Tải bản đầy đủ (.doc) (34 trang)

MỘT số GIẢI PHÁP đổi mới PHƯƠNG PHÁP dạy học ở TRƯỜNG PHỔ THÔNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (166.63 KB, 34 trang )

MỤC LỤC
CHƯƠNG I. PHẦN MỞ ĐẦU
I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
1. Cơ sở lí luận
2.Cơ sở thực tiễn.
II. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
III. NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU
IV. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
CHƯƠNG II.PHẦN NỘI DUNG
I. KHÁI NIỆM VỀ PPDH
1.Khái niệm chung về phương pháp
2.Phương pháp dạy học
II. ĐỔI MỚI PPDH
III. QUÁ NHIỀU RÀO CẢN ĐỂ ĐỔI MỚI CẤH GIẢNG DẠY
IV. THỰC TRẠNG ĐỔI MỚI PHƯƠNG PHÁP GIẢNG DẠY Ở
TRƯỜNG PHỔ THÔNG
V. ĐỔI MỚI PPDH TRƯỚC TIÊN LÀ PHẢI ĐỔI MỚI TƯ DUY
TRONG CHÍNH BẢN THÂN MÌNH
VI.ĐỔI MỚI PPDH BẮT ĐẦU TỪ ĐÂU?
1. Tại sao không đổi mới từ trên xuống?
2. Đổi mới tự phát không thể là căn bản
VII. ĐỔI MỚI PPDH BA CÁI KHÓ.
VIII. ĐỔI MỚI PPDH “THÁO GỠ RÀNG BUỘC”
1. Những bất cập người giáo viên
2. Dạy theo phương pháp nêu vấn đề
3. Giảm tải chương trình

1


IX. MỘT SỐ GIẢI PHÁP ĐỔI MỚI PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC Ở


TRƯỜNG PHỔ THÔNG
1. Sử dụng linh hoạt các phương pháp dạy học phổ biến theo hướng
phát huy tính tích cực, chủ động học tập của học sinh
2. Tích cực sử dụng PPDH giải quyết vấn đề
3.Tăng cường vận dụng các phương pháp dạy học tiên tiến đề cao chủ
thể nhận thức của học sinh.
4. Sử dụng những phương tiện dạy học theo hướng đề cao vai trò chủ
thể nhận thức của học sinh.
5. Phối hợp các tổ chức dạy học một cách linh hoạt
6. Kết hợp nhiều loại hình kiểm tra, đánh giá trong dạy học
X. PHƯƠNG PHÁP ỨNG DỤNG CƠNG NGHỆ THƠNG TIN TRONG
DẠY HỌC,THUẬN LỢI VÀ KHĨ KHĂN
1. Đặt vấn đề
2. Tại sao ứng dụng CNTT trong dạy học diễn ra rầm rộ trong giai
đoạn hiện nay?
3. Thuận lợi và thách thức
4. Bài học kinh nghiệm và đề xuất
XI. MỘT SỐ ĐỀ XUẤT KHẮC PHỤC
CHƯƠNG III. PHẦN KẾT LUẬN

2


CHƯƠNG II. PHẦN NỘI DUNG
I. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI
1. Cơ sở lí luận
* Nhìn chung về thế giới
Sự phát triển của khoa học công nghệ hiện nay đã tạo nên những bước
nhảy vọt và đưa thế giới từ kỷ nguyên công nghệ sang kỷ nguyên thông tin và
phát triển tri thức. Đồng thời tác động đến tất cả các lĩnh vực làm biến đổi một

cách nhanh chóng sâu sắc đến đời sống vật chất và tinh thần của xã hội hiện nay.
Cũng chính vì thế mà khoảng cách giữa các phát minh khoa học công nghệ và
áp dụng vào thực tiễn ngày càng được thu hẹp. Kho tàng kiến thức của nhân loại
ngày càng phong phú.
Sự phát triển đòi hỏi năng suất và chất lượng cao hơn. Trong quá trình hội
nhập và tồn cầu hố đang làm cho khoảng cách phát triển trình độ của các nước
được rút ngắn hơn. Khoa học công nghệ trở thành động lực phát triển kinh tế xã
hội. Giáo dục là nền tảng của sự phát triển khoa học công nghệ. Phát triển nguồn
nhân lực đáp ứng nhu cầu của xã hội hiện đại và đóng vai trị trong việc nâng
cao ý thức dân tộc tinh thần trách nhiệm và năng lực của các thế hệ hiện nay và
mai sau.
Đổi mới giáo dục diễn ra trên quy mơ tồn cầu, bối cảnh trên đã tạo nên
những thay đổi sâu sắc trong giáo dục. Từ quan niệm về chất lượng giáo dục xây
dựng nhân cách của người học sinh đến việc tổ chức vào quản lý hệ thống giáo
dục nhà trường từ chỗ khép kín sang mở cửa rộng rãi. Đối thoại với xã hội và
gắn bó chặt chẽ với nghiên cứu khoa học cơng nghệ ứng dụng. Nhà giáo thay vì
truyền đạt tri thức chuyển sang cung cấp cho người học phương pháp thu nhận
thơng tin một cách hệ thống, có tư duy phân tích và tổng hợp.
Tình hình Giáo Dục trong nước: bàn về phương pháp dạy học và đổi mới
phương pháp dạy học trong khoảng hơn 10 năm gần đây chúng ta đã tốn khơng
ít thời gian và giấy mực. ë nước ta phương pháp dạy học chưa thực sự trở thành
chìa khố, một cơng cụ để thầy cơ giảng dạy phương pháp dạy học vẫn nằm trên
sách vở giấy tờ. Nhiều khi đọc để hiểu cũng không phải dễ dẫn đến một thực
trạng khiến những người quan tâm đến vấn đề này không khỏi băn khoăn rằng
tại sao lại như vậy? Bởi vì chúng ta đã và đang sử dụng phương pháp dạy học lại
3


hậu trì trệ. Đó là gì? Đó là phương pháp truyền thống tư xa xưa đã để lại vẫn
“thầy truyền đạt trị tiếp nhận ghi nhớ” thậm chí ở một số môn do thúc bách về

quỹ thời gian với dung lượng kiến thức trong một giờ (đặc biệt ở những lớp có
liên quan đến thi cử) dẫn đến “thầy đọc trò chép hay thầy đọc chép trò đọc
chép”. Mặt khác nước ta đang đặt ra mục tiêu sẽ thực hiện cơng nghiệp hố hiện
đại hố đất nước vào năm 2020, để thành công cần phải đào tạo đội ngũ cán bộ,
cơng nhân kỹ thuật có tri thức để đáp ứng nhu cầu xã hội ngày một phát triển,
một tiên tiến. Cơng nghệ thơng tin bùng nổ trên thế giới địi hỏi chúng ta ứng
dụng công nghệ thông tin vào các lĩnh vực trong đời sống là điều không thể
thiếu. Mỗi một ngày lượng thông tin luôn thay đổi và không ngừng tăng lên.
Chúng được thường xuyên cập nhật. Để bắt nhịp với xu thế của thời đại, để thực
hiện di chúc của Bác để lại trước lúc đi xa: “...Dân tộc Việt Nam có sánh vai
được với các cường quốc năm châu hay khơng...”Thì việc đổi mới giáo dục là
một yếu tố tất yếu, cấp bách hiện nay mà nền giáo dục đặt ra. Mỗi cá nhân, mỗi
tập thể cần phải chung tay góp sức để việc đổi mới thành công.
2.Cơ sở thực tiễn
Đổi mới PPDH là một trong những nhiệm vụ quan trọng của cải cách giáo
dục nói chung cũng như cải cách cấp trung học phổ thông. Mục tiêu, chương
trình, nội dung dạy học mới địi hỏi việc cải tiến PPDH và sử dụng những PPDH
mới. Trong một số năm gần đây, các trường THPT đã có những cố gắng trong
việc đổi mới PPDH và đã đạt được những tiến bộ trong việc phát huy tính tích
cực của HS. Tuy nhiên, các phương pháp dạy học truyền thống, đặc biệt là
thuyết trình vẫn chiếm một vị trí chủ đạo trong các PPDH ở các trường THPT
nói chung, hạn chế việc phát huy tính tích cực và sáng tạo của HS.
Một trong những định hướng cơ bản của việc đổi mới giáo dục là chuyển từ nền
giáo dục mang tính hàn lâm, kinh viện, xa rời thực tiễn sang một nền giáo dục
chú trọng việc hình thành năng lực hành động, phát huy tính chủ động, sáng tạo
của người học. Định hướng quan trọng trong đổi mới PPDH là nhằm phát huy
tính tích cực, tự lực và sáng tạo, phát triển năng lực hành động, năng lực cộng
tác làm việc của người học. Đó cũng là những xu hướng quốc tế trong cải cách
PPDH ở nhà trường phổ thông.
Để thực hiện có hiệu quả việc đổi mới PPDH ở trường phổ thơng thì việc

đào tạo và bồi dưỡng đội ngũ GV có năng lực dạy học theo những quan điểm
4


đổi mới PPDH có vai trị then chốt. Từ nhiều năm nay Bộ giáo dục và đào tạo đã
chú ý việc bồi dưỡng GV về đổi mới PPDH, và đã có nhiều tài liệu về chủ đề
này được xuất bản. Trong khuôn khổ của dự án phát triển giáo dục THPT cũng
có nhiều hình thức và tài liệu bồi dưỡng về đổi mới PPDH đã và sẽ triển khai
thực hiện. Các tài liệu cơ bản là “Tài liệu bồi dưỡng GV dạy chương trình, sách
giáo khoa” mới, “Tài liệu bồi dưỡng nâng cao năng lực cho GV THPT về đổi
mới PPDH” của từng mơn học. Tuy nhiên vẫn cịn thiếu rất nhiều tài liệu cho
giáo viên có thể tham khảo để có thể thực hiện thành cơng mục tiêu giáo dục của
nước nhà.
II. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
Đổi mới mạnh mẽ phương pháp giáo dục và đào tạo khắc phục lối truyền
thụ một chiều,rèn luyện nếp tư duy sáng tạo của người học. Từng bước áp dụng
các phương pháp tiên tiến và phương tiện hiện đại vào trong quá trình dạy
học,đảm bảo thời gian và điều kiện tự học,tự nghiên cứu cho học sinh, nhất là
sinh viên đại học.
Phương pháp Giáo Dục Phổ Thơng phải phát huy tính tích cực, tự giác,
chủ động của học sinh; phù hợp với đặc điểm của từng lớp học,môn học;rèn
luyện phương pháp tự học, rèn luyện kỹ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn;
tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho học sinh.
Chiến lược phát triển giáo dục 2001-2010 (Ban hành kèm theo quyết định
số 201/2001/QĐ-TTg ngày 28 tháng 12 năm 2001 của Thủ Tướng Chính
phủ),ở mục 5.2 ghi rõ: “ Đổi mới và hiện đại hoá phương pháp giáo dục. Chuyển
từ việc truyền thụ tri thức thụ động, thầy giảng trò ghi sang hướng dẫn người
đọc tư duy trong quá trình tiếp cận tri thức; dạy cho người học phương pháp tự
học, tự thu nhận thông tin một cách có hệ thống và có tư duy phân tích tổng hợp;
phát huy năng lực của mỗi cá nhân; tăng cường tính chủ động tính tự chủ của

học sinh,sinh viên trong quá trình học tập....”
III. NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU
- Nghiên cứu việc đổi mới phương pháp dạy học ở trường trung học phổ
thông được diễn ra theo bốn hướng chủ yếu:
- Phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động của học sinh.
- Bồi dưỡng phương pháp tự học.
5


- Rèn luyện kĩ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn.
- Tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho học sinh.
Trong đó, hướng phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động của học sinh là
cơ bản, chủ yếu, chi phối đến ba hướng sau.
IV. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Khơng có một phương pháp nghiên cứu nào là vạn năng. Để thực hiện đề
tài một cách tốt nhất trong một thời gian nhất định. Ở đây tơi sử dụng tổng hợp
nhiều phương pháp đó là:
- Phương pháp điều tra.
- Phương pháp thu thập và xử lý thơng tin.
- Phương pháp quan sát thực tiễn.
Ngồi ra để thực hiện đề tài này, cịn có nhiều phương pháp khác được sử
dụng như: phân tích tổng hợp, đặc biệt là phương pháp đàm thoại.

6


CHƯƠNG II. PHẦN NỘI DUNG
I. KHÁI NIỆM VỀ PPDH
1.Khái niệm chung về phương pháp
Theo quan điểm triết học, chúng ta có thể nêu lên một số khái niệm về PP

như sau:
+ Phương pháp(pp) là cách thức, là con đường, phương tiện là tập hợp các
bước mà trí tuệ phải đi theo dể tìm ra và chứng minh chân lý. Chẳng hạn PP biện
chứng, PP phân tích hệ thống.
+ Phương pháp đồng nghĩa với biện pháp kỹ thuật, biện pháp khoa học.
+ PP còn là tổ hợp những quy tắc, nguyên tắc quy phạm dùng để chỉ đạo
hành động.
Tuy nhiên định nghĩa HêGhen đưa ra là chứa đựng một nội hàm sâu sắc
và bản chất được VI.LêNin đưa ra trong tác phẩm Bút ký triết học của mình: PP
là “ Ý thức về hình thức của sự tự vận động bên trong của nội dung”.
2. Phương pháp dạy học
Phương pháp dạy học (PPDH) là một trong những vấn đề cơ bản của lý
luận dạy học. Đồng thời là vấn đề còn tồn tại nhiều ý kiến khác nhau. Vậy
PPDH là gì? Có rất nhiều định nghĩa khác nhau về vấn đề PPDH. Sau đây xin
giới thiệu một vài định nghĩa trong số chúng:
+ PPDH là hình thức tương tác giữa thầy và trò nhằm giải quyết các vấn
đề giáo dưỡng, giáo dục và phát triển trong quá trìnhdạy học.
+ PPDH là một hệ thống hành động có mục đích của giáo viên nhằm tổ
chức hoạt động và hiện hành của học sinh, đảm bảo cho học sinh lĩnh hội nội
dung học vấn.
+ PPDH là cách thức hoạt động tương trợ giữa thầy và trị nhằm đạt được
mục đích dạy học. Hoạt động này được thể hiện trong việc sử dụng các nguồn
nhận thức, các thủ thuật logic, các dạng hoạt động độc lập của học sinh và cách
thức điều khiển quá trrình nhận thức của thầy giáo, cơ giáo.
Ngồi ra cịn có nhiều định nghĩa tóm tắt trong 3 dạng cơ bản sau đây:
7


+ Theo quan điểm điều khiển học PP là cách thức tổ chức hoạt động nhận
thức của học sinh và điều khiển hoạt động này.

+ Theo quan điểm logic, PP là những thủ thuật logic được sử dụng để giúp
học sinh nắm kiến thức, kỹ năng, kỹ xảo một cách tự giác.
+ Theo bản chất của nội dung, PP là sự vận động của nội dung dạy học.
Mặc dầu chưa có ý kiến thống nhất về định nghĩa PPDH, song các tác giả
đều thừa nhận rằng PPDH có những dấu hiệu đặc trưng sau đây:
- Nó phản ánh sự vận động của quá trình nhận thức của học sinh nhằm đạt
được mục đích đặt ra.
- Phản ánh sự vận động của nội dung đã được nhà trường quy định.
- Phản ánh cách thức trao đổi thông tin giữa thầy và trò.
- Phản ánh cách thức giao tiếp giữa thầy và trò.
- Phản ánh cách thức điều khiển hoạt động nhận thức và kiểm tra, đánh giá
kết quả hoạt động.
Như vậy ta có thể định nghĩa: PPDH là tổ hợp cách thức hoạt động của cả
thầy và trị trong qúa trình dạy học, dưới sự chỉ đạo của thầy nhằm thực hiện tốt
nhiệm vụ dạy học.
II. ĐỔI MỚI PPDH
Đổi mới PPDH là một trong những nhiệm vụ quan trọng của cải cách giáo
dục nói chung cũng như cải cách cấp trung học phổ thơng. Mục tiêu, chương
trình, nội dung dạy học mới đòi hỏi việc cải tiến PPDH và sử dụng những PPDH
mới. Trong một số năm gần đây, các trường THPT đã có những cố gắng trong
việc đổi mới PPDH và đã đạt được những tiến bộ trong việc phát huy tính tích
cực của HS. Tuy nhiên, các phương pháp dạy học truyền thống, đặc biệt là
thuyết trình vẫn chiếm một vị trí chủ đạo trong các PPDH ở các trường THPT
nói chung, hạn chế việc phát huy tính tích cực và sáng tạo của HS.
Một trong những định hướng cơ bản của việc đổi mới giáo dục là chuyển từ nền
giáo dục mang tính hàn lâm, kinh viện, xa rời thực tiễn sang một nền giáo dục
chú trọng việc hình thành năng lực hành động, phát huy tính chủ động, sáng tạo
của người học. Định hướng quan trọng trong đổi mới PPDH là nhằm phát huy
tính tích cực, tự lực và sáng tạo, phát triển năng lực hành động, năng lực cộng


8


tác làm việc của người học. Đó cũng là những xu hướng quốc tế trong cải cách
PPDH ở nhà trường phổ thơng.
Để thực hiện có hiệu quả việc đổi mới PPDH ở trường phổ thơng thì việc
đào tạo và bồi dưỡng đội ngũ GV có năng lực dạy học theo những quan điểm
đổi mới PPDH có vai trị then chốt. Từ nhiều năm nay Bộ giáo dục và đào tạo đã
chú ý việc bồi dưỡng GV về đổi mới PPDH, và đã có nhiều tài liệu về chủ đề
này được xuất bản. Trong khuôn khổ của dự án phát triển giáo dục THPT cũng
có nhiều hình thức và tài liệu bồi dưỡng về đổi mới PPDH đã và sẽ triển khai
thực hiện. Các tài liệu cơ bản là “Tài liệu bồi dưỡng GV dạy chương trình, sách
giáo khoa” mới, “Tài liệu bồi dưỡng nâng cao năng lực cho GV THPT về đổi
mới PPDH” của từng môn học. Tuy nhiên vẫn cịn thiếu rất nhiều tài liệu cho
giáo viên có thể tham khảo để có thể thực hiện thành cơng mục tiêu giáo dục của
nước nhà.
III.QÚA NHIỀU RÀO CẢN ĐỂ ĐỔI MỚI CÁCH GIẢNG DẠY
Nguyên nhân có thể tạo ra rào cản đến việc thay đổi phương pháp giảng
dạy từ những ý kiến từ nhóm mình như: sĩ số lớp q lớn, cách đánh giá trình độ
học sinh theo kiểu học gì, thi nấy..., trình độ giáo viên khơng đồng đều, giáo
viên bị hạn chế bởi nhiều thứ khác (như sách hướng dẫn giáo viên), thanh tra chi
li bài dạy của giáo viên.
Bên cạnh đó, có thực tế có rất nhiều mơn học và thực tế mơn nào cũng cần
có điểm tốt dẫn đến cảm giác mơn nào cũng có thể trở thành mơn học chính, gây
áp lực mọi phía cho cả giáo viên và học sinh. Chưa hết, cách đánh giá q máy
móc giữa trình độ của học sinh với những kiến thức bất di bất dịch từng li, từng
nét khiến học sinh cũng mất hứng thú học tập.
Tuy thực tế còn nhiều những rào cản như trên nhưng vấn đề đặt ra là với
mỗi giáo viên, có muốn đổi mới phương pháp giảng dạy hay khơng, vì sao,
ngun nhân nào khiến chuyện đổi mới là không thể? Đổi mới phương pháp

giảng dạy không phải là thay đổi từng cách giảng dạy này bằng cách giảng dạy
khác mà là sử dụng những phương pháp giảng dạy hiện tại như thế nào để tạo ra
những giờ học hiệu quả. Tự thân từng phương pháp giảng dạy chẳng có ý nghĩa
gì nếu nó khơng được sử dụng một cách đúng lúc, đúng chỗ và đúng mức.

9


Để đổi mới phương pháp giảng dạy thì phải thốt khỏi những rào cản. Đó
là rào cản do học sinh chưa quen cách học mới, thậm chí có nhiều mơn không
muốn học (chẳng hạn môn giáo dục công dân do không thi, là môn phụ…). Rào
cản tiếp theo là giáo viên, do trong quá trình đào tạo nhiều người chưa sẵn sàng
đổi mới.
Tiếp theo là cách đánh giá học sinh bằng điểm, qua những kỳ thi; cách hỏi,
cách ra đề thi khiến giáo viên muốn thay đổi phương pháp giảng dạy cũng ngại.
Chưa kể việc đánh giá thành tích giáo viên như tỉ lệ lên lớp, thi cử… , và đây
chính là rào cản lớn khiến giáo viên khơng dám đổi mới. Rồi cịn việc chương
trình q nặng, q ơm đồm, quá nhiều môn học...
Điều mà giáo viên quan tâm để đổi mới phương pháp giảng dạy là nên lập
một trang web để giáo viên trao đổi với nhau, đồng thời nên hạ giá thành trang
thiết bị, đồ dùng dạy học. Các công ty sách thiết bị trường học cũng nên mua lại
tài liệu quý của giáo viên và tập hợp lại để phổ biến đến giáo viên, học hỏi kinh
nghiệm và nâng cao bài giảng.
Cần thay đổi cách đánh giá học sinh. Đánh giá không nên chăm chăm kiến
thức mà đánh giá vào kỹ năng. Đánh giá qua thi cử chỉ toàn đánh giá kiến thức,
làm cho việc dạy và học chán. Trong khi đó, đánh giá kỹ năng gồm kỹ năng học
(học sinh chưa được dạy); kỹ năng sống khác (kỹ năng ứng xử, giao tiếp, tự chủ,
làm việc nhóm, hoạch định mục tiêu…). Con người ta chỉ học 25% kiến thức
trong cuộc sống, còn 75% kiến thức trong đời là tri hành, tri nhân. Đổi mới
không tạo ra nhiều tiến sĩ mà tạo ra nhiều học sinh biết làm việc.

Vấn đề nổi trội cần quan tâm hiện nay là vấn đề đạo đức của học sinh. Với
việc đổi mới phương pháp giảng dạy, nhiều giáo viên cảm thấy đơn lẻ khi muốn
thay đổi. Sự đơn lẻ này đến từ cách nhìn nhận của ngành giáo dục, nhà trường,
cộng đồng, học sinh...
Giải pháp cho việc thay đổi phương pháp giảng dạy, nhóm này cho biết sự
quan trọng của việc cải cách cấu trúc trong giáo dục và văn hóa trong giáo dục.
Trong đó những thay đổi hiện tại tập trung quá nhiều vào việc thay đổi cấu trúc
trong khi vấn đề văn hóa giáo dục thì bị xem nhẹ. Chính văn hóa giáo dục sẽ
khiến ngành giáo dục, nhà trường, cộng đồng, giáo viên, học sinh… trả lời được
câu hỏi “thay đổi” hay “bị thay đổi”? Khi trả lời cụ thể được vấn đề văn hóa
giáo dục, người biên soạn sách giáo khoa, người đưa ra các tiêu chuẩn đánh giá
10


trình độ học sinh, người dạy, người học sẽ cảm nhận được sứ mệnh của mình để
cùng nhau thay đổi.
Sự thay đổi cũng cần phải có hệ thống. Chẳng hạn, dù khơng tính điểm
thường xun nhưng trình độ của học sinh tiểu học hàng năm vẫn phải trải qua
bốn kỳ kiểm tra để đánh giá kết quả. Như thế chuyện học để lấy điểm đã vơ tình
“ăn” vào suy nghĩ của học sinh từ tiểu học, các cấp học khác sẽ như thế nào nếu
học sinh cũng tâm niệm chuyện học để lấy điểm là chính?
Ngành giáo dục đang ngủ mê trên ngơi mỏ kim cương. Vì mỗi sáng kiến
của giáo viên (tốn tiền, tốn sức, tốn công) rất quý báu nhưng khơng được khen
thưởng đúng mức; trong khi đó, nếu làm việc trong xí nghiệp có sáng kiến làm
lợi cho xí nghiệp thì sẽ được thưởng. Sáng kiến của giáo viên rất vô giá và theo
hai nghĩa đen và bóng.
Về vấn đề khó thay đổi phương pháp giảng dạy, chính sách giáo khoa là
pháp lệnh, cịn sách hướng dẫn của giáo viên chính là "chiếc cịng số tám"! Do
đó, để giảng dạy, giáo viên phải soạn giáo án theo sách giáo viên, có từng bước
quy định, như vậy thì làm sao giáo viên có ý tưởng sáng tạo?

Học sinh phải là đồng tác giả của q trình giảng dạy
Phó thủ tướng kiêm Bộ trưởng Bộ GD-ĐT phát biểu: "Đổi mới phương
pháp dạy học đã có từ lâu nhưng chưa có mơ hình hay phổ biến rộng rãi. Vừa
qua báo Tuổi Trẻ giới thiệu gương một số thầy cô, tôi cho rằng đây là những
phát hiện hay. Đổi mới phương pháp không phải lấy từ trên xuống mà phải từ
dưới lên để thúc đẩy bộ máy".
Ở các nước, sinh viên đánh giá giáo viên đã có từ lâu, cịn ở ta đang thực
hiện. Nhưng ở bậc phổ thơng thì đổi mới như thế nào cho phù hợp? Nên coi học
sinh cũng là đồng tác giả của quá trình giáo dục. Giáo viên phải có cơng nghệ
thiết kế quy trình bài giảng mới, phải thu hút học sinh vào bài học, phải có tư
liệu cuộc sống bổ sung vào ngồi sách giáo khoa. Tất cả thầy cô dạy một bộ
môn cần lập một trang web để làm tư liệu.
Bộ trưởng cũng cho biết, chương trình sách giáo khoa bộ mới đánh giá
một lần và đang ghi nhận để chỉnh sửa từ từ. Ông cũng cho rằng mục tiêu giáo
dục là dạy làm người nhưng đánh giá vẫn thiên về cho điểm từng mơn, do đó
ơng rất đồng tình về việc đưa mơn kỹ năng sống vào chương trình học.
11


Trong tất cả các yếu tố liên quan đến việc giảng dạy, yếu tố nào cũng có
rào cản bên cạnh những ưu điểm. Việc đổi mới phương pháp giảng dạy khơng có
nghĩa ngay lập tức cần thay đổi nội dung sách giáo khoa. Cách đáng giá
giáoviên và học sinh hiện nay cũng cịn nhiều tồn tại.
Yếu tố văn hóa giáo dục có tác động khơng nhỏ đến lãnh đạo ngành giáo
dục, giáo viên, học sinh… Sách giáo khoa, sách hướng dẫn giáo viên khơng
phải là “cịng số tám” như nhiều người thường nghĩ về các phương pháp giảng
dạy, đó chỉ là những hướng dẫn được cho rằng “có thể tốt nhất” mà thôi.
Về việc đào tạo giáo viên, hiện nay có tình trạng ngay trong chính các
trường sư phạm, sinh viên vẫn còn thiếu thời gian thực tập sư phạm. Nhưng như
đã nói, phương pháp nào cũng có rào cản nên trong thời gian tới, việc tìm ra rào

cản nào đóng vai trị “nút bấm” để đổi mới được phương pháp giảng dạy sẽ rất
quan trọng.
Học sinh phải học rất nhiều mơn học, chính vì vậy mà áp lực bài kiểm tra
rất nặng nề. Ví dụ học sinh học mơn ngữ văn phải làm hơn chục bài kiểm tra
trong một học kỳ. Thêm nữa là áp lực từ gia đình, rồi giáo viên mơn nào cũng
xem là quan trọng.
Có nhiều giáo viên khơng muốn đổi mới, cũng có những giáo viên không
biết đổi mới như thế nào.Bộ nên điều chỉnh lại chương trình thì mới phát triển
kỹ năng cho học sinh. Bộ cũng cần giảm môn học để học sinh không bị áp lực,
các môn khác chỉ tự chọn. Thêm đó, cũng cần thay đổi cách kiểm tra đánh giá,
vì nếu khơng thay đổi thì rất khó để giáo viên đổi mới phương pháp, học sinh
chỉ đối phó với kiểm tra.
Mọi phương pháp giảng dạy có thể sử dụng tốt như thế nào thì tất cả đều
phụ thuộc vào cấu tạo chương trình. Hiện tại, cấu tạo chương trình của chúng ta
còn quá nhiều điều bất hợp lý như chuyện học sinh tiểu học phải học hai
buổi/ngày, học sinh không được phân luồng và chính học sinh cũng khơng ý
thức được hướng vào đời dù đã học hết 12 năm phổ thông. Tất cả những vấn đề
thuộc về cấu tạo chương trình kéo theo hàng loạt những phụ thuộc đến cách dạy,
cách đánh giá, cách học của học sinh…
Học sinh cần tình thương và khi thuyết phục được học sinh, khơng có lý
do gì mà học sinh khơng hợp tác. “Mang cuộc sống đến cắt nghĩa bài học và

12


mang bài học đến áp dụng cuộc sống” là cách làm của chúng tơi. Khi thầy cơ,
với tình u thương học trị của mình được học sinh cảm nhận, tơn trọng, việc
học đó cũng là một cách học hiệu quả. “Bao giờ có thể có được một chương
trình nhiều sách giáo khoa? Nếu khơng thì sẽ đặt sự sáng tạo trong một khn
khổ nhất định, vì ngun tắc sự sáng tạo là sự đa hướng”.

Phó thủ tướng kiêm bộ trưởng Bộ GD-ĐT Nguyễn Thiện Nhân cho biết:
Chương trình mới ra năm 2006 nên bộ có chủ trương hằng năm sẽ đánh giá
chương trình sách giáo khoa, chậm nhất năm 2010 sẽ trả lời là điều chỉnh
chương trình như thế nào. Về cách thức biên soạn nhiều bộ sách, bộ đã giao
Viện Giáo dục khoa học.
Năm nay là năm sách giáo khoa lớp 12 dùng đầu tiên, do dùng lần đầu tiên
nên chưa thể sửa được, nhưng những bộ sách trước sẽ sửa được. Từ quý một
năm 2009 sẽ có quy chế viết nhiều bộ sách cho một chương trình, sau đó mới có
thể triển khai được.
Theo ơng Nhân, khi có một chương trình mới thì phải dạy rất vất vả, do đó
một chương trình phải dạy một vài năm mới bộc lộ những cái nào cần chỉnh sửa.
Nếu quyết định năm 2010 phải sửa thì cũng phải đến năm 2012, 2013 trở đi mới
có thể có sách giáo khoa được. Năm 2007 bộ đã có một ban chỉ đạo tổ chức,
đánh giá chương trình sách giáo khoa. Năm tới ban này cũng có nhiệm vụ chuẩn
bị xây dựng chương trình sách giáo khoa mới. Ông Nhân cũng mời gọi các giáo
viên đánh giá chương trình hằng năm để giúp Bộ GD-ĐT đánh giá chính xác
chương trình.
Phó thủ tướng kiêm bộ trưởng Bộ GD-ĐT Nguyễn Thiện Nhân nói, với
các vấn đề mà các thầy cô đã nêu trên Tuổi Trẻ, bộ sẽ tập hợp và thảo luận để cố
gắng từng bước làm rõ các vấn đề: vì sao phải đổi mới; đổi mới như thế nào; rào
cản hiện nay là gì và cách tháo gỡ; làm thế nào để sáng kiến của thầy cơ là sáng
kiến của tồn ngành?
Ơng Nhân cũng cho rằng, để làm được điều này phải có bốn cấp chịu
trách nhiệm: nhà trường làm gì để khuyến khích đổi mới này của thầy cơ; các
tỉnh thành làm gì để tạo phong trào có hiệu quả; Bộ GD-ĐT làm gì để khuyến
khích thầy cơ; giáo viên nên làm gì? Đặc biệt là làm thế nào để giáo viên đổi
mới không cảm thấy cô độc và được hỗ trợ.

13



IV. THỰC TRẠNG ĐỔI MỚI PPDH Ở TRƯỜNG THPT
Phương pháp dạy học được hiểu là phương pháp triển khai một quá trình
dạy học cụ thể. Tức là cách thức hình thành mục đích dạy học, cách thức soạn
thảo và triển khai nội dung dạy học, cách thức tổ chức hoạt động dạy và hoạt
động học nhằm hiện thực hóa mục đích, nội dung, dạy học và cách thức kiểm
tra, đánh giá kết quả của quá trình dạy học.
Bàn về phương pháp dạy học và đổi mới phương pháp dạy học, trong
khoảng hơn 10 năm gần đây, chúng ta tốn không ít thời gian và giấy mực. Song
trong thực tế, phương pháp dạy học chưa thực sự trở thành một chìa khố,
một cơng cụ để giúp các thầy cơ giáo trong giảng dạy mà phương pháp dạy
học vẫn nằm trong chữ nghĩa giấy tờ, nhiều khi đọc để hiểu được cũng
không phải dễ, dẫn đến một thực trạng khiến những người quan tâm đến
vấn đề này không khỏi băn khoăn.
Thực chất của đổi mới PPDH là "lấy học sinh làm trung tâm" và khi đó
người dạy phải hiểu được yêu cầu của người học để cung cấp thông tin, định
hướng mục tiêu học tập, tổ chức, hướng dẫn người học chủ động tư duy, nhận
thức, thực hành, sáng tạo trong quá trình tiếp nhận tri thức. Do đó, để đổi mới
PPDH mỗi giáo viên phải tìm kiếm, lựa chọn các phương thức hoạt động chung
cho phù hợp với học sinh nhằm thực hiện 3 chức năng của PPDH, gồm nắm
vững, giáo dục, phát triển. Phương pháp giảng dạy phù hợp sẽ phát huy hiệu
quả, trực tiếp ảnh hưởng đến chất lượng giờ dạy. Một giờ dạy tốt của một
người thầy giỏi có khi in đậm trong trí nhớ của học sinh hàng mấy chục năm.
Khi bàn về hiện trạng phương pháp dạy học những năm gần đây, chúng ta
phải tránh một nhận xét chung chung là: Chúng ta đã sử dụng phương pháp
dạy học lạc hậu trì trệ. Tuy nhiên, cũng khơng thể nói trong thực tế ngày nay
phương pháp truyền thống vẫn được coi là ưu việt, bởi thực chất của phương
pháp dạy học những năm vừa qua chủ yếu vẫn xoay quanh việc: “thầy truyền
đạt, trò tiếp nhận, ghi nhớ” thậm chí ở một số bộ mơn do thúc bách của quỹ thời
gian với dung lượng kiến thức trong một giờ (đặc biệt ở các lớp có liên quan đến

thi cử) dẫn đến việc “thầy đọc trò chép” hay thầy đọc chép và trị đọc, chép”…
Nói như vậy, cũng khơng phủ nhận ở một số khơng ít các thầy cơ giáo có ý thức
và tri thức nghề nghiệp vững vàng vẫn có nhiều giờ dạy tốt, phản ánh được tinh
thần của một xu thế mới.
14


Đã có rất nhiều giáo viên áp dụng phương pháp mới vào trong q trình
dạy học. Đó là PPDH hiện đại xuất hiện ở các nước phương Tây (ở Mỹ, ở
Pháp...) từ đầu thế kỷ XX và được phát triển mạnh từ nửa sau của thế kỷ, có ảnh
hưởng sâu rộng tới các nước trên thế giới, trong đó có Việt Nam. Đó là cách
thức DH theo lối phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh. Vì thế thường
gọi PP này là PPDH tích cực; ở đó, giáo viên là người giữ vài trò hướng dẫn,
gợi ý, tổ chức, giúp cho người học tự tìm kiếm, khám phá những tri thức
mới theo kiểu tranh luận, hội thảo theo nhóm. Người thầy có vai trị là trọng
tài, cố vấn điều khiển tiến trình giờ dạy. PPDH này rất đáng chú ý đến đối tượng
học sinh, coi trọng việc nâng cao quyền năng cho người học. Giáo viên là người
nêu tình huống, kích thích hứng thú, suy nghĩ và phân xử các ý kiến đối lập của
học sinh; từ đó hệ thống hoá các vấn đề, tổng kết bài giảng, khắc sâu những tri
thức cần nắm vững. Giáo án dạy học theo PP tích cực được thiết kế kiểu
chiều ngang theo hai hướng song hành giữa hoạt động dạy của thầy và học
của trị. Ưu điểm của PPDH tích cực rất chú trọng kỹ năng thực hành, vận dụng
giải quyết các vấn đề thực tiễn, coi trọng rèn luyện và tự học.
V. ĐỔI MỚI PPDH TRƯỚC TIÊN LÀ PHẲ ĐỔI MỚI TƯ DUY
TRONG CHÍNH BẢN THÂN MÌNH.
Sau đó từ tư duy mới biến thành hành động ( về lý thuyết là như thế)
nhưng những hoạt động cho đổi mới PPGD là 1 tổng thể những hoạt động:
- Soạn giảng
- Tiến trình lên lớp
- Ứng dụng cơng nghệ thơng tin trong giảng dạy.

- Sử dụng thiết bị, đồ dùng dạy học
- Đổi mới hình thức kiểm tra đánh giá.
- Đổi mới cả cách hướng dẫn cho HS tự học...
Đổi mới PPGD là 1 tổng thể của những hoạt động dạy và học, nên ngay 1
lúc nhiều việc như vậy chắc chắn GV chúng ta khơng thể kham nổi. Chính vì
vậy có hiện tượng quá tải và GV lúng túng không biết bắt đầu từ đâu.
Tất cả những hoạt động cần tiến hành đồng thời và song song, tốt nhất là tăng
cường trao đổi học hỏi lẫn nhau ( vì khơng gì bằng sức mạnh tập thể) vừa làm
vừa rút kinh nghiệm ( thực tế có rất nhiều GV có ý tưởng và cách làm rất hay,
chỉ vì thiếu đi những nguồn thơng tin nên chúng ta chưa có những địa chỉ để trao
đổi kinh nghiệm).
VI. ĐỔI MỚI PPDH BẮT ĐẦU TỪ ĐÂU?
1. Tại sao không đổi mới từ trên xuống?
15


Khi chỉ mong đợi đổi mới một chiều từ dưới lên, chắc chắn sẽ thất bại.
Nếu thiếu sự thơng thống do cơ chế ở trên ban ra, nếu còn bị trói buộc và
khơng đồng thuận từ mọi phía, thì ngọn lửa đổi mới từ dưới nhen lên chắc chắn
sẽ bị dập tắt.
Trong hàng chục vạn giáo viên các cấp hiện nay, có mấy ai được như các
thầy cơ: Tuấn Anh, Thu Trang, Quang Minh đã mạnh dạn đổi mới cách dạy khi
may mắn được toàn trường ủng hộ? Mà chắc chắn họ khơng thể có sự dũng cảm
đó khi việc làm của mình bị đơn lẻ, bị ghẻ lạnh và bị đánh giá là “xé rào”, làm
nổi. Một khi cấp trên chưa chủ động đổi mới trước về cách kiểm tra đánh giá,
cách ra đề thi cử, cách biên soạn tài liệu giáo khoa... thì người thầy dù có tâm
huyết đổi mới tới đâu cũng bị nhụt chí sáng tạo. Thế là “lỗ” to về kết quả trồng
người.
Tại sao không đặt vấn đề tích cực hơn: đổi mới từ trên xuống? Vậy mấu
chốt của vấn đề là đổi mới đồng bộ, trong đó đổi mới từ trên xuống là chiều chủ

động cơ bản nhất, là bệ phóng cho những ngọn lửa sáng tạo nhen lên từ dưới. Có
vậy mới làm thơng thống mơi trường đổi mới ở cấp dưới, giải phóng mọi rào
cản cho người thầy.
Ý kiến củaBà Dương Thị Trúc Bạch (Trường THPT Nguyễn Thị Minh
Khai): Chúng ta kêu gọi giáo viên đổi mới giảng dạy, nhưng khi thi đáp án phải
chấm theo ý, thậm chí với mơn văn, đáp án cũng chấm theo ý, khơng có phần
điểm nào cho sự sáng tạo. Ở bậc THPT, mọi đổi mới của giáo viên đến lớp 12
đều khựng lại, giáo viên phải dạy theo kiểu ra đề vì sợ học sinh rớt. Chúng ta
kêu gọi đổi mới, nhưng từ cấp cao nhất là Bộ GD-ĐT chưa mạnh dạn đổi mới
đánh giá thi cử và cách ra đề thi”.
Tóm lại, ở thời điểm hiện nay (và chắc còn lâu), giáo viên chưa thể phóng
được tầm tay của mình do cịn bị chặn từ nhiều phía. Phía chủ yếu và quan trọng
nhất lại là sự xơ cứng từ cung cách quản lý.
2. Đổi mới tự phát không thể là căn bản
Phát biểu tại buổi tọa đàm “Đổi mới phương pháp giảng dạy” do báo Tuổi
Trẻ phối hợp Sở GD-ĐT TP.HCM tổ chức chiều 17-11, Phó thủ tướng - Bộ
trưởng Bộ GD-ĐT Nguyễn Thiện Nhân nhấn mạnh: “Đổi mới phương pháp
không phải lấy từ trên xuống mà phải từ dưới lên để thúc đẩy bộ máy”. Và ông

16


cũng cho rằng: “Phong trào đổi mới đã có từ lâu nhưng chưa có mơ hình xuất
sắc và chưa được phổ biến rộng rãi”.Đổi mới phương pháp giảng dạy hiện đang
đứng trước đòi hỏi mạnh mẽ của xã hội, song công tác này đang vấp phải những
cản ngại sau đây: chương trình học nhồi nhét nặng nề; cách ra đề thi và đánh giá
kết quả học tập cịn mang tính hình thức, thiên về định lượng hơn định tính; cơ
sở vật chất nghèo nàn...
Chính giáo viên phải là chủ thể đổi mới, phải chủ động trong việc tìm
kiếm phương pháp giảng dạy mới nhưng có vẻ tựu trung đều tốt ra một nhận

định để đổi mới thành công cần một sự đổi mới rốt ráo từ chủ thể cao nhất: Bộ
GD-ĐT!
Trong cơ chế hiện nay mọi việc đều được quyết định ở cấp trên, được chỉ
đạo bằng biện pháp hành chính, cịn cấp dưới (giáo viên) chỉ có nhiệm vụ chấp
hành nghiêm chỉnh. Và rằng mỗi quá trình dạy học đều chứa đựng bốn yếu tố cơ
bản là mục tiêu, nội dung, phương pháp - tổ chức và đánh giá.
Các yếu tố này tạo nên mối liên kết cơ bản mang tính nhân - quả của cả hệ
thống, vì vậy không thể đổi mới đơn độc một yếu tố là phương pháp giảng dạy,
mà phải đổi mới đồng bộ bốn yếu tố cơ bản đó!
Như vậy, rõ ràng giáo viên là chủ thể đổi mới, là người chủ động tìm ra
phương pháp giảng dạy mới. Tuy nhiên, như trên đã phân tích, nếu chỉ mình
giáo viên chủ động đổi mới thì đổi mới sẽ chỉ mang tính tự phát, đơn lẻ, rất khó
hình thành được phong trào. Mà bao giờ cũng vậy, tính tự phát thường ít khi
mang lại hiệu quả cao, càng rất khó đạt hiệu quả đồng bộ. Đây rõ ràng là nguyên
do của thực tế mà chính bộ trưởng Bộ GD-ĐT nhận định: Phong trào đổi mới đã
có từ lâu nhưng chưa có mơ hình xuất sắc và chưa được phổ biến rộng rãi!
VI. ĐỔI MỚI PPDH BA CÁI KHÓ.
Đổi mới phương pháp dạy học (ĐMPPDH) hiện nay khơng chỉ là phong
trào mà cịn là một u cầu bắt buộc với mọi giáo viên (GV). Thông thường, ở
các giờ thao giảng hay dự thi GV giỏi, tất cả GV đều nỗ lực trong việc
ĐMPPDH, dù cịn có người chưa thành công như mong muốn. Trên thực tế,
khảo sát và điều tra xã hội học cho thấy tỷ lệ GV thực hiện được yêu cầu này ở
các trường chưa phải là nhiều. Vậy thực chất, họ đang gặp những khó khăn gì?

17


Trước hết là do thói quen đọc - chép, thuyết giảng, lệ thuộc sách giáo khoa
của một bộ phận GV. Căn bệnh cố hữu là chây ỳ, ngại thay đổi, thậm chí lười
biếng khiến nhiều GV, trong đó có cả những GV lâu năm, đã thuộc làu từng nội

dung kiến thức trong sách giáo khoa nên khi giảng thường đọc ln cho học sinh
(HS) chép lại các ý chính. Điều này tạo ra thói quen thụ động của trị. Thầy nói
sao, trị ghi vậy, và chỉ biết học thuộc lịng, khơng cần suy nghĩ. Để chống lại
thói quen xấu này, nhiều GV đã chủ động trong việc tìm tịi những cách thức
mới trong việc truyền đạt kiến thức, song do nhận thức chưa thật đầy đủ, nên
việc ĐMPPDH chưa hiệu quả. Trong một hội thảo về vấn đề này hồi đầu tháng 2
vừa qua, ơng Đặng Đình Đại, hiệu trưởng trường THPT Nguyễn Gia Thiều đã
nêu một ví dụ: Nhằm mục đích phát huy tính tích cực của HS, trong nhiều tiết
học từ đầu tới cuối chỉ thấy có GV hỏi, HS trả lời, hoặc cả tiết học, HS không
ghi được gì ngồi các tiêu đề chính. Theo GV, như thế là chống đọc chép.Lại
cũng có GV sử dụng máy tính, máy chiếu đa năng, song lại chẳng hề chú ý xem
có cần thiết và phù hợp với bài học khơng, liều lượng thế nào... và nghiễm nhiên
coi như mình đã ĐMPPDH mà quên mất rằng, đó chỉ là phương tiện hỗ trợ cho
việc.
Những vấn đề tưởng nhỏ ấy, nhưng để GV vượt qua được không phải dễ.
Không chỉ cần sự tự giác, ý chí quyết tâm của mỗi GV, mà nó cịn địi hỏi sự vào
cuộc của ban giám hiệu nhà trường trong việc sáng tạo, đưa ra những biện pháp
quản lý hiệu quả giúp GV vượt qua rào cản này cả về nhận thức lẫn hành vi
trong từng giờ lên lớp.
Từ lối quen thuyết giảng, khơng ít người chỉ “chạy” theo khối lượng kiến
thức có trong sách giáo khoa, khơng quan tâm đến việc tìm ra những biện pháp
tác động đến quá trình nhận thức của HS. Đây là thói quen, cũng là rào cản thứ
hai của GV khi ĐMPPDH.Bản chất của việc dạy học là làm cho HS chủ động
tiếp thu, dễ hiểu, dễ nhớ kiến thức. HS tiếp thu kiến thức không phải chỉ thông
qua kênh nghe, kênh nhìn mà cịn phải được tham gia thực hành ngay trên lớp
hoặc được vận dụng, trao đổi thể hiện suy nghĩ, chính kiến của mình. Từ xa xưa,
người phương Đơng đã có câu: “Tơi nghe thì tơi qn, tơi nhìn thì tơi nhớ, tơi
làm thì tơi hiểu”. Những kết quả nghiên cứu khoa học hiện đại cũng đã cho thấy,
HS chỉ có thể nhớ được 5% nội dung kiến thức thông qua đọc tài liệu. Nếu ngồi
thụ động nghe thầy giảng thì nhớ được 15% nội dung kiến thức. Nếu quan sát có

18


thể nhớ 20%. Kết hợp nghe và nhìn thì nhớ được 25%. Thơng qua thảo luận với
nhau, HS có thể nhớ được 55%. Nhưng nếu HS được trực tiếp tham gia vào các
hoạt động để qua đó tiếp thu kiến thức thì có khả năng nhớ tới 75%. Cịn nếu
giảng lại cho người khác thì có thể nhớ tới được 90%. Điều này cho thấy tác
dụng tích cực của việc dạy học theo hướng phát huy tính tích cực, chủ động,
sáng tạo của HS.
Để việc ĐMPPDH không chỉ là phong trào, để nó khơng chỉ được nhìn
thấy trên bề nổi mà còn được nhân rộng ở các nhà trường, từng lớp học, trở
thành thói quen của mỗi thầy cơ giáo thì một trong những điều kiện cần thiết là
sự quan tâm, chỉ đạo, giúp đỡ thiết thực từ phía ban giám hiệu nhà trường và các
cấp quản lý. Vì rất nhiều lý do như đã thoát ly giảng dạy, bận bịu với quá nhiều
việc, nên ban giám hiệu các nhà trường thường ít có thời gian dự giờ, có nơi
chưa thực sự đi sâu, đi sát, tháo gỡ kịp thời những băn khoăn, vướng mắc của
GV trong việc triển khai yêu cầu này. Thực tế cho thấy, nếu hiệu trưởng trường
nào quan tâm đến việc ĐMPPDH, thì chắc chắn GV trường ấy sẽ được tạo điều
kiện để tiếp cận với các phương pháp dạy học mới, với trang thiết bị hiện đại, có
cơ hội được tham dự những buổi hướng dẫn, trao đổi kinh nghiệm của những
chuyên gia... Ngoài việc chuẩn bị điều kiện cơ sở vật chất, trang thiết bị, tập
huấn GV... điều quan trọng nữa là ban giám hiệu các trường phải chủ động, sáng
tạo trong cách tổ chức, quản lý để khích lệ GV thường xuyên thực hiện đổi mới
trong các giờ dạy, khơng để tình trạng người làm cũng được, người không làm
cũng chẳng sao.
VII. ĐỔI MỚI PPDH “THÁO GỠ RÀNG BUỘC”
1. Những bất cập người giáo viên
Bất cứ giáo viên nào cũng hiểu một điều cơ bản là trong giảng dạy khơng
có phương pháp nào ưu việt tuyệt đối, mỗi phương pháp có mặt ưu, khuyết của
nó.Vấn đề là nghệ thuật áp dụng của người giáo viên trong thực tế lớp học. Một

tiết học muốn thành công phải phụ thuộc rất nhiều yếu tố bên ngồi, trong đó cơ
sở vật chất, thiết bị và trình độ người học (và đương nhiên có
áp lực thành
tích) là những yếu tố cơ bản nhất. Nếu giáo viên nào trong khả năng vật chất
thấp nhất mà đảm bảo hiệu quả truyền đạt cao nhất cho học sinh là giáo viên đó
thành cơng, đã lấy người học làm trung tâm chứ khơng nhất thiết phải chia
nhóm, thảo luận hay đi thực tế mới là đổi mới phương pháp giảng dạy.
19


Một thời người ta kịch liệt phản đối chuyện giáo viên đọc chép, diễn
giảng cho đó là lạc hậu, lỗi thời, phải chia nhóm, phải cho học sinh thảo luận,
phải dạy bằng giáo án điện tử thì nhất nhất đó mới là đổi mới phương pháp
giảng dạy. Và trong các cuộc thi giáo viên dạy giỏi, người ta cũng đưa những
tiêu chí như trên lên hàng đầu, khơng có nó xem như giáo viên đó khơng “đi kịp
thời đại”. Nhưng thực tế thì sao? Có bao nhiêu giáo viên dạy giỏi duy trì được
phương pháp mà mình đem ra thi hay chính những giáo viên như thầy Tuấn
Anh, cơ Trịnh Thị Định và nhiều giáo viên thầm lặng khác nữa mới là người tạo
được hứng thú nơi học sinh, mới là những người thực thi rõ ràng nhất câu “chơi
mà học, học mà chơi”.
Có lẽ ràng buộc đầu tiên mà chúng ta phải tháo bỏ đó là ràng buộc về
mặt tâm lý, quan niệm đã tồn tại dai dẳng xoay quanh cụm từ đổi mới phương
pháp trong hệ thống giáo dục, phải tạo cho giáo viên có quyền tuyệt đối (đương
nhiên là kèm theo cam kết) trong việc lựa chọn phương pháp giảng dạy tiếp cận
vấn đề trong chuyên môn của mình. Bởi vì khơng ai hiểu rõ học sinh bằng chính
người thầy trực tiếp giảng dạy, khơng ai hiểu rõ người thầy hơn chính người
thầy trong việc xác định điểm mạnh, điểm yếu của bản thân mình.
Điều ràng buộc thứ hai cần phải dỡ bỏ, theo tôi, là áp lực chạy theo
chương trình. Tại sao chúng ta khơng lấy người học làm trung tâm vì sự phát
triển bên trong của họ mà lại lấy chỉ số tiến độ kịp hay khơng kịp chương trình

làm thước đo thi đua? Ai cũng biết việc chạy theo thành tích, tiến độ định sẵn
ảnh hưởng thế nào đến chất lượng, phương pháp giảng dạy của người thầy nếu
khơng muốn nói là việc ấy gián tiếp cổ vũ việc “đọc chép như máy” của giáo
viên trên lớp.
Điều cuối cùng có lẽ là việc chúng ta cần xem lại quan niệm về giáo
án điện tử. Ở nhiều trường, giáo viên đi dạy phải có giáo án điện tử mới xem là
hiện đại, thời thượng và có đổi mới phương pháp (đương nhiên hệ quả của nó là
tạo ra hàng loạt giáo án giống nhau, bất kể trình độ học sinh, mà điều này là đại
kỵ trong giáo dục). Ai còn soạn giáo án trên giấy theo kiểu truyền thống thì bị
xem là thiếu đổi mới, không theo kịp thời đại. Thật ra rất nhiều người đồng tình
rằng khi soạn tay, giáo viên chăm chút hơn, lựa chọn hơn trong cách truyền thụ
của mình.
2. Dạy theo phương pháp nêu vấn đề
20


Nếu giáo viên biết cách nêu vấn đề để gợi ý cho học sinh tìm hiểu bài
một cách có hệ thống, khoa học, đúng theo quy trình, đúng theo mục đích u
cầu thì sẽ mang lại hiệu quả cao. Vì qua đó, học sinh sẽ được trao đổi, bàn bạc,
thảo luận, hợp tác và mạnh dạn trình bày ý kiến của mình, khơng khí học tập nhẹ
nhàng vui tươi nhưng mang lại hiệu quả cao, học sinh học xong hiểu bài ngay tại
lớp và nhớ được lâu.
Để vận dụng phương pháp này hiệu quả, điều đầu tiên giáo viên phải
nắm chắc mục tiêu và nội dung bài dạy, suy nghĩ và tiên lượng những điều cần
nêu rõ cho học sinh biết trong bài có những gì cần tìm tịi, khám phá. Khi đưa ra
kết luận, học sinh phải biết dựa vào vốn hiểu biết kinh nghiệm sống và thực tế
trong đời sống của bản thân mà trả lời.
Tình huống vấn đề giáo viên đưa ra là những yếu tố mơ hồ hay mâu
thuẫn mà trong bài học khó lý giải. Giáo viên giúp đỡ học sinh bằng những câu
hỏi gợi mở để khám phá, tìm kiếm làm rõ vấn đề bằng cách vận dụng kỹ năng,

kiến thức để đưa ra lời giải hợp lý, đúng. Phương pháp dạy học nêu vấn đề là
phương pháp học tập tích cực rèn học sinh có năng lực giải quyết vấn đề có khả
năng thích ứng, hợp tác xây dựng bài rèn học sinh nói rõ ràng, rành mạch, khúc
chiết, lưu lốt.
3. Giảm tải chương trình
Nhiều thầy cơ rất muốn rèn luyện cho các em kỹ năng diễn đạt, phân
tích, lập luận, tổng hợp, đánh giá... nhưng thời gian đâu? Vào lớp là lo dạy cho
hết khối lượng kiến thức, đúng theo phân phối chương trình của bộ. Trong khi
khối lượng kiến thức thì rất nhiều, khơng dám bỏ bớt vì nếu bỏ bớt học trị sẽ thi
khơng đạt do cách thi hiện nay đang bám sát sách giáo khoa. Chỉ riêng việc cung
cấp hết kiến thức trong sách giáo khoa đã hết thời gian. Ai cũng biết muốn rèn
những kỹ năng trên cần phải được thực hành nhiều, nhưng thầy trị chúng tơi lấy
đâu ra thời gian để thực hành?
Ví dụ dạy mơn lịch sử, một học kỳ có nhiều nhất năm bài kiểm tra. Với
năm bài kiểm tra thì có thể rèn luyện kỹ năng phân tích, tổng hợp, đánh giá được
khơng? Tình hình cũng tương tự ở các mơn cịn lại, nhất là môn văn. Rất nhiều
thầy cô rất muốn cho học sinh làm bài luận để rèn luyện các kỹ năng, nhưng học
sinh đâu phải chỉ học mỗi mơn mình dạy mà cịn rất nhiều mơn, mơn nào cũng
nặng.
21


Vì vậy để đổi mới phương pháp giảng dạy nhằm nâng cao chất lượng
giáo dục, trước hết cần phải giảm tải chương trình (đừng quá tham lam muốn
học sinh phải biết tất cả), thay đổi cách kiểm tra, đánh giá hiện nay. Có như vậy
mới “giải phóng” người dạy, người học, phát huy được khả năng sáng tạo, tư
duy độc lập tích cực của người dạy và người học.
IX. MỘT SỐ GIẢI PHÁP ĐỔI MỚI PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC Ở
TRƯỜNG PHỔ THÔNG
1. Sử dụng linh hoạt các phương pháp dạy học phổ biến theo hướng

phát huy tính tích cực, chủ động học tập của học sinh.
Các phương pháp dạy học thuyết trình (giảng giải, giảng thuật, diễn
giảng), đàm thoại, sử dụng phương tiện trực quan... hiện nay được sử dụng phổ
biến ở trong dạy học ở các trường phổ thông. Về bản chất, hoạt động dạy học
trong các phương pháp này diễn ra theo kiểu giải thích - minh hoạ, hay thông
báo thu thập của học sinh diễn ra ở mức thông hiểu, ghi nhớ, tái hiện. Để khắc
phục nhược điểm thụ động trong học tập,giáo viên dựa vào vốn tri thức,kỹ năng
và khả năng hiện có của học sinh, địi hỏi các em phải có một sự cố gắng trong
học tập,nỗ lực về trí tuệ để hồn thành. Nhờ vậy, tư duy được phát triển, tính
tích cực học tập được đề cao.
Một cách cụ thể, sử dụng các phương pháp dạy học phổ biến theo hướng
phát huy tính tích cực của học sinh, đòi hỏi giáo viên bên cạnh nhiệm vụ truyền
thụ kến thức cho học sinh, phải chú trọng nêu các câu hỏi nhận thức để thu hút
sự chú ý và kích thích tư duy cho học sinh, giao cho học sinh các bài tập nhỏ,
vừa sức, giải quyết nhanh chóng trong thời gian ngắn ở trong lớp, tạo cho các
em làm quen với các phương tiện trực quan để hiểu nhanh hơn, hiểu sâu thêm
kiến thức bài giảng.
2. Tích cực sử dụng phương pháp dạy học giải quyết vấn đề.
Dạy học giải quyết vấn đề là phương pháp giáo viên đặt ra trước học sinh
một (hay hệ thống) vấn đề nhận thức, chuyển học sinh vào tình huống có vấn đề,
sau đó giáo viên phối hợp cùng học sinh (hoặc hướng dẫn điều khiển học sinh)
giải quyết vấn đề đi đến những kết luận cần thiết của nội dung học tập. Phương
pháp giải quyết vấn đề được tiến hành theo trình tự gồm: Đặt vấn đề và chuyển
học sinh vào tình huống có vấn đề, giải quyết vấn đề, kết luận.

22


Dạy học giải quyết vấn đề không phải chỉ sử dụng với tiết bài mới trên
lớp,mà còn được sử dụng để củng cố, ôn tập và học bài ở nhà của học sinh. Dạy

học giải quyết vấn đề có thể thực hiện xen kẽ hay kết hợp với các phương pháp
dạy học khác. Ngoài ra, dạy học giải quyết vấn đề cũng có thể chỉ sử dụng trong
một sóc nội dung của bài, khơng nhất thiết phải sử dụng tồn bài.
3. Tăng cường vận dụng các phương pháp dạy học tiên tiến đề cao
chủ thể nhận thức của học sinh,gồm có:
+ Khảo sát điều tra (hay Nghiên cứu), là phương pháp trong đó, căn cứ
vào vấn đề được đặt ra và dựa vào cơ sở các giả thuyết, học sinh tiến hành thu
thập thông tin từ nhiều nguồn và bằng nhiều cách khác nhau. Sau đó tiến hành
phân tích, tổng hợp, so sánh, khái quát để xác định các giả thuyết đúng, rút ra
các kết luận nêu ra các giải pháp hoặc đề xuất các kiến nghị.
Phương pháp khảo sát, kiểm tra được tiến hành theo quy trình có các
bước: 1) Xác định vấn đề; 2) Thu thập tư liệu, số liệu, dữ kiện thích hợp;3) Sắp
xếp phân tích số liệu, tư liệu ..., hệ thống hoá; 4) đối chiếu với giả thiết và rút ra
kết luận , khái quát hoá vấn đề.
+ Thảo luận. Thảo luận là phương pháp học sinh toạ đàm, trao đổi với
nhau xoay quanh một vấn đề được đặt ra dưới dạng câu hỏi, bài tập, hay nhiệm
vụ nhận thức,...Trong phương pháp này học sinh giữ vai trị tích cực, chủ động
tham gia thảo luận, giáo viên giữ vai trò nêu vấn đề, gợi ý,và tổng kết
+ Động não: là phương pháp học sinh được kích thích suy nghĩ, bằng cách
thu thập các ý kiến khác nhau về một vấn đề mà không tiến hành đánh giá, trao
đổi hay bình luận ý kiến đó. Phương pháp này cho phép làm xuất hiện một cách
nhanh chóng một số ý kiến về một đề tài chung. Tuy tự do phát biểu, nhưng có
nhiều ý kiến cùng hướng về một khía cạnh nhất định, tạo khả năng hình thành ý
tưởng chung. Phương pháp động não có thể thực hiện từ đầu tiết học, hoặc bắt
đầu một vấn đề, một nội dung giữa bài học.
Phương pháp này thực hiện theo các bước sau: 1) nêu tên đề tài/chủ
đề/vấn đề (có thể gắn với phương tiện trực quan) và đặt câu hỏi kích thích suy
nghĩ cả học sinh; 2) Yêu cầu cả lớp động não. Ghi ý kiến của mình bằng thẻ vào
giấy ghim lên bảng, hoặc từng người một nêu ý kiến của mình trước lớp; 3) sau


23


khi khơng cịn ý kiến nữa, có thể nhóm các ý kiến lại đánh giá khái quát về công
dụng và tính khả thi.
+ Đóng vai là một phương pháp được đặc trưng bởi một hoạt động với các
nhân vật giả định, mà trong đó, các tình thế trong thực tiễn cuộc sống được thể
hiện thành những hành động có tính kịch. Trong vở kịch này, các vai khác nhau
do học sinh đóng và trình diễn. Các hành động có tính kịch được xuất phát từ
chính sự hiểu biết, óc tưởng tượng và trí sáng tạo của các em, khơng cần phải
qua tập dượt hay dàn dựng.
Phương pháp đóng vai được tiến hành theo các bước: 1) tạo khơng khí để
đóng vai; 2) lựa chọn vai; 3) các vai trình diễn; 4) nếu thấy ý đồ của mình được
thực hiện, thì giáo viên có thể cho ngừng diễn, sau đó hướng dẫn học sinh thảo
luận và cách giải quyết vấn đề của vai diễn và đánh giá vở diễn.
4. Sử dụng phương tiện dạy học theo hướng đề cao vai trò chủ thể
nhận thức của học sinh
Các phương tiện dạy học chứa trong bản thân nó dưới dạng vật chất cả
hình ảnh bên lẫn những dấu hiệu, thuộc tính bên trong của các đối tượng học
tập, nhờ các thao tác tư duy của học sinh, các đặc điểm đó “lộ” hẳn ra bên ngoài.
Như vậy, phương tiện dạy học thực sự là nguồn tri thức, địi hỏi một sự khám
phá, tìm tịi của người học. từ đó dẫn đến việc sử dụng các trực quan trong dạy
học cũng phải theo hướng mới: đó là xem chúng như cơng cụ để giáo viên tổ
chức chỉ đạo hoạt động nhận thức của học sinh, đồng thời xem chúng là nguồn
tri thức để học sinh tìm tịi, khám phá, rút ra những nội dung cần thiết cho nhận
thức của mình.
Trong những năm gần đây, các phương tiện hiện đại về nghe nhìn, thơng
tin và vi tính đã nhanh chóng xâm nhập vào nhà trường và trở thành các phương
tiện dạy học có tác dụng cao. Một mặt chúng góp phần mở rộng các nguồn tri
thức cho học sinh, giúp cho việc lĩnh hội tri thức của các em nhanh chóng hơn

với một khối lượng tri thức đa diện và to lớn: mặt khác, chúng góp phần vào
việc đổi mới phương pháp dạy học của giáo viên THPT.
Một khi học sinh có khả năng nhanh chóng thu nhận kiến thức từ các
nguồn khác nhau, thì việc thuyết giảng của giáo viên theo kiểu thông báo-thu
nhận trở nên không cần thiết, phương pháp dạy hoc phải chuyển đến việc tổ

24


chức cho học sinh khai thác các tri thức từ các nguồn khác nhau, chọn lọc hệ
thống hoá và sử dụng chúng. Như vậy, phương tiện dạy học hiện đại tạo điều
kiện rộng rãi cho dạy học theo hướng tích cực hoá hoạt động nhận thức của học
sinh.
5. Phối hợp các tổ chức dạy học một cách linh hoạt.
Trong dạy học ở phổ thơng có nhiều hình thức tổ chức khác nhau, như:
dạy học cá nhân , dạy học theo nhóm, dạy học theo lớp, ngồi trời, trị chơi học
tập, tham quan, khảo sát địa phương, ngoại khố...Mỗi hình thức tổ chức dạy
học có chức năng và ý nghĩa khác nhau đối với việc thực hiện nhiệm vụ đòi hỏi
phải phối hợp chúng một cách linh hoạt.
6. Kết hợp nhiều loại hình kiểm tra, đánh giá trong dạy học.
- Một bài kiểm tra cần đạt các yêu cầu sau: 1) Nội dung kiểm tra là
những kiến thức và kỹ năng cơ bản, trọng tâm của bài, chương, có ý nghĩa thiết
thực đối với học sinh; 2) Chú trọng cả kiến thức, kỹ năng, thái độ. Trong kiến
thức, có cả câu hỏi sự kiện, kiểm tra trí nhớ và câu hỏi suy luận; 3) có sự phân
hố học sinh, tạo cơ hội bộc lộ sự sáng tạo của các em.
- Tuỳ mục đích đối tượng và điều kiện, có các hình thức kiểm tra,đánh
giá khác nhau:quan sát, câu hỏi kiểm tra(nói, viết),bài tập, học sinh tự đánh giá,
thực hành, trắc nghiệm khách quan.
Thể bắt đầu trọng điểm từ những yếu tố cốt lõi, tiền đề, có thể tiến hành
trong tồn thể giáo viên.

Việc sử dụng công nghệ thông tin chỉ là một trong những phương pháp đổi
mới PPDH. Công nghệ thông tin cũng chỉ là một loại phương tiện dạy học. Việc
sử dụng chúng có đạt hiệu quả hay khơng, có tác dụng thiết thực đến đổi mới
PPDH hay không tuỳ thuộc vào cách dạy của từng giáo viên cụ thể. Nếu sử dụng
loại phương tiện hiện đại này để thuyết trìng bài học, thay cho việc ghi bảng của
giáo viên, thì vẫn là cách dạy cũ làm cho học sinh thụ động trong học tập. Việc
sử dụng công nghệ thông tin để phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh
trong học tập, thơng qua tổ chức hợp lí hoạt động nhận thức của học sinh là biện
pháp đẩy nhanh việc đổi mới PPDH ở trường phổ thông, nâng cao chất lượng
bài dạy học.

25


×