đời, nói đúng hơn là không ngừng
tự học.
Thứ hai, học mọi lúc, mọi nơi
Nhiệm vụ trọng tâm của xã hội học tập là làm cho mọi người từ trẻ đến già đều thấy

cần phải học, và học suốt đời, xem học tập là một nhu cầu của cuộc sống, như cơm ăn, như
áo mặc, học ở mọi nơi (tại trường, tại nơi làm việc, tại nhà…), mọi lúc, học bằng nhiều cách:
trên lớp, học từ xa qua phát thanh, truyền hình, học trên máy tính, học qua internet, hội nghị,
trị chơi..
Chủ tịch Hồ Chí Minh từng chỉ rõ: “Học ở đâu? Học ở trường, học ở sách vở, học lẫn
nhau và học nhân dân, khơng học nhân dân là một thiếu sót rất lớn”

[5].

Chính việc thơng qua

học tập, tiếp xúc với nhân dân mà cán bộ, đảng viên có điều kiện gần gũi, nắm được tâm tư,
nguyện vọng của nhân dân, từ đó tham mưu, đề xuất tiếp tục bổ sung, sửa đổi, hồn thiện
đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước đúng đắn, phù hợp với nguyện vọng
của nhân dân.
Theo Người, cuộc sống là một trường học thực tế sinh động, là nơi để “thực hành”
những điều đã học. Học tập suốt đời là mỗi ngày phải học hỏi thêm được những điều mới
mẻ; học đến đâu, luyện tập và thực hành đến đó. Trong lao động, làm việc là q trình tự học
tập, tích lũy, bổ sung kinh nghiệm, đúc kết kiến thức từ thực tiễn, và phải nghiên cứu kinh
nghiệm cũ để giúp cho thực hành mới, lại đem thực hành mới để phát triển kinh nghiệm cũ
làm cho nó đầy đủ, dồi dào thêm. Người cịn nhắc nhở cán bộ ở các cơ quan “mỗi ngày ít
nhất phải học tập một tiếng đồng hồ”

[4]

và xem việc cán bộ, đảng viên lấy lý do vì bận việc

mà xao nhãng chuyện học tập là “một khuyết điểm rất to” [4].
Theo Hồ Chí Minh, học tập là một dịng chảy liên tục, phát triển không ngừng, người
học không được để cho nó gián đoạn, khơng ngắt qng, dù cơng việc cuộc sống có bộn bề

đến đâu. Người căn dặn chúng ta trong mọi hoạt động cách mạng đều có thể và đều cần phải
9


học tập, “cịn sống thì cịn phải học”. Và chính Người là một tấm gương lớn về tinh thần học
tập thường xuyên mọi lúc mọi nơi trong suốt quá trình sống và hoạt động cách mạng. Trong
bất kỳ hoàn cảnh nào, dù sống trong lao tù, nơi con người chỉ mong được tồn tại thì Người
vẫn bằng nghị lực của mình tự học tập để nâng cao tri thức, Người tự bồi dưỡng, từ ngoại
ngữ, đến các tri thức văn hóa, khoa học. Đi đến đâu, Chủ tịch Hồ Chí Minh đều học và sử
dụng được ngoại ngữ, thông hiểu văn hóa để hịa nhập và hoạt động. Khơng được đào tạo
một cách bài bản, chính thống qua trường lớp, cấp học, nhưng những tri thức Người có được
hết sức sâu sắc và tồn diện. Người cịn căn dặn cán bộ phải học ở trường, học ở sách vở,
học lẫn nhau và học ở nhân dân.
Chính nhờ học qua sách báo, qua bè bạn, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tiếp cận với chủ
nghĩa Mác – Lênin. Đó là vào năm 1920, ở Paris, Nguyễn Ái Quốc, được một người bạn cho
xem “Luận cương Lênin về vấn đề dân tộc và thuộc địa” đăng trên báo Nhân đạo, đã giác
ngộ: “Đây là cái cần thiết cho chúng ta, đây là con đường giải phóng chúng ta!”. Từ đó,
Người tin theo Lê-nin, tin theo Quốc tế thứ Ba, vì đã chỉ ra cho Người con đường tranh đấu
cho độc lập tự do của dân tộc mình.
Học như thế nào mới tốt?
Để việc tự học đạt kết quả tốt, Người yêu cầu phải có kế họach sắp xếp thời gian một
cách chặt chẽ, phải bền bỉ, kiên trì thực hiện kế họach đến cùng, không lùi bước trước mọi
trở ngại, khi học đến đâu thì ra sức thực hành đến đó.
Chủ tịch Hồ Chí Minh lưu ý mỗi người phải tự học tập với thái độ nghiêm túc, hết
sức khiêm tốn, thật thà, biết đến đâu nói đến đó, khơng được tự cho mình là đã biết đủ rồi,
biết hết rồi. Bác nghiêm khắc phê phán tệ giấu dốt, lười biếng học tập, tự cao, tự đại, cho
mình là giỏi nhất thiên hạ. Người nói: “Cái gì biết thì nói biết, khơng biết thì nói khơng biết,
kiêu ngạo, tự phụ, tự mãn là kẻ thù số một của học tập”. Trong khi học “phải nêu cao tác
phong độc lập suy nghĩ và tự do tư tưởng. Đọc tài liệu phải đào sâu hiểu kỹ, không tin một
cách mù quáng từng câu một trong sách, có vấn đề chưa thơng suốt thì mạnh dạn đề ra và

thảo luận cho vỡ lẽ. Đối với bất cứ vấn đề gì đều phải đặt câu hỏi “vì sao”, đều phải suy nghĩ
kỹ càng xem có hợp với thực tế không, tuyệt đối không nên nhắm mắt tuân theo sách vở một
cách xuôi chiều. Phải suy nghĩ chín chắn”
10


2. Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh vào việc xây dụng xã hội học tập ở Việt Nam

Bước sang thế kỷ XXI trong điều kiện phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế tri thức
nhân loại, quá trình xây dựng, phát triển và hoàn thiện XHHT ở Việt Nam là yếu tố then chốt
để đảm bảo được việc học tập suốt đời của mọi người, có nghĩa là đảm bảo nhu cầu hoàn
thiện của từng thành viên trong cộng đồng với sự phát triển kinh tế và xã hội và sự bình
đẳng về giáo dục và đào tạo.
Ở Việt Nam, xây dựng XHHT vừa là một nhiệm vụ cấp bách, vừa là một yêu cầu
chiến lược lâu dài quyết định thành công của sự nghiệp CNH, HÐH đất nước, của quá trình
đưa nền kinh tế đất nước thành một nền kinh tế tri thức, đưa xã hội Việt Nam thành một xã
hội trí tuệ, hiện đại, hội nhập kinh tế thế giới. Trong quá trình thực hiện xã hội học tập ở Việt
Nam trong hoàn cảnh hội nhập quốc tế không chỉ xây dựng công dân Việt Nam thành cơng
dân tồn cầu mà phải gắn với việc tiếp thu những tinh hoa giáo dục, văn hóa của nhân loại,
đồng thời, đưa những giá trị của nền văn hiến, văn hóa, con người Việt Nam góp phần chung
vào văn minh nhân loại.
Ở thời kì đầu trong xây dựng đất nước, khái niệm “XHHT” lần đầu tiên được chính
thức đề cập tới trong Nghị quyết Đại hội 18 Tình người Khuyến học IX (4/2001)

[11]

. Mặc dù

Bác khơng nói tới XHHT, nhưng tư tưởng “Giáo dục cho mọi người” và “Mọi người cho
giáo dục” đã được thể hiện rất rõ qua các việc làm, qua các bài phát biểu, các bài nói chuyện

của Người.
Từ khi mới thành lập nước, Hồ Chủ tịch đã rất quan tâm đến việc học của dân chúng
và rất trăn trở khi phần lớn dân chúng còn mù chữ (95%). Ngay trong phiên họp đầu tiên
(ngày 3/9/1945), Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định “Một dân tộc dốt là một dân tộc yếu.
Vì vậy tơi đề nghị mở một chiến dịch để chống nạn mù chữ”. Người đặt ra 3 nhiệm vụ cách
mạng trước mắt của Chính Phủ là: “Chống nạn đói, nạn thất học, nạn ngoại xâm” và coi giặc
dốt cũng cần chống như chống giặc đói và giặc ngoại xâm. Tư tưởng “Giáo dục cho mọi
người” của Hồ Chủ tịch còn được thể hiện rất rõ khi Bác trả lời báo chí vào tháng 1/1946.
Bác nói “Tơi chỉ có một ham muốn, ham muốn tột bậc là làm sao cho nước ta được hoàn
toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ta ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng
được học hành”.
11


Đến nay, tận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng và Nhà nước ta đã đề ra chủ trương
giáo dục suốt đời. Nghị quyết Hội nghị lần thứ hai Ban Chấp hành Trung ương khóa VIII
nêu rõ, cần phát huy mạnh mẽ tinh thần tự học, bảo đảm thời gian tự học, tự nghiên cứu cho
mọi người, và đặt ra một yêu cầu: “Phát triển mạnh phong trào tự học, tự đào tạo thường
xuyên và rộng khắp trong toàn dân nhất là trong thanh niên”

[12]

. Bộ Chính trị cũng ban hành

Chỉ thị số 11-CT/TW ngày 13-4-2007 về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác
khuyến học, khuyến tài, xây dựng xã hội học tập, trong đó xác định: “Xây dựng xã hội học
tập là nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn dân, là mục tiêu cơ bản trong chiến lược chấn hưng và
phát triển giáo dục của nước ta”

[8]


. Gần đây là Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 4/11/2013

Hội nghị Trung ương 8 khóa XI về đổi mới căn bản, tồn diện giáo dục và đào tạo, trong đó
có nhiệm vụ là “Hoàn thiện hệ thống giáo dục quốc dân theo hướng hệ thống giáo dục mở,
học tập suốt đời và xây dựng xã hội học tập”

[10]

. Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc của

Đảng cũng nhiều lần nêu ra chủ trương chuyển dần mơ hình giáo dục hiện nay mơ hình giáo
dục mở - mơ hình xã hội học tập và tư tưởng Hồ Chí Minh về học tập suốt đời, nhằm nâng
cao dân trí, phát triển nguồn nhân lực, đào tạo nhân tài phục vụ công nghiệp hoá, hiện đại
hoá đất nước, nhất là trong bối cảnh nước ta hội nhập ngày càng sâu rộng vào nền kinh tế thế
giới...
Tìm hiểu về sự vận dụng tư tưởng xã hội học tập của Hồ Chí Minh ở Việt Nam, đất
nước chúng ta đã thực hiện đồng bộ bốn định hướng lớn sau đây:
Thứ nhất, chuyển từ nhà trường dạy kiến thức sang dạy tri thức. Để có tri thức và
năng lực, đương nhiên người học vẫn cần có kiến thức, nhưng có kiến thức mới là nửa
đường, từ kiến thức phải biến thành tri thức và năng lực mới là mục tiêu cuối cùng cần
hướng đến. Kiến thức chỉ như nguồn vật liệu xây dựng, còn tri thức và năng lực mới là khả
năng xây được ngôi nhà hồn thiện. Có nhiều vật liệu mà khơng biết xây nhà thì cũng vơ
nghĩa. Có người khá nhiều kiến thức sách vở, nhưng lại khơng có năng lực để giải quyết các
vấn đề liên quan. Vì vậy, từ lâu các nhà giáo dục học đã phải nêu phương châm học gắn với
hành. Do vậy, phải điều kiện để người học chuyển từ học để biết được sang học để hiểu và
làm được, biến kiến thức thành tri thức và năng lực của mình. Thay đổi tình trạng học sinh,
sinh viên nước ta hiện nay vẫn thiên về lý thuyết mà kém khả năng thực hành.
12



Thứ hai, chuyển từ nền giáo dục chính quy, chỉ chú ý đến việc học của trẻ em mà coi
nhẹ việc học tập của người lớn sang nền giáo dục chăm lo việc học tập cho mọi người thuộc
mọi lứa tuổi trong một XHHT. Nền giáo dục đó bao gồm: hệ thống giáo dục chính quy,
khơng chính quy và phi chính quy. Nhà nước phải tạo điều kiện cho người dân được đăng ký
học phi chính quy, học tập ngồi nhà trường, học bất cứ cái gì mà người dân cần.
Thứ ba, chuyển từ nền giáo dục thuần túy chạy theo bằng cấp sang nền giáo dục hiện
đại coi trọng việc hình thành và phát triển tài năng và nhân cách. Nhưng hạn chế, yếu kém
chủ yếu của giáo dục và đào tạo nước ta trong nhưng năm vưa qua đã được Bộ Giáo dục và
đào tạo chỉ rõ: Mục tiêu giáo dục toàn diện chưa được hiểu và thực hiện đúng; bệnh hình
thức, hư danh, chạy theo bằng cấp... Việt Nam có khoảng 86 triệu người, có hàng triệu trí
thức và hàng vạn học sinh, sinh viên. Đó là một lực lượng đông đảo đang đi tiên phong trong
học tập và nghiên cứu khoa học và công nghệ, là một nguồn sức mạnh cho đất nước phát
triển, vươn xa. Tuy nhiên, trong thực tế, theo nhiều nhà nghiên cứu khoa học xã hội, nhân
văn, sự học hôm nay dưới ảnh hưởng mặt trái của kinh tế thị trường, đang bộc lộ nhiều vấn
đề đáng quan ngại như học thực dụng, học chỉ để du học, để tìm việc tốt, kiếm tiền nhiều, vị
trí nhiều lợi ích…; sự học coi nhẹ về đạo đức, nhân văn (biểu hiện ở kết quả học và thi các
môn: văn học, lịch sử, địa lý…); về lý luận, phương pháp luận… Khơng ít người có tư tưởng
lệch lạc về sự học: nạn chạy bằng, mua điểm, những biểu hiện coi nhẹ đạo đức học đường,
thiếu tôn sư, trọng đạo… đang gây nên những bức xúc trong nhân dân. Những biểu hiện đó
ít nhiều làm băng hoại giá trị của sự học, đang bị cộng đồng xã hội lên án và dư luận đòi hỏi
phải có những chấn chỉnh về mục đích, chương trình, phương pháp dạy và học. Thực tế xã
hội hiện nay đã và đang chứng minh có rất nhiều người thành danh, giàu có hoặc ít nhất là
sống tốt nhờ có tay nghề giỏi, dù là những nghề đơn giản như may, làm tóc, trang điểm, sửa
xe máy, ơ tơ, đầu bếp,... chứ không nhất thiết phải tốn kém tiền bạc, công sức, tuổi trẻ có
được tấm bằng đại học nhưng thất nghiệp hoặc lại làm nghề tay chân như một người thợ
nghiệp dư. Do vậy, bên cạnh việc nỗ lực nâng cao tuyên truyền nhận thức cho người dân về
một nền giáo dục thực học khơng chạy theo bằng cấp, thì việc nâng cao chất lượng đào tạo
nghề, phân luồng, định hướng cải tổ chương trình đào tạo ngay từ cấp THPT sẽ là cách tư
vấn, hướng nghiệp hiệu quả, thiết thực nhất.

13


Thứ tư, chuyển từ khẩu hiệu “Giáo dục cho mọi người” sang khẩu hiệu “Cả nước là
một XHHT”. Nghĩa là chuyển từ cơ chế chỉ có nhà nước phải có trách nhiệm tạo điều kiện
học tập cho người dân sang cơ chế mọi người dân đều phải có trách nhiệm học tập, học tập
để khỏi bị thất nghiệp, bị xã hội đào thải, để không bị lạc hậu và theo kịp các bước tiến của
khoa học và cơng nghệ
Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam đặc biệt lưu ý nhiều vấn đề về việc xây dựng xã hội học
tập ở Việt Nam một cách tốt nhất. Cụ thể, cần phải làm sáng tỏ vấn đề: Xã hội học tập có
những đặc trưng gì; chỉ tiêu nào để đánh giá hay thế nào là học tập suốt đời; chủ thể, đối
tượng trong xã hội học tập… Nhận diện những khó khăn, cản trở, vướng mắc đối với việc
xây dựng xã hội học tập từ nguồn lực đến nhận thức, cơ chế, chính sách đánh giá trình độ
nhân lực…[13]
Báo cáo tại hội nghị, Thứ trưởng Bộ GDĐT Nguyễn Hữu Độ cho biết, năm 2013, Thủ
tướng Chính phủ phê duyệt Đề án “Xây dựng xã hội học tập giai đoạn 2012-2020”, sau 8
năm triển khai, Đề án đã được quan tâm chỉ đạo, tổ chức thực hiện nghiêm túc và đạt được
nhiều kết quả quan trọng.
Gần 300.000 người được xóa mù chữ
Mạng lưới cơ sở giáo dục thường xuyên được củng cố và phát triển nhanh chóng về
số lượng, đa dạng về mơ hình, hoạt động mang lại hiệu quả thiết thực đáp ứng tốt hơn nhu
cầu học tập của người dân. Hiện cả nước có 17.459 cơ sở giáo dục thường xuyên, trong đó
có 71 trung tâm giáo dục thường xuyên cấp tỉnh; 619 trung tâm Giáo dục nghề nghiệp - giáo
dục thường xuyên cấp huyện; 10.469 trung tâm học tập cộng đồng; 5.642 trung tâm ngoại
ngữ - tin học; 658 cơ sở, trung tâm thực hiện giáo dục kỹ năng sống.

[14]

Số lượng cơ sở giáo


dục thường xuyên tư thục tăng nhanh, đặc biệt là hệ thống trung tâm tin học, ngoại ngữ.
Điều này đã hỗ trợ tích cực trong việc nâng cao trình độ ngoại ngữ, tin học cho học sinh,
sinh viên, cán bộ công chức, giáo viên và mọi người dân theo hướng xã hội hoá.
Nhận thức của các cấp ủy, chính quyền, xã hội về tầm quan trọng của cơng tác
khuyến học, khuyến tài, xây dựng xã hội học tập có chuyển biến tích cực. Cơng tác phổ cập
giáo dục và xóa mù chữ được củng cố vững chắc. Trong giai đoạn, cả nước đã xóa mù chữ
14


cho trên 295.000 người, tỷ lệ người biết chữ trong độ tuổi từ 15 – 60 tuổi đạt 97,8%. 100%
các tỉnh, thành trên cả nước đạt chuẩn phổ cập giáo dục tiểu học mức độ 2 và đạt chuẩn phổ
cập giáo dục THCS mức độ 1. Công tác đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ chuyên môn cho cán
bộ, công chức, người lao động được tăng cường.
Xây dựng xã hội học tập số, công dân số
Bên cạnh những kết quả đạt được, q trình thực hiện Đề án cịn một số hạn chế.
Trong đó, nhận thức về đối với cơng tác khuyến học, khuyến tài, xây dựng xã hội học tập ở
một số địa phương, cơ quan, doanh nghiệp, trường học, đơn vị… còn chưa đúng mức. Các
hoạt động học tập suốt đời ở ngoài nhà trường chưa đa dạng, phong phú, điều kiện hoạt động
cịn nhiều khó khăn. Sự tham gia của các cơ sở giáo dục đại học trong công tác khuyến học,
khuyến tài, xây dựng xã hội học tập còn hạn chế...
Để đảm bảo đồng bộ, thống nhất với quan điểm chỉ đạo, chủ trương của Đảng, Nhà
nước về khuyến học, khuyến tài, xây dựng xã hội học tập, việc có một đề án mới trong giai
đoạn tới là vơ cùng cần thiết. Bộ GDĐT sẽ chủ trì xây dựng và đề xuất Thủ tướng Chính phủ
phê duyệt Đề án “Xây dựng xã hội học tập giai đoạn 2021-2030”.
Trong đó, đặt mục tiêu là đến năm 2030 mọi người dân đều có cơ hội bình đẳng trong
tiếp cận giáo dục suốt đời có chất lượng; góp phần thực hiện thành công khâu đột phá chiến
lược về phát triển nhanh nguồn nhân lực, nhất là nhân lực chất lượng cao trong bối cảnh đất
nước đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa trên nền tảng cuộc Cách mạng 4.0. Đồng thời,
cần tận dụng tối đa những thành tựu khoa học công nghệ hiện nay để tạo điều kiện cho một
công dân học tập suốt đời, cho một xã hội học tập được thực hiện nhanh hơn với nhiều hình

thức khác nhau như: Giáo dục từ xa, dạy học qua truyền hình…
Hệ thống trường đại học và các trường nghề hướng đến trang bị kiến thức căn bản,
cốt lõi, khả năng tự học, khả năng thích ứng; nhưng khơng có những chương trình trang bị
tất cả mọi thứ như doanh nghiệp mong muốn. Do đó, doanh nghiệp phải tham dự đào tạo
cùng, đào tạo tiếp; cùng các trường đào tạo nhân lực mang tính cá biệt cho nhu cầu riêng của
đơn vị, doanh nghiệp. Sức sống của một doanh nghiệp phụ thuộc vào việc doanh nghiệp đầu

15


tư cho việc học của nhân viên như thế nào”, Bộ trưởng Nguyễn Kim Sơn – Bọ trưởng Bộ
GD&DT phân tích.
3. Liên hệ bản thân

Đối với tuổi trẻ nói chung và sinh viên các trường đại học nói riêng, vận dụng tư
tưởng xã hội học tập là cách tốt nhất để giúp ta tiến bộ hơn trong học tập, mang lại một kết
quả học tập cao nhất có thể. Nếu chúng ta biết nỗ lực tự học, chúng ta sẽ thành công, sẽ mở
được một tương lai rộng mở cho chính mình. Nếu chúng ta học tập thành cơng, chúng ta sẽ
trở thành những người có ích cho xã hội, cho đất nước, đưa đất nước ngày càng đi lên, phát
triển đến một tầm cao mới.
Em, với vai trò là một sinh viên UAH cũng đã tự rút ra được một số nhận định, giải
pháp và phương hướng cho bản thân như sau:
i) Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục, nâng cao nhận thức về ý nghĩa tầm quan trọng
của vấn đề học tập suốt đời và xây dựng xã hội học tập.
Chú trọng công tác tuyên truyền, vận động làm cho mọi người nhận thức rõ sự cần
thiết, tầm quan trọng của việc học tập thường xuyên, học tập suốt đời, xây dựng xã hội học
tập, đặc biệt nhấn mạnh vai trị quan trọng của gia đình, dịng họ, khu dân cư, cơ quan doanh
nghiệp hiếu học trong xây dựng xã hội học tập.
Vận động các cá nhân điển hình trong phong trào tự học, học tập suốt đời làm tuyên
truyền viên cho công tác khuyến học, khuyến tài, xây dựng xã hội học tập. Phối hợp với các

cơ quan tuyên truyền trên địa bàn tỉnh đăng tải nhiều thông tin về xây dựng xã hội học tập;
in tờ rơi, tờ gấp liên quan đến nội dung học tập suốt đời; viết bài đăng Tập san chuyên đề về
hoạt động khuyến học khuyến tài Đất Tổ…
ii) Làm quen với việc tự học, xây dựng và làm mới bản thân bằng luồng tri thức mới
Chúng em, với vai trò là một thành tố trong cục diện tổng thể, việc tự chuyển mình,
học hỏi tiếp thu là điều cần thiết. Sự đào thải tất yếu không loại trừ bất cứ đối tượng nào:
nhân viên làm không tốt sẽ bị đuổi việc; kiến trúc lạc hậu sẽ bị đào thải; chế độ không phù
hợp sẽ bị thay thế bởi chế độ mới tiên tiến hơn, đó là bản chất của mối liên hệ và cách thế
giới được vận hành.
Mỗi sinh viên ra trường đều muốn có một cơng việc ổn định và hồn thành tốt cơng
việc của mình nhưng chuẩn bị tốt cho việc đó là làm tốt phần việc của ngày hơm nay khi cịn
ngồi trên ghế nhà trường. Xã hội ngày càng có nhiều phát kiến vĩ đại, quy luật khắc nghiệt
16


của cuộc sống sẽ đào thải những ai không theo kịp, tụt hậu so với nó. Bí quyết để chiến
thắng là trang bị cho mình những tri thức tồn diện, đây cũng là nhiệm vụ đặt ra cho công
tác tự học
Chúng em cần nâng cao trình độ học vấn, chuyên môn, nghề nghiệp; nâng cao năng
lực hội nhập. Bản thân mỗi người cũng cần tích cực học tập và tự học tập để nâng cao trình
độ văn hóa, chun mơn để thích ứng với thị trường lao động trong nước và thị trường lao
động quốc tế, đáp ứng yêu cầu thời kỳ mới.
Tập trung nghe giảng, suy nghĩ, mạnh dạn và hăng hái phát biểu bài ở lớp bởi vì ta
thường nhớ rất nhanh và rất bền điều mà ta hiểu. Tích cực tham gia những bài tập nhóm tại
lớp.
iii) Tiếp tục đẩy mạnh phong trào học tập suốt đời trong gia đình, dịng họ, cộng đồng, các
phong trào này phải góp phần xây dựng mơ hình cơng dân học tập, gắn nhà trường, gia đình
với xã hội để nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện, thực hiện bộ Tiêu chí xây dựng "Gia
đình học tập", "Dịng họ học tập", "Cộng đồng học tập", "Đơn vị học tập" hướng tới xã,
phường, thị trấn, huyện tỉnh học tập. Phát triển tổ chức hội khuyến học rộng khắp các địa

bàn: khu dân cư, cơ quan, xí nghiệp, trường học.
iv) Nói chuyện với sinh viên đi trước và giảng viên
Cách dễ nhất để trả lời những nghi ngờ và câu hỏi của mình là đến tại ngay ngơi
trường bạn đang học. Chúng ta có thể lên kế hoạch để nói chuyện với giảng viên trong
trường và tập hợp các câu hỏi. Ta cần nói chuyện với nhiều giảng viên vì mỗi giảng viên
thường có lập trường riêng của mình. Với cách này ta sẽ tránh được một suy nghĩ hẹp về thế
giới rộng lớn của kiến thức. Khơng những thế, việc nói chuyện với sinh viên đi trước sẽ cho
các chúng ta những trải nghiệm gần nhất, những việc họ đã trải qua, cách họ vượt qua đó sẽ
là hành trang giúp các ta vững tin hơn khi theo đuổi việc học.
v) Tạo cho mình tính kỉ luật và thói quen

Thay vì thường xuyên kéo lê cả đống việc, cần xác định hạn chót để hồn thành cơng
việc. Một mẹo nhỏ là nếu cần hồn tất một cơng việc vào 5 giờ chiều thì hãy bắt mình kết
thúc vào lúc 12 giờ trưa. Nên giải quyết các việc khó trước, chúng ta nên tập trung cho mình
thói quen làm việc chăm chỉ và có kế hoạch trước đó.
vi) Trang bị các kỹ năng mềm trong cuộc sống
Thói quen lập kế hoạch: Trước khi làm bất cứ chuyện gì, nên lập kế hoạch. Nếu
khơng có kế hoạch thì khơng làm chủ được thời gian, nhất là khi có điều gì bất trắc xảy đến.
17


Biết cách và có thói quen lập kế hoạch cá nhân là thể hiện một phong cách không làm việc
khoa học, chủ động, bảo đảm cho công việc được tiến hành thuận lợi và đạt kết quả.
Kỹ năng làm việc nhóm: Teamwork hay kỹ năng làm việc nhóm đang dần trở thành
kỹ năng quan trọng được các nhà lãnh đạo đánh giá cao. Hoạt động nhóm mang lại hiệu quả
cơng việc tốt hơn mà nếu từng cá nhân riêng lẻ làm sẽ không thể hoặc không đạt được kết
quả như vậy, là cách tập hợp những ưu điểm của mỗi cá nhân để hồn thiện cơng việc hơn.
Khả năng giao tiếp: Kỹ năng giao tiếp tốt là điều kiện tất yếu dẫn đến thành cơng vì
vậy cần phải giao tiếp hiệu quả và khéo léo. Sự tương tác tốt sẽ giúp tạo lập mối quan hệ tốt
đẹp giữa bạn với mọi người xung quanh, thúc đẩy hiệu suất công việc và tạo những đội

nhóm mạnh…
Kỹ năng giải quyết vấn đề: trong quá trình làm việc, rất nhiều những vấn đề, thách
thức hay xung đột quan điểm có thể xảy ra, ta cần sử dụng khả năng nhanh nhẹn trong vấn
đề giải quyết để dung hòa mọi thứ, đảm bảo cho quá trình cũng như tiến độ làm việc.
Kỹ năng tiếp nhận và học tập từ lời phê bình: Trong cuộc sống hoặc cơng việc, khơng
chỉ có những lời khen mà cịn có cả những lời phê bình. Đừng tự ái hay giận dỗi khi có ai đó
nói khơng tốt, hãy biến những nhận xét hay những lời phê bình của người khác thành những
kinh nghiệm, bài học cho bản thân. Bởi vì, những lời phê bình có thể là những góp ý chân
thành nhất, giúp bạn nhìn thấy những khuyết điểm của bản thân cần phải thay đổi.
Kỹ năng quản lí thời gian: Là một kỹ năng sống khơng thể thiếu tạo nên những người
thành công trong thời hiện đại. Đặc biệt là những người bận rộn phải cân bằng giữa sự
nghiệp và gia đình, cơng việc và các mối quan hệ. Biết cách quản lý thời gian giúp bạn sắp
xếp các kế hoạch và nhiệm vụ hàng ngày dựa vào mức độ quan trọng và theo thứ tự ưu tiên.
Khả năng chịu được áp lực công việc cao: Áp lực cơng việc ngày càng căng thẳng và
phức tạp, địi hỏi chúng ta phải hết sức cố gắng mới vượt qua được. Cịn để thành cơng, ta
cịn phải cố gắng nhiều hơn trong khi thời gian thì vẫn cứ thế.
vii) Cuối cùng là, rèn luyện sức khỏe
Với yêu cầu khắc nghiệt cần tự phát triển bản thân như hiện nay, thì việc có một sức
khỏe bền bỉ là điều quan trọng.
Cần duy trì trạng thái khỏe mạnh tỉnh táo của cơ thể bằng cách ăn đúng bữa, ngủ
đúng giờ, hạn chế sử dụng các chất ảnh hưởng đến tuổi thọ cơ thể. Cần luyện tập thể dục thể
thao tại nhà và ngồi nhà thường xun, tạo cho mình một lối quen sinh hoạt lành mạnh.

KẾT LUẬN
18


Những quan điểm trên về xã hội học tập của Hồ Chí Minh thực sự là di sản tư tưởng quý
báu, nó vừa phản ánh giá trị truyền thống của dân tộc, lại vừa tiêu biểu cho tư tưởng giáo
dục tiến bộ của thời đại. Tinh thần học để phụng sự Tổ quốc và nhân dân của Chủ tịch Hồ

Chí Minh có nhiều điểm trùng khớp với tinh thần của Unesco (Tổ chức Văn hóa, Khoa học,
Giáo dục của Liên Hợp Quốc), khi Liên Hợp Quốc đề ra mục tiêu của học tập là học để hiểu
biết, để chung sống, để làm việc và làm người. Tư tưởng của Người không chỉ phản ánh quy
luật phát triển của nền giáo dục hiện đại trên thế giới mà còn hiện thân cho ước nguyện chân
chính và sâu sắc của quảng đại quần chúng nhân dân lao động của nước ta về quyền lợi và
hạnh phúc được học tập. Người là một tấm gương sáng về tự tiếp thu và sáng tạo tri thức. Vì
vậy, mỗi cán bộ, Đảng viên học tập và làm theo Bác, xác định cho mình một lộ trình, mục
tiêu và phương pháp tự học suốt đời phù hợp với điều kiện cụ thể của bản thân, của gia đình.
Có tự học suốt đời mới có thể hồn thiện nhân cách, nâng cao khả năng phục vụ nhân dân
ngày một tốt hơn.
Có thể nói, điều cốt lõi trong xây dựng một xã hội học tập, học suốt đời là đổi mới căn bản,
toàn diện giáo dục và đào tạo cả về mục tiêu, nội dung, phương pháp giảng dạy lẫn cách
kiểm tra, đánh giá; đề cao năng lực tự học mà chủ yếu là học cách học, đưa người học từ vị
trí thụ động trở thành người chủ động, sáng tạo trong quá trình lĩnh hội kiến thức, cập nhật
kiến thức, nâng cao năng lực, đáp ứng yêu cầu cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và
hội nhập quốc tế.
Tư tưởng về xã hội học tập của Hồ Chí Minh là một tài sản quý giá đối với mỗi người và đối
với toàn xã hội, Nếu mỗi người trong chúng ta đều tận dụng sáng tạo tư tưởng giáo dục của
Bác vào sự nghiệp đổi mới, nâng cao chất lượng giáo dục nước nhà thì sau này tương lai đất
nước sẽ tươi đẹp biết bao.

19


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Báo Lý luận chính trị & truyền thông. Số tháng 5 - 2016
2. Jacques Delors, Learning The Treasure within, Report to UNESCO of the International

Commissionon Education for the Twenty-first Century, Unescopublishing 1996, page 11,5,
printed in French

3. Hồ Chí Minh tồn tập (Tập 4), Nxb CTQG, H. 2000
4. Hồ Chí Minh tồn tập (Tập 5), Nxb CTQG, H. 2000
5. Hồ Chí Minh tồn tập (Tập 6), Nxb CTQG, H. 2000
6. Hồ Chí Minh tồn tập (Tập 9), Nxb CTQG, H. 2000
7. Hồ Chí Minh tồn tập (Tập 12), Nxb CTQG, H. 2000
8. Chỉ thị số 11-CT/TW ngày 13-4-2007 của Bộ Chính trị về tăng cường sự lãnh đạo của
Đảng đối với công tác khuyến học, khuyến tài, xây dựng xã hội học tập
9. Hồ Chí Minh (với bút danh X.Y.Z), Sửa đổi lối làm việc, NXB Chính Trị Quốc Gia Sự
Thật
10. Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 4/11/2013 Hội nghị Trung ương 8 khóa XI về đổi mới
căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo
11. Nghị quyết Đại hội 18 Tình người Khuyến học IX (4/2001)
12. Nghị quyết Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương khóa XII, Văn phịng Trung
ương Đảng, Hà nội, 2016, tr. 28
13. Diễn đàn Xây dựng xã hội học tập ở Việt Nam từ tư vấn đến chính sách
14. Hội nghị trực tuyến toàn quốc tổng kết 8 năm thực hiện Đề án “Xây dựng xã hội học tập
giai đoạn 2012-2020”



×