Tải bản đầy đủ (.doc) (28 trang)

ĐỀ TÀI XỬ LÝ MỘT SỐ TÌNH HUỐNG SƯ PHẠM TRONG TRƯỜNG MẦM NON

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (163.96 KB, 28 trang )

PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO…..
TRƯỜNG MẦM NON…..


ĐỀ TÀI

XỬ LÝ MỘT SỐ TÌNH HUỐNG SƯ PHẠM
TRONG HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC MẦM NON

1


MỤC LỤC
ĐẶT VẤN ĐỀ...........................................................................................................3
Chương 1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TÌNH HUỐNG ỨNG XỬ SƯ PHẠM
TRONG GIÁO DỤC MẦM NON..........................................................................4
1.2. Xử lý tình huống sư phạm trong hoạt động giáo dục mầm non Xử lý tình huống sư phạm trong hoạt
động giáo dục mầm non là việc vận dụng tri thức của giáo viên nhằm giải quyết những tình huống có vấn
đề nảy sinh trong q trình giáo dục, buộc nó chuyển sang trạng thái ổn định, hướng tới mục tiêu đảm
bảo an toàn và phát triển nhân cách trẻ. Để xử lý tình huống sư phạm trong hoạt động giáo dục mầm non,
giáo viên mầm non phải tuân thủ các nguyên tắc đảm bảo tính giáo dục, đảm bảo bình đẳng và cơng
bằng, ứng xử theo nhu cầu, đảm bảo tính mềm dẻo và linh hoạt, đảm bảo tính kịp thời) và cần xác định
tuần tự xử lý một cách khoa học.
................................................................................................................7
1.3. Quy trình sau xử lý tình huống sư phạm trong hoạt động giáo dục mầm non 1.3.1. Xác định tình
huống Nội dung của việc xác định tình huống là xác định loại tình huống, đối tượng giáo dục, chủ thể giáo
dục và những người liên quan trong tình huống sư phạm cùng với các thuộc tính, phẩm chất cơ bản của
họ. Trong hoạt động giáo dục mầm non, đối tượng giáo dục là trẻ mầm non, chủ thể giáo dục là giáo viên
và những người liên quan đến tình huống như Ban Giám hiệu, phụ huynh… Ở đây, địi hỏi giáo viên phải
có kỹ năng thu thập thơng tin liên quan đến tình huống. 1.3.2. Tìm hiểu nguyên nhân.................................7
1.4. Đặc điểm phát triển tâm sinh lý lứa tuổi mâm non.................................................................................10


1.4.1. Đặc điểm phát triển tâm sinh lý lứa tuổi nhà trẻ..............................................................................10
1.4.2. Đặc điểm phát triển tâm sinh lý lứa tuổi mẫu giáo...........................................................................15

Chương 2. MỘT SỐ BIỆN PHÁP XỬ LÝ TÌNH HUỐNG...............................18
SƯ PHẠM TRONG TRƯỜNG MẦM NON.......................................................18
2.1. Tìm hiểu tâm lý chung của nhóm trẻ để có thể đưa ra cách thức giao tiếp phù hợp.............................18
2.2. Tạo cho lớp học có khơng khí đầm ấm như ở gia đình, gần gũi, u thương trẻ....................................18
2.3. Ln tơn trọng, đối xử công bằng và không xúc phạm thân thể trẻ.......................................................19
2.4. Phối hợp với cha mẹ trẻ để cùng có biện chăm sóc giáo dục trẻ phù hợp.............................................19
2.5. Khơng ngừng học hỏi nâng cao khả năng xử lý các tình huống sư phạm................................................20
Không ngừng học hỏi nâng cao khả năng xử lý các tình huống sư phạm bằng con đường học tập các điển
hình, học hỏi đồng nghiệp và đúc rút kinh nghiệm qua thực tế, không được chủ quan, tự mãn hoặ lo sợ,
tự ti....................................................................................................................................................................20

Chương 3. MỘT SỐ TÌNH HUỐNG ỨNG XỬ SƯ PHẠM..............................20
2


TRONG HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC MẦM NON..............................................20
3.1. Trẻ khơng thích đi học...............................................................................................................................20
3.2. Trẻ đánh bạn nhưng không chịu nhận lỗi.................................................................................................23
3.3. Trẻ nhút nhát trước đám đông.................................................................................................................24
3.4. Trẻ không trả lời được câu hỏi nhưng vẫn giơ tay....................................................................................26

TÀI LIỆU THAM KHẢO.....................................................................................27

ĐẶT VẤN ĐỀ
Kỹ năng ứng xử sư phạm là yêu cầu quan trọng đối với mỗi giáo viên, đặc biệt là
giáo viên mầm non. Sự ứng xử khéo léo của giáo viên có ảnh hưởng trực tiếp đến việc
hình thành và phát triển nhân cách của trẻ. Tuy nhiên, thực tế giao tiếp sư phạm rất đa

dạng và cũng có nhiều tình huống khác nhau, yêu cầu giáo viên phải linh hoạt, khéo
léo và am hiểu biết sâu sắc về đặc điểm tâm sinh lý của từng trẻ.
Tuy nhiên bên cạnh những giáo viên có kinh nghiệm giải quyết các tình huống
sư phạm một cách phù hợp và hiệu quả thì vẫn còn những giáo viên lúng túng trong
cách ứng xử, thiếu kỹ năng giải quyết tình huống phù hợp hoặc lạm dụng uy quyền để
trấn áp trẻ, dẫn đến những phản ứng ngược từ phía trẻ, gia đình và xã hội.
Để giải quyết tình huống sư phạm, giáo viên cần dựa trên các cơ sở khoa học
trong xử lý tình huống sư phạm, đó là hệ thống kiến thức về đặc điểm tâm sinh lý của
trẻ, các nguyên tắc và quy trình xử lý tình huống sư phạm. Đặc biệt, giáo viên cần
phải có năng lực xử lý tình huống sư phạm cùng hệ thống các kỹ năng sư phạm để
nhận diện tình huống, phát hiện mâu thuẫn, huy động kinh nghiệm, lựa chọn phương
án, bình tĩnh, quan tâm, tơn trọng, thận trọng lắng nghe để hiểu đối tượng, nhằm sáng
3


tỏ các nguyên nhân, vận dụng các biện pháp thích hợp trên cơ sở tuân thủ các nguyên
tắc và quy trình.
Tình huống sư phạm trong nhà trường vơ cùng đa dạng và có nhiều cách giải
quyết khác nhau. Giải quyết tình huống sư phạm như thế nào cho hiệu quả phụ thuộc
rất nhiều yếu tố: tâm lý lứa tuổi, trình độ học sinh, văn hóa vùng miền, giáo dục của
gia đình, nhà trường v.v…Những cách ứng xử thơng minh hợp lý sẽ tác động tích cực
đến việc hồn thiện nhân cách của học sinh. Chính vì vậy tơi chọn đề tài “Xử lý một
số tình huống sư phạm trong hoạt động giáo dục mầm non” làm đề tài sáng kiến kinh
nghiệm cho mình.
Chương 1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TÌNH HUỐNG ỨNG XỬ SƯ PHẠM
TRONG GIÁO DỤC MẦM NON
1.1. Một số khái niệm liên quan
1.1.1. Tình huống
Là những sự kiện, vụ việc, hồn cảnh có vấn để nảy sinh trong hoạt động và
quan hệ giữa con người với tự nhiên, xã hội và con người với con người buộc người

ta phải giải quyết, ứng phó, xử lý kịp thời nhằm đưa ra các hoạt động và quan hệ có
chứa đựng trạng thái đó trở lại ổn định và tiếp tục phát triển.
1.1.2.Tình huống ứng xử sư phạm
- Là tình huống chứa đựng mâu thuẫn nảy sinh trong hoạt động sư phạm của
người giáo viên. Đó là mâu thuẫn giữa yêu cầu giáo dục đối với trình độ phát triển
hiện có của học sinh, giữa yêu cầu phát triển của học sinh với điều kiện sống và giáo
dục, giữa nhu cầu phát triển của học sinh với khả năng sư phạm của nhà giáo dục,
giữa nhu cầu phát triển của học sinh với khả năng, trình độ đạt được của chính học
sinh.
- Một tình huống sư phạm thường có ba thành phần cơ bản:
+ Cái mới, cái chưa biết mà giáo viên cần tìm hiểu, khám phá và giải quyết

4


+ Những cái đã biết được sử dụng để xử lý tình huống sư phạm đạt mục đích.
Địi hỏi giáo viên phải có trình độ tri thức, kinh nghiệm và khả năng sáng tạo nhằm
đưa ra cách xử lý phù hợp
+ Nhù cầu giải quyết các tình huống sư phạm, bao gồm: nhu cầu nhận thức, đạo
đức và nhân văn.
1.1.3. Phân loại tình huống sư phạm
- Phân loại theo tính chất
Dựa theo mức độ và tính chất mâu thuẩn, các loại tình huống :
+ Tình huống giản đơn.
+ Tình huống phức tạp.
- Phân loại theo đối tượng tạo ra tình huống
+ Tình huống đơn phương: Nghĩa là chỉ có một bên tạo ra mâu thuẩn Ví dụ,
tình huống “Người đứng sau lá đơn của nhà sư phạm ”.
+Tình huống song phương , là tình huống xuất hiện những mâu thuẩn từ hai
phía

+ Tình huống đa phương là tình huống tạo nên bởi nhiều mối quan hệ và hoạt
động trong công tác chủ nhiệm .Phần lớn các tình huống phức tạp trong công tác chủ
nhiệm đều thuộc loại này .
Theo cách phân loại trên có thể đề cập đến các loại tình huống xuất hiện trong
các mối quan hệ giữa nhà sư phạm với nhau ,giữa nhà sư phạm với người khác , giữa
các thành viên trong tập thể này với tập thể khác trong tổ chức , hoặc giữa tổ chức này
với tổ chức khác và cộng đồng ngoài xã hội , giữa cá nhân này với cá nhân khác trong
và ngoài tổ chức …
- Phân loại theo các chức năng của nhà sư phạm
Cách phân loại này có thể sắp xếp các tình huống theo các chức năng và chương
trình .Cụ thể là các loại :
+ Tình huống trong công tác kế hoạch.
5


+ Tình huống trong cơng tác tổ chức nhân sự , xây dựng tập thể .
+ Tình huống trong trong chỉ đạo hoạt động sư phạm.
+ Tình huống trong kiểm tra đánh giá .
- Phân loại theo nội dung hoạt động sư phạm
Theo cách này việc phân loại này có thể dựa trên những nội dung hoạt động sư
phạm đã được Nhà nước quy định trong các văn bản pháp quy.
- Trong công tác huấn luyện, đào tạo người ta cịn phân loại tình huống theo các
loại:
+ Tình huống đóng và tình huống mở.
+ Tình huống có thật và tình huống giả định.
Mặc dầu việc phân loại có nhiều kiểu khác nhau , nhưng do cùng tiếp cận ở một
đối tượng – tình huống sư phạm , vì thế , mỗi cách tiếp cận đều có sự khác biệt nhất
định nhưng nó cũng chứa những nội hàm tương đồng nhất định, đan xen nhau rất khó
phân biệt.


6


1.2. Xử lý tình huống sư phạm trong hoạt động giáo dục mầm non
Xử lý tình huống sư phạm trong hoạt động giáo dục mầm non là việc vận
dụng tri thức của giáo viên nhằm giải quyết những tình huống có vấn đề nảy sinh
trong q trình giáo dục, buộc nó chuyển sang trạng thái ổn định, hướng tới mục
tiêu đảm bảo an toàn và phát triển nhân cách trẻ.
Để xử lý tình huống sư phạm trong hoạt động giáo dục mầm non, giáo viên
mầm non phải tuân thủ các ngun tắc đảm bảo tính giáo dục, đảm bảo bình
đẳng và công bằng, ứng xử theo nhu cầu, đảm bảo tính mềm dẻo và linh hoạt,
đảm bảo tính kịp thời) và cần xác định tuần tự xử lý một cách khoa học.
1.3. Quy trình sau xử lý tình huống sư phạm trong hoạt động giáo dục mầm non
1.3.1. Xác định tình huống
Nội dung của việc xác định tình huống là xác định loại tình huống, đối
tượng giáo dục, chủ thể giáo dục và những người liên quan trong tình huống sư
phạm cùng với các thuộc tính, phẩm chất cơ bản của họ. Trong hoạt động giáo
dục mầm non, đối tượng giáo dục là trẻ mầm non, chủ thể giáo dục là giáo viên
và những người liên quan đến tình huống như Ban Giám hiệu, phụ huynh… Ở
đây, đòi hỏi giáo viên phải có kỹ năng thu thập thơng tin liên quan đến tình
huống.
1.3.2. Tìm hiểu nguyên nhân
Để tìm ra nguyên nhân gây nên tình huống, giáo viên phải phân tích hồn cảnh
cụ thể diễn ra tình huống với những hiện tượng, sự kiện, hành động sư phạm, vạch ra
những mối liên hệ, quan hệ phụ thuộc lẫn nhau giữa chúng.
Khi phân tích tình huống, giáo viên cần chú ý đi sâu vào việc phân tích tâm lý
hành vi của các chủ thể tham gia vào tình huống. Sau đó, giáo viên sẽ phân tích tâm lý
động cơ của hành vi, là những kích thích tâm lý của hành vi như những nhu cầu, khát
vọng, ý muốn, hứng thú, xu hướng, quan điểm của các chủ thể.Chú ý phân tích kỹ
mâu thuẫn trong tình huống.

Ngồi ra, giáo viên cần phân tích các đặc điểm tâm lý khác như cảm giác, trí nhớ,
tư duy, ngơn ngữ, tình cảm, ý chí, các phẩm chất nhân cách (xu hướng, khí chất, tính
cách…). Những đặc điểm này biểu hiện trong hành vi, cử chỉ, cách nói năng, cách
quan hệ cư xử trong hoạt động thực tiễn của trẻ và các đối tượng.
7


Khi phân tích, phải lý giải các đặc điểm tâm lý được biểu hiện ở mối quan hệ với
nhau trong hành vi như thế nào. Nét mặt, cử chỉ, lời nói của con người ln phản ánh
bản chất tâm lý bên trong của nhân cách. Bên cạnh đó, giọng nói và nhịp điệu giọng
nói cũng thể hiện tính cách, trí tuệ, tình cảm, ý chí của con người như chủ động hay bị
động, chân thành hay giả dối, vui hay buồn… Nếu giáo viên tinh tế, nhạy cảm, bình
tĩnh và sáng suốt sẽ có được phán đốn đúng trạng thái cảm xúc và đặc điểm tâm lý,
nhân cách của đối tượng gây nên tình huống.
Trong hoạt động của giáo viên mầm non, các nguyên nhân tạo nên tình huống
thường do giáo viên chưa có tay nghề sư phạm, chưa hiểu trẻ, chưa thực sự yêu trẻ,
chưa có các phương pháp giáo dục tốt… hoặc do đặc điểm tâm sinh lý riêng của từng
trẻ, điều kiện sống, giáo dục… hoặc từ phía các chủ thể khác như cha mẹ ly hơn,
khơng quan tâm giáo dục trẻ, cách giáo dục chưa đúng… Vì vậy, muốn tìm hiểu chính
xác ngun nhân của tình huống, giáo viên cần có kỹ năng xử lý các thơng tin, nghiên
cứu và đánh giá tình hình một cách khách quan.
1.3.3. Xác định nhiệm vụ
Để xác định được nhiệm vụ, giáo viên cần phân tích mối liên hệ nhân quả giữa
các hiện tượng, sự kiện, những tác động giáo dục, những ưu điểm và sai lầm, thiếu sót
trong hành vi của đối tượng giáo dục cũng như những tác động sư phạm và chủ thể
giáo dục.
1.3.4. Tìm các giải pháp
- Người giáo viên có thể căn cứ các nhiệm vụ cần giải quyết để đưa ra các giải
pháp khác nhau.Khi đưa ra giải pháp, giáo viên phải phân tích được các cách giải
quyết đúng hay sai, vận dụng được kiến thức khoa học của giáo dục học, tâm lý học

hay chưa, hiệu quả của các cách giải quyết đã phù hợp với mục tiêu, nhiệm vụ giáo
dục mầm non, đặc điểm tâm sinh lý, hoàn cảnh cá nhân, trường hợp cụ thể của trẻ
trong những tình huống cụ thể…

8


- Bên cạnh đó, giáo viên cần tính đến mức độ thuận lợi và khó khăn của từng giải
pháp.
1.3.5. Chọn cách xử lý tối ưu
Từ việc phân tích các giải pháp đã đưa ra, giáo viên lựa chọn cách xử lý tối ưu
cho tình huống trên cơ sở xác định mâu thuẫn chính của tình huống.Có thể kết hợp
các giải pháp khác nhau đối với tình huống sư phạm phức tạp để đưa ra giải pháp toàn
vẹn nhất.
1.3.6. Thực hiện xử lý tình huống
Khi đã chọn được giải pháp xử lý tình huống tối ưu, giáo viên tiến hành xử lý
tình huống sư phạm kịp thời nhằm đảm bảo quá trình giáo dục được diễn ra thuận lợi,
đáp ứng mục tiêu chăm sóc, giáo dục trẻ mầm non.
- Đối với các tình huống sư phạm mang tính chất đặc biệt, nhà giáo dục khơng
thể tn thủ trình tự các bước xử lý tình huống sư phạm thơng thường mà cần phải có
sự linh hoạt, sáng tạo. Ngồi ra, khi gặp những tình huống vượt q thẩm quyền, nhà
giáo dục khơng được tự ý giải quyết mà cần xin ý kiến của cấp trên.
- Giáo viên đúc rút kinh nghiệm sau khi giải quyết tình huống giáo dục.Trong bài
học sư phạm, giáo viên cũng cần đưa ra hệ thống các biện pháp để ngăn ngừa những
tình huống tương tự có thể xảy ra.
Tóm lại, để giải quyết tình huống sư phạm, nhà giáo dục cần có cơ sở xử lý tình
huống sư phạm đó là hệ thống kiến thức về đặc điểm tâm sinh lý trẻ, các nguyên tắc
sư phạm, quy trình xử lý tình huống sư phạm…, năng lực xử lý tình huống sư phạm là
hệ thống các kĩ năng sư phạm như nhận diện tình huống sư phạm, phát hiện mâu
thuẫn, huy động kinh nghiệm, lựa chọn phương án, điềm tĩnh, quan tâm, tôn trọng,

thận trọng lắng nghe để hiểu trẻ nhằm sáng tỏ các nguyên nhân, vận dụng các biện
pháp thích hợp trên cơ sở tuân thủ các ngun tắc và quy trình sẽ quyết định sự thành
cơng của nhà giáo dục khi xử lý tình huống sư phạm. Đó chính là một trong những

9


con đường quan trọng giúp đạt được mục tiêu đề ra trong hoạt động giáo dục mầm
non.
1.4. Đặc điểm phát triển tâm sinh lý lứa tuổi mâm non
1.4.1. Đặc điểm phát triển tâm sinh lý lứa tuổi nhà trẻ
1.4.1.1. Hoạt động với đồ vật là hoạt động chủ đạo
- Tuổi nhà trẻ, mối quan hệ của trẻ với đồ vật có chức năng nhất định và phương
thức sử dụng tương ứng, với sự hướng dẫn của người lớn trẻ hướng hoạt động của
mình vào việc nắm cách sử dụng đồ vật và ngày càng giống với cách sử dụng đồ vật
của người lớn-gọi là hoạt động với đồ vật(hoạt động có đối tượng).
- Hoạt động chủ đạo của tuổi này là hoạt động có đối tượng vì nhờ nó các chức
năng của đồ vật lần đầu tiên được bộ lộ và đồ vật trở thành đối tượng thu hút sự chú ý
của trẻ, giúp trẻ khám phá tìm tịi,nhờ đó tâm lý trẻ phát triển mạnh đặc biệt phát triển
trí tuệ.
- Điều quan trọng khi lĩnh hội những hành động sử dụng đồ vật trẻ lĩnh hội
những qui tắc hành vi trong xã hội.Đồ chơi đối với trẻ rất cần thiết giúp trẻ khám phá
chức năng và phương thức sử dụng,tuy nhiên người lớn cần mạnh dạn cho trẻ tiếp xúc
vật thật và đồ chơi có nhiều thao tác nhằm kích thích trẻ hành động.
1.4.1.2. Sự phát triển ngơn ngữ của trẻ nhà trẻ
- Ở giai đoạn này, trẻ nảy sinh nhu cầu giao tiếp với người lớn bằng ngôn ngữ
đồng thời với sự phát triển nhu cầu giao tiếp bằng ngơn ngữ, việc tích luỹ các biểu
tượng do hoạt động với đồ vật mang lại có ý nghĩa lớn đối với sự phát triển ngôn ngữ
của trẻ. Các biểu tượng đó tạo cơ sở để lĩnh hội nghĩa của các từ và liên kết chúng với
hình ảnh của các sự vật, hiện tượng xung quanh. Ngôn ngữ của trẻ phần lớn phụ thuộc

vào sự dạy bảo của người lớn. Để kích thích trẻ nói người lớn cần địi hỏi trẻ phải bày
tỏ nguyện vọng của mình bằng lời nói.
- Ngơn ngữ của trẻ phát triển theo hai hướng chính: Hồn thiện sự thơng hiểu lời
nói của người lớn và hình thành ngơn ngữ tích cực riêng của đứa trẻ.
10


- Hoạt động với đồ vật của trẻ càng phong phú thì giao tiếp với người lớn càng
được mở rộng thúc đẩy trẻ lĩnh hội ngơn ngữ và kích thích trẻ nói, đây là thời kỳ phát
cảm ngơn ngữ.Trẻ ln địi hỏi biết tên đồ vật và cố gắng nói để hỏi tên đồ vật đó, khi
gọi đứng tên đồ vật hiện tượng xung quanh trẻ rất thích thú ,vốn từ được mở rộng và
phát âm ngày chính xác hơn .
- Ở tuổi này, trẻ nói cịn lệch âm, vốn từ ít, chưa nắm vững ngữ pháp ( hiện
tượng nói ngược). Đến 3 tuổi, ngôn ngữ của trẻ phát triển mạnh giúp trẻ phát triển các
hình thức ngữ pháp, trẻ nói được những câu phức tạp.Ngơn ngữ đã trở thành một
phương tiện giao tiếp, phát triển các chức năng tâm lý.
1.4.1.3. Phát triển trí tuệ của tuổi nhà trẻ
Cuối tuổi hài nhi, trẻ bắt đầu tri giác thuộc tính của đồ vật xung quanh nắm được
các mối quan hệ đơn giản nhất giữa những đồ vật. Cuối tuổi nhà trẻ, do nắm vững
hoạt động với đồ vật và mở rộng giao tiếp ngơn ngữ tạo điều kiện phát triển trí tuệ.
Những dạng hành động tri giác, tư duy đang hình thành là biểu hiện rõ rệt nhất của sự
phát triển trí tuệ.
- Sự phát triển tri giác và sự hình thành những biểu tượng về các thuộc tính của
các đồ vật.
+ Tuổi ấu nhi, tri giác còn sơ sài, trẻ mới chỉ nhận được các dấu hiệu nào đó của
đồ vật, có tính chất ngẫu nhiên bề ngồi.Tri giác trẻ được đầy đủ dần nhờ trẻ nắm
được hoạt động với đồ vật, lĩnh hội phương thức sử dụng và tri giác kích thước hình
dáng của nó, trẻ lựa chọn liên kết các đối tượng cho phù hợp với hình dáng, độ lớn,
màu sắc, vị trí của chúng trong khơng gian. Đó là những hành động định hướng bên
ngồi,tạo tiền đề thiết lập những hành động định hướng bên trong sau này.

+ Trẻ cần được sự hướng dẫn của người lớn,giúp trẻ sử dụng các đồ chơi có các
thao tác tháo lắp các bộ phận để trẻ so sánh lựa chọn phù hợp, hình thành những hành
động định hướng bên ngồi nhằm tìm hiểu các thuộc tính của đối tượng .

11


+ Dần dần kiểu tri giác mới hình thành, trẻ dùng mắt để lựa chọn đối tượng phù
hợp hành động, đó là hành động bằng mắt được phát triển mạnh tuổi lên 3. Hành động
định hướng bằng mắt giúp trẻ tích luỹ nhiều biểu tượng về các đối tượng và so sánh
các vật khác. Cần cho trẻ làm quen với tính đa dạng của đồ vật như phân biệt màu,các
hình...
+ Tri giác bằng tai phát triển, trẻ tri giác mối quan hệ giữa các âm thanh theo độ
cao, cần giúp trẻ bằng các bài hát đơn giản, hấp dẫn và chỉ cho trẻ phân biệt những âm
thanh có độ cao khác nhau phát ra từ những đội tượng quen thuộc
- Phát triển tư duy của tuổi nhà trẻ:
Cuối tuổi hài nhi trẻ đã biết sử dụng mối liên hệ giữa các đối tượng để đạt mục
đích như kéo rổ để lấy quả cam đựng trong đó. Đến tuổi nhà trẻ, trẻ đã biết xác lập
các mối quan hệ chưa có sẵn giữa các đồ vật để giải quyết nhiệm vụ như lấy gậy khều
quả bóng rơi vào gầm bàn .
Người lớn cần đưa ra những mẫu hành động cho trẻ bắt chước, trẻ còn biết xác
lập những mối liên hệ mới giữa các đối tượng nhờ việc thử thực tế với những hành
động bằng tay, gọi là tư duy trực quan - hành động nhờ đó tâm lý bên trong như trí
nhớ, tư duy, tưởng tượng hình thành.
Cuối tuổi nhà trẻ bắt đầu xuất hiện hành động tư duy được thực hiện trong óc ( tư
duy trực quan - hình tượng) như lấy vật trên cao trẻ có thể dự đốn là dùng que để
khều.
Trong sự hợp nhất trong óc những đồ vật ,hành động có những dấu hiệu bề ngồi
giống nhau, việc lĩnh hội các từ giữ vai trị quan trọng vì ý nghĩa của từ mà người lớn
dạy cho trẻ được dùng với ý nghĩa khái quát như từ đồng hồ chỉ các loại đồng

hồ.Người lớn cần giúp trẻ nhận ra tên gọi chung cho nhiều đồ vật cùng công dụng .
Đặc điểm phát triển tư duy của trẻ gắn liền với hoạt động với đồ vật, quan trọng
là việc thực hiện những hành động công cụ.
1.4.1.4. Xuất hiện tiền đề của sự hình thành nhân cách
12


- Sự hình thành thế giới nội tâm
Trẻ lên 2 tuổi đã có thể hành động dưới ảnh hưởng của những ấn tượng trực tiếp
bên ngồi và của những mơ hình được giữ lại trong trí nhớ làm cho thế giới nội tâm
được hình thành, hành vi của trẻ được cải tiến.Trí nhớ lúc này giúp trẻ tìm thấy vị trí
của mình trong thế giới đồ vật và những người xung quanh,trẻ bắt đầu nhận ra mối
quan hệ giữa quá khứ, hiện tại ,tương lai. Trẻ bắt đầu hình thành một cấu tạo tâm lý
bên trong có tác dụng chi phối hành vi của nó tức là xuất hiện động cơ,trẻ hành động
chưa có động cơ rõ ràng.
Thế giới nội tâm qui định thái độ riêng của trẻ khi tiếp nhận tác động bên ngoài
và tác động giáo dục của người lớn.Trẻ tiếp nhận tác động đó tuỳ theo tác động đó
đáp ứng các nhu cầu, hứng thú đã hình thành ở trẻ từ trước.Về sau trẻ mới hình thành
những đặc điểm tâm lý giúp trẻ phối hợp các loại động cơ với nhau, làm cho động cơ
này phục tùng động cơ khác.
Một đặc điểm nổi bật trong hành vi của trẻ là hành động bộc phát do ảnh hưởng
của tình cảm và ý muốn nảy sinh từ hồn cảnh trực tiếp vì thế hành vi của trẻ phụ
thuộc vào hoàn cảnh bên ngoài.Người lớn cần dỗ trẻ bằng cách đưa cho trẻ đồ chơi
kích thích sự chú ý của trẻ.
Trẻ đã thực hiện những hành động hướng tới những mục đích được chỉ ra bằng
lời nói nhưng trẻ thường không làm đến nơi theo ý ban đầu ,thế giới nội tâm của trẻ
tuy đã hình thành nhưng chưa ổn định.
Tuổi hài nhi trẻ bắt đầu có tình u đối với những người gần gũi ,đến tuổi nhà trẻ
tình yêu đó có thêm hình thái mới ,trẻ mong được khen ngợi và sợ khi người lớn tỏ ra
khơng bằng lịng, trẻ bộc lộ thiện cảm bằng cách dỗ dành chia sẻ đồ chơi cho bạn. Lời

khen của người lớn giúp hình thành tình cảm tự hào của trẻ nhờ đó trẻ ln cố gắng
làm việc tốt, trẻ cịn xuất hiện tình cảm xấu hổ, cần giáo dục tốt giúp tình cảm trẻ phát
triển mạnh thúc đẩy thực hiện hành động tốt.
- Sự xuất hiện tự ý thức của tuổi nhà trẻ
13


Điểm quan trọng nhất trong sự phát triển của trẻ là lúc trẻ bắt đầu ý thức được
mình , trẻ nhận ra cái "tôi"như khi xưng hô .Trẻ nhận ra tên gọi của mình là gắn liền
với bản thân như một nhân cách.Trẻ đã có khả năng tự mình thực hiện những hành
động với đồ vật ,có thói quen tự phục vụ trong trường hợp đơn giản ý thức này bộc lộ
khi trẻ biết bắt đầu nói đến mình theo ngôi thứ nhất như "con" ,"cháu", "em"...
Hoạt động của trẻ hướng tới thế giới bên ngoài và hướng tới bản thân mình ,bắt
đầu tự nhận thức như trẻ muốn thực hiện các hành động với đồ vật và chú ý sự thay
đổi mà trẻ tạo ra như tắt bật đèn, nhờ giao tiếp bằng ngôn ngữ quan hệ của trẻ càng
được mở rộng giúp trẻ nhận ra mình là một chủ thể.Trẻ tự tìm hiểu cơ thể mình mang
lại cho trẻ những tri thức và kinh nghiệm để hình thành sự tự ý thức.
Trẻ biết tự nhận xét mình nghe theo lời của người lớn và sau đó tự liên hệ mình
với các nhân vật trong truyện, cần khuyến khích trẻ làm theo yêu cầu của mình .
Mong muốn được khen trở thành nhu cầu và cố gắng để đạt được nhờ đó trẻ có thể bỏ
tính xấu học tính tốt , khả năng này còn hạn chế , người lớn cần kiên trì, nhắc nhở
nhiều lần để trẻ làm xong phần việc được giao .Trẻ được giáo dục tốt luôn muốn trở
thành bé ngoan dẫn đến sự phát triển lòng tự trọng làm cho hành vi của trẻ trở nên tốt
đẹp.Trẻ còn muốn hiểu về bản thân trong quá khứ và mong muốn trong tương lai , cần
dạy trẻ biết liên hệ hành vi đã có ,hiện có và sẽ có là phương hướng quan trọng giúp
trẻ phát triển về mặt xã hội .
1.4.1.5. Nguyện vọng độc lập và khủng hoảng của tuổi lên 3
Khi trẻ "tách" mình khỏi người lớn và có ý thức về khả năng chính mình đồng
thời xuất hiện thái độ mới với người lớn.Trẻ muốn giống và làm như người lớn, muốn
độc lập tự chủ như trẻ hay nói: "Con tự rửa tay..." Đây là dấu hiệu của sự trưởng thành

nhưng lại xuất hiện tính bướng bỉnh do muốn làm theo ý mình, muốn dành mọi vật về
mình. Người lớn cần tơn trọng tính độc lập của trẻ và biết cách hướng dẫn trẻ tự làm
một số việc đơn giản thì trẻ vẫn biết vâng lời mà tính độc lập vẫn phát triển. Nếu được
giáo dục đúng đắn ,người lớn kịp thời nhận thấy những khả năng mới của trẻ và thoả
14


mãn nhu cầu muốn độc lập tự chủ, tạo ra những hình thức hoạt động mới, quan hệ
mới với người lớn thì sự khủng hoảng sẽ được rút ngắn và vượt qua một cách nhẹ
nhàng .
Sự tách được bản thân mình ra khỏi người khác, sự tự nhận thức về mình, mong
muốn độc lập tự chủ là một bước ngoặt trong sự phát triển tâm lý, tạo tiền đề cho sự
hình thành nhân cách giai đoạn tiếp theo.
1.4.2. Đặc điểm phát triển tâm sinh lý lứa tuổi mẫu giáo
1.4.2.1. Sự phát triển tâm lý
Đây là giai đoạn phát triển của cảm giác, tri giác, tưởng tượng, tư duy, ngôn ngữ
mạnh mẽ.
- Theo Piaget, khi trẻ lên 4 tuổi, có một sự chuyển biến trong tư duy. Tư duy
của trẻ lúc này có mang màu sắc của sự suy luận dựa trên những biểu tượng cụ thể về
thế giới khách quan. Những suy luận này gắn chặt với hành động, bị chi phối bởi
những ý nghĩ chủ quan, còn chưa xác đáng. Ví dụ: nước biển mặn vì người ta bỏ muối
vào, những người mặc áo bơ-lu trắng đều là bác sĩ… Tuy nhiên đây là công cụ mạnh
mẽ giúp trẻ nhận thức thế giới xung quanh, tích lũy phong phú các biểu tượng bảo
đảm cho việc chuyển sang loại tư duy tiền thao tác ở giai đoạn sau.
- Vào 5 - 6 tuổi ngôn ngữ của trẻ mẫu giáo phát triển mạnh, đạt chất lượng cao
cả về mặt phát âm, vốn từ và những hình thức ngữ pháp. Điều cần lưu ý là quá trình
tưởng tượng phát triển rất mạnh ở lứa tuổi này, thể hiện trong trò chơi, trong các bức
vẽ, trong các câu chuyện "bịa" của trẻ. Các trò chơi phân vai theo chủ đề giúp trẻ
tưởng tượng ra nhiều nhân vật đặc sắc.
- Trí tưởng tượng của trẻ đầu tuổi mẫu giáo chủ yếu là không chủ định. Những gì

làm trẻ xúc động mạnh sẽ trở thành đối tượng của tưởng tượng. Do ảnh hướng của trò
chơi, trẻ "sáng tác" những truyện cổ tích, nhiều trẻ khi "sáng tác" mà chưa biết câu
truyện của mình sẽ nói về cái gì. Trí tưởng tượng có chủ định hình thành ở trẻ mẫu
giáo lớn trong quá trình phát triển các dạng hoạt động sáng tạo (vẽ, nặn, thiết kế trong
15


xây dựng và kể chuyện). Trong các hoạt động này có sự điều chỉnh hành vi của trẻ
bằng ngơn ngữ (Trẻ tự nghĩ ra khúc cuối của một câu chuyện, sáng tác truyện theo
chủ đề, vẽ tranh theo mục đích đặt ra từ trước).
1.4.2.2.Sự phát triển về mặt tương tác môi trường xã hội
Trẻ mẫu giáo bắt đầu đi học nên mối liên hệ xã hội của trẻ có những thay đổi
quan trọng. Hoạt động cùng nhau ở giai đoạn trước được thay thế bằng việc thực hiện
những nhiệm vụ độc lập theo những lời chỉ dẫn của người lớn. Trẻ phải hoàn thành
một số nghĩa vụ sơ đẳng đối với bản thân và những người xung quanh. Trẻ một mặt
ngày càng tách mình ra khỏi người lớn, mặt khác muốn bắt chước để xử sự như người
lớn. Trẻ phân biệt được đồ vật của mình, việc làm của mình với đồ vật, việc làm của
người khác: "Cái này của con, cái đó của mẹ", "Mình làm việc này, bạn làm việc
khác”. Như vậy, trong suốt tuổi mẫu giáo "cái tôi" phát triển mạnh và dần dần trở
thành ý thức về bản thân.
1.4.2.3. Sự hình thành nhân cách
Nhân cách là tổ hợp các thuộc tính tâm lý ổn định và tuổi mẫu giáo là tuổi xây
nền nhân cách. Nhìn vào trẻ, người ta có thể biết được cá tính của nó ra sao. Nhân
cách của trẻ được hình thành qua bắt chước và qua sự giáo dục của người lớn. Nếu
người lớn chuẩn mực, trẻ bắt chước được điều hay. Nếu người lớn giáo dục đúng
cách, trẻ sẽ có nhiều đức tính tốt.
Tính cách của trẻ mẫu giáo thể hiện qua:
- Hành động hợp đích: Trẻ ráng ăn để được đi chơi
- Các loại tình cảm cấp cao khác với con vật ở cấp thấp:
+ Tình cảm đạo đức: những rung cảm, xúc cảm của con người trên những hành

vi đạo đức. Trẻ có thái độ tương ứng đối với hành vi - tốt thì khen ngợi, tự hào; xấu
thì chê bai, căm ghét. Trẻ bắt đầu có tiếng nói lương tâm, lương tri (trẻ ghét các nhân
vật ác trong phim, trong kịch). Nếu bị hạn chế, sự phát triển nhân cách về sau sẽ tệ

16


hại. Ví dụ trẻ dỗ dành bạn bằng cách cho đồ chơi và bị bố mẹ mắng là ngu thì tình
cảm đạo đức bị giập tắt. Về sau, trẻ có thể vơ cảm, khơng có tình người
+ Tình cảm trí tuệ: Trẻ thích tìm hiểu thế giới xung quanh, tự khám phá, đặt
nhiều câu hỏi (búp bê có mỏi mắt khơng, tại sao con gà lại chỉ có hai chân trong khi
con chó lại có bốn chân?.)
+ Tình cảm thẩm mỹ: Trẻ đều cảm nhận được và có thái độ trước cái đẹp, cái
xấu, cái bi, cái hài, cái hào hùng. Đẹp - trầm trồ, xấu - gớm, anh hùng - ngưỡng mộ,
làm theo, hài - cười, bi - buồn
1.4.2.4. Hoạt động vui chơi
Vui chơi là hoạt động chủ đạo ở tuổi mẫu giáo. Trong trò chơi, trẻ thể hiện ước
vọng làm người lớn. Chúng phân vai theo chủ đề (ví dụ trị bác sĩ - bệnh nhân, cơ giáo
- học trị, ba - mẹ - con…) và mơ phỏng theo đời sống lao động của người lớn cùng
với những mối quan hệ xã hội của họ. Chính trong khi vui chơi, trẻ nhận ra những
nghĩa vụ, quyền hạn của con người trong xã hội, học các đức tính tốt và các kỹ năng
(ví dụ sự đồng cảm, lịng nhân ái, tính tự lập, hợp tác, chủ động, lãnh đạo….). Các
hoạt động mang tính mỹ thuật, tạo ra sản phẩm nhất định (ví dụ như vẽ, nặn, ghép
hình, xây dựng….) cũng rất quan trọng, góp phần hình thành và phát triển trí tuệ,
năng lực sáng tạo, óc thẩm mỹ và nhân cách ở giai đoạn này.
1.4.2.5. Hoạt động học tập và lao động
- Ở lứa tuổi mẫu giáo, hoạt động học tập đang ở thời kì sơ khai. Trẻ được tiếp thu
một lượng tri thức chung về thế giới xung quang do trực tiếp nhìn, nghe, qua tranh
ảnh, chuyện kể… Những tri thức này làm nảy sinh tính ham hiểu biết, hứng thú nhận
thức nơi trẻ mà biểu hiện của nó là việc trẻ khơng ngừng đặt câu hỏi. Tuy nhiên cần

chú ý rằng hoạt động học tập của trẻ ở giai đoạn này chưa đặt nặng vấn đề cung cấp
kiến thức và mà chỉ chuẩn bị cho trẻ các kỹ năng học tập về sau (lắng nghe, chú ý, giữ
trật tự….). Vì thế khơng nên thúc giục trẻ học quá sớm.

17


- Trẻ mẫu giáo thực hiện các nhiệm vụ lao động đơn giản: lao động tự phục vụ
(để dép lên kệ, xếp ghế, lau mặt, đánh răng,..), lao động phụ giúp người lớn (bê thức
ăn, dọn bàn…), chăm sóc cây cối, vật nuôi, làm các đồ vật và đồ chơi đơn giản (bằng
giấy, vải vụn, hột hạt…). Lao động có những ý nghĩa nhất định cho sự phát triển nhân
cách về sau. Qua lao động trẻ học cách hợp tác, quan tâm và chia sẻ trách nhiệm. Trẻ
ham làm thì chừa thói xấu, lười biếng, ỷ lại và biết được giá trị sức lao động
Chương 2. MỘT SỐ BIỆN PHÁP XỬ LÝ TÌNH HUỐNG
SƯ PHẠM TRONG TRƯỜNG MẦM NON
2.1. Tìm hiểu tâm lý chung của nhóm trẻ để có thể đưa ra cách thức giao tiếp
phù hợp
Dù ở nhà hay ở trường, trẻ em ln thích được chiều chuộng, khun nhủ
nhẹ nhàng. Vì vậy, trước khi giao tiếp với nhóm đối tượng nào thì giáo viên mầm
non phải tìm hiểu tâm lý chung của nhóm để có thể đưa ra cách thức giao tiếp phù
hợp. Hiểu được tâm lý và có kỹ năng giao tiếp với trẻ như việc khen trẻ một cách
khéo léo và thông minh, tránh làm tổn thương lòng tự trọng của trẻ và giúp trẻ nhận
ra lỗi sai của mình sẽ giúp trẻ ngoan ngỗn và hợp tác hơn trong quá trình dạy học.
2.2. Tạo cho lớp học có khơng khí đầm ấm như ở gia đình, gần gũi, yêu thương
trẻ
Trẻ em lứa tuổi mầm non còn rất non nớt, ngây thơ và trong sáng. Những mầm
non ấy cần được người lớn chăm sóc, ni dưỡng cả về thể chất lẫn tâm hồn bằng tất
cả tình yêu thương. Trẻ đến trường và coi cô là người mẹ hiền thứ hai của trẻ. Vậy cô
giáo mầm non phải làm gì để trở thành người mẹ hiền thứ hai của trẻ? Làm thể nào để
trẻ được yêu thương và tôn trọng? Để làm tốt được những điều này thì quả là khơng

dễ dàng gì bởi nghề giáo viên mầm non có nhiều khó khăn đặc thù riêng so với các
cấp học khác. Chúng ta phải yêu nghề, yêu trẻ thì mới có động lực làm tốt mọi cơng
việc hàng ngày ở trường.
Cô giáo cần yêu thương trẻ như con đẻ của mình. Hãy chăm sóc từng bữa ăn,
giấc ngủ của trẻ như chăm cho chính con đẻ của mình. Bằng nhiều cách khác nhau,
giáo viên phải biết tạo cho lớp học có khơng khí đầm ấm như ở gia đình, gần gũi, yêu
18


thương trẻ bằng những hành động nhỏ của cô như ôm ấp, vỗ về trẻ khi trẻ khóc, nựng
trẻ khi trẻ biếng ăn, hay chải tóc, sửa lại quần áo cho trẻ… Khi trẻ cảm nhận được
tình thương của cơ trẻ sẽ cảm thấy không bị hụt hẫng khi phải xa gia đình và thích đến
trường hơn. Đặc biệt hãy gần gũi hơn với những trẻ còn nhút nhát để trẻ được tự tin
giao tiếp, hịa đồng với cơ và bạn bè. Có như vậy mới khơng cịn có cảm giác xa lạ
giữa cô và trẻ.
2.3. Luôn tôn trọng, đối xử công bằng và không xúc phạm thân thể trẻ
Trẻ ở lứa tuổi này trẻ rất hiếu động, nhạy cảm, đơi khi ương bướng, khó bảo,
thích làm theo ý mình mà không làm theo lời cô. Là giáo viên bạn hãy biết kiên nhẫn,
kiềm chế bản thân, chia sẻ với trẻ để nắm được nguyện vọng của trẻ. Từ đó, vừa dạy
vừa dỗ bằng cách định hướng, chỉ cho trẻ biết được những việc nên làm và những
điều trẻ không lên làm. Tránh những mệnh lệnh khô cứng và những biện pháp mạnh
như mắng chửi, dọa nạt trẻ và tuyệt đối không dùng vũ lực bạo hành trẻ để trẻ sợ.
Luôn luôn lắng nghe, tôn trọng và đáp ứng nhu cầu chính đáng của trẻ. Đối xử
cơng bằng, quan tâm đến mọi trẻ trong lớp. Giáo viên phải giao tiếp, ứng xử với trẻ
bằng hành vi, thái độ, cử chỉ nhẹ nhàng và thái độ cởi mở, vui tươi. Hãy giành những
lời khen cho trẻ để khích lệ, động viên trẻ hứng thú tham gia các hoạt động ở lớp học.
2.4. Phối hợp với cha mẹ trẻ để cùng có biện chăm sóc giáo dục trẻ phù hợp
Việc phối hợp với cha mẹ trẻ trong việc giáo dục trẻ là rất quan trọng. Nếu
khơng có sự phối hợp tốt giữa cha mẹ trẻ và nhà trường, khơng có sự thống nhất về
nội dung, phương pháp và mục tiêu giáo dục thì rất khó nâng cao chất lượng chăm sóc

các cháu.
Thí dụ, ở trường, các cơ giáo rèn luyện tính tự lập cho trẻ nhưng khi về nhà, bố
mẹ lại nuông chiều thì khó đạt được mục tiêu giáo dục. Vì vậy, nếu có sự thống nhất
giữa nhà trường và gia đình thì việc giáo dục, chăm sóc các cháu sẽ đạt được hiệu quả
tốt.

19


2.5. Không ngừng học hỏi nâng cao khả năng xử lý các tình huống sư phạm
Khơng ngừng học hỏi nâng cao khả năng xử lý các tình huống sư phạm bằng con
đường học tập các điển hình, học hỏi đồng nghiệp và đúc rút kinh nghiệm qua
thực tế, không được chủ quan, tự mãn hoặ lo sợ, tự ti.
Chương 3. MỘT SỐ TÌNH HUỐNG ỨNG XỬ SƯ PHẠM
TRONG HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC MẦM NON
3.1. Trẻ khơng thích đi học
3.1.1. Phân tích tình huống
Trường mầm non là trường học đầu tiên trong đời của bé. Những cảm giác về
trường học, về cô giáo, về bạn bè trong gia đoạn này rất quan trọng vì đó là ấn tượng
ban đầu nên rất sâu sắc.
Có thể nói, đây là lần đầu tiên trong đời con phải xa bố mẹ, bước vào một môi
trường hoàn toàn mới mẻ, gặp gỡ những người hoàn toàn xa lạ mà khơng có bố mẹ
hay người thân nào ở bên. Để con đỡ bỡ ngỡ, bớt hoang mang, sợ hãi, bố mẹ nên có
sự chuẩn bị tâm lý thật tốt cho con. Bố mẹ chuẩn bị tốt chừng nào thì con sẽ nhanh
thích nghi với mơi trường mới chừng đó. Có nhiều bé đi học lâu rồi nhưng sáng nào
đến lớp cũng khóc, cũng bám bố mẹ. Có bạn 4 tuổi rất cao lớn nhưng mẹ vừa đưa đến
trường là cắp ba lô chạy ngược trở lại vừa chạy vừa khóc.Có bạn khơng chịu vào lớp
bị bố lơi xềnh xệch vào trường vừa quát vừa đánh.Tại sao lại như vậy ? Có rất nhiều
nguyên nhân chủ quan và khách quan khiến bé cảm thấy sợ hãi khi đến trường.
3.1.2. Nguyên nhân

- Nguyên nhân chủ quan từ phía gia đình:
+ Trẻ trở nên nhút nhát, sợ hãi là do cách giáo dục của cha mẹ. Nhiều bố mẹ rất hay
dọa nạt con, chọn một vài người có tướng thật dữ, có giọng thật to để quát nạt cho con
sợ, cho con nín khóc hay ép con ăn, dỗ cho con ngủ. Khi con muốn ra ngoài chơi, bố
mẹ lại dọa ma, dọa ông ba bị, ngáo ộp, chú công an hay mẹ mìn chun bắt cóc trẻ
con đang ở ngồi đó… Bố mẹ khiến con trẻ phải n lặng, phục tùng trong nỗi sợ hãi
và căm ghét người khác, khiến con trở nên nhút nhát, cứ thấy người lạ là sợ.
20


- Với con chỉ có ở bên bố mẹ, trong nhà mình con mới thấy tự tin và thoải mái.
Bố mẹ muốn con chơi vui, biết chia sẻ với bạn nhưng lại hay dọa con như: nếu con
không ăn nhanh thì bạn nọ, bạn kia sẽ ăn mất, nếu con khơng cất gọn đồ chơi vào thì
bạn A, bạn B sẽ lấy mất. Bố mẹ luôn tạo cho con cảm giác mất mát nên con có xu
hướng muốn giữ cho riêng mình. Như vậy, con có sẵn sàng chia sẻ với mọi người
được không?
- Nhiều bố mẹ hay lừa con. Muốn nhờ ai đó trơng con cho mình đi việc nọ việc
kia nhưng lại khơng nói thật với con, thuyết phục con mà lừa con, chờ cho con mải
xem, mải chơi cái gì rồi trốn đi. Khi con quay lại chẳng thấy bố mẹ đâu mà chỉ có
người lạ khiến con trở nên hoảng loạn, sợ hãi và khóc. Tệ hơn nữa là nhiều hàng xóm,
bà con cịn lừa trẻ bằng cách nói với trẻ rằng “bố mẹ cháu đi ln rồi, khơng về đón
cháu nữa đâu hoặc bố mẹ gửi cháu cho bác nuôi rồi, ở đây với bác nhé…”. Mọi người
nghĩ chỉ là trêu cho bé khóc, khóc tí rồi nín nhưng họ có biết họ đã gây ra sự tổn hại
rất lớn trong tâm hồn non nớt của trẻ. Con đã bị tổn thương về mặt tâm lý và nghĩ
rằng bố mẹ đã bỏ rơi con, con sẽ mất dần niềm tin vào bố mẹ. Vì vậy, con càng bám
bố mẹ hơn.
- Bố mẹ muốn con vui vẻ đi học, thay vì kể với con ở trường có gì vui, có gì chơi
thì bố mẹ lại mang trường học và cơ giáo ra làm hình phạt mỗi khi con làm gì sai. Ví
dụ: nhiều bố mẹ dọa con là: Nếu con mà không ngoan là bố mẹ cho con đến lớp. Hoặc
nếu con không ăn nhanh mẹ sẽ nhờ cô A, cô B đến xúc cho con, ăn chậm cơ phạt…

Bố mẹ đang làm méo mó hình ảnh trường học và cơ giáo trong tâm trí con. Con cảm
thấy trường học thật kinh khủng thì làm sao mà con thích đến trường được.
- Nguyên nhân khách quan từ phía nhà trường, cơ giáo và bạn bè:
+ Mơi trường học mới chưa tạo cho trẻ cảm giác yên tâm, thoải mái, hạnh phúc
cũng là một rào cản khiến trẻ không muốn đến trường.
+ Cách giao tiếp của cô giáo cũng ảnh hưởng rất nhiều đến việc trẻ có vui vẻ khi
đến lớp không.
21


3.3. Cách xử lý
- Cô giáo trao đổi với phụ huynh để hiểu vấn đề trẻ đang đối diện. Cô giáo tư vấn
cho phụ huynh một số biện pháp giúp trẻ tự tin khi đến trường:
+ Bố mẹ nên thay đổi cách dạy con, cách giao tiếp với con. Đừng dọa nạt, đánh
mắng con. Hãy chuẩn bị tinh thần thật tốt cho con trước khi con đi học. Với những bé
mới bắt đầu đi nhà trẻ, bố mẹ nên có 1 khoảng thời gian làm bước đệm. Bố mẹ đọc
sách, truyện vì sao các em bé phải đến trường: ở trường có nhiều bạn, có nhiều đồ
chơi đẹp. Cơ giáo dạy con hát, dạy con đọc thơ, kể chuyện… Bố mẹ nên cho con đến
trường chơi các trò chơi trong sân trường, để con làm quen với môi trường mới, nếu
có thể thì xin cơ giáo cho con vào lớp 1 lúc để con thăm quan, nhìn ngắm đồ chơi,
nhìn các anh/ chị chơi vui với nhau… có như vậy, con sẽ cảm thấy lớp học trở nên
gần gũi và thân quen hơn. Sau này đi học, con đỡ có cảm giác lạ lẫm.
+ Bố mẹ nên dần dần thay đổi giờ giấc sinh hoạt (giờ ăn, giờ ngủ) của con cho
phù hợp với thời gian biểu ở lớp để con quen dần, rèn cho con thói quen tự xúc
ăn.Trước hơm đi học, bố mẹ có thể đưa con đi mua ba lơ, khăn mặt, nếu con có một
con thú bơng cưng nào có thể giúp con n tâm hơn, bố mẹ cũng có thể cho con mang
theo.
+ Bố mẹ nên nói với con về những gì bố mẹ và con sẽ làm vào ngày mai như:
con sẽ ăn sáng, ăn xong bố mẹ sẽ đưa con đến lớp. Con sẽ chơi thật vui với các bạn,
chiều bố mẹ sẽ đón con về, sẽ cho con chơi các trị chơi trong sân trường. Mặc dù con

mới bắt đầu đi học nhưng bố mẹ nên cho con học cả ngày, con sẽ nhanh quen hơn là
chỉ học nửa buổi. Vì thơng thường, con chỉ khóc lúc mới đến lớp, sau đó con sẽ làm
quen với các bạn và chơi đồ chơi. Điều quan trọng là bố mẹ nên truyền cho con một
thông điệp rằng bố mẹ rất yêu con, bố mẹ tin rằng con là một em bé ngoan, con sẽ đi
học ngoan, học vui để bố mẹ yên tâm đi làm kiếm tiền ni con, chiều bố mẹ đón con
sớm.

22


- Cơ giáo nên có những hành vi chăm sóc cụ thể với trẻ như nở nụ cười khi đón
trẻ, ôm trẻ vào trong lòng khi trả trẻ v.v… việc làm này của cô giáo giúp cho bé yên
tâm tạm thời xa mẹ, tránh đi sự lo lắng căng thảng ở trẻ.
- Cơ giáo và gia đình nên tăng cường hơn cho trẻ hoạt động trước đám đông, với
những môi trường mới. Việc làm này sẽ giúp cho trẻ hình thành sự tự tin và các kỹ
năng xã hội cần thiết được hình thành.
3.2. Trẻ đánh bạn nhưng khơng chịu nhận lỗi
3.2.1. Phân tích tình huống
- Trẻ mẫu giáo đánh nhau thường ít khi xuất phát từ sự thù hận, cố tình mà chỉ là
cách bộc phát sự tức giận. Chúng đang chơi có bạn giành mất đồ chơi, chúng tức giận
giành lại hoặc xơ bạn, đánh bạn... Đó là điều hồn tồn tự nhiên vì trẻ hầu như chưa
biết những cách tích cực hơn để xử lí cảm xúc và giải quyết vấn đề như thương lượng,
nói chuyện, nhờ người khác giúp… nên chỉ còn biết dùng cách bản năng nhất: tay
chân mà chưa biết nghĩ đến hậu quả, cảm xúc của người khác.
- Những trận đòn giữa trẻ con với nhau thường ít khi để lại hậu quả gì nghiêm
trọng. Thường thì trẻ chỉ đẩy bạn, lấy tay đánh bạn hoặc tiện đang cầm cái gì thì gõ
ln vào bạn… và cũng khơng có ý nghĩ là bạn đánh mình vì ghét mình và khơng
chơi với bạn nữa. Trẻ con thường bộc phát ngay lúc đó rồi lại có thể chơi với nhau vui
vẻ.
Chúng ta khơng nên làm nghiêm trọng vấn đề trẻ mầm non đánh nhau dưới cái

nhìn đạo đức, nhân cách. Điều cần giúp trẻ là tránh việc đánh nhau gây ra tổn thương
về cơ thể.
3.2.2. Nguyên nhân
- Ở mộ số trẻ nhỏ, việc đánh bạn trở thành một hành vi không ý thức, trẻ đánh
bạn do ảnh hưởng tập nhiễm từ bên ngoài như quan sát người khác đánh nhau, xem
phim, bị ảnh hưởng bạo lực gia đình v.v…vì vậy trẻ bắt chước tập nhiễm một cách vô
thức và trẻ cũng không ý thức được tính nguy hại khi đánh bạn.
23


-Trẻ mong muốn được người khác chú ý, quan tâm, cơng nhận giá trị của trẻ vì
vậy trẻ thể hiện bằng những hành vi tích cực hoặc tiêu cực, miễn sao được người khác
quan tâm.
3.2.3. Cách xử lý tình huống
- Cô không nên quát tháo, đánh, mắng trẻ mà thay vào đó cơ thể hiện thái độ và
hành vi khơng vui. Nếu có thể cơ u cầu để trẻ bắt tay và xin lỗi bạn và bảo trẻ bị
đánh bắt tay và nói đồng ý bỏ qua cho bạn. Việc làm này sẽ tạo ra một khơng khí đồn
kết, u thương trong lớp của trẻ. Điều này cũng làm mất đi những hành vi tiêu cực
của tất cả các bạn trong lớp.
- Cô giáo không nên cố gắng chứng minh việc trẻ đánh bạn như thế nào. Thay
vào đó, cơ tìm những hành vi tốt của trẻ để khích lệ trẻ, củng cố hành vi tích cực ở trẻ
sẽ dần mất đi hành vi tiêu cực ở trẻ.
- Cô giáo nói chuyện với phụ huynh về tình hình của trẻ, về việc đánh bạn trên
lớp, chia sẻ để gia đình cũng có cách ứng xử như cơ, để trẻ cảm thấy mình có giá trị,
được quan tâm nhiều hơn khi có những hành vi tích cực hay việc làm tốt.
3.3. Trẻ nhút nhát trước đám đơng
3.3.1. Phân tích tình huống
Trước tiên, chúng ta nên biết việc trẻ nhút nhát không có gì là bất thường. Đây
là tính cách xuất hiện hầu hết ở trẻ nhỏ từ 6 tháng đến 3 tuổi. Vì thế giới xung quanh
cịn q mới mẻ và lạ lẫm với chúng. Các bé sẽ có xu hướng gần gũi với những người

thân quen nhất. Trẻ cảm thấy gượng gạo và căng thẳng mỗi khi trở thành trung tâm
của sự chú ý. Kể cả khi đó là sự chú ý tích cực… Đó là lý do con nhút nhát.
Và theo lẽ tự nhiên, khi trẻ được hơn 3 hoặc 4 tuổi sẽ bắt đầu có nhu cầu vui chơi
và tương tác với bạn bè đồng trang lứa. Nhưng nếu lúc này tính nhút nhát vẫn tiếp tục
kéo dài, thì chúng ta cần có phương pháp tích cực để thay đổi trẻ.
Nhiều bé học hành rất thông minh. Khi ở nhà cùng ba mẹ thì nói năng trơi chảy
và tiếp thu rất nhanh. Thậm chí cịn hay vặn vẹo bố mẹ. Nhựng khi ra ngồi, hoặc có
24


khách tới chơi nhà thì trở nên rụt rè, hay sợ. Khơng hịa nhập cùng người khác
được.Có những trẻ lúc nhỏ thì vẫn mạnh dạn, tự nhiên, nhưng càng lớn càng thay đổi.
Nhút nhát và thụ động, dần trở nên thiếu tự tin.
Để rèn cho trẻ tính tự tin ở trẻ đòi hỏi giáo viên và bố mẹ cần phải kiên trì, nhẫn
nại trong một thời gian dài.
3.3.2. Nguyên nhân
- Trẻ nhút nhát do trẻ khơng có cơ hội để giao tiếp, trao đổi với các bạn xung
quanh từ nhỏ.
- Do người lớn làm giúp trẻ mọi việc dẫn đến chưa có được các kỹ năng xã hội
sớm, dẫn đến sự mất tự tin ở trẻ.
- Do một số trẻ khí chất yếu nên các em cũng thể hiện sự nhút nhát, ít giao tiếp,
thường sống thu mình, khép mình hơn.
- Một số cha mẹ hay thầy cô giáo mong muốn rèn được tính tự tin ở trẻ nhanh
nên đã nóng vội bắt trẻ rèn luyện, đối mặt với các tình huống căng thẳng để trẻ tự tin
hơn khiến trẻ lo lắng, sợ hãi và mất tự tin nhiều hơn.
3.3.3. Cách xử lý
- Cô nên dần dần từng bước cho trẻ đứng trước đám đơng để nói một điều gì đó.
Đầu tiên là đứng trước 1 – 2 bạn, sau đó đứng lên nhóm đơng hơn, khi trẻ tự tin hơn
thì mơi cho đứng trước cả lớp.
- Cơ nên khuyến khích khen ngợi ngay những điểm tích cực ở trẻ để giúp trẻ tự

tin hơn ở mình.
- Giao cho trẻ những công việc nhỏ phù hợp với trẻ như: dọn đồ chơi, cùng bạn
cắt dán bức tranh, giúp cô lau bàn,v.v… cơ để ý tìm ra những thế mạnh ở trẻ để trẻ
khuyến khích trẻ bằng cách mỉm cười, gật đầu tán thưởng, ra hiệu cố gắng…và nếu có
thể, cơ giáo nói với cả lớp cùng động viên để trẻ có thể tự tin hơn.

25


×