Tải bản đầy đủ (.docx) (16 trang)

Tiểu luận (bài thu hoạch) môn tâm lý học dạy học đại học (1)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (111.78 KB, 16 trang )

MỞ ĐẦU
Chủ Tịch Hồ Chí Minh đã từng nói rằng: “Làm việc gì cũng phải có cái tâm và u
nghề thì chúng ta mới thành cơng được”. Lời dạy của Bác luôn là phương hướng
hành động, là kim chỉ nam để người giảng viên hồn thành tốt cơng việc của mình.
Giảng viên là một trong những nhân tố quan trọng quyết định chất lượng giáo dục đào tạo, chất lượng đội ngũ giảng viên được cấu thành bởi các yếu tố: Trình độ
kiến thức, năng lực sư phạm, kinh nghiệm thực tiễn, và phẩm chất đạo đức,
phương pháp dạy học. Trong đó năng lực sư phạm và phương pháp dạy học là
những yếu tố rất quan trọng. Giảng viên đại học là những người đã chạm vào cuộc
đời những học trị của mình bằng nghệ thuật dạy học và nghệ thuật thắp lên, ni
dưỡng những ngọn lửa tìm tịi, sáng tạo, ý chí vươn lên trong tâm hồn lớp lớp học
trị.
Cơng việc giáo dục và đào tạo con người là một hoạt động rất đặc thù, vừa mang
tính khoa học, vừa mang tính sáng tạo và nghệ thuật. Đặc trưng nghề nghiệp tạo
nên những khó khăn nhất định đối với giáo viên và khiến cho nghề dạy học có
những yêu cầu đặc biệt đối với người làm nghề. Giáo viên không chỉ là người am
hiểu về khoa học giảng dạy mà cịn là người nghệ sĩ. Vì vậy, cơng cụ quan trọng
của nghề dạy học là toàn bộ nhân cách ở người giáo viên. K.D.Usin-xki - nhà sư
phạm lỗi lạc người Nga khẳng định: “Nhân cách của người thầy là sức mạnh có
ảnh hưởng to lớn đối với học sinh, sức mạnh đó khơng thể thay thế bằng bất kỳ
cuốn sách giáo khoa nào, bất kỳ câu chuyện châm ngôn đạo đức, bất kỳ một hệ
thống khen thưởng hay trách phạt nào khác”.
Nhân cách không được sinh ra mà được hình thành, nó là cấu tạo tâm lý phức tạp và
phong phú. Sự hình thành và phát triển nhân cách là một q trình tu dưỡng văn
hóa và rèn luyện tay nghề trong thực tiễn sư phạm, mà hiệu quả trước hết của nghề
1


dạy học mang lại là những giá trị tinh thần lớn lao đối với cả người dạy và người
học.
NỘI DUNG
1. Những vấn đề chung về nhân cách


1.1.

Khái niệm nhân cách

Nhân cách là một khái niệm dùng để chỉ con người. Hiện nay có rất nhiều
định nghĩa khác nhau về nhân cách. Cách hiểu đơn giản nhất, nhân cách là thuộc
tính tâm lý; là tổ hợp những thuộc tính tâm lý của cá nhân, biểu hiện ở bản sắc và
giá trị xã hội của cá nhân ấy:
Bản sắc: cái chung (kinh nghiệm xã hội) chuyển thành cái riêng, cái đơn
nhất (kinh nghiệm của từng người).
Giá trị xã hội: những thuộc tính đó thể hiện ở những việc làm, những cách
ứng xử, hành vi... của người đó được xã hội đánh giá.
1.2.

Đặc điểm của nhân cách

- Tính ổn định của nhân cách: Các phẩm chất, đặc điểm tâm lý của nhân
cách tương đối khó hình thành và khi đã hình thành thì khó mất đi vì nó
có tính tương đối ổn định, bền vững.
- Tính thống nhất của nhân cách: Nhân cách là một chỉnh thể thống nhất
của tất cả mọi thuộc tính, đặc điểm, phẩm chất tâm lý, giữa phẩm chất và
năng lực, giữa đức và tài, giữa ba cấp độ xem xét giá trị xã hội của nhân
cách (cấp độ bên trong, cấp độ liên nhân cách, cấp độ siêu nhân cách).
- Tính tích cực của nhân cách: Nhân cách là chủ thể của hoạt động và
giao tiếp, là sản phẩm của xã hội.
- Tính giao lưu của nhân cách: Nhân cách chỉ có thể hình thành, phát
triển, tồn tại và thể hiện trong sự giao lưu với những nhân cách khác.
1.3.

Cấu trúc tâm lý của nhân cách

2


Có nhiều cách quan niệm khác nhau về cấu trúc nhân cách, nhưng tựu chung lại
cấu trúc của nhân cách gồm hai mặt thống nhất là tài và đức:
+ Phẩm chất (đức):
 Phẩm chất xã hội (đạo đức - chính trị): Thế giới quan, lý tưởng, lập trường,
niềm tin…


Phẩm chất cá nhân (đạo đức, tư cách): Các nết, các thói, các “thú” (ham
muốn).

 Phẩm chất ý chí: Tính mục đích, tính độc lập, tính tự chủ, tính quả quyết,
tính kiên trì…


Cung cách ứng xử: Tác phong, lễ tiết, tính khí..

+ Năng lực (tài):
 Năng lực xã hội hoá: Khả năng thích ứng, hồ nhập, mềm dẻo, cơ động, linh
hoạt trong cuộc sống…
 Năng lực chủ thể hoá: Khả năng thể hiện tính độc đáo, đặc sắc, thể hiện cái
riêng của cá nhân.
 Năng lực hành động: Khả năng hành động có mục đích, chủ động, tích cực,
có hiệu quả.
 Năng lực giao tiếp: Khả năng thiết lập, duy trì mối quan hệ với người khác.
2. Các phẩm chất nhân cách của người giảng viên
2.1. Thế giới quan khoa học
Trong phẩm chất nhân cách người giảng viên cần phải có thế giới quan khoa

học. Thế giới quan vừa là hiểu biết, quan điểm vừa là sự thể nghiệm, vừa là tình
cảm, là yếu tố quan trọng trong cấu trúc nhân cách, quyết định niềm tin chính trị và
hành động của con người. Thế giới quan của người giảng viên là thế giới quan Mác
Lênin, bao hàm những quan điểm duy vật biện chứng về các quy luật phát triển của
thế giới (tự nhiên, xã hội và tư duy). Nó được hình thành dưới nhiều ảnh hưởng
3


khác nhau. Trước hết là học vấn của người giảng viên, là việc nghiên cứu nội dung
giảng dạy, là ảnh hưởng của toàn bộ thực tế đất nước, là do việc nghiên cứu Triết
học…Thế giới quan của người giảng viên chi phối nhiều mặt hoạt động cũng như
thái độ của họ đối với các mặt hoạt động đó như việc lựa chọn nội dung, phương
pháp giảng dạy và giáo dục. Thế giới quan là kim chỉ nam giúp người giảng viên đi
tiên phong trong việc xây dựng niềm tin cho sinh viên.
2.2. Lý tưởng đào tạo sinh viên
Đây được coi là hạt nhân trong cấu trúc nhân cách người giảng viên. Không
chỉ định hướng, dẫn dắt người giảng viên đi lên phía trước, thấy hết giá trị lao động
của bản thân mà lý tưởng cịn có ảnh hưởng sâu sắc đến sự hình thành nhân cách
sinh viên.
Biểu hiện của lý tưởng đào tạo sinh viên là niềm say mê nghề nghiệp, lương
tâm nghề nghiệp, hy sinh cho công việc, tác phong làm việc cần cù, trách nhiệm,
lối sống giản dị và thân tình…Vì thế, người giảng viên có thể vượt qua được
những khó khăn về tinh thần, vật chất, hồn thành nhiệm vụ đào tạo thế hệ sinh
viên. Đồng thời, sẽ để lại những dấu ấn đậm nét trong sinh viên, có tác dụng hướng
dẫn, điều khiển q trình hình thành và phát triển nhân cách của sinh viên.
Lý tưởng đào tạo sinh viên khơng phải là có sẵn, khơng thể truyền từ người
này sang người khác bằng cách áp đặt mà được hình thành và phát triển thơng qua
một q trình hoạt động tích cực trong cơng tác giáo dục. Chính trong q trình đó,
nhận thức về nghề nghiệp ngày càng được nâng cao, tình cảm nghề nghiệp ngày
càng tỏ rõ quyết tâm cao. Việc giáo dục lý tưởng nghề nghiệp cho sinh viên trong

các trường sư phạm là cần thiết. A.X. Macarenco đánh giá nếu không giáo dục lý
tưởng trong các trường sư phạm có nghĩa là khơng giáo dục gì cả.
2.3. Lịng u nghề

4


Lịng u người và u nghề gắn bó chặt chẽ với nhau, lồng vào nhau. Càng
yêu người bao nhiêu càng u nghề bấy nhiêu, có u người mới có lịng yêu nghề.
Bởi yêu người tạo động lực mạnh mẽ để suốt đời phấn đấu vì lý tưởng nghề
nghiệp.
Lịng u nghề của người giảng viên thể hiện ở việc luôn nghĩ đến sự cống
hiến cho sự nghiệp đào tạo sinh viên. Giảng viên luôn làm việc với tinh thần trách
nhiệm cao, luôn cải tiến nội dung, phương pháp, không tự thỏa mãn với trình độ và
tay nghề của mình, có niềm vui khi được giao tiếp với sinh viên. Chỉ có người
giảng viên nào hiến cả cuộc đời mình cho sự nghiệp đào tạo thế hệ sinh viên, lấy
việc hy sinh phấn đấu hoàn thành nhiệm vụ đào tạo làm hạnh phúc cao cả của cuộc
đời mình thì mới có thể thực hiện chức năng “người kỹ sư tâm hồn” một cách xứng
đáng.
2.4. Một số phẩm chất đạo đức và phẩm chất ý chí của người giảng viên
Trong hoạt động giảng dạy và giáo dục, mối quan hệ thầy trị có ảnh hưởng
trực tiếp đến chất lượng hoạt động. Người giảng viên giáo dục sinh viên không chỉ
bằng những hành động trực tiếp của mình mà cịn bằng tấm gương của cá nhân.
Một mặt người giảng viên phải lấy những quy luật khách quan làm chuẩn mực cho
mọi tác động sư phạm. Mặt khác, phải có những phẩm chất đạo đức và phẩm chất
ý chí cần thiết. Đó là: Tinh thần nghĩa vụ, thái độ nhân đạo, cơng bằng, tính ngun
tắc, kiên nhẫn…Những phẩm chất đạo đức là nhân tố để tạo ra sự công bằng theo
quan điểm trong các mối quan hệ thầy –trị. Những phẩm chất ý chí là sức mạnh để
làm cho những phẩm chất và năng lực của người giảng viên thành hiện thực và tác
động sâu sắc đến sinh viên.

3. Năng lực của người giảng viên

5


Năng lực là tổ hợp những thuộc tính tâm lý cơ bản của cá nhân đảm bảo cho
việc thực hiện có kết quả một hay một số lĩnh vực hoạt động nhất định. Năng lực
sư phạm là năng lực chuyên biệt, năng lực sư phạm của người giảng viên được thể
hiện trong hoạt động giảng dạy và giáo dục. Căn cứ vào hai dạng hoạt động cơ bản
này, người ta đã phân chia thành các nhóm năng lực như sau: Nhóm năng lực dạy
học, nhóm năng lực giáo dục, nhóm năng lực tổ chức các hoạt động sư phạm.
3.1. Nhóm năng lực dạy học
- Năng lực hiểu sinh viên
Dạy học là hoạt động chung của giảng viên và sinh viên, trong đó giảng viên
đóng vai trị là người tổ chức, điều khiển hoạt động học tập của sinh viên nhằm
giúp họ chủ động tích cực lĩnh hội những tri thức, kỹ năng, kỹ xảo. Bởi vậy, hiệu
quả của quá trình dạy học phụ thuộc vào sự điều khiển, tổ chức của người giảng
viên. Người giảng viên chỉ có thể làm tốt vai trị này khi hiểu sinh viên trong q
trình dạy học. Đây là năng lực thâm nhập vào thế giới bên trong của sinh viên, sự
hiểu biết tường tận về nhân cách của họ, năng lực quan sát tinh tế những biểu hiện
tâm lý của sinh viên trong quá trình dạy học và giáo dục.
Năng lực hiểu sinh viên được thể hiện trong tất cả các giai đoạn của quá
trình dạy học: Chuẩn bị bài giảng, trong quá trình giảng dạy.
Khi chuẩn bị bài giảng, người giảng viên phải biết tính đến trình độ văn hóa,
trình độ phát triển của sinh viên. Do đó, khi chế biến tài liệu, người giảng viên biết
đặt mình vào vị trí sinh viên, suy nghĩ về đặc điểm nội dung, xác định khối lượng,
mức độ khó khăn và hình thức trình bày sao cho phù hợp và thuận lợi nhất đối với
sinh viên.
Trong quá trình giảng dạy, bằng những quan sát tinh tế, người giảng viên có
thể xây dựng những biểu tượng chính xác về diễn biến của việc lĩnh hội bài giảng ở


6


sinh viên: dự đốn mức độ hiểu bài và có khi còn phát hiện cả mức độ sai lệch của
chúng.
Năng lực hiểu sinh viên là kết quả của quá trình lao động đầy trách nhiệm,
thương yêu và sâu sát sinh viên, nắm vững mơn mình dạy, am hiểu về Tâm lý học
sư phạm, óc quan sát, khả năng phân tích, đánh giá…
- Tri thức và tầm hiểu biết của người giảng viên
Đây là một trong những năng lực trụ cột của nghề dạy học. Phương tiện
người giảng viên sử dụng trong quá trình giảng dạy và giáo dục sinh viên đó là tri
thức, quan điểm, kỹ năng, thái độ…mà lồi người đã khám phá ra, đặc biệt là tri
thức thuộc lĩnh vực giảng dạy. Giảng viên phải nắm vững nội dung, bản chất và
con đường mà loài người đã đi qua. Có như thế, người giảng viên mới có thể tổ
chức cho sinh viên tái tạo và lấy lại những cái cần cho sự phát triển tâm lý, nhân
cách sinh viên.
Sự tiến bộ và phát triển nhanh của khoa học công nghệ đã đề ra những yêu
cầu ngày càng cao đối với trình độ văn hóa chung của sinh viên. Đối với người
giảng viên, tri thức và tầm hiểu biết có tác dụng mạnh mẽ trong việc tạo ra uy tín
cho bản thân, được thể hiện như sau:
+ Nắm vững và hiểu biết rộng mơn mình phụ trách.
+ Thường xun theo dõi những xu hướng, những phát minh khoa học thuộc
mơn mình phụ trách, biết tiến hành nghiên cứu khoa học và có những hứng thú lớn
lao đối với cơng việc đó.
+ Có năng lực tự học, tự bồi dưỡng để bổ túc và hoàn thiện tri thức của bản
thân, tự nguyện tiếp thu mọi tinh hoa của khoa học, của nền văn hóa nhân loại.
Để có được năng lực này, đòi hỏi người giảng viên phải đáp ứng những điều
kiện cơ bản sau:


7


+ Có nhu cầu về sự mở rộng tri thức và tầm hiểu biết (nguồn gốc của tính
tích cực và động lực của việc tự học).
+ Có những kỹ năng để làm thỏa mãn nhu cầu đó (phương pháp tự học).
- Năng lực chế biến tài liệu học tập của người giảng viên
Chế biến tài liệu học tập là sự gia công sư phạm của người giảng viên đối
với tài liệu học tập nhằm làm phù hợp tối đa với sinh viên (đặc điểm lứa tuổi, đặc
điểm cá nhân, trình độ, kinh nghiệm…) và đảm bảo logic sư phạm.
Để có thể thực hiện được công việc này, người giảng viên cần phải tiến hành
các hoạt động sau:
+ Đánh giá đúng đắn tài liệu: Đó là việc xác lập được mối quan hệ giữa yêu
cầu kiến thức của chương trình với trình độ nhận thức của sinh viên. Nghĩa là phải
đảm bảo được yêu cầu chung về kiến thức của chương trình vừa phải làm cho tài
liệu đó vừa sức tiếp thu với sinh viên.
+ Chế biến, gia công tài liệu: Nhằm làm cho nó vừa đảm bảo logic của sự
phát triển khoa học, vừa phù hợp với logic sư phạm, lại thích hợp với trình độ của
sinh viên
+ Có khả năng phân tích, tổng hợp, hệ thống hóa kiến thức: Khi trình bày
một tài liệu, người giảng viên phải phân tích để thấy cái gì là bản chất, là cơ bản,
mối quan hệ giữa chúng với những cái chi tiết, cái thứ yếu, suy nghĩ cách trình bày,
dẫn dắt để làm cho nội dung được nổi bật, thành đối tượng tiếp thu của sinh viên.
+ Có óc sáng tạo: Ĩc sáng tạo của người giảng viên thể hiện ở mấy điểm
sau: a) Trình bày tài liệu theo suy nghĩ và lập luận của mình, cung cấp cho sinh viên
những kiến thức tinh và chính xác, liên hệ được nhiều mặt giữa kiến thức cũ và kiến
thức mới, kiến thức giữa các bộ môn với nhau, liên hệ, vận dụng vào thực tiễn cuộc
sống; b) Tìm ra những phương pháp mới, hiệu nghiệm để bài giảng đầy sức lôi cuốn

8



và giàu cảm xúc tích cực; c) Nhạy cảm với cái mới và giàu cảm hứng sáng tạo cũng
là yếu tố góp phần thúc đẩy năng lực chế biến tài liệu ở người giảng viên.
- Nắm vững kỹ thuật dạy học
Kỹ thuật dạy học là kỹ thuật tổ chức và điều khiển hoạt động nhận thức của
sinh viên qua bài giảng và đạt đến mức năng lực.
Biểu hiện của việc nắm vững kỹ thuật dạy học ở người giảng viên:
+ Tạo cho sinh viên ở vị trí người phát minh.
+ Truyền đạt tài liệu rõ ràng, dễ hiểu và làm cho nó trở nên vừa sức với sinh
viên.
+ Gây hứng thú và kích thích sinh viên suy nghĩ tích cực, độc lập.
+ Tạo ra tâm thế có lợi cho sự lĩnh hội, khắc phục sự suy giảm hoạt động
trong giờ học hoặc thái độ thờ ơ, uể oải.
Việc hình thành một năng lực như vậy là kết quả của một quá trình học tập
nghiêm túc và rèn luyện tay nghề công phu của người giảng viên.
- Năng lực ngôn ngữ
Năng lực ngôn ngữ là khả năng biểu đạt rõ ràng và mạch lạc ý nghĩ, tình
cảm của mình bằng lời nói cũng như nét mặt và điệu bộ. Đây là một trong những
năng lực quan trọng của người giảng viên, là cơng cụ sống cịn, đảm bảo cho người
giảng viên thực hiện chức năng dạy học và giáo dục của mình. Bằng ngơn ngữ,
giảng viên truyền đạt thơng tin đến sinh viên, thúc đẩy sự chú ý và suy nghĩ của
sinh viên vào bài giảng, điều khiển và điều chỉnh hoạt động nhận thức của sinh
viên. Năng lực ngôn ngữ của người giảng viên thường được biểu hiện ở cả nội
dung và hình thức của nó, do đó u cầu phải có độ sâu sắc về nội dung và giản dị
về hình thức.
+ Về nội dung: a) Ngơn ngữ phải chứa đựng mật độ thơng tin lớn, diễn tả
trình bày phải chính xác, cơ đọng; b) Lời nói phải phản ánh được tính kế tục và

9



tính luận chứng để đảm bảo thơng tin liên tục, logic; c) Nội dung và hình thức
ngơn ngữ phải thích hợp với các nhiệm vụ nhận thức khác nhau; d) Nhân cách của
người giảng viên là hậu thuẫn vững chắc và duy nhất cho lời nói của mình.
+ Về hình thức: a) Giản dị, sinh động, giàu hình ảnh, có ngữ điệu, sáng sủa,
biểu cảm với cách phát âm mạch lạc, khơng có sai sót về mặt tu từ học, về ngữ
pháp, ngữ âm; b) Tránh những câu dài, cấu trúc từ phức tạp, những thuật ngữ và
cách trình bày khó hiểu. c) Nhịp điệu ngơn ngữ của người giảng viên không được
đều đều, đơn điệu, cũng không được quá gấp. Ngôn ngữ quá to, quá mạnh hoặc
ngược lại quá yếu cũng gây ảnh hưởng tiêu cực cho sinh viên. Nhịp độ tối ưu là
trung bình và hoạt bát.
3.2. Nhóm năng lực giáo dục
- Năng lực vạch dự án phát triển nhân cách sinh viên
Mục đích giáo dục là hình thành và phát triển nhân cách, một tổ hợp những
phẩm chất và năng lực của sinh viên theo một cấu trúc nhất định. Vì vậy, mọi hoạt
động sư phạm đều phải nhằm hình thành nên những chất liệu đó tạo nên nhân cách
sinh viên. Để làm được điều này, người giảng viên cần dựa vào mục đích đào tạo
để xây dựng những nội dung và cách thức giáo dục cho từng sinh viên những phẩm
chất nhân cách và hướng hoạt động của mình để đạt tới hình mẫu đó.
Một số biểu hiện của năng lực này:
+ Vừa có kỹ năng tiên đốn sự phát triển của những thuộc tính này hay khác
ở từng sinh viên, vừa nắm được nguyên nhân sinh ra cũng như mức độ phát triển
của những thuộc tính đó.
+ Có sự sáng rõ về những biểu hiện nhân cách của những sinh viên khác
nhau sẽ thu được trong tương lai dưới ảnh hưởng của những dự án phát triển nhân
cách do mình xây dựng.

10



+ Hình dung được hiệu quả của các tác động giáo dục nhằm hình thành nhân
cách theo dự án.
Năng lực vạch dự án phát triển nhân cách được tạo nên bởi nhiều yếu tố tâm
lý: Óc tưởng tượng sư phạm, tính lạc quan sư phạm, niềm tin vào sức mạnh giáo
dục, niềm tin vào con người, óc quan sát sư phạm.
- Năng lực cảm hóa sinh viên
Để hiểu được đối tượng giáo dục và làm cho các tác động sư phạm có ý
nghĩa đến sự hình thành nhân cách sinh viên, người giảng viên cần có năng lực
cảm hóa sinh viên. Đó là khả năng gây được ảnh hưởng trực tiếp của mình đến
sinh viên về mặt tình cảm và ý chí. Nói các khác, đó là khả năng làm cho sinh viên
nghe, tin và làm theo mình bằng tình cảm và niềm tin.
Năng lực cảm hóa sinh viên phụ thuộc vào tổ hợp các phẩm chất trong
nhân cách của người giảng viên: Tinh thần trách nhiệm đối với công việc, kỹ
năng truyền đạt niềm tin vào chính nghĩa, lịng tơn trọng sinh viên, lịng vị tha…
Để có được năng lực này người giảng viên cần phải:
+ Phấn đấu và tu dưỡng để có một nếp sống văn hóa cao, một phong cách
mẫu mực, tinh thần lao động hăng say…
+ Xây dựng mối quan hệ thầy trò tốt đẹp: Vừa nghiêm túc vừa thân mật, có
thái độ yêu thương và tin tưởng sinh viên, biết đối xử công bằng và dân chủ, chân
thành và giản dị…
+ Có tư thế tác phong gương mẫu trước sinh viên: Nói năng lịch sự, nhã
nhặn, cử chỉ đẹp, đàng hoàng…
Sức hút của sự cảm hóa hồn tồn bắt nguồn và hiện thân từ chính bộ mặt
chính trị đạo đức và tài nghệ sư phạm của người giảng viên.
- Năng lực khéo léo đối xử sư phạm

11



Trong hoạt động sư phạm, người giảng viên thường đứng trước nhiều tình
huống sư phạm khác nhau, địi hỏi phải biết cách giải quyết linh hoạt và sáng tạo.
Việc tìm ra những phương thức tác động đến sinh viên một cách hiệu quả nhất, sự
cân nhắc đúng đắn những nhiệm vụ sư phạm cụ thể phù hợp với đặc điểm và khả
năng của từng cá nhân cũng như tập thể trong từng tình huống sư phạm chính là sự
đối xử khéo léo sư phạm. Vì thế, năng lực này được xem như một thành phần quan
trọng của tài nghệ sư phạm, là một nghệ thuật.
Trong thực tiễn hoạt động sư phạm, sự khéo léo đối xử sư phạm được biểu
hiện dưới nhiều khía cạnh như sau:
+ Sự nhạy bén về mức độ sử dụng bất kỳ mọi tác động sư phạm nào.
+ Nhanh chóng xác định được vấn đề xảy ra và kịp thời áp dụng những biện
pháp thích hợp.
+ Biết phát hiện kịp thời và giải quyết khéo léo những vấn đề xảy ra bất ngờ,
khơng nóng vội, khơng thô bạo.
+ Biết biến cái bị động thành cái chủ động, giải quyết một cách mau lẹ
những vấn đề phức tạp đặt ra trong công tác dạy học và giáo dục.
+ Quan tâm chu đáo đến sinh viên có tính đến đặc điểm tâm lý sinh viên,
quang minh chính đại.
3.3. Nhóm năng lực tổ chức các hoạt động sư phạm
Người giảng viên trong hoạt động sư phạm có nhiệm vụ tổ chức lao động
cho cá nhân và tập thể sinh viên trong những điều kiện sư phạm khác nhau, là hạt
nhân để gắn kết sinh viên thành một tập thể, là người truyên truyền và liên kết,
phối hợp các lực lượng giáo dục.
Năng lực tổ chức các hoạt động sư phạm được thể hiện như sau:
- Tổ chức và cổ vũ sinh viên thực hiện các nhiệm vụ khác nhau của công tác
dạy học và giáo dục.

12



- Biết đoàn kết tập thể sinh viên thành một tập thể lành mạnh, thống nhất, có
kỷ luật, có nề nếp, đảm bảo cho mọi hoạt động diễn ra một cách thuận lợi và có
hiệu quả.
- Biết tổ chức, vận động nhân dân, phụ huynh và các tổ chức xã hội tham gia
vào sự nghiệp giáo dục theo một mục tiêu xác định.
Yêu cầu đối với việc hình thành năng lực tổ chức các hoạt động sư phạm:
- Biết vạch kế hoạch: Người giảng viên phải suy nghĩ một cách chín chắn,
sâu sắc các tình huống giáo dục và đặc điểm đối tượng. Kế hoạch vạch ra biết kết
hợp yêu cầu trước mắt và lâu dài, đảm bảo tính nguyên tắc và tính linh hoạt của kế
hoạch, biết vạch ra kế hoạch đi đôi với kiểm tra kế hoạch để đánh giá hiệu quả và
sẵn sàng bổ sung kế hoạch.
- Biết sử dụng đúng đắn các hình thức và phương pháp dạy học và giáo dục
khác nhau nhằm tổ chức tốt việc học tập và có tác động sâu sắc đến tư tưởng và
tình cảm của học sinh.
- Biết xác định mức độ và giới hạn của từng biện pháp dạy học và giáo dục
khác nhau.
- Có nghị lực và dũng cảm tin vào sự đúng đắn của kế hoạch và các biện
pháp giáo dục.
4. Ý nghĩa sư phạm được rút ra trong công tác dạy học và giáo dục
Nghề nhà giáo luôn được xã hội trân trọng và tôn vinh vì là “nghề cao quý nhất
trong những nghề cao quý”. Các giá trị văn hóa của nhân loại qua bàn tay của
người thầy được kết tinh và truyền thụ cho các thế hệ kế tiếp để đào tạo ra những
con người có phẩm chất, năng lực phục vụ cho sự phát triển của xã hội. Thành quả
của quá trình lao động sư phạm là đào tạo ra những con người mới với nhân cách
hoàn chỉnh. Để đạt được mục tiêu đó, vai trị của nhà giáo rất quan trọng, họ vừa là
người thiết kế, vừa là người thi công trong quá trình dạy học. Đạo đức của họ là
13


tấm gương sống để người học noi theo, giống như Victor Hugo đã từng nói:

“Trước trí tuệ siêu việt, ta cúi đầu bái phục; trước lòng tốt cao cả, ta quỳ gối tôn
thờ”.
Mặt khác, hiệu quả của giáo dục và dạy học phụ thuộc rất nhiều vào uy tín của
người giảng viên. Uy tín ấy khơng phải tự nhiên mà có mà nó gắn bó chặt chẽ với
nhân cách của người giảng viên. Người giảng viên uy tín có ảnh hưởng mạnh mẽ
đến tư tưởng, tình cảm của người học. Nhà Giáo dục học người Nga K.D. Usinxki
đã từng nói rằng “Trong giáo dục, tất cả phải dựa vào nhân cách của nhà người
giáo dục, bởi vì sức mạnh của giáo dục chỉ bắt nguồn từ nhân cách con người chân
chính. Khơng một điều lệ, chương trình, một cơ quan giáo dục nào, dù có được tạo
ra một cách khơn khéo như thế nào cũng không thể thay thế được nhân cách của
con người trong sự nghiệp giáo dục”.
Vì vậy, việc trau dồi và hoàn thiện nhân cách của người giảng viên trong hoạt động
sư phạm có ý nghĩa rất lớn đối với đời sống xã hội của loài người và với sự phát
triển của quốc gia. Vì vậy, để trở thành một giảng viên trong tương lai tôi cần:
- Không ngừng học tập, trau dồi, nâng cao kiến thức.
- Có lối sống lành mạnh, văn minh, có tác phong làm việc khoa học, nghiêm
túc; có trình độ chun mơn vững vàng, phẩm chất đạo đức trong sáng.
- Rèn luyện kỹ năng nghề nghiệp .
- Tận tâm với công việc và sẵn sàng trao đổi học thuật với đồng nghiệp.
- Thường xuyên cập nhật kiến thức chuyên môn nghiệp vụ.
- Tìm hiểu vấn đề liên quan đến sự phát triển của sinh viên.
- Phải nắm vững mục đích, nhiệm vụ, nội dung dạy học.

14


- Phải hiểu rõ người học, biết khai thác động lực và tiềm năng của người học.
- Phải biết vận dụng quy luật, nguyên tắc dạy học ở đại học và biết hướng dẫn
sinh viên tự học, tự nghiên cứu.
- Phải biết vận dụng các hình thức dạy học, phương pháp dạy học, sử dụng

phương tiện dạy học, biết cải tiến việc dạy học....

KẾT LUẬN

Xã hội ngày càng phát triển địi hỏi con người phải ln ln khơng ngừng nỗ lực
phấn đấu, người giảng viên cũng không ngoại lệ. Người giảng viên có vai trị và
trách nhiệm là chun gia về nội dung giảng dạy, người thúc đẩy quá trình học tập,
nhà thiết kế chương trình hoặc bài giảng, nhà tư vấn và nhà đánh giá giáo dục.
Muốn xây dựng được nhân cách cho người học, người thầy trước hết phải có phẩm
chất đạo đức thể hiện ở thái độ, tác phong chuẩn mực khi thực hiện giảng dạy và
trong lối sống, trở thành tấm gương, vừa là người thầy, vừa là người cán bộ ưu tú,
chuẩn mực cho người học noi theo.
Những phẩm chất tâm lí cần thiết đối với nghề dạy học được bộc lộ rõ nét nhất, là
lúc người giáo viên thể hiện rõ nhất năng lực nghề nghiệp của bản thân. Đồng thời,
15


còn là lúc để người giáo viên tự rèn luyện tư duy sư phạm linh hoạt, mềm dẻo, khả
năng tự chủ, khả năng hiểu học sinh, khả năng ứng xử sư phạm... Cái phẩm chất
của người thầy thể hiện ở sự hi sinh vơ tư “tất cả vì học sinh thân yêu”, giúp đỡ
người học một cách chân thành, không vì vụ lợi, khơng phân biệt đối xử, giúp đỡ
trong hỗ trợ kiến thức phải đến nơi đến chốn.
Việc dạy học là một cơng việc vất vả cả về trí óc lẫn thể chất, đòi hỏi nhiều trách
nhiệm, nhiều thử thách và sự kiên nhẫn. Vì vậy, mỗi người thầy phải ln có ý
thức rèn đức - luyện tài, tự tu dưỡng, trau dồi phẩm chất đạo đức cách mạng, yêu
nghề - yêu người, nâng cao năng lực chuyên môn đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ của
cách mạng. Đồng thời, kiên quyết đấu tranh loại bỏ những hiện tượng tiêu cực, sai
trái trong giáo dục. Tự mình phấn đấu trở thành người nhà giáo tốt, thực sự là hình
mẫu cho người học để nghề dạy học xứng đáng là nghề cao quý nhất trong những
nghề cao quý mà Bác Hồ đã dành tặng.


Tài liệu tham khảo
1. TS. Lý Thị Minh Hằng, Giáo trình tâm lý học sư phạm (tài liệu lưu hành nội
bộ - Học viện Báo Chí và Tuyên truyền).
2. ThS. Lý Minh Tiên – TS. Nguyễn Thị Tứ, Giáo trình tâm lý học lứa tuổi $
Tâm lý học sư phạm (NXB Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh).
3. Google.com
4. www.xaydungdang.org.vn

16



×