Tải bản đầy đủ (.doc) (97 trang)

Vận dụng các phương pháp dạy học tích cực vào giảng dạy phần triết học trong chương trình chính trị ở trường cao đẳng nghề

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.23 MB, 97 trang )

1
PHỤC LỤC
Trang
A. MỞ ĐẦU:..................................................................................................3
B. NỘI DUNG.............................................................................................10
Chương 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC VẬN
DỤNG CÁC PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC TÍCH CỰC VÀO GIẢNG DẠY
PHẦN TRIẾT HỌC TRONG CHƯƠNG TRÌNH CHÍNH TRỊ Ở TRƯỜNG
CAO ĐẲNG NGHỀ……………....................................................10
1.1. Lý luận chung về phương pháp dạy học tích cực:................................ 10
1.2. Thực trạng vận dụng các phương pháp dạy học tích cực vào giảng dạy
phần triết học trong chương trình chính trị ở trường cao đẳng nghề Việt Đức
– Hà Tĩnh......................................................................................................26
Chương 2. MỘT SỐ THỰC NGHIỆM SƯ PHẠM VỀ VIỆC VẬN
DỤNG CÁC PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC TÍCH CỰC VÀO GIẢNG DẠY
VÀ HỌC TẬP PHẦN TRIẾT HỌC TRONG CHƯƠNG TRÌNH CHÍNH
TRỊ Ở TRƯỜNG CAO ĐẲNG NGHỀ VIỆT ĐỨC – HÀ TĨNH……..……32
2.1. Chuẩn bị thực nghiệm...........................................................................32
2.2. Tiến hành thực nghiệm:.........................................................................34
Chương 3. MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ VÂN DỤNG
CÁC PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC TÍCH CỰC VÀO GIẢNG DẠY PHẦN
TRIẾT HỌC TRONG CHƯƠNG TRÌNH CHÍNH TRỊ Ở TRƯỜNG CAO
ĐẲNG NGHỀ VIỆT ĐỨC – HÀTĨNH……………….......54
3.1. Tiếp tục đổi mới nội dung, chương trình, giáo trình giảng dạy và học tập
cho giáo viên và sinh viên các trường cao đẳng nghề…........................54
3.2. Tăng cường công tác quản lý của nhà trường và các cấp quản lý giáo
dục…………………………………………......................…………...........55
3.3. Tăng cường cơ sở vật chất, trang thiết bị phục vụ giảng dạy và học tập
của giáo viên và sinh viên trong quá trình dạy học…………......................57



2
3.4. Nâng cao năng lực vận dụng các phương pháp dạy học tích cực và ý
thức nghề nghiệp cho đội ngũ giáo viên giảng dạy mơn chính trị nói chung
và giảng dạy triết học nói riêng………………………………………........59
3.5. Nâng cao tính tích cực, chủ động, sáng tạo của với người học đối với
mơn học chính trị nói chung và phần triết học nói riêng………..…..…..... 62
3.6. Đổi mới kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của sinh viên…..……….. 65
KẾT LUẬN.................................................................................................69
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.................................................72
NHỮNG CƠNG TRÌNH LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI ...........................76
PHỤ LỤC……………………………………………………..………….. 77


3
A. PHẦN MỞ ĐẦU:
1. Tính cấp thiết của đề tài.
Sự phát triển như vũ bão của cuộc cách mạng khoa học – công nghệ hiện
đại đang tạo ra sự bùng nổ thông tin trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội,
đòi hỏi con người phải nắm bắt thông tin để làm chủ và cải tạo thế giới. Từ đó
làm tăng thêm vai trị của nhà trường, các thầy cơ giáo và cả vị trí người học
trong q trình dạy học. Người học có thể tiếp nhận thơng tin từ nhiều kênh khác
nhau, nhà trường và giáo viên chỉ là một trong số các kênh đó. Vì vậy, đổi mới
phương pháp dạy học và vận dụng các phương pháp tích cực vào q trình giảng
dạy, học tập là yêu cầu khách quan.
Trên thế giới hình thức dạy học phát huy tính tích cực, năng động, sáng tạo
của người học được sử dụng từ rất sớm. Ở Việt Nam, do nhiều năm chiến tranh
kéo dài, việc thực hiện các phương pháp dạy học mới chậm hơn nhiều so với các
nước khác trong khu vực và trên thế giới. Do đó, nền giáo dục nước ta có sự
chậm trễ và lạc hậu hơn.
Để khắc phục nhược điểm đó, nhiều năm gần đây Đảng và Nhà nước đã

chủ trương “đổi mới phương pháp dạy học” theo hướng phát huy tính tích cực,
năng động, sáng tạo của người học. Thể hiện trong Nghị quyết Trung ương IV
(Khóa VII), Nghị quyết Trung ương II (Khóa VIII), các Chỉ thị, Nghị quyết của
Chỉnh phủ, của Bộ Giáo dục và Đào tạo… Cụ thể, Nghị quyết Trung ương II
(khoá VIII) của Đảng khẳng định: “đổi mới phương pháp giáo dục - đào tạo,
khắc phục lối truyền thụ một chiều, rèn luyện thành nếp tư duy sáng tạo của
người học. Từng bước áp dụng các phương pháp tiên tiến và phương pháp hiện
đại vào quá trình dạy học, đảm bảo điều kiện và thời gian tự học, tự nghiên cứu
cho học sinh, nhất là sinh viên đại học…”[19; tr 41].
Thực tế việc đổi mới phương pháp dạy học ở nước ta thời gian qua còn
nhiều bất cập và hạn chế, nguyên nhân chính là do phần lớn GV ngại đổi mới,
ngại vận dụng các phương pháp dạy học tích cực vào q trình giảng dạy. Mặt


4
khác, một bộ phận GV muốn vận dụng các phương pháp dạy học tích cực vào
giảng dạy nhưng lại khơng biết nên vận dụng như thế nào cho hợp lý và có hiệu
quả, trong khi điều kiện cơ sở vật chất, trang thiết bị phục vụ giảng dạy và học tập
không đảm bảo…
Triết học Mác – Lênin là phần kiến thức cơ bản và quan trọng trong chương
trình chính trị ở trường cao đẳng nghề, góp phần hình thành thế giới quan duy vật
và phương pháp tư duy biện chứng cho sinh viên, song mơn học có đặc thù là
trừu tượng, mang tính lý luận, hàn lâm nên HS - SV rất ngại học. Trong điều kiện
đổi mới phương pháp dạy học hiện nay, đặc biệt là việc vận dụng các phương
pháp dạy học tích cực nhằm phát huy năng lực sáng tạo, tự học, tự nghiên cứu
của sinh viên trong việc giảng dạy phần này là điều rất cần thiết. Nhưng thực tế
dạy học chính trị hiện nay ở các trường cao đẳng nghề cho thấy, giáo viên hầu
như chưa có sự đổi mới phương pháp dạy học, chưa vận dụng các phương pháp
dạy học tích cực vào quá trình giảng dạy của mình mà chỉ thuyết trình, rồi đọc
cho sinh viên chép, chứ chưa mấy chú ý đến việc tạo hứng thú học tập và khơi

dậy tính tích cực, sáng tạo của sinh viên. Dẫn đến, chất lượng và hiệu quả giảng
dạy - học tập môn học chưa cao, chưa tương xứng với vai trò và tầm quan trọng
của nó.
Mặt khác, q trình tồn cầu hóa và hội nhập quốc tế đang tạo ra những
thời cơ, vận hội mới, song cũng khơng ít nguy cơ, thách thức. Do đó, vai trị
nguồn nhân lực chất lượng cao trở nên bức thiết hơn bao giờ hết, trách nhiệm đó
thuộc về tồn Đảng, tồn dân và cả xã hội, trong đó, vai trò của ngành giáo dục
là đặc biệt quan trọng. Mặt trái của kinh tế thị trường và toàn cầu hóa đang làm
cho một bộ phận khơng nhỏ cán bộ, đảng viên và nhân dân ta, đặc biệt là thế hệ
trẻ, trong đó có đội ngũ sinh viên các trường cao đẳng nghề, suy thối về phẩm
chất chính trị, đạo đức lối sống, xa rời mục tiêu, lý tưởng cách mạng. Do đó,
việc giảng dạy chính trị nói chung và triết học nói riêng chưa bao giờ phải đối
mặt với những khó khăn như hiện nay. Nhiệm vụ đặt ra cho những người làm


5
cơng tác quản lý giáo dục và giảng dạy chính trị là phải đổi mới phương pháp
dạy học theo hướng phát huy tính tích cực, năng động, sáng tạo của người học
nhằm thực hiện mục tiêu nâng cao trình độ giác ngộ và giáo dục tồn diện, góp
phần khắc phục những sai lầm, khuyết điểm cho người lao động.
Với những lý do đó, chúng tơi đã chọn đề tài: Vận dụng các phương pháp
dạy học tích cực vào giảng dạy phần triết học trong chương trình chính trị ở
trường cao đẳng nghề (qua khảo sát thực tế ở trường cao đẳng nghề Việt Đức –
Hà Tĩnh) để nghiên cứu và làm đề tài luận văn tốt nghiệp của mình.
2. Tình hình nghiên cứu.
Bàn về phương pháp dạy học theo hướng phát huy tính tích cực, chủ động,
sáng tạo của người học trong nhà trường hiện nay, đã có nhiều nhà khoa học,
nhà quản lí giáo dục, các nhà giáo, học viên cao học trong và ngoài nước quan
tâm nghiên cứu, dưới những thể loại khoa học khác nhau như: sách, báo, tạp chí,
tham luận, khố luận, luận văn tốt nghiệp… Chúng tơi chia các cơng trình

nghiên cứu của các tác giả thành hai nhóm như sau:
Nhóm lý luận chung: Gồm các bài viết, các tác phẩm mang tính lý luận về
dạy học và các vấn đề liên quan bao gồm những tác phẩm có tính chất kinh điển
của chủ nghĩa Mác - Lênin về lý luận nhận thức, tư tưởng Hồ Chí Minh, các
quan điểm của Đảng và Nhà nước về Giáo dục và Đào tạo, về đổi mới phương
pháp dạy học, những cơng trình nghiên cứu của các nhà khoa học, các nhà giáo
dục và các thầy cô giáo. Đó là, cơng trình của các tác giả như: TS Rudolf
Batliner: “Sổ tay Phương pháp dạy học của Chương trình Lâm nghiệp Xã hội”;
tác giả F. Khalamốp trong tác phẩm: “Phát huy tính tích cực học tập của học
sinh như thế nào”; PGS.TS Vũ Hồng Tiến: “Một số phương pháp dạy học tích
cực” và một số bài viết khác đăng trên các báo, tạp chí và hội thảo khoa học như:
Tác giả Trần Văn Đạt: “Thúc đẩy khả năng sáng tạo và phát huy tính năng động
của sinh viên địi hỏi thay đổi phương pháp dạy - học và phương pháp đánh
giá”; hai tác giả Phạm Đức Quang, Phạm Trinh Mai với tác phẩm: “Về phương


6
pháp dạy học tích cực và dạy học theo dự án”;… Với nhiều cách tiếp cận vấn đề
khác nhau, song tất cả đều có điểm chung thống nhất là đều đề cập tới các phương
pháp dạy học hiện đại, dạy học theo hướng phát huy tính tích cực, chủ động của
người học, khẳng định vai trò trung tâm của người học trong q trình dạy học.
Nhóm các nghiên cứu mang ý nghĩa thực tiễn về đổi mới phương pháp dạy
học triết học, vận dụng phương pháp dạy học tích cực vào giảng dạy triết học,
phương pháp giảng dạy triết học, GDCD… cũng đã có nhiều nhà khoa học, nhà
giáo dục và nhiều học viên cao học đi sâu tìm hiểu dưới hình thức sách, báo, tạp
chí, luận văn bao gồm: Nhóm các tác giả: Phùng Văn Bộ (chủ biên), Nguyễn
Như Hải, Trần Thế Vĩnh, Hoàng Ngọc Mai: “Một số vấn đề về phương pháp
giảng dạy và nghiên cứu triết học”; PGS - PTS. Lê Hữu Nghĩa (6/1993): “Triết
học Mác - Lênin trong sự nghiệp đổi mới xã hội”; PGS - TS. Vũ Văn Viên: “Về
đổi mới nghiên cứu và giảng dạy triết học Mác - Lênin ở nước ta hiện nay”; TS.

Trần Đăng Sinh: “Dạy và học triết học Mác - Lênin ở Việt Nam trong bối cảnh
tồn cầu hố”; GS - TS. Nguyễn Trọng Chuẩn: “Góp vào việc dạy triết học Mác
cho sinh viên ở nước ta hiện nay”; tác giả: Nguyễn Thị Kim Ngân: “Vận dụng
các phương pháp dạy học tích cực trong phần “cơng dân với việc hình thành thế
giới quan, phương pháp luận khoa học” ở trường THPT hiện nay”, luận văn
Thạc sĩ; tác giả Nguyễn Thị Minh Lệ: “Đổi mới phương pháp dạy học triết học
Mác - Lênin theo hướng phát huy tính tích cực, sáng tạo của người học ở trường
cao đẳng Sư phạm Nghệ An hiện nay”, luận văn Thạc sĩ; tác giả Trần Thị Hồng:
“Vận dụng phương pháp dạy học tích cực trong dạy học môn GDCD lớp 10 ở
trường THPT Đông Sơn 1, tỉnh Thanh Hóa”, luận văn Thạc sĩ khoa học giáo
dục.v.v... Trong các tác phẩm, các tác giả đã trình bày vai trị của triết học trong
bối cảnh tồn cầu và đổi mới đất nước, thực trạng dạy và học triết học, GDCD
trong các nhà trường hiện nay, nguyên nhân của tình trạng sinh viên khơng hứng
thú với mơn học, các tác giả cũng đề cập tới yêu cầu phải đổi mới phương pháp
dạy học triết học, GDCD.


7
Riêng mơn học chính trị trong các cơ sở dạy nghề bao gồm: Quyết định số:
494/QĐ - TTg, ngày 24 tháng 6 năm 2002 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê
duyệt đề án: “Một số biện pháp nâng cao chất lượng và hiệu quả giảng dạy, học
tập các bộ mơn khoa học Mác - Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh trong các trường
đại học, cao đẳng, mơn chính trị trong các trường trung học chuyên nghiệp và
dạy nghề”; tác giả Phan Nhật Bình: “Thực trạng và giải pháp nâng cao chất
lượng giảng dạy, học tập chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong
các trường chuyên nghiệp, dạy nghề trên địa bàn tỉnh Hải Dương”.
Như vậy, hiện nay đã có rất nhiều cơng trình, nhiều bài viết bàn về phương
pháp dạy học tích cực, đổi mới phương pháp dạy học các môn khoa học Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và mơn GDCD ở trường THPT, nhiều vấn đề lý
luận và thực tiễn được làm rõ. Song, hiện vẫn cịn rất ít và thậm chí chưa có
cơng trình nào nghiên cứu một cách cụ thể việc vận dụng các phương pháp dạy

học tích cực vào giảng dạy phần triết học trong chương trình chính trị ở các cơ
sở đào tạo nghề nói chung và các trường cao đẳng nghề ở nước ta nói riêng, trên
cơ sở chương trình mơn học chính trị dùng trong các cao đẳng nghề được ban
hành kèm theo Quyết định số 03/2008/QĐ- BLĐTBXH ngày 18/02/2008 của Bộ
trưởng Bộ LĐ - TBXH.
3. Mục đích, nhiệm vụ của đề tài.
3. 1 Mục đích:
Đề tài nhằm làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn của việc vận dụng các phương
pháp dạy học tích cực vào quá trình giảng dạy và học tập phần triết học trong
chương trình chính trị ở trường cao đẳng nghề, thông qua một số thực nghiệm vận
dụng các phương pháp dạy học tích cực vào từng bài giảng cụ thể để chứng minh
cho tính hiệu quả của các phương pháp dạy học tích cực đối với kiến thức chính
trị nói chung và triết học nói riêng.


8
3. 2. Nhiệm vụ của đề tài:
Làm rõ các quan niệm về phương pháp dạy học tích cực; các đặc trưng và
một số phương pháp dạy học tích cực.
Chỉ ra thực trạng vận dụng các phương pháp dạy học tích cực vào giảng
dạy và học tập triết học nói riêng và mơn học chính trị nói chung ở trường cao
đẳng nghề Việt Đức – Hà Tĩnh.
Vận dụng các phương pháp dạy học tích cực vào một số bài học cụ thể của
phần triết học trong bộ mơn chính trị ở các trường cao đẳng nghề.
Đề xuất một số giải pháp cơ bản nhằm góp phần nâng cao hiệu quả giảng
dạy và học tập triết học ở các trường cao đẳng nghề nói chung và trường cao
đẳng nghề Việt Đức - Hà Tĩnh nói riêng.
4. Phương pháp nghiên cứu.
Trong q trình tìm hiểu và nghiên cứu đề tài chúng tơi sử dụng một số
phương pháp sau:

Phương pháp biện chứng duy vật.
Phương pháp logic - lịch sử.
Phương pháp khái quát hoá - trừu tượng hố.
Phương pháp nghiên cứu tài liệu: Nhằm tìm hiểu sâu hơn về các phương
pháp dạy học tích cực.
Phương pháp điều tra, xử lý, phân tích - tổng hợp.
Phương pháp so sánh, đối chiếu.
Phương pháp quan sát.
Phương pháp sưu tầm tư liệu.
5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
5. 1. Đối tượng nghiên cứu:
Đề tài tập trung nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn của việc vận
dụng các phương pháp dạy học tích cực vào giảng dạy phần triết học trong


9
chương trình chính trị ở các trường cao đẳng nghề hiện nay (qua khảo sát ở
trường cao đẳng nghề Việt Đức - Hà Tĩnh).
5. 2. Phạm vi nghiên cứu:
Đề tài nghiên cứu trong phạm vi các vấn đề liên quan đến các phương pháp
dạy học tích cực và việc vận dụng các phương pháp dạy học tích cực vào giảng
dạy và học tập triết học trong chương trình chính trị ở các trường cao đẳng nghề
(qua khảo sát tại trường cao đẳng nghề Việt Đức – Hà Tĩnh).
6. Đóng góp của luận văn.
Góp phần làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận và thực tiễn về các phương
pháp dạy học tích cực và việc vận dụng các phương pháp dạy học tích cực vào
giảng dạy triết học trong chương trình chính trị ở các trường cao đẳng nghề.
Làm tài liệu tham khảo cho GV, HS - SV các ngành sư phạm giáo dục
chính trị, cao đẳng nghề, trung cấp nghề…
7. Bố cục của luận văn.

Ngoài phần phần mở đầu, phần kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phụ
lục, luận văn gồm 3 chương.


10
B. PHẦN NỘI DUNG
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC VẬN DỤNG CÁC
PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC TÍCH CỰC VÀO GIẢNG DẠY PHẦN
TRIẾTHỌC TRONG CHƯƠNG TRÌNH CHÍNH TRỊ
Ở TRƯỜNG CAO ĐẲNG NGHỀ
1.1. Lý luận chung về phương pháp dạy học tích cực:
1.1.1. Quan niệm về phương pháp dạy học tích cực:
1.1.1.1. Khái niệm phương pháp dạy học tích cực:
Nhiều năm qua, phương pháp dạy học phát huy tính tích cực, chủ động,
sáng tạo của người học được nhiều nhà khoa học, nhà giáo dục, các cấp, các
ngành nghiên cứu. Cho đến nay đã có rất nhiều quan niệm khác nhau về các
phương pháp dạy học tích cực:
Theo Bách khoa toàn thư mở Wikipedia tiếng Việt (phương pháp dạy học):
“Phương pháp giáo dục tích cực: Học viên tự tìm ra kiến thức bằng hành động
thao tác... giáo viên đối thoại với học viên, giáo viên hợp tác và trao đổi với học
viên và giáo viên khẳng định kiến thức do hoc viên tìm ra. Học sinh học cách
học, cách đặt vấn đề và giải quyết vấn đề, cách sống và trưởng thành. Học sinh
tự đánh giá và điều chỉnh làm cơ sở cho giáo viên cho điểm cơ động” [1; tr 1].
Theo tác giả Trần Hồng Quân: Muốn đào tạo được con người khi vào đời là
con người tự chủ, năng động, sáng tạo thì phương pháp giảng dạy cũng phải
hướng vào việc khơi dậy, rèn luyện và phát triển khả năng nghĩ và làm một cách
tự chủ, năng động, sáng tạo ngay trong lao động, học tập ở nhà trường. Phương
pháp nói trên trong khoa học giáo dục thuộc về hệ thống các phương pháp giảng
dạy tích cực lấy người học làm trung tâm.



11
Theo tác giả Nguyễn Kỳ: “… Phương pháp lấy học sinh làm trung tâm,
người học giữ vai trò chủ động, tích cực trong q trình học tập và khơng cịn ở
thể thụ động như khi dùng phương pháp sư phạm cổ truyền…” [29; tr 3].
Còn cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng khẳng định: “phương pháp dạy mà các
đồng chí nêu ra, nói gọn lại là lấy người học làm trung tâm. Người ta phải đặt ra
những câu hỏi, đưa ra những câu chuyện có tính hấp dẫn, khêu gợi, địi hỏi
người nghe, người đọc, dẫu là người suy nghĩ kém cỏi cũng phải chịu khó suy
nghĩ, tìm tịi... Phương pháp dạy học tích cực này có khả năng phát triển được
những năng lực đang ngủ yên ở mỗi con người... Phương pháp này giúp người ta
phương pháp tự học và ham học. Đó là cái quý báu nhất” [24; tr 5].
Theo tác giả Đỡ Ngọc Đạt: “trong phương pháp tích cực người được giáo
dục trở thành người tự giáo dục, là nhân vật tự nguyện có ý thức về sự giáo dục
của bản thân” [23; tr 80].
Tác giả Nguyễn Thị Kim Ngân khẳng định: “Phương pháp dạy học tích cực
là một nhóm phương pháp mà khi vận dụng vào dạy học giáo viên luôn hướng
dẫn, tổ chức cho học sinh thực hiện các hoạt động học tập để từng bước nắm vững
các nội dung của chương trình, đạt được các mục tiêu của bài học”. [39; tr 11]
Thạc sĩ Lý Thị Đào cho rằng: “Dạy học theo phương pháp tích cực là dạy
học phát huy được khả năng tích cực chủ động của người học:
Dạy như thế nào để sinh viên phải tự học.
Dạy phải kích thích sự hứng thú, ham thích học tập.
Dạy phải phát huy những kiến thức và kinh nghiệm sẵn có của sinh viên”
[30; tr 5].
Tác giả Đậu Thị Hịa: “Phương pháp dạy học tích cực là những phương pháp
dạy học theo hướng phát huy tính chủ động, độc lập và sáng tạo, hướng tới việc
hoạt động hóa, tích cực hóa hoạt động nhận thức của người học…” [48; tr 102].
Còn tác giả Nguyễn Thị Thùy Dung A: “… phương pháp dạy học tích cực là

phương pháp dạy học trong đó người học tự mình tìm ra kiến thức, tự học, tự


12
nghiên cứu; bồi dưỡng; phát huy năng lực tự học sáng tạo của người học; biến quá
trình dạy học thành quá trình tự học, nhằm đạt mục tiêu đào tạo con người lao động
tự chủ, năng động và sáng tạo, có năng lực tư duy, năng lực biết đặt và giải quyết
vấn đề, năng lực tự học sáng tạo…”[17; tr 9, 10].
Trong diễn đàn cộng đồng những người yêu Hóa học cho rằng: “Phương
pháp tích cực để chỉ những phương pháp dạy học phát huy tính tích cực, chủ động
sáng tạo của người học. Phương pháp tích cực hướng tới việc hoạt động hóa, tích
cực hóa hoạt động nhận thức của người học nghĩa là tập trung vào phát huy tính
tích cực của người học chứ khơng phải là tập trung vào người dạy” [27; tr 1].
Theo tác giả Nguyễn Nghĩa Dân: “Về triết học, phương pháp giáo dục tích
cực lấy người học làm trung tâm phù hợp với quy luật về sự phát triển của thế
giới tự nhiên, xã hội và tư duy rằng mọi hình thái vận động của vật chất và tinh
thần đều do động lực bên trong quyết định. Trong phương pháp giáo dục này,
động lực bên trong là sự tự thân vận động của người học với sự hỗ trợ cần thiết
của động lực bên ngồi là thầy giáo với trình độ, năng lực và nghệ thuật sư
phạm của mình” [16; tr 12].
Theo PGS – TS. Vũ Hồng Tiến: “Phương pháp dạy học tích cực là một
thuật ngữ rút gọn, được dùng ở nhiều nước để chỉ những phương pháp giáo dục,
dạy học theo hướng phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của người học.
Phương pháp dạy học tích cực hướng vào việc hoạt động hóa, tích cực hóa hoạt
động nhận thức của người học, nghĩa là tập trung vào phát huy tính tích cực của
người học chứ khơng phải tập trung vào phát huy tính tích cực của người dạy,
tuy nhiên, để dạy học theo phương pháp tích cực thì giáo viên phải nổ lực nhiều
so với dạy theo phương pháp thụ động” [49; tr 1].
Cịn theo chúng tơi, phương pháp dạy học tích cực là sự kết hợp những yếu
tố tích cực của các phương pháp dạy học cụ thể, nhằm phát huy tính tích cực,



13
chủ động, sáng tạo của người học trong quá trình học tập và chiếm lĩnh tri thức
dưới sự hướng dẫn, chỉ đạo của giáo viên.
Ngồi những khái niệm chúng tơi dẫn ra ở trên, hiện cũng đang có nhiều
nhà khoa học, nhà giáo dục, nhiều luận án, luận văn, khóa luận các ngành khoa
học, các chuyên ngành giáo dục khác tập trung làm rõ. Mỡi khái niệm tuy có
những cách tiếp cận và có sự khác nhau về cách diễn đạt, song tựu chung lại đều
khẳng định, phương pháp dạy học tích cực là nhằm phát huy tính tích cực, chủ
động, sáng tạo của người học.
1.1.2. Đặc trưng của phương pháp dạy học tích cực:
1.1.2.1. Dạy và học thơng qua tổ chức các hoạt động học tập của học
sinh - sinh viên.
Trong phương pháp dạy học tích cực, GV cần tổ chức các hoạt động học
tập theo kiểu tìm tịi, phát hiện để tạo hứng thú cho HS tham gia tích cực vào
giải quyết nhiệm vụ từng bài học, thơng qua sự chỉ đạo và tổ chức của GV người
học tự lực tìm tịi, khám phá những điều chưa rõ chứ không phải thụ động tiếp
thu những tri thức đã được GV sắp đặt. Được trực tiếp quan sát, thảo luận, làm
thí nghiệm, giải quyết vấn đề đặt ra theo cách suy nghĩ của mình, từ đó vừa nắm
được kiến thức, kĩ năng mới, vừa nắm được cách thức giải quyết vấn đề để tìm
ra chân lý, giúp người học hăng say học tập, khơi dậy được trí tị mị và khả
năng sáng tạo cho HS.
Dạy và học thông qua tổ chức các hoạt động học tập của HS - SV, GV không
chỉ làm nhiệm vụ cung cấp thông tin, chỉ đạo, hướng dẫn người học tìm ra chân lý
mà cịn có vai trị quan trong tạo hứng thú và đam mê học tập cho HS - SV.
1.1.2.2. Dạy và học chủ trọng rèn luyện phương pháp tự học.
Dạy - học nói chung và dạy học triết học nói riêng ở các cơ sở dạy nghề
hiện còn nhiều vấn đề bất cập, đặc biệt là phương pháp hướng dẫn sinh viên tự
học. Đa số phương pháp dạy học hiện nay mới chỉ dừng lại ở việc GV tích cực

làm việc, còn ý thức tự học, tự nghiên cứu và tự nhận xét đánh giá kết của HS -


14
SV cịn nhiều hạn chế. Hiện nay số HS tích cực học tập và tự giác học những
kiến thức liên quan đến mơn học cịn rất ít, nhất là HS - SV ở các cơ sở dạy
nghề. Kết quả khảo sát mới đây của chúng tôi đối với 120 sinh viên trường cao
đẳng nghề Việt Đức – Hà Tĩnh về ý thức tự học cho thấy, có tới hơn 80% sinh
viên trả lời chờ đến kỳ thi mới học. Điều đó nói lên việc tự học chưa thực sự
được đề cao. Vì vậy, tổ chức hoạt động tự học một cách hợp lý, khoa học, có
chất lượng và hiệu quả là trách nhiệm khơng chỉ ở người học mà cịn là sự
nghiệp đào tạo của nhà trường.
Trong điều kiện nền kinh tế tri thức; sự bùng nổ thông tin, khoa học, kĩ thuật,
công nghệ phát triển như vũ bão, càng khơng thể nhồi nhét vào đầu óc HS - SV
khối lượng kiến thức ngày càng nhiều mà phải tạo cho các em ý thức tự học ngay
từ bậc tiểu học và càng lên bậc học cao hơn càng phải được chú trọng nhằm phát
huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo trong quá trình chiếm lĩnh tri thức của các
em.
1.1.2.3. Tăng cường học tập cá thể, phối hợp với học tập hợp tác.
Đảm bảo sự thống nhất biện chứng giữa cá nhân với cá nhân, cá nhân với
tập thể trong dạy học, trong quá trình giảng dạy GV cần phải biết khơi dậy tiềm
năng sáng tạo và sự nổ lực học tập của mỗi cá nhân người học, đồng thời phải
tạo điều kiện và cơ hội để người học giao lưu, hợp tác, trao đổi kinh nghiệm học
tập, cùng nhau bàn bạc, tranh luận về cách thức giải quyết vấn đề nảy sinh trong
quá trình học tập. Làm được như vậy sẽ phát huy được những tiềm năng sáng
tạo của mỗi người học, tạo lập cho người học khả năng giải quyết vấn đề theo
nhóm trong trong q trình chiếm lĩnh tri thức, điều đó sẽ kích thích niềm hứng
thú học tập vượt trội của từng HS.
Thực tế dạy học ở nhà trường hiện nay cho thấy số HS lười học, chán học
khá đông; tỉ lệ yếu kém tương đối nhiều; tình trạng học khó nhớ, mau qn trong

HS có tính phổ biến .v.v. Ngun nhân của tình trạng này là do xã hội đã đổi
mới, số người đi học ngày càng tăng, khoa học kỹ thuật và các phương tiện


15
thông tin phát triển như vũ bão, sự tinh tế của con người trong các mối quan hệ
đã được nâng cao, trong khi phương pháp sư phạm của nhà trường thì ít thay
đổi: vẫn dạy chung cho số đơng, khơng kích thích được yếu tố riêng của từng cá
thể. Khơng ít GV dạy học theo thói quen, ít quan tâm đến tâm lý, thái độ, mức
độ ham thích học tập của HS. Nếu GV quan tâm chu đáo đến tâm lý, sở trường
và hạn chế của từng HS sẽ giải quyết được mọi vấn đề khó khăn của các em
trong q trình học tập, góp phần thúc đẩy HS tích cực tham gia vào quá trình
chiếm lĩnh tri thức. Vì vậy, “dạy học cá thể sẽ chống lưu ban bỏ học hiệu quả” .
Người xưa có câu: “Học thầy khơng tày, học bạn” hoặc “Một cây làm
chẳng nên non; ba cây chụm lại nên hòn núi cao”. Những câu thành ngữ này quả
rất đúng khi đưa vào lớp học. Làm việc hợp tác theo nhóm là một phần quan
trọng để tạo ra một lớp học hiệu quả. Tuy nhiên, đây không chỉ là HS “làm việc
cùng nhau” đơn thuần mà là cùng hợp tác học tập. Mục tiêu chính là giúp HS
chủ động học tập để đạt được một mục tiêu học tập chung. Việc tạo nhóm như
vậy cho phép HS làm việc cùng nhau để tối ưu hóa việc học tập của mình và của
các bạn khác trong nhóm. Mục tiêu cuối cùng của việc tổ chức lớp học thơng
qua nhóm cộng tác là để HS tham gia tích cực vào quá trình học tập của mình.
1.1.2.4. Kết hợp đánh giá của thầy với tự đánh giá của trò.
Trong dạy học, việc đánh giá HS không chỉ nhằm mục đích nhận định thực
trạng và điều chỉnh hoạt động học của trò mà còn đồng thời tạo điều kiện nhận
định thực trạng và điều chỉnh hoạt động dạy của thầy.
Trong phương pháp dạy học truyền thống, GV giữ vai trò độc quyền trong
việc đánh giá HS, ngày nay với việc vận dụng các phương pháp dạy học tích cực
vào quá trình giảng dạy, bên cạnh việc đánh giá kết quả học tập của người học
thông qua các bài kiểm tra dưới nhiều hình thức khác nhau, đồng thời GV cần

phải hướng dẫn HS phát triển kĩ năng tự đánh giá bản thân mình, đánh giá bạn
và kể cả phương pháp dạy học của chính GV, để HS tự điều chỉnh cách học, GV


16
điều chỉnh cách dạy. Chính sự cố gắn và nỡ lực của cả thầy và trò chắc chắn sẽ
đem lại chất lượng và hiệu quả dạy học cao.
Để đảm bảo dạy học phát huy tính tích cực, sáng tạo của người học, việc kiểm
tra đánh giá là không thể thiếu, song không phải kiểm tra, đánh giá theo kiểu yêu
cầu HS tái hiện lại những kiến thức đã học trong giáo trình một cách máy móc, mà
cần phải đưa ra những vấn đề mở, địi hỏi sự tìm tịi, suy ngẫm của người học, yêu
cầu người học liên hệ và vận dụng thực tiễn vào quá trình giải quyết vấn đề.
Ngày nay với sự tiến bộ vượt bậc của khoa học - kỹ thuật, việc kiểm tra đánh
giá kết quả học tập của HS khơng cịn vất vả nhiều đối với GV như trước đây, mà
GV lại có thể thu được nhiều thơng tin từ phía người học, một trong những
phương pháp đánh giá tiêu biểu là phương pháp trắc nghiệm khách quan trên máy
vi tính, phương pháp này hiện đang được nhiều trường đại học, cao đẳng sử dụng.
Tóm lại, với bốn đặc trưng trên đã khẳng định tính ưu việt của các phương
pháp dạy học tích cực so với phương pháp dạy học truyền thống trong quá trình
giảng dạy và học tập. Để đảm bảo chất lượng và hiệu quả cao trong dạy học GV
cần nắm rõ các đặc trưng đã trình bày ở trên.
1.1.3. Các phương pháp dạy học tích cực:
Để phát huy tính tích cực, độc lập, sáng tạo của sinh viên, giáo viên giảng
dạy chính trị (triết học) cần vận dụng một số phương pháp dạy học sau:
1.1.3.1. Phương pháp đàm thoại:
Phương pháp đàm thoại được kế thừa từ triết học cổ đại, đại biểu tiêu biểu
là Xôcrat – nhà triết học Hy Lạp cổ đại (thể kỷ IV trước công nguyên) thường sử
dụng nghệ thuật “tranh luận” để biểu hiện quan điểm triết học của mình. Tư
tưởng triết học của Xơcrat tuy có nhiều hạn chế, song ông đã để lại cho hậu thế
một phương pháp tranh luận, đối thoại – nghệ thuật phát triển trí tuệ tư duy của

con người.
Đàm thoại là phương pháp dạy học thông qua một hệ thống câu hỏi gợi ý của
giáo viên và học sinh trả lời các câu hỏi theo sự điều khiển của giáo viên. [6; tr 105].


17
Ưu điểm:
Phương pháp này tạo khơng khí sơi nổi cho lớp học.
Kích thích tính tự giác, tích cực học tập.
GV nhanh chóng thu được thơng tin phản hồi từ phía HS.
Tạo điều kiện để người học hình thành và phát triển kỹ năng nói, diễn đạt
ý tưởng của mình.
Hạn chế:
Khó soạn thảo và sử dụng hệ thống câu hỏi để dẫn dắt người học đi đến
một kết quả cuối cùng theo chủ đề đã được định sẵn.
Nếu không khéo GV sẽ bị mất nhiều thời gian và có HS sẽ được phát biểu
nhiều, nhưng sẽ có số HS khơng được phát biểu lần nào trong suốt quá trình học.
GV phải có sự chuẩn bị cơng phu.
Tóm lại, đàm thoại là phương pháp giảng dạy được sử dụng phổ biến trong
dạy học ở nước ta hiện nay, tạo hứng thú học tập cho người học, kích thích tính
tích cực, độc lập suy nghĩ, giúp người học tiếp thu bài nhanh, buổi học trở nên
sinh động và hấp dẫn.
1.1.3.2. Phương pháp nêu vấn đề:
Phương pháp nêu vấn đề xuất hiện vào năm 1970 tại trường đại học
Hamilton (Canada), sau đó được phát triển nhanh chóng tại trường đại học
Maastricht (Hà Lan). Sự ra đời của dạy học nêu vấn đề được xem là một bước
tiến của khoa học sư phạm hiện đại.
Phương pháp dạy học nêu vấn đề là phương pháp giáo viên dùng lời nói,
hướng học viên đi vào tình huống có vấn đề, nêu vấn đề và tạo ra những điều
kiện cần thiết để giải quyết vấn đề; cuối cùng kiểm tra lại vấn đề đã giải quyết

để đi tới kết luận. [6; tr 91].
Ưu điểm:
Tạo ra môi trường sư phạm lý tưởng cho người học tổ chức hoạt động học
tập, biến quá trình đào tạo thành quá trình tự đào tạo. Ngạn ngữ của Việt Nam có


18
câu: “trăm nghe không bằng một thấy, trăm thấy không bằng một làm”, hoặc
như câu ngạn ngữ nước ngoài: “nghe thì quên, nhìn mới nhớ, làm thì hiểu”.
Người học tiếp nhận tri thức một cách chủ động, có cơ hội thể hiện và áp
dụng các kiến thức đã học, các ý tưởng của mình trong quá trình giải quyết vấn
đề. Do đó, mức độ tiếp nhận và lưu giữ tri thức cao.
Tăng cường khả năng độc lập suy nghĩ, phát triển năng lực tư duy sáng tạo
của người học và phát triển các kỹ năng vận dụng các tri thức của bản thân họ
vào giải quyết các vấn đề trong học tập, cũng như trong thực tiễn.
Nâng cao niềm tin vào khả năng của bản thân trong việc giải quyết các tình
huống trong quá trình học tập cũng như trong cuộc sống.
Hạn chế:
Để xây dựng được tình huống có vấn đề, địi hỏi giáo viên phải có nhiều
kinh nghiệm chun môn cũng như kỹ năng vận dụng phương pháp dạy học; đòi
hỏi người học phải nắm vững tri thức liên quan đến vấn đề cần giải quyết.
Người học mất nhiều thời gian để giải quyết các vấn đề, rút ra các tri thức
cần thiết. Vì vậy, các tình huống tạo ra phải điển hình.
Người học dễ bị lạc hướng trong q trình giải quyết vấn đề.
Tóm lại, phương pháp dạy học nêu vấn đề là phương pháp dạy học mới,
phù hợp với thời đại bùng nổ thông tin, giúp người học rèn luyện tính tích cực,
chủ động và sáng tạo trong q trình học tập. Tuy nhiên, khơng có phương pháp
nào là lý tưởng và vạn năng phù hợp với mọi bài học, mọi tri thức. Do đó, bên
cạnh những yếu tố tích cực, tồn tại đan xen những hạn chế nhất định trong một
phương pháp là điều không tránh khỏi. Vì vậy, để nâng cao hiệu quả dạy học cần

kết hợp phương pháp nêu vấn đề với các phương pháp dạy học khác.
1.1.3.3. Phương pháp Xêmina: 
Xêmina đã có từ xa xưa, nhưng đến thể kỷ XIX mới được đưa vào sử dụng
ở một số trường đại học. Ngày nay xêmina được sử dụng phổ biến trong dạy học


19
ở nước ta. Đối với đặc thù mơn học chính trị và triết học, xêmina càng có ý
nghĩa thiết thực hơn.
Xêmina là hình thức học tập, trong đó một nhóm học viên được giao chuẩn
bị trước vấn đề nhất định. Sau đó trình bày trước lớp (nhóm) và thảo luận vấn đề
đã được chuẩn bị [40; tr 234].
Ưu điểm:
Xêmina góp phần củng cố và khắc sâu kiến thức cho sinh viên.
Thơng qua xêmina sinh viên có thể mở rộng và nâng cao kiến thức.
Xêmina giúp sinh viên biết vận dụng những kiến thức đã học và thực tiễn.
Thông qua xêmina sinh viên rèn luyện được khả năng diễn đạt lưu lốt một
vấn đề trước tập thể.
Giúp GV nhanh chóng thu được kết quả phản hồi từ phía người học.
Hạn chế:
Phương pháp này tốn nhiều thời gian, công sức của cả GV và HS.
Địi hỏi GV phải có nhiều kinh nghiệm chun mơn cũng như kỹ năng dạy
học.
Địi hỏi người học phải thực sự tích cực, tự giác học tập.
Tóm lại, xêmina là phương pháp dạy học phù hợp với thời đại kinh tế tri
thức và bùng nổ thông tin hiện nay, góp phần nâng cao tính tích cực, tự giác và
sáng tạo trong học tập của người học. Xêmina tạo cơ hội để người học trực tiếp
làm việc với đối tượng học tập, người học có cơ hơi được phát biểu ý kiến, bày
tỏ quan điểm, ý tưởng của mình trước lớp hoặc nhóm về những vấn đề được
giao. M.I.Calinin đã khẳng định: “Khơng những chỉ địi hỏi sinh viên những

kiến thức của những luận điểm chủ yếu của chủ nghĩa Mác, mà còn đòi hỏi họ
làm thế nào để có thể tiếp cận được những sự kiện này hay sự kiện khác, đánh
giá chúng như thế nào trên quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, nếu không
làm được điều đó trong các bài giảng thì bất kỳ giá nào cũng phải áp dụng thực
tế rộng rãi trong các buổi xêmina” [14; tr 273].


20
1.1.3.4. Phương pháp làm việc theo nhóm nhỏ:
Dạy học theo nhóm đang là một trong những phương pháp phát huy tính
tích cực của người học, dạy học hướng về người học. A.T.Francisco (1993) cho
rằng, học tập nhóm là một phương pháp học tập mà theo phương pháp đó học
viên trong nhóm trao đổi, giúp đỡ và hợp tác với nhau trong học tập.
Theo tác giả Phan Trọng Ngọ: “Thảo luận theo nhóm nhỏ là phương pháp
trong đó nhóm lớn (lớp học) được chia thành những nhóm nhỏ để tất cả các
thành viên trong lớp đều được làm việc và thảo luận về một chủ đề cụ thể và đưa
ra ý kiến chung của nhóm mình về vấn đề đó.” [40; 223].
Ưu điểm:
Học tập theo nhóm nhỏ bao giờ cũng tạo bầu khơng khí sơi nổi.
Làm việc theo nhóm thỏa mãn nhu cầu học tập cá nhân, phù hợp với việc
học hướng tới người học; khuyến khích tính độc lập tự chủ, người học có cơ hội
đưa ra những lập luận và cách biểu đạt của mình về một vấn đề nào đó.
Các thành viên trong nhóm có cơ hội học hỏi lẫn nhau. Người xưa có câu:
“Học thầy khơng tày học bạn”.
Tạo ra phong trào thi đua giữa các thành viên trong nhóm.
Là cơ hội để GV nhanh chóng thu được thơng tin phản hồi từ phía người
học.
Nếu được tổ chức tốt phương pháp thảo theo nhóm nhỏ sẽ phát huy được
tính tích cực, chủ động và sáng tạo trong học tập của người học.
Hạn chế:

Nếu không khéo điều khiển các nhóm và các thành viên trong nhóm dễ đi
lạc chủ đề thảo luận.
Cũng như xêmina hay đàm thoại, phương pháp thảo luận theo nhóm nhỏ
cũng tốn nhiều thời gian.
Hiệu quả học tập phụ thuộc rất nhiều về tính tích cực của các thành viên
trong nhóm.


21
Bên cạnh việc gây hứng thú học tập rất cao cho các thành viên trong nhóm,
phương pháp này cũng có lúc sẽ gây ra sự mệt mỏi cho các thành viên.
Tóm lại, dạy học theo nhóm, thảo luận theo nhóm nhỏ hay làm việc theo
nhóm nhỏ thực ra là một, chúng chẳng qua chỉ là sự biến tướng dưới những tên
gọi khác nhau mà thôi. Phương pháp dạy học theo nhóm nhỏ là một trong những
phương pháp dạy học hiện đại nhằm phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo
của người học, qua đó năng lực cá nhân được khẳng định, đồng thời, tính tập thể
- xã hội cũng được đề cao. Ca dao xưa có câu:
“Một cây làm chẳng nên non
Ba cây chụm lại thành hòn núi cao”
1.1.3.5. Phương pháp đóng vai:
Đóng vai là phương pháp tổ chức cho HS thực hành, “làm thử” một số cách
ứng xử nào đó trong một tình huống giả định. Đây là phương pháp giảng dạy
nhằm giúp HS suy nghĩ sâu sắc về một vấn đề bằng cách tập trung vào một sự kiện
cụ thể mà các em quan sát được. Việc “diễn” khơng phải là phần chính của
phương pháp này và hơn thế điều quan trọng nhất là sự thảo luận sau phần diễn ấy.
Ưu điểm:
Rèn luyện người học kỹ năng giải quyết vấn đề, kỹ năng giao tiếp, cách
ứng xử linh hoạt, chủ động trong mọi tình huống. Qua vai diễn người học cũng
học được cách dẫn chuyện, các chiến lược, chiến thuật trong khi xử lý những
vấn đề nảy sinh trong thực tiễn.

Gây hứng thú và chú ý cho HS.
Tạo điều kiện làm phát triển óc sáng tạo của HS .
Khích lệ sự thay đổi thái độ, hành vi của HS theo hướng tích cực.
Có thể thấy ngay tác động và hiệu quả của lời nói hoặc việc làm của các vai
diễn.
Hạn chế:


22
Phương pháp đóng vai địi hỏi kỹ năng diễn xuất, ứng xử mà phần lớn
người học khó thể hiện. Do đó, khó khăn trong việc chọn “diễn viên”.
Vận dụng phương pháp này địi hỏi mất nhiều thời gian, cơng sức, đặc biệt
khi người học lúng túng trong khi thể hiện vai diễn của mình và khó khăn trong
việc viết “kịnh bản”.
Phần lớn người học có tâm lý e ngại, ngượng ngùng khi đóng vai.
Tóm lại, phương pháp tri thức chính trị và triết học, HS không mấy mặn mà
với môn học. Nếu sử dụng phương pháp đóng vai một cách khéo léo trong quá
trình dạy học chắc chắn sẽ đem lại kết quả cao.
1.1.3.6. Phương pháp tham quan, thực tế: Có thể tổ chức cho học sinh đi
tham quan, nghiên cứu các điển hình sản xuất cơng nghiệp, các bảo tàng, các
di tích văn hố, lịch sử ở địa phương…
Tham quan, thực tế thực chất là hình thức sống động, đặc biệt nhất của
phương pháp dạy học trực quan vì người học được mắt thấy, tai nghe. Những
bằng chứng bằng hiện vật sẽ chứng minh cho những lý luận trừu tượng trong bài
học có giá trị thực tiễn. Phương pháp này giúp cho người học rút ra bài học cho
mình và tin tưởng vào những vấn đề đã học.
Ưu điểm:
HS rất hứng thú khi được đi tham quan, thực tế tại các bảo tàng, khu di tích
lịch sử - văn hóa, các cơ sở sản xuất…
HS rất tích cực trong việc tiếp thu những kiến thức do GV hoặc hướng dẫn

viên thuyết minh, qua những hiện vật.
Tạo điều kiện cho sinh viên nghe, nhìn tận tay, tận mắt thấy những kiến
thức trong bài giảng của GV, trong sách vở qua các hiện vật được trưng bày tại
các bảo tàng, di tích, qua các nhân chứng, các cơ sở sản xuất cơng nghiệp...
Thay đổi hình thức dạy học quen thuộc là học ở lớp bằng một hình thức dạy
học mới, góp phần thay đổi khơng khí giúp người học học tập có hiệu quả hơn.
Hạn chế:


23
Mất nhiều thời gian, tốn kém nhiều kinh phí và công sức.
Đồng thời phải tiến hành viết bài thu hoạch, nếu không hiệu quả dạy học
cũng không cao.
Nếu quản lý khơng tốt giờ học thực tế sẽ sai mục đích, giờ học lại thành
buổi đi du lịch, dã ngoại của HS.
Nhiều vấn đề tiêu cực dễ phát sinh nếu GV quản lý khơng tốt như: tai nạn,
trốn học đi chơi…
Tóm lại, mặc dù ở nhà bảo tàng lịch sử, hoặc các triển lãm, các di tích chỉ
là những mơ hình di tích, sản vật, nhưng nó tượng trưng và phản ánh một nội
dung nào đó của bài học một cách sống động. Do đó, hình thức tham quan có vai
trị to lớn đối với nhận thức của HS - SV.
1.1.3.7. Sử dụng các phương tiện kỹ thuật hỗ trợ hiện đại, như: Máy chiếu
Overhaed, máy chiếu Projector, máy tính, băng hình, phim tư liệu, chuyên đề thời
sự…
Sử dụng các phương tiện kỹ thuật hỡ trợ hiện đại hay nói cách khác là công
nghệ thông tin và truyền thông trong dạy học là xu thế phát triển tất yếu khách quan
của nền giáo dục hiện đại và phù hợp với thời đại nền kinh tế tri thức hiện nay.
Phương tiện dạy học là toàn bộ sự vật, hiện tượng trong thế giới, tham gia
vào q trình dạy học, đóng vai trị là công cụ hay điều kiện để GV và học viên
sử dụng làm khâu trung gian tác động vào đối tượng dạy học. Phương tiện dạy

học có chức năng khơi dậy, dẫn chuyền và làm tăng sức mạnh tác động của
người dạy và người học đến đối tượng dạy học.[40; tr 327].
Ưu điểm:
Trong quá trình dạy học, các phương tiện dạy học giảm nhẹ công việc của
GV và giúp cho HS tiếp thu kiến thức một cách thuận lợi.
Có được các phương tiện thích hợp, người GV sẽ phát huy hết năng lực
sáng tạo của mình trong giảng dạy.


24
Phương tiện dạy học giúp làm sinh động nội dung học tập, nâng cao hứng
thú học tập bộ môn, HS thích thú hơn với mơn học, nhất là mơn học chính trị và
triết học với đặc trưng lý luận, trừu tượng.
Quá trình nhận thức của HS tăng dần theo các cấp độ của tri giác: nghe thấy - làm được (những gì nghe được khơng bằng những gì nhìn thấy và những
gì nhìn thấy thì khơng bằng những gì tự tay làm), nên khi đưa những phương
tiện vào quá trình dạy học, GV có điều kiện để nâng cao tính tích cực, độc lập
của HS và từ đó nâng cao hiệu quả của quá trình tiếp thu, lĩnh hội kiến thức và
hình thành kỹ năng, kỹ xảo của các em.
Phương tiện dạy học giúp cụ thể hóa những cái quá trừu tượng, phức tạp
giúp HS dể hiểu bài, hiểu bài sâu sắc hơn và nhớ bài lâu hơn.
Phương tiện dạy học còn giúp HS phát triển năng lực nhận thức, đặc biệt là
khả năng quan sát, tư duy (phân tích, tổng hợp các hiện tượng, rút ra những kết
luận có độ tin cây,...), giúp HS hình thành cảm giác thẩm mỹ, được hấp dẫn bởi
cái đẹp, cái đơn giản, tính chính xác của thơng tin chứa trong phương tiện.
Giúp GV tiết kiệm được thời gian trên lớp trong mỗi tiết học, điều khiển
được hoạt động nhận thức của HS, kiểm tra và đánh giá kết quả học tập của HS
thuận lợi và có hiệu suất cao.
Hạn chế:
Ứng dụng CNTT vào q trình dạy học địi hỏi phải có đầu tư lớn, tốn kém.
Việc soạn giáo án điện tử, trình chiếu PowerPoint vừa tốn thời gian vừa

mất nhiều công sức của giáo viên.
Do ở cấp đại học, cao đẳng, lượng kiến thức phải dạy trong một tiết là nhiều,
hơn nữa những mơn học như chính trị, triết học mang tính đặc thù lí luận và trừu
tượng hóa cao nên gặp nhiều khó khăn trong việc ứng dụng CNTT vào dạy học.
Nếu giáo viên lạm dụng CNTT, sử dụng không đúng lúc, đúng chỗ, không
phối hợp với các phương tiện và phương pháp khác sẽ làm cho giờ dạy học thụ
động, ít có kiến tạo tri thức, sinh viên học “như xem phim”. Như thế là quay về


25
những hạn chế của phương pháp truyền thống, nghĩa là chuyển từ “đọc chép”
sang “nhìn chép”.
Tóm lại, sử dụng phương tiện kỹ thuật hiện đại vào quá trình giảng dạy đòi
hỏi GV phải nắm vững kiến thức, sử dụng thành thạo máy tính và các phương tiện
kỹ thuật hiện đại, vận dụng linh hoạt các phương tiện kỹ thuật vào giảng dạy. Vận
dụng tốt các phương tiện kỹ thuật hiện đại vào dạy học chắc chắn sẽ làm cho chất
lượng giáo dục tăng lên rõ rệt cả về mặt lý thuyết lẫn thực hành, làm thay đổi vai
trò của người dạy, người học, buộc cả người dạy và người học phải thay đổi theo
hướng phát huy tính tích cực, năng động và sáng tạo của người học. Từ vai trò to
lớn của các phương tiện kỹ thuật hỗ trợ đối với quá trình dạy học, Bộ Giáo dục và
Đào tạo đã quyết định lấy chủ đề năm học 2008 - 2009 là “Năm học ứng dụng
cơng nghệ thơng tin (CNTT)”.
Ngồi hệ thống các phương pháp nêu trên, trong quá trình vận dụng các
phương pháp dạy học tích cực và giảng dạy mơn học giáo viên cũng có thể tích
cực hóa phương pháp dạy học truyền thống để đạt kết quả cao hơn. Phó Thủ
tướng kiêm Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo Nguyễn Thiện Nhân tại Hội thảo:
“Chỉ đạo, quản lý hoạt động đổi mới phương pháp dạy học ở các trường phổ
thông” ngày 03/01/2009, tại thành phố Vinh đã khẳng định: Đổi mới phương
pháp dạy học phải trên cơ sở kế thừa có chọn lọc các phương pháp dạy học
truyền thống, thực hiện đồng thời với các phương pháp dạy học và kỹ thuật dạy

học hiện đại trên cơ sở áp dụng các thành tựu khoa học, công nghệ tiên tiến như
công nghệ thông tin, Internet, E-book, E-learning, phần mềm hỡ trợ dạy học,
phịng học bộ mơn, phịng học đa chức năng…


×