Tải bản đầy đủ (.doc) (11 trang)

LÝ LUẬN VỀ SẢN XUẤT KINH TẾ HÀNG HÓA CỦA CHỦ NGHĨA MÁCLÊNIN LIÊN HỆ VỚI THỰC TIỄN VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (57.64 KB, 11 trang )

LÝ LUẬN VỀ SẢN XUẤT KINH TẾ HÀNG HÓA CỦA CHỦ NGHĨA
MÁC-LÊNIN LIÊN HỆ VỚI THỰC TIỄN VIỆT NAM
I/ Lý luận của Chủ nghĩa Mac-Lênin về Kinh tế hàng hoá
1. Tính tất yếu của nền kinh tế hàng hố:
Kinh tế hàng hoá là một kiểu tổ chức kinh tế xã hội trong đó sản phẩm đều do
những sản xuất ra, mỗi người chuyên làm ra một sản phẩm nhất định, thành thử
muốn thoả mãn các nhu cầu của xã hội thì cần phải có mua bán sản phẩm (vì Vậy
sản phẩm trở thành hàng hoá trên thị trường.
Như vậy, cơ sở kinh tế hàng hoá của sự ra đời và tồn tại của sản xuất hàng hố
là phân cơng lao động xã hội và chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất.
Phân công lao động xã hội là điều kiện cần của sản xuất hàng hố. Có thể
nói phân công lao động xã hội đã tạo ra những ngành nghề khác nhau. Một khi đã
có phân cơng lao động xã hội thì mỗi người chỉ chuyên sản xuất ra một loại hàng
hố (hoặc mấy loại sản phẩm nào đó). Song nhu cầu tiêu dùng của họ lại khác
nhau.
Ví dụ: Người nơng dân thì sản xuất ra lúa gạo, người thợ dệt sản xuất ra vải
vóc. Nhưng người nơng dân cũng phải cần đến vải vóc và người thợ dệt cũng phải
cần đến gạo. Để thoả mãn nhu cầu của mình họ phải nương tựa vào nhau,trao đổi
sản phẩm cho nhau. Như vậy, phân công lao động xã hội làm nảy sinh những quan
hệ kinh tế giữa những người sản xuất với nhau.
Nhưng mặt khác, chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất lại chia họ ra với nhau,
mỗi người sản xuất là một người chủ độc lập,có quyền quyết định việc sử dụng tư
liệu sản xuất và những sản phẩm do họ sản xuất ra.Trong điều kiện đó, người sản
xuất này muốn sử dụng sản phẩm của người sản xuất khác thì phải trao đổi sản
phẩm cho nhau.Sản phẩm lao động trở thành hàng hoá.Khi sản phẩm lao động trở
thành hàng hố thì người sản xuất trở thành người sản xuất hàng hoá.Vậy điều kiện

1


đủ của kinh tế hàng hố chính là các hình thức sở hữu khác nhau về tư liệu sản


xuất.
2. Kinh tế hàng hoá ưu việt hơn kinh tế tự nhiên, kinh tế hàng hoá giản
đơn, kinh tế hàng hoá tư bản chủ nghĩa.
Kinh tế tự nhiên hay sản xuất tự cung tự cấp là kiểu tổ chức kinh tế đầu tiên
mà lồi người sử dụng. Thời cơng xã ngun thuỷ, với những cơng cụ lao động cực
kỳ thơ sơ thì từng cá nhân riêng lẻ không thể sống được, không thể sản xuất được.
Vì vậy họ sống tập thể, sản xuất tập thể. Với hình thức lao động tập thể địi hỏi chế
độ cơng hữu về tư liệu sản xuất, sản phẩm làm ra được phân phối bình qn. Mục
đích của sản xuất là tạo ra giá trị sử dụng nhằm thoả mãn nhu cầu tiêu dùng của
chính bản thân người sản xuất. Vì vậy, có thể nói q trình sản xuất của nền kinh tế
tự nhiên chỉ gồm hai khâu: Sản xuất - tiêu dùng, nó có tính bảo thủ, trì trệ, giới hạn
ở nhu cầu hạn hẹp.
Cuối thời công xã nguyên thuỷ, lực lượng sản xuất phát triển cao hơn. Con
người đã biết luyện sắt và chế tạo cơng cụ lao động bằng sắt. Đây chính là điểm
xuất phát chuyển sang chế độ xã hội mới cao hơn. Công cụ cải tiến đã thúc đẩy
nghề nông và chăn ni phát triển. Tình hình đó đã dẫn đến cuộc đại phân công lao
động xã hội lần đầu tiên: chăn nuôi tách khỏi trồng trọt. Cuộc đại phân công lao
động này đã làm nảy sinh ra sự cần thiết và khả năng trao đổi sản phẩm giữa các bộ
tộc chăn nuôi và bộ tộc trồng trọt.
Nhờ các phát minh ra công cụ bằng kim thuộc, các nghề nông cũng phát
triển mạnh, sự phân công lao động xã hội lần hai xảy ra: thủ cơng tách khỏi nghề
nơng. Chính cuộc phân công lao động xã hội này đã làm cho kinh tế hàng hố tức
nền kinh tế nhằm mục đích trao đổi ra đời. Đây chính là nền kinh tế hàng hoá giản
đơn. Như vậy nền kinh tế hàng hoá giản đơn ra đời vào cuối thời công xã nguyên
thuỷ, trong thời kỳ chiếm hữu nơ lệ và phong kiến nó đóng vai trị phụ thuộc, bổ
sung.

2



Tính ưu việt của sản xuất hàng hố giản đơn so với nền sản xuất hàng hoá tự
nhiên là sản phẩm làm ra bằng chính tư liệu lao động của người sản xuất, sản phẩm
sản xuất ra là sở hữu của người sản xuất. Tuy nhiên, nền sản xuất hàng hố giản
đơn vẫn cịn tồn tại rất nhiều hạn chế, sản xuất bị phân tán, quy mô nhỏ.
Khi lực lượng sản xuất phát triển với một tâm cao hơn nữa, kích thích kinh tế
hàng hố phát triển hơn nữa và thúc đẩy kinh tế hàng hoá giản đơn chuyển sang
nền kinh tế hàng hố tư bản chủ nghĩa. Q trình chuyển biến này diễn ra trong
thời kỳ quá độ từ xã hội phong kiến sang xã hội tư bản chủ nghĩa. Đây là loại sản
xuất hàng hố dựa trên bóc lột lao động làm thuê. Chủ tư bản nắm trong tay toàn
bộ tư liệu sản xuất, sản phẩm làm ra là của chủ tư bản. Mục đích của nền kinh tế
hàng hoá tư bản chủ nghĩa là tạo ra giá trị thặng dư càng nhiều càng tốt. Để chạy
theo lợi nhuận, các nhà tư bản liên tục đầu tư khoa học kỹ thuật, tính chun mơn
hố ngày càng cao, sản xuất theo dây chuyền công nghệ, thúc đẩy nền kinh tế ngày
càng phát triển. Nhưng nguồn gốc của giá trị thặng dư là bóc lột sức lao động của
cơng nhân làm thuê. Người lao động tuy được tự do về thân thể song khơng có tư
liệu sản xuất nên phải bán sức lao động của mình cho các nhà tư bản. Chủ nghĩa tư
bản đã thực hiện được một bước tiến bộ trong lịch sử, lợi dụng tính chất đặc biệt
của hàng hoá sức lao động để phục vụ túi tiền của các nhà tư bản, vì vậy đã làm
nảy sinh mâu thuẫn giữa tư bản và lao động làm thuê.
Trong điều kiện lịch sử mới, nền kinh tế hàng hoá được phát triển với mức độ
cao hơn. Hàng hoá không chỉ tập trung vào tay một số nhà tư bản lớn. Với nhiều
thành phần kinh tế mới, nền kinh tế hàng hoá ngày nay đã thu hút được rất nhiều
lao động tự chủ hơn, năng động hơn, trình độ khoa học kỹ thuật phát triển hơn tạo
ra được nhiều mặt hàng phong phú, đa dạng. Sự đa dạng và phong phú về chủng
loại hàng hoá một mặt phản ánh trình độ cao của năng suất lao động xã hội, mặt
khác cũng nói lên mức độ phát triển của quan hệ trao đổi, trình độ phân cơng lao
động xã hội và sự phát triển của thị trường.

3



Như vậy, cùng với sự lớn mạnh của lượng sản xuất (biểu hiện ở sự phân công
lao động xã hội và chun mơn hố sản xuất ngày càng phát triển và sâu sắc) xã
hội loài người theo Lênin bước vào một cách tổ chức kinh tế xã hội mới, tức sản
xuất hàng hoá. Nền kinh tế này ngày càng phát triển cao (nền kinh tế thị trường),
cho đến nay đang là nền kinh tế thống trị và mang tính chất tồn cầu.
3.Quy luật vận động của kinh tế hàng hố là quy luật giá trị và quy luật
cạnh tranh.
Hàng hoá là sản phẩm của lao động, nó có thể thoả mãn được nhu cầu nào
đó của con người, sản xuất ra không phải để tự tiêu dùng mà để trao đổi, mua
bán.
Hàng hố có hai thuộc tính: giá trị sử dụng và giá trị.
Giá trị sử dụng là công dụng của sản phẩm có thể thoả mãn nhu cầu con người
thể hiện ở việc sử dụng và tiêu dùng. Một sản phẩm đã là hàng hố thì nhất thiết
phải có giá trị sử dụng, nhưng không phải bất kỳ sản phẩm gì có giá trị sử dụng
cũng nhất thiết là hàng hố. Chẳng hạn: khơng khí, nước suối cũng có giá trị sử
dụng nhưng khơng phải là hàng hố. Nói chung, giá trị sử dụng là cái mang giá trị
trao đổi.
Có thể nói trao đổi hàng hố phải căn cứ vào giá trị, có nghĩa là: hai hàng hố
trao đổi với nhau phải ngang nhau về mặt giá trị.
Ví dụ: một cái rìu trao đổi lấy 20kg thóc. Tại sao một cái rìu lại đổi lấy 20kg
thóc? Tại sao hai hàng hố có giá trị sử dụng khác nhau lại có thể trao đổi được với
nhau? Hai giá trị sử dụng khác nhau có thể trao đổi được với nhau khi giữa chúng
có một cơ sở chung. Thời gian hao phí lao động chính là cơ sở chung để so sánh
cái rìu với thóc.Khi chủ rìu và chủ thóc đồng ý trao đổi cho nhau tức là họ cho rằng
thời gian lao động của họ để sản xuất ra cái rìu bằng giá trị của 20kg thóc.
Vậy giá trị của hàng hoá là thời gian lao động cần thiết để sản xuất ra hàng
hố đó. Sản phẩm nào khơng chứa đựng lao động của con người thì khơng có giá

4



trị. Khi giá trị thay đổi thì giá trị trao đổi cung thay đổi, giá trị trao đổi chính là
hình thức biểu hiện của giá trị.
Như vậy, trao đổi hàng hố phải căn cứ vào giá trị. Đây chính là nội dung
của quy luật giá trị. Quy luật giá trị là quy luật của sản xuất hàng hoá. Ở đâu có sản
xuất hàng hố thì ở đấy có quy luật giá trị tác động. Quy luật giá trị chi phối việc
sản xuất và trao đổi trong nền kinh tế hàng hoá. Nội dung của quy luật này được
biểu hiện trong sản xuất và lưu thông. Trong sản xuất, đối với thời gian hao phí cá
biệt thì đại bộ phận là tương đương với thời gian lao động cần thiết, một số ít nhỏ
hơn thì lại có một số lớn hơn; đối với tồn xã hội thì tổng thời gian hao phí cá biệt
bằng tổng thời gian lao động xã hội cần thiết. Trong lưu thơng, đối với một loại
hàng hố giá cả có thể lên xuống nhưng phải xoay quanh trục giá trị (nguyên nhân
la do tác động của qua hệ cung cầu); đối với tổng hàng hoá trên phạm vi xã hội thì
giá trị của nó được biểu hiện là: tổng giá cả hàng hoá bằng tổng giá trị hàng hoá.
Từ nội dung của quy luật giá trị, ta có thể thấy rõ được tác dụng của nó
trong nền kinh tế hàng hoá. Thứ nhất, quy luật giá trị có tác dụng điều tiết tự phát
sản xuất (phân phối tư liệu sản xuất và sức lao động) và lưu thông (nguồn hàng)
qua sự biến động của giá cả thị trường. Thứ hai, quy luật giá trị kích thích sự phát
triển tự phát khoa học công nghệ, lực lượng sản xuất, hiệu quả và năng suất lao
động xã hội vì ai cũng muốn được lời nhiều nên phải cải tiến kỹ thuật, đổi mới
quản lý,…làm cho giá trị cá biệt thấp hơn giá trị xã hội. Ngoài ra quy luật giá trị
cịn phân hố người sản xuất thành kẻ giàu người nghèo, làm cho quan hệ sản xuất
tư bản chủ nghĩa phát sinh và phát triển.
Cạnh tranh là động lực, là nguyên tắc cơ bản tất yếu của kinh tế hàng hố.
Nó tồn tại trên cơ sở những đơn vị sản xuất hàng hoá độc lập và khác nhau về lợi
ích kinh tế. Theo yêu cầu của quy luật giá trị, tất cả các đơn vị sản xuất hàng hoá
đều phải sản xuất và kinh doanh trên cơ sở hao phí lao động xã hội cần thiết. Trong
điều kiện đó, các đơn vị kinh doanh phải ganh đua, đấu tranh nhằm giành lấy
những điều kiện thuận lợi và thu nhiều lợi ích cho mình. Đối tượng cạnh tranh của


5


các chủ thể kinh tế là giành nguồn nguyên liệu,thị trường, lực lượng khoa học kỹ
thuật, chất lượng, giá cả bằng các thủ đoạn kinh tế và phi kinh tế.
Cạnh tranh trong lĩnh vực sản xuất bao gồm: cạnh tranh nội bộ ngành và cạnh
tranh giữa các ngành với nhau. Cạnh tranh trong lĩnh vực lưu thông bao gồm: cạnh
tranh giữa những người tham gia trao đổi hàng hoá và dịch vụ trên thị trường. Hình
thức và những biện pháp cạnh tranh có thể rất phong phú nhưng động lực và mục
đích cuối cùng của cạnh tranh chính là lợi nhuận.
3.Lợi nhuận là động lực mạnh nhất của kinh tế hàng hố
Trong nền kinh tế hàng hố lợi nhuận ln được các nhà đầu kinh tế, các tổ
chức kinh tế coi là động lực, mục tiêu của mình. Làm thế nào để chi phí ít nhất mà
lợi nhuận thu về lớn nhất. Điều này địi hỏi tính chun mơn cao, sự sắp xếp lại
cách tổ chức quản lý. Tổ chức lại các bộ phận quản lý và thiết lập mối quan hệ giữa
chúng để quá trình hoạt động nhịp nhàng thơng suốt tránh sự trì trệ khơng cần thiết
trong một số khâu nào đó làm ảnh hưởng tới cả hệ thống quản lý. Hạn chế bớt một
số bộ phận cồng kềnh còn giúp cho các nhà kinh tế giảm bớt được chi phí, đồng
nghĩa với việc tăng lợi nhuận. Ngồi ra còn cải tiến kỹ thuật, nâng cao tay nghề
cho đội ngũ cán bộ nhân viên. Tóm lại lợi nhuận là động lực cơ bản của sự vận
động của nền kinh tế hàng hoá.
II/Liên hệ thực tế ở Việt Nam
Theo quan điểm của C.Mác-kinh tế hàng hố khơng phải là một phương thức
sản xuất độc lập mà là một hình thức tổ chức kinh tế tồn tại trong các phương thức
xã hội. Với phạm vi và mức độ khác nhau,tuy cùng là nền kinh tế hàng hoá nhưng
bản chất của xã hội quy định đặc điểm của kinh tế hàng hố của xã hội đó. Nhà
nước ta là nhà nước xã hội chủ nghĩa nên vai trò quản lý của nhà nước định hướng
nền kinh tế hàng hoá theo chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Đất nước ta vốn là thuộc địa nửa phong kiến với trình độ phát triển của lực

lượng sản xuất xã hội rất thấp. Đất nước lại trải qua hàng chục năm chiến tranh để
lại hậu quả nặng nề. Những tàn dư thực dân, phong kiến còn nhiều, lại chịu ảnh

6


hưởng nặng nề của cơ chế tập trung, quan liêu, bao cấp. Chính vì vậy, nhà nước ta
khẳng định chỉ có thể phát triển kinh tế hàng hố nhiều thành phần mới phát triển
được lực lượng sản xuất; mới thúc đẩy sự nghiệp Cơng nghiệp hố-Hiện đại hố;
mới đẩy lùi được kinh tế tự nhiên; khắc phục được hậu quả của kinh tế kế hoạch
hoá tập trung; mới làm cho kinh tế nước ta hoà nhập vào kinh tế khu vực và thế
giới.
Đại hội VI của Đảng năm1986 đã đặt nền móng vững chắc cho quan điểm
phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng chủ nghĩa xã hội ở
nước ta. Cho đến nay đất nước ta đã đạt một số thành tựu trong công cuộc đổi mới
đất nước như: quy mô công nghiệp tăng gấp 4,8 lần, quy mô xuất khẩu tăng gấp
gần 6,9 lần, xuất khẩu gạo đứng thứ ba trên thế giới, tránh được dịng xốy của
cuộc khủng hoảng tài chính-tiền tệ khu vực thời kỳ 1997-1998, tăng trưởng GDP
năm 2002 là 7,04% đứng thứ hai trong khu vực Châu á-Thái Bình Dương.
Bên cạnh đó, nền kinh tế hàng hố nước ta cịn bộc lộ rất nhiều yếu kém như:
trình độ khoa học kỹ thuật, cơ sở hạ tầng, hệ thống pháp luật còn nhiều bất cập…
Đảng và Nhà nước ta đã và đang có những chính sách, giải pháp nhằm khắc
phục những hạn chế trên.
Xu hướng chung của phát triển kinh tế thế giới là sự phát triển kinh tế của mỗi
nước không thể tách rời sự phát triển và hoà nhập quốc tế. Với quan điểm hợp tác
hai bên cùng có lợi, tôn trọng độc lập chủ quyền của nhau,Việt Nam đã và đang tạo
dựng được những mối quan hệ tốt đẹp với nhiều nước trên thế giới; tham gia vào
những tổ chức kinh tế xã hội như: ASIAN, AFTA, tiến tới gia nhập WTO.
Năm 2003-năm bản lề của kế hoạch 5 năm 2000-2005 chúng ta đặt ra rất
nhiều mục tiêu và thách thức, trọng tâm vẫn là chuyển dịch cơ cấu kinh tế với tầm

cao hơn trong lộ trình thực hiện cam kết hội nhập nhằm phát triển một nền kinh tế
toàn diện

7


KẾT LUẬN
Chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa tư bản đều sử dụng cỗ xe kinh tế hàng hoá để
phát triển lực lượng sản xuất. Nhưng dưới tư bản chủ nghĩa không tránh khỏi quy
luật cá lớn nuốt cá bé, bất bình đẳng, bất cơng. Chúng ta phát triển nền kinh tế
hàng hố nhằm tăng trưởng kinh tế, khuyến khích làm giàu, xố đói giảm
nghèo,gia tăng về mức sống nhưng giữ gìn bản sắc văn hố dân tộc. Tất nhiên đây
là cơng việc cực kỳ khó khăn, phải tạo dựng lâu dài và có rất nhiều thách thức.
Vấn đề đặt ra là phải chủ động nắm thời cơ, kiên quyết đẩy lùi và khắc phục
những nguy cơ nhằm vượt lên để phát triển nhanh, vững chắc và đúng hướng. Có
như vậy, đất nước ta mới ngày càng phồn vinh, giàu đẹp hơn.

8


9


10


11




×