Tải bản đầy đủ (.doc) (65 trang)

Cơ sở hình thành nghệ thuật quân sự việt nam, vận dụng nó vào sự nghiệp bảo vệ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (479.74 KB, 65 trang )

Cơ sở hình thành nghệ thuật quân sự Việt Nam, vận dụng nó vào sự nghiệp bảo vệ
tổ quốc Việt Nam XHCN trong thời kỳ đổi mới

PHẦN I: MỞ ĐẦU
I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Trên quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lê Nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan
điểm của Đảng cộng sản Việt Nam cơ sở lý luận và thực tiễn của đề tài thể hiện
ở các nội dung sau:
Thứ nhất, Chủ tịch Hồ Chí Minh của chúng ta đã từng nói “Dân ta có
một lịng nồng nàn yêu nước. Đó là một truyền thống quý báu của ta. Từ xưa
đến nay, mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng, thì tinh thần ấy lại sơi nổi, nó kết thành
một làn sóng vơ cùng mạnh mẽ, to lớn, nó lướt qua mọi nguy hiểm, khó khăn, nó
nhấn chìm tất cả lũ bán nước và cướp nước”.
Việt Nam chúng ta có lịch sử truyền thống đấu tranh dựng nước và giữ
nước vô cùng oanh liệt. Các cuộc chiến tranh chống kẻ thù xâm lược do nhân
dân ta tiến hành đều là chiến tranh nhân dân chính nghĩa, thu hút được đông đảo
quần chúng tham gia ủng hộ. Trong các cuộc chiến tranh ấy, nhiều trận đánh hay
đã mãi mãi ghi vào sử sách, vào tâm trí mỗi người dân Việt Nam. Ngày nay,
nhìn lại lịch sử chống giặc ngoại xâm của dân tộc, chúng ta càng tự hào về
truyền thống hào hùng ấy. Nghệ thuật chiến tranh nhân dân đã được hình thành
rất sớm trong lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc ta. Chiến tranh nhân dân Việt
Nam đã trải qua những bước phát triển trong lịch sử đấu tranh vũ trang của dân
tộc từ thấp đến cao và đạt đến đỉnh cao trong thời đại Hồ Chí Minh dưới sự lãnh
đạo của Đảng cộng sản Việt Nam. Cuộc chiến nào cũng phải có yếu tố nhân dân,
phải huy động được một lực lượng quần chúng tham gia. Quá trình chống kẻ thù
xâm lược, giữ nước hoặc giải phóng dân tộc hoặc bảo vệ Tổ quốc mỗi thời đại
lịch sử có khác nhau, song dù dài, dù ngắn nhân dân ta đều đánh bại mọi kẻ thù
xâm lược, giải phóng được dân tộc. Vận nước có lúc thịnh lúc suy, song mỗi khi
có kẻ thù xâm lược, nhân dân ta lại đoàn kết đứng lên chiến đấu chống bọn xâm
lăng, bảo tồn nịi giống, văn hóa dân tộc Việt Nam.
Thứ hai, Việt Nam chúng ta trong suốt chiều dài lịch sử phải liên tục


chống kẻ thù xâm lược, dân tộc ta ln ở trong tình thế chiến đấu khơng cân sức,

SVTH: Thong Panya Vong Sa Vath

1


Cơ sở hình thành nghệ thuật quân sự Việt Nam vào sự nghiệp bảo vệ tổ quốc
Việt Nam XHCN trong thời kỳ đổi mới

nhất là ở thời kỳ đầu của cuộc khởi nghĩa hoặc chiến tranh. So với lực lượng đối
kháng chúng ta còn thua kém trên nhiều phương diện, ngoại trừ tinh thần yêu
nước và ý chí độc lập tự do của nhân dân. Do đó địi hỏi nhân dân ta, dân tộc ta
muốn đánh thắng kẻ thù chỉ có một con đường duy nhất là phát động chiến tranh
nhân dân, huy động đông đảo lực lượng nhân dân tham gia vào cuộc chiến đấu,
tạo nên sức mạnh dân tộc to lớn đánh thắng kẻ thù, tạo nên sức mạnh chiến tranh
tồn dân, tồn diện khơng một thế lực quân sự tàn bạo nào có thể đè bẹp nổi.
Trải qua những cuộc khởi nghĩa vũ trang để giành lại độc lập tự do cho
đất nước, các cuộc chiến tranh chống lại các thế lực xâm lược để bảo vệ Tổ
quốc, dân tộc ta đã hình thành và ngày càng phát triển một nền nghệ thuật quân
sự trong chiến tranh nhân dân Việt Nam rất độc đáo, đặc sắc và ưu việt. Chính
sự độc đáo đó của nghệ thuật qn sự việt Nam đã góp phần làm nên những
chiến cơng hiển hách vang dội lịch sử của dân tộc, làm cho quân thù luôn bị
động, bất ngờ chuyển mạnh thành yếu và cuối cùng đi đến thất bại nặng nề.
Trong các cuộc chiến tranh ấy, lịch sử dân tộc việt Nam lại một lần nữa ca khúc
khải hoàn ca khi đánh thắng đế quốc Mỹ xâm lược, một đế quốc hùng mạnh
nhất trên thế giới. Điều đó đã chứng minh cho cả thế giới thấy rằng dân tộc việt
Nam, nhân dân việt Nam tuy nhỏ bé nhưng khơng dễ gì đánh bại, Việt Nam có
chiến tranh nhân dân, có truyền thống đánh giặc giữ nước lâu đời, có tinh thần
đồn kết, thống nhất trong dân tộc đã phát triển lên thành nghệ thuật quân sự

Việt Nam ưu việt và hiện đại khơng một thế lực nào có thể đánh thắng nổi, nét
độc đáo đặc sắc ấy thể hiện một cách đầy đủ trong cuộc kháng chiến chống Mỹ
cứu nước của nhân dân ta.
Lý luận và thực tiễn chiến tranh nhân dân Việt Nam thực sự là một cống
hiến quan trọng đối với phong trào đấu tranh vũ trang giải phóng của nhân dân
và các dân tộc bị áp bức trên thế giới. Chính vì vậy mà tơi lựa chọn đề tài “Cơ
sở hình thành nghệ thuật quân sự Việt Nam vào sự nghiệp bảo vệ tổ quốc Việt Nam
XHCN trong thời kỳ đổi mới”

SVTH: Thong Panya Vong Sa Vath

2


Cơ sở hình thành nghệ thuật quân sự Việt Nam vào sự nghiệp bảo vệ tổ quốc
Việt Nam XHCN trong thời kỳ đổi mới

II. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
- Lµm râ khái niệm và cơ sở lý luân của nghệ thuật qu©n
sù ViƯt Nam
- Tìm hiểu về q trình hình thành và phát triển của nghệ thuật quân sự
Việt Nam.
- Tìm hiểu về những nét độc đáo, đặc sắc của nghệ thuật quân sự của cha
ông nhằm vận dụng vào việc xây dựng và phát triển Tổ quốc XHCN
- Nghiên cứu để có thể làm tài liệu tham khảo và làm cơ sở để giảng dạy
mơn “Giáo Dục Quốc Phịng”.
III. NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU
Để làm sáng tỏ mục đích nghiên cứu, đề tài cần tập trung giải quyết các
nhiệm vụ trọng tâm sau:
Thứ nhất: Làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn của nghệ thuật chiến tranh

nhân dân
Thứ hai: Tìm hiểu nghiên cứu các yếu tố tác động và nội dung nghệ thuật
đánh giặc giữ nước của tổ tiên
Thứ ba: Nghiên cứu về nét độc đáo, đặc sắc của nghệ thuật quân sự Việt
Nam, nâng cao lòng tự hào, tự tôn dân tộc cho thế hệ trẻ hiện nay
IV. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
- Sử dụng phương pháp lý luận thông qua việc nghiên cứu thu thập tài
liệu, các kênh thông tin quân đội
- Sử dụng phương pháp hệ thống để thể hiện đầy đủ quá trình hình thành
và phát triển của nghệ thuật quân sự Việt Nam
V. Ý NGHĨA CỦA ĐỀ TÀI
Sau khi nghiên cứu thành công, đề tài này sẽ giúp cho chúng ta hiểu
được nét độc đáo sâu sắc của nghệ thuật quân sự chiến tranh nhân dân Việt Nam
qua các giai đoạn lịch sử đồng thời giúp chúng ta hiểu thêm về nghệ thuật quân
sự Việt Nam trong quá trình dựng nước và giữ nước của thế hệ cha anh.

SVTH: Thong Panya Vong Sa Vath

3


Cơ sở hình thành nghệ thuật quân sự Việt Nam vào sự nghiệp bảo vệ tổ quốc
Việt Nam XHCN trong thời kỳ đổi mới

PHẦN II: NỘI DUNG
I. Kh¸i niƯm nghƯ thuật quân sự
Nghệ thuật quân sự là cách đánh, cách dùng binh đà trở
thành thông thạo, điêu luyện trong một trận chiến đấu, một
chiến dịch hay trên toàn bộ chiến trờng. Nghệ thuật quân sự
không có một khuôn mẫu cụ thể nào nó có thể biến hoá khôn lờng, muôn hình muôn vẻ.

II. Những yếu tố tác động đến việc hình thành
nghệ thuật đánh giặc của tổ tiên.
1. Đặc điểm về địa lý và xà hội
1.1. a lý
Nc ta nm ở cực đơng bán đảo Đơng Dương, phía Đơng Nam lục địa
Châu á (toạ độ địa lý: 16’00N, 18 00E), chiếm diện tích khoảng 331. 688km2.
Phía Đơng và Nam tiếp giáp Thái Bình Dương trong vùng nhiệt đới gió mùa,
biên giới giáp với vịnh Thái Lan ở phía Nam, Bắc Bộ và Biển Đơng ở phía Tây,
Trung Quốc ở phía Bắc, Lào và Căm pu Chia ở phía Tây. Đất nước ta có hình
chữ S, với khảng cách từ Bắc đến Nam khảng 1650 km, vị trí hẹp nhất chiều
Đơng sang Tây là 50 km (ở Quảng Bình). Với đường bờ biển dài 3260 km
không kể các đảo, Việt Nam tuyên bố có 12 hải lý ranh giới lãnh thổ. Nước ta có
địa hình đa dạng bao gồm rừng núi Cao Ngun, Trung Du chiếm 3/4 lãnh thổ,
nhiều sơng ngịi kênh rạch. Nước ta có 2 con sơng lớn nhất là Sông Hồng và
Sông MêKông bắt nguồn từ Tây Bắc lục địa Châu Á chảy ra Biển Đông tạo ra
hệ thống giao thông, thuỷ chiến lược rộng khắp.
Do Việt Nam là nước giàu tài nguyên, có điều kiện để phát triển nền sản
xuất nông nghiệp nhưng lại nằm ở vành đai thiên tai, lụt lội, khí hậu khơng điều
hồ. Mặt khác nước ta nằm ở một vị trí chiến lược hết sức quan trọng, cửa ngõ
đi vào lục địa Châu Á, đi ra Thái Bình Dương, điểm cắt nhau của đường thiên di
Bắc Nam và Đơng Tây. Vì thế nước ta luôn bị các thiên tai địch hoạ, kẻ thù dòm
SVTH: Thong Panya Vong Sa Vath

4


Cơ sở hình thành nghệ thuật quân sự Việt Nam vào sự nghiệp bảo vệ tổ quốc
Việt Nam XHCN trong thời kỳ đổi mới

ngó tiến cơng xâm lược. Điều này địi hỏi dân tộc ta phải biết đồn kết, cảnh

giác, sát cánh bên nhau, cùng nhau tạo nên sức mạnh tổng hợp chống lại sự tàn
phá của thiên nhiên, đánh bại mọi kẻ thù để tồn tại, xây dựng và phát triển đất
nước. Trong đánh giặc, tổ tiên ta đã biết vận dụng yếu tố “thiên thời, địa lợi”
sáng tạo ra nhiều cách đánh phù hợp hiệu quả như: Lợi dụng núi rừng, đèo dốc,
sông biển, đồng ruộng ao hồ, đầm lầy...để tiêu diệt kẻ địch, bảo vệ mình. Đúng
như Nguyễn Trãi đã viết “Quan hà bách nhị do thiên thiết” (quan hà hiểm yếu
hai người chống lại được trăm người). Để bảo vệ dất nứơc, bảo vệ sự trường tồn
của dan tộc, ơng cha ta đã đồn kết và phát huy tối đa ưu thế của địa hình để lập
thế trận đánh giặc. Như, Lý Thường Kiệt chặn giữ 20 vạn quân Tống ở địa bàn
bắc sông Như Nguyệt, chia cắt hai cánh quân thuỷ, bộ của chúng, quần cho
chúng nhược rồi tổ chức địn phản cơng chiến lược, đánh tiêu diệt, đánh tan đạo
quân chủ chốt của giặc trên bộ. Hay Trần Hưng Đạo đã đưa đạo quân Ngun
-Mơng khổng lồ vào địa hình nhiều đầm lầy, sơng ngòi, khiến sở trường tác
chiến bằng kỵ binh của chúng khơng phát huy được mà cịn bị vây hãm, tiêu hao
đến nguy hiểm. Trần Hưng Đạo tiến hành vây hãm thuỷ trại Chương Dương,
một điểm yếu trong thế trận giặc, buộc chúng phảI đưa quân từ Thăng Long ra
ứng cứu. Ta vừa tiêu diệt quân địch đi ứng cứu bằng cách đánh vận động, vừa
lợi dụng sơ hở đánh úp thành Thăng Long, nơI tập trung quân cua giặc và buộc
giặc tan vỡ tháo chạy.
1.2. Kinh tế
Nền kinh tế nước ta trước đây chủ yếu lấy sản xuất nông nghiệp, thủ cơng
nghiệp là chính theo mơ hình tự cung tự cấp, trình độ canh tác thấp, quy mơ nhỏ,
có tính chất phân tán. Trình độ phát triển kinh tế thấp ảnh hưởng trực tiếp đến nghệ
thuật đánh giặc của dân tộc. Vì vậy ngay từ thời kỳ đầu dựng nước, dân tộc ta đã
biết kết hợp chặt chẽ giữa xây dựng đất nước đi đôi với chăm lo củng cố quốc
phòng, sẵn sàng đánh giặc giữ nước theo tinh thần tự lực tự cường, quán triệt tư
tưởng “Quốc phú binh cường”. Trong xây dựng đất nước tổ tiên ta đã đề ra những

SVTH: Thong Panya Vong Sa Vath


5


Cơ sở hình thành nghệ thuật quân sự Việt Nam vào sự nghiệp bảo vệ tổ quốc
Việt Nam XHCN trong thời kỳ đổi mới

chính sách nhằm phát triển kinh tế, củng cố quốc phịng như “ngụ binh ư nơng”
của nhà Lý, “Khoan thư sức dân để làm kế sâu rễ bền gốc” của nhà Trần, “Ra sức
làm đường, đắp đê, đào kênh rạch cải tạo đồng ruộng, đẩy mạnh chăn ni sản
xuất ra các loại cơng cụ lao động, đóng thuyền bè để phát triển sản xuất, cơ động
quân đội”. Trong đánh giặc nhân dân ta đã biết cất giấu lương thực để ổn định đời
sống, nuôi quân, sử dụng các công cụ lao động sản xuất ra các loại vũ khí trang bị
như mũi tên đồng, cung nỏ, vót chơng...để đánh giặc bảo vệ Tổ quốc.
1.3. Chính trị, văn hố-xã hội
Đất nước ta có 54 dân tộc anh em cùng chung sống, không qua chế độ
chiếm hữu nô lệ, phân vùng cát cứ không nhiều. Do phải cùng nhau chung lưng
đấu cật chống lại thiên tai, địch hoạ, các nhà nước phong kiến đã có những tư
tưởng tiến bộ thân dân, những chính sách hồ hợp dân tộc đúng đắn, nên các dân
tộc ít xảy ra mâu thuẫn, hận thù. Các dân tộc đều sống hồ thuận, gắn bó thuỷ
chung, yêu quê hương đất nước. Đây là nhân tố, là cơ sở tạo nên sức mạnh đoàn
kết, thống nhất dân tộc, sự cố kết cộng đồng bền vững. Trong quá trình xây dựng
đất nước, chúng ta đã tổ chức ra nhà nước xác định chủ quyền lãnh thổ, tổ chức
ra quân đội, đề ra luật pháp để quản lý, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Các nhà
nước phong kiến Việt Nam đều có tư tưởng trọng dân, đưa ra nhiều chính sách
hợp với lịng dân, xác định vai trị, vị trí của quần chúng nhân dân, mối quan hệ
giữa dân với nước, nước với dân được ví như “không thể phân biệt được đâu là
cá đâu là nước” nên đã động viên và phát huy được sức mạnh tồn dân trong
cơng cuộc xây dựng đất nước, động viên cả nước đánh giặc gìn giữ non sơng.
Trong đánh giặc, quân và dân ta đã chiến đấu dũng cảm, kiên cường, bất khuất,
tinh thần quyết tâm cao, với ý chí quật cường sắt đá và nghị lực phi thường, luôn

sáng tạo ra nhiều cách đánh hay, đánh giặc mềm dẻo khơn khéo, mưu trí sáng
tạo. Dân tộc ta đã chiến đấu và đánh bại nhiều kẻ thù, bảo vệ vững chắc Tổ
quốc, giữ vững độc lập cho dân tộc.
Dân tộc ta có một nền văn hố bản địa xuất hiện sớm, từ thời tiền sử với
kết cấu bền vững có nhà, có làng, có bản, có nhiều dân tộc cùng chung sống,

SVTH: Thong Panya Vong Sa Vath

6


Cơ sở hình thành nghệ thuật quân sự Việt Nam vào sự nghiệp bảo vệ tổ quốc
Việt Nam XHCN trong thời kỳ đổi mới

mỗi dân tộc, làng xã lại có một truyền thống phong tục tập quán riêng. Nhưng
trong quá trình lao động, đấu tranh để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc thì các dân
tộc đã vun đắp nên những truyền thống văn hóa chung như: Tinh thần yêu nước,
đồn kết, gắn bó, u thương đùm bọc che chở lẫn nhau, ý thức lao động cần cù
sáng tạo, ý chí tự lực tự cường, đấu tranh dũng cảm, kiên cường, bất khuất...Đây
là nguồn gốc sức mạnh của dân tộc để chống lại thiên nhiên, đánh bại mọi thế
lực, mọi kẻ thù xâm lược . Trong quá trình xây dựng đất nước, dân tộc ta luôn
coi trọng phát triển nền văn hoá, giáo dục kiến thức hội hoạ, âm nhạc mang bản
sắc truyền thống dân tộc, đồng thời không ngừng tiếp thu có chọn lọc những tinh
hoa của nền văn hố thế gới làm cho nền văn hóa nước ta ngày càng phong phú,
đa dạng và tràn đầy sức sống.
Tóm lại, Các yếu tố địa lý kinh tế, chính trị, văn hố xã hội có ảnh hưởng
rất lớn đến nghệ thuật đánh giặc của tổ tiên ta. Tất cả nững yếu tố đó đã khơng
ngừng được tìm tịi và phát triển, tạo nên sức mạnh to lớn cho dân tộc ta trong
quá trình xây dựng đất nước, bảo vệ Tổ quốc, đấu tranh bảo vệ giống nòi, giữ
vững nền độc lập dân tộc, bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc.

2. Nội dung nghệ thuật đánh giặc giữ nước của tổ tiên
2.1. Tư tưởng, kế sách đánh giặc
Với tư tưởng tích cực chủ động tiến cơng và kế sách đánh giặc mềm dẻo,
khéo léo của dân tộc ta đã được các triều đại Lí, Trần, Hậu Lê...và Quang Trung
vận dụng một cách linh hoạt, sánh tạo, đưa quân và dân ta đánh bại nhiều kẻ thù
xâm lược, giữ vững nền độc lập dân tộc, bảo vệ chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ của
Tổ quốc và được thể hiện qua các nội dung sau:
Thứ nhất, Tư tưởng tích cực, chủ động tiến cơng
Lịch sử chiến tranh giải phóng dân tộc và chiến tranh bảo vệ Tổ quốc cho
thấy: “Tư tưởng chiến lược tiến công là sợi chỉ đỏ xuyên suốt quá trình đánh
thắng các đạo quân xâm lược đất nước ta”.
Quan điểm quân sự của dân tộc Việt Nam cho rằng: chỉ có tiến cơng và
tiến cơng một cách kiên quyết mới có thể đánh bại được kẻ thù để giải phóng đất

SVTH: Thong Panya Vong Sa Vath

7


Cơ sở hình thành nghệ thuật quân sự Việt Nam vào sự nghiệp bảo vệ tổ quốc
Việt Nam XHCN trong thời kỳ đổi mới

nước và bảo vệ Tổ quốc. Và trên thực tế, các cuộc chiến tranh chống xâm lược
đã giành được thắng lợi, dân tộc Việt Nam đều rất coi trọng nghệ thuật tiến công
và thực hiện tiến công rất tài giỏi.
Cách tiến cơng của chúng ta là tích cực chuẩn bị, tiến công liên tục, tiến
công từ nhỏ đến lớn, từ cục bộ đến toàn bộ. Đạt được mục tiêu tiến công là tiêu
diệt nhiều sinh lực địch, làm thay đổi so sánh lực lượng ta và địch trên chiến
trường, thay đổi cục diện chiến tranh và ta dành thắng lợi. Tư tưởng tích cực chủ
động tiến cơng là chủ động giành quyền đánh giặc trên các mặt trận của dân tộc,

kiên quyết tiến công bằng sức mạnh tổng hợp tồn dân, khơng thụ động phịng
ngự đó là yếu tố quyết định thắng lợi trong chiến tranh và là nét đặc sắc trong
nghệ thuật đánh giặc giữ nước của dân tộc ta. Với thế cơ động tiến công từ mọi
phía, hãm địch vào thế bị động lúng túng, nắm được thời cơ chuyển sang phản
công, tiến công và giành thắng lợi. Từ thời nhà Trần vào thế kỉ thứ XIII, trước
thế mạnh của quân Nguyên - Mông, tư tưởng tích cực chủ động tiến cơng được
thể hiện bằng việc không chấp nhận yêu sách của Chúa Nguyên, mà động viên
nhân dân cả nước chuẩn bị vũ khí kháng chiến, xây dựng quyết tâm đánh giặc
cao cho quân dân cả nước. Với ý chí “sát thát” thề giết giặc Nguyên - Mông.
Khi quân Nguyên Mông vào xâm lược nước ta, nhà Trần đã phát huy sức mạnh
toàn dân, thế trận làng nước, chặn giặc phía trước, đánh giặc phía sau, triệt phá
đường tiếp tế lương thực, cô lập địch, tập trung lực lượng, kết hợp chặt chẽ giữa
tiến công và rút lui, phản công chiến lược và kết quả cả 3 lần đều đánh bại cuộc
tiến công xâm lược của giặc Nguyên Mông.
Đầu thế kỉ XV trước sự xâm lăng của giặc Minh, Lê Lợi và Nguyễn Trãi
đã đứng lên lãnh đạo cuộc khởi nghĩa Lam Sơn. Với lòng yêu nước thương dân,
ý chí căm thù giặc của nghĩa quân Lam Sơn “Không đội trời chung với giặc, thề
không cùng sống chung với chúng” đã chuyển thành quyết tâm đánh giặc rất
kiên cường của quân sĩ dù phải “Nằm gai nếm mật vẫn bền gan chiến đấu”.
Thời kỳ đầu khởi nghĩa, nghĩa qn gặp mn vàn khó khăn “Sớm tối không

SVTH: Thong Panya Vong Sa Vath

8


Cơ sở hình thành nghệ thuật quân sự Việt Nam vào sự nghiệp bảo vệ tổ quốc
Việt Nam XHCN trong thời kỳ đổi mới

được hai bữa áo mặc, đông hè chỉ được có một manh, qn lính chỉ độ vài

nghìn, khí giới thì thật tay khơng”. Nhiều lần bị kẻ địch vây hãm, Lê Lợi đã tổ
chức cuộc tiến công phá thế bao vây phong tỏa của kẻ thù. Đến năm 938 chỉ
bằng một trận Ngô Quyền đã đánh tan đội thuỷ quân xâm lược của Lưu Hoằng
Thao trên sông Bạch Đằng, kết thúc thời kỳ mất nước kéo dài hàng ngàn năm.
Thời nhà Lý, do có nhiều chính sách, cải cách tiến bộ để xây dựng đất
nước, củng cố quốc phịng như: “khuyến nơng”, “ngụ binh ư nơng” (gửi quân ở
dân)...đã tạo nên sức mạnh, giành quyền chủ động đánh bại mọi âm mưu thủ
đoạn mua chuộc lôi kéo, đe doạ, xâm lấn biên giới của kẻ thù. Trước nguy cơ bị
quân Tống xâm lược, tư tưởng chỉ đạo tác chiến của nhà Lý là: “Giành quyền
chủ động đánh trước để phá thế mạnh của giặc”. Lý Thường Kiệt nói “Ngồi n
chờ giặc khơng bằng đem qn ra chặn trước mũi nhọn của chúng”, bằng hành
động thiết thực của mình, đích thân vua Lý Thái Tơng cầm qn xuống phương
Nam đánh giặc Chăm Pa, đã phá được thế liên kết gọng kìm của kẻ thù từ hai
đầu đất nước, tạo điều kiện tập trung lực lượng đánh giặc phương Bắc. Cuối
năm 1075 đầu năm 1076 Lý Thường Kiệt đã mở cuộc tiến công chủ động đánh
sang thành Ung Châu, Khâm Châu, Liêm Châu phá thế chuẩn bị tiến công xâm
lược của quân Tống. Sau đó chủ động lui về xây dựng phịng tuyến Sơng Cầu
(sơng Như Nguyệt) thành thế “hoành trận” để đánh giặc. Tư tưởng chỉ đạo đánh
giặc của quân và dân nhà Lý là kết hợp chặt chẽ giữa phịng ngự và phản cơng,
xây dựng lực lượng phát triển mở rộng thế trận, chủ động tiến công địch, quy
mơ ngày càng lớn cả bằng qn sự, chính trị, binh vận kết hợp đánh tiêu diệt
địch.
Khởi nghĩa Tây Sơn thế kỉ XVIII do ba anh em nhà Nguyễn Nhạc,
Nguyễn Huệ, Nguyễn Lữ lãnh đạo đã được nhân dân đồng lòng ủng hộ.
“Anh đi theo chúa Tây Sơn
Em về cày cuốc mà nuôi mẹ hiền” (ca dao)

SVTH: Thong Panya Vong Sa Vath

9



Cơ sở hình thành nghệ thuật quân sự Việt Nam vào sự nghiệp bảo vệ tổ quốc
Việt Nam XHCN trong thời kỳ đổi mới

Lực lượng nghĩa quân ngày càng phát triển mạnh, vốn tư tưởng tích cực
chủ động tiến cơng nghĩa quân đã giải phóng một vùng rộng lớn từ Quảng Nam
đến Bình Thuận, đánh tan Chúa Nguyễn ở đằng trong, Chúa Trịnh ở đằng ngoài.
Nghe tin bọn Nguyễn ánh, Lê Chiêu Thống “Cọng rắn cắn gà nhà”, “rước voi
về giày mộ tổ” mở đường cho gần 3 vạn quân Xiêm và gần 30 vạn quân Mãn
Thanh sang xâm lược nước ta, Nguyễn Huệ đã tổ chức cuộc hành binh thần tốc,
tập trung lực lượng mạnh, đánh bất ngờ, với sự hiệp đồng giữa quân thuỷ, kỵ
binh, pháo binh và voi chiến đã đánh tan quân Xiêm ở Rạch Gầm - Xoài Mút
tiêu diệt quân Mãn Thanh ở Ngọc Hồi - Đống Đa, giữ vững nền độc lập dân tộc,
chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc.
Những lần đánh thắng quân xâm lược đó là những lần biểu hiện cho nghệ
thuật tiến công rất tài giỏi của cha ông ta, là nét đặc sắc về tư tưởng, chủ động
và kiên quyết tiến cơng, nghệ thuật tiến cơng cịn gắn liền với tinh thần tích cực
chủ động tiến cơng của một dân tộc nhỏ đánh thắng những kẻ thù xâm lược lớn
hơn mình rất nhiều lần. ở phạm trù chiến lược, nghệ thuật qn sự Việt Nam
khơng có phịng ngự mà chỉ có tiến cơng, coi tiến cơng là tư tưởng chỉ đạo, cũng
có nghĩa coi phịng ngự là tạm thời, là sách lược, là biện pháp cần thiết để tạo
thế, tạo thời có lợi cho phản cơng. Nhưng khơng vì thế mà dân tộc ta coi nhẹ
phịng ngự vì thành luỹ và tổ chức phịng ngự cũng là biện pháp, phương tiện tạo
ra thế trận và thời cơ giống như các yếu tố khác để phát huy sức mạnh của mình,
đạt tới mục đích tiến cơng và phản cơng. Bằng cách đó đã chặn đứng các cuộc
tiến cơng quyết liệt của địch để tạo thời cơ, sau đó chuyển sang phản công và
tiến công đánh bại quân giặc.
Trong nghệ thuật quân sự dân tộc Việt Nam, phòng ngự luôn gắn liền
với tiến công và phản công. Vừa chặn địch ở chính diện, vừa đánh vào bên

sườn phía sau, kết hợp phản công và tiến công ngay khi đang cịn phịng
ngự, tìm cách bộc lộ sơ hở để ta chuyển sang tiến cơng hoặc phản cơng, đó
là cách phịng ngự thế công.

SVTH: Thong Panya Vong Sa Vath 10


Cơ sở hình thành nghệ thuật quân sự Việt Nam vào sự nghiệp bảo vệ tổ quốc
Việt Nam XHCN trong thời kỳ đổi mới

Thứ hai, kế sách đánh giặc
Chiến tranh là một quá trình đấu tranh vũ trang rất quyết liệt giữa hai bên
tham chiến để dành ưu thế mà thắng. Sự đọ sức quyết liệt ấy đòi hỏi phải có lực
lượng, song nó cịn gắn liền với sự đấu tranh rất gay go quyết liệt về trí tuệ của
các bên tham chiến, bên nào thông minh hơn sẽ thắng. Càng đọ sức quyết liệt và
gay go thì càng biểu hiện quy luật chung của chiến tranh “Mạnh được yếu
thua”, mạnh yếu tuỳ thuộc vào số lượng, chất lượng mọi người tham chiến,
trang bị vật chất kỹ thuật và nguồn lực bảo đảm các mặt cho cuộc chiến tranh
đó, và còn phụ thuộc rất lớn vào tài nghệ chỉ đạo, chỉ huy của người cầm quyền
cùng năng lực sáng tạo trong vận dụng nghệ thuật của người tham chiến trên
chiến trường. Vì vậy ai có sức mạnh hơn, thơng minh hơn và sáng tạo hơn thì
ngưới đó sẽ chiến thắng.
Do đó kế sách đánh giặc ở đây là mưu kế, là sách lược đánh giặc của dân
tộc. Kế sách phải mềm dẻo, khéo léo kết hợp chặt chẽ giữa tiến cơng và phịng
ngự, qn sự với binh vận, ngoại giao tạo ra thế mạnh của ta phá thế mạnh của
địch, trong đó tiến cơng qn sự ln giữ vai trị quyết định. Kế sách đó được
vận dụng linh hoạt sáng tạo cho từng cuộc chiến tranh. Vì vậy mưu kế và kế
sách giữ vai trò hết sức quan trọng trong nghệ thuật đánh giặc.
Mưu kế trong chiến tranh tạo ra thế trận và thời cơ có lợi mà đánh thắng
địch, đó là yếu tố thế và thời trong chiến tranh do mưu kế tạo nên. Trong lịch sử

đấu tranh của dân tộc, nhân dân ta luôn phải đương đầu với những kẻ thù lớn
mạnh hơn mình rất nhiều lần, chúng vừa đơng lại có tiềm lực kinh tế, qn sự to
lớn hơn. Nhân dân ta đánh giặc trong điều kiện nhỏ đánh lớn, ít địch nhiều, yếu
chống mạnh và thường bị qn thù bao vây về mọi phía.
Từ đó mà nghệ thuật đánh giặc của cha ông ta kể từ xưa đến nay đều vì
thế mà nghĩ đến mưu kế, tạo thời cơ, nắm bắt thời cơ, dành chủ động, đánh bất
ngờ để thắng địch. Trên sông Bạch Đằng, Ngô Quyền đã dùng mưu trí cắm cọc
nhọn bịt sắt chơn xuống lịng sơng có qn mai phục tạo ra sức mạnh tổng hợp

SVTH: Thong Panya Vong Sa Vath 11


Cơ sở hình thành nghệ thuật quân sự Việt Nam vào sự nghiệp bảo vệ tổ quốc
Việt Nam XHCN trong thời kỳ đổi mới

làm thế mạnh của ta dụ quân địch vào thế trận, rồi đánh quặt lại chúng lúc thuỷ
triều rút nước xuống để tiêu diệt địch. Đây là nghệ thuật tạo, nắm thời cơ. Sự
thông minh, sáng tạo trong chiến tranh là biểu hiện trước hết ở mưu kế hay và
khéo léo. Mưu hay kế sâu không chỉ biểu hiện ở phạm trù chiến lược mà còn
biểu hiện rất rõ ở phạm trù chiến dịch, chiến đấu trong nghệ thuật quân sự của
dân tộc ta. Có mưu hay kế khéo thì các trận đánh lớn, nhỏ cũng như tác chiến
đều cho phép ta với lực lượng ít hơn, có thể đánh thắng được một đối thủ có lực
lượng đơng và vũ khí trang bị kỹ thuật mạnh hơn. Mưu hay kế khéo có thể buộc
địch đánh theo cách đánh của ta, biến địch từ tiến công thành bị tiến cơng, q
trình giao chiến buộc địch bộc lộ ra những sơ hở để ta chủ động và bất ngờ đánh
thắng .
Trước thế giặc Nguyên - Mông đang mạnh, mưu lược đánh gặc của quân
dân thời Trần là: Tránh chỗ mạnh, đánh chỗ yếu, nơi hiểm yếu của kẻ thù.
“Nguyên binh nhuệ khí đang hứng kíp đánh chẳng bằng kiên thủ chờ suy”. Quân
dân thời Trần vừa chặn đánh vừa rút lui từng bước, kết hợp với tổ chức cho tồn

dân lập kế “thanh dã” (làm vườn khơng nhà trống) với đánh phá nhỏ lẻ ở phía
trước, bên sườn phía sau. Quân dân ta đã đẩy quân Nguyên vào thế cùng lực kiệt
tiến thối lưỡng nan. Lúc đó ta mới tập trung lực lượng, chuyển sang phản công
kiên quyết, tiến công liên tục, lập nên chiến thắng vang dội ở Đông Bộ Đầu,
Hàm Tử, Chương Dương...ba lần đem quân xâm lược Đại Việt, đạo kị binh thiện
chiến Nguyên - Mông đã từng chinh phục khắp lục địa Âu - á đã bị đánh bại.
Trong cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc, thời kỳ đầu khởi nghĩa, so sánh lực
lượng ta yếu hơn địch, nhưng tổ tiên ta đã sử dụng nhiều kế sách đánh giặc rất
mềm dẻo và vô cùng khơn khéo. Nghĩa qn Lam Sơn thì dùng kế “Bên ngoài
giả thác hoà thân” để “bên trong lo rèn chiến cục”. Nghĩa qn lại dùng mưu:
“Hồ hỗn với Chúa Trịnh ở đằng ngồi, để tập trung lực lượng đối phó với
Chúa Nguyễn ở đằng trong”. Nhờ có nghệ thật khơn khéo đó mà ta đã tránh
được sự đánh phá rất quyết liệt của kẻ thù, đưa phong trào khởi nghĩa phát triển

SVTH: Thong Panya Vong Sa Vath 12


Cơ sở hình thành nghệ thuật quân sự Việt Nam vào sự nghiệp bảo vệ tổ quốc
Việt Nam XHCN trong thời kỳ đổi mới

mạnh mẽ trong cơng cuộc giải phóng dân tộc. Có mưu hay kế khéo khơng
những tiêu diệt được nhiều địch phá huỷ được nhiều phương tiện chiến tranh,
lấy được trang bị vũ khí phương tiện của địch để dùng cho ta, làm cho ta càng
đánh càng mạnh, mà một vấn đề quan trọng hơn nữa là ta đã đánh bại được
những chủ trương biện pháp, thủ đoạn, tác chiến quan trọng của địch, làm cho
địch quân đông mà khơng dám dùng, cịn lực lượng tinh nhuệ mà không dám sử
dụng để thi thố tài năng vào đúng nơi và đúng lúc.
Mưu đồ của địch từ đó mà đi tới chỗ dần dần suy sụp, càng đánh càng bị
thua đau đớn, thiệt hại của chúng càng lớn hơn, tác động tinh thần đối với chúng
còn nguy hại nhân lên gấp bội, dẫn đến ý chí tinh thần của chúng bị lung lay, âm

mưu xâm lược bị nứt rạn, mâu thuẫn tăng lên cuối cùng bị tan vỡ. Mưu kế trước
hết là lừa địch, tìm cách điều địch để phá thế địch mà tiêu diệt địch.
Trần Hưng Đạo nói “Đời xưa người giỏi dùng binh ý muốn như thế mà
khơng là như thế, nay thì ý muốn khơng như thế cho nên làm như thế, khiến họ
lại ngờ là ý muốn như thế. Đó là phép tinh vi để phá quân, bắt tướng. Cái làm
chỉ là cái bóng, làm mà khơng nghĩ thế chỉ là cái bóng trong cái bóng mà thơi như hai cái gương trao đổi nhau, thực là huyền ảo mà khơng huyền ảo”.
Ngồi ra mặt trận ngoại giao cũng gĩư vai trò hết sức to lớn. Thời Trần
đánh thắng giặc Nguyên - Mông đã mở mặt trận tiến công ngoại giao, buộc chúa
Nguyên phải công nhận xâm phạm quốc cảnh “Đại Việt” để ta thả 5 vạn tù binh
về nước.
Nghĩa quân Lam Sơn, Tây Sơn dùng kế sách “hồ hỗn” tránh sức mạnh
ban đầu của giặc để xây dựng lực lượng phát triển thế trận, sau đó mới mở các
cuộc tiến cơng ngày càng lớn .
Từ đó cho thấy tư tưởng chỉ đạo đánh giặc của nhân dân ta phải dành, giữ
vững quyền chủ động, liên tục tiến công địch. Nhưng tuỳ theo điều kiện của
từng cuộc chiến tranh, so sánh lực lượng ta và địch, để tìm ra cách đánh thích
hợp tiêu diệt chúng. Kế sách đánh giặc của nhân dân ta rất mềm dẻo, khôn khéo,

SVTH: Thong Panya Vong Sa Vath 13


Cơ sở hình thành nghệ thuật quân sự Việt Nam vào sự nghiệp bảo vệ tổ quốc
Việt Nam XHCN trong thời kỳ đổi mới

kết hợp chặt chẽ giữa tiến công quân sự với binh vận, ngoại giao...tạo ra thế
mạnh của ta, phá thế mạnh của địch, đánh bại chúng, trong đó tiến cơng qn sự
ln giữ vai trị quyết định.
2.2. Toàn dân là binh cả nước đánh giặc
Đây là nghệ thuật về tổ chức, sử dụng lực lượng, động viên tinh thần, phát
huy sức mạnh, cách đánh giặc theo sở trường của từng người, từng lực lượng,

mỗi bản làng, thôn xóm...trên cả nước tạo thành sức mạnh "tồn dân là binh cả
nước đánh giặc".
Toàn dân là binh, cả nước đánh giặc là nghệ thuật đánh giặc truyền thống
độc đáo, sáng tạo của dân tộc ta, là chiến thuật chiến tranh nhân dân tồn dân
đánh giặc, nó được thể hiện trong cả khởi nghĩa vũ trang, trong chiến tranh bảo
vệ Tổ quốc và chiến tranh giải phóng dân tộc.
Thắng lợi của nhân dân ta chống kẻ thù xâm lược trong lịch sử đều do biết
tiến hành chiến tranh nhân dân, phát huy sức mạnh" toàn dân là binh, cả nước
đánh giặc" mà nội dung thực chất là nghệ thuật quân sự dựa vào dân, lấy dân
làm gốc để tiến hành chiến tranh. Nó mang tính truyền thống của nghệ thuật
qn sự Việt Nam, nó đã trở thành nguyên lý sâu sắc nhất để tiến hành giành
thắng lợi khởi nghĩa vũ trang và chiến tranh cách mạng suốt hàng ngàn năm lịch
sử.
- Cơ sở phát động toàn dân đánh giặc.
Các cuộc chiến tranh mà nhân dân ta tiến hành đều là chiến tranh yêu
nước chính nghĩa để bảo vệ Tổ quốc hoặc giải phóng dân tộc, đây là nguồn sức
mạnh tinh thần to lớn thúc đẩy toàn đân hăng hái tham gia, nhà nhà hưởng ứng,
người người đứng lên đánh giặc cứu nước. Dân tộc ta có truyền thống đồn kết,
u nước, thương nịi, ý chí đấu tranh kiên cường bất khuất, tinh thần quyết
đánh quyết thắng quân xâm lược để bảo vệ độc lập dân tộc, chủ quyền toàn vẹn
lãnh thổ Tổ quốc.

SVTH: Thong Panya Vong Sa Vath 14


Cơ sở hình thành nghệ thuật quân sự Việt Nam vào sự nghiệp bảo vệ tổ quốc
Việt Nam XHCN trong thời kỳ đổi mới

Từ xa xưa, nhân dân ta đã biết đứng lên chống giặc ngoại xâm, biết dựa
vào sức lực của chính mình, tạo ra sức mạnh đồn kết và kiên trì đấu tranh lâu

dài, cuối cùng dành được thắng lợi, mở đầu cho trang sử chống ngoại xâm rất vẻ
vang của dân tộc. Lực lượng chủ yếu ấy là những người dân của các bộ tộc, bộ
lạc được huy động ra đi làm dân binh để chiến đấu. Với trang bị vũ khí lúc ấy
vừa bằng tre, gỗ, vừa bằng sắt, đồng, đá. Tre, gỗ, đá dùng làm gậy gộc, mũi tên,
lao và đá ném; sắt đồng làm ra giáo, mác, rìu, lao...
Những trang bị ấy thường ngày là những phương tiện lao động sản xuất,
săn bắn thú rừng để sinh sống, đồng thời cũng là vũ khí chiến đấu chống giặc
khi cần thiết. Sức mạnh đó là sức mạnh dựa vào sự đoàn kết của các bộ tộc
chống ngoại xâm để bảo vệ dân tộc, bảo vệ giống nịi.
Thực hiện “trăm họ là binh, tồn dân đánh giặc”. Do có bước phát triển
tiến bộ về tư tưởng, tổ chức xây dựng đất nước, củng cố quốc phòng, các nhà
nước phong kiến Đại Việt đã gắn chặt dân với nước, nước với dân, tạo cơ sở
vững chắc cho nghệ thuật đánh giặc “toàn dân vi binh, cử quốc nghênh địch”
thời chiến đã có bước phát triển quan trọng, ảnh hưởng lớn đến quá trình hình
thành và phát triển nghệ thuật quân sự Việt Nam.
Trải qua bao nhiêu thế hệ, dân tộc Việt Nam với khí phách anh hùng ngày
càng nảy nở và phát triển, đã kiên quyết liên tục đứng lên chống ngoại xâm, sẵn
sàng chịu đựng mọi gian khổ, bảo vệ quyền sống của mình trên mảnh đất quê
hương.
- Nội dung nghệ thuật phát huy sức mạnh toàn dân là binh, cả nước
đánh giặc.
Thứ nhất, tổ chức động viên lực lượng
Là tổ chức động viên toàn dân, mọi nhà, mọi người đều đánh giặc, “trăm
họ là binh, cả nước đánh giặc” tạo nên sức mạnh tổng hợp của cả dân tộc. Với
truyền thống yêu nước nồng nàn, tự lập tự cường, anh dũng bất khuất gắn liền với
ngọn cờ đại nghĩa chiến đấu vì độc lập, thống nhất đất nước “nhân dân ta đã sớm

SVTH: Thong Panya Vong Sa Vath 15



Cơ sở hình thành nghệ thuật quân sự Việt Nam vào sự nghiệp bảo vệ tổ quốc
Việt Nam XHCN trong thời kỳ đổi mới

có ý thức gắn quyền lợi của Tổ quốc với quyền lợi của gia đình và bản thân, gắn
bó nước với nhà, làng với nước trong mối quan hệ keo sơn bền chặt”, “nước mất
nhà tan”, câu nói đó đã có từ lâu đời cho nên mỗi khi có giặc xâm lược thì mọi
người đều đồng lịng đứng dậy chống giặc để giữ nước, giữ nhà. “Cả nước chung
sức đánh giặc đó là truyền thống quân sự của dân tộc Việt Nam”.
Trong các cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc, các nhà nước phong kiến Đại
Việt đã tổ chức sử dụng lực lượng vũ trang cùng nhân dân biên giới, đánh bại
mọi âm mưu thủ đoạn mua chuộc lơi kéo, kích động...của kẻ thù, giữ vững biên
cương của Tổ quốc, các địa phương cịn tích cực tổ chức lực lượng, động viên
nhân dân chủ động xây đồn luỹ, chuẩn bị vũ khí sẵn sàng đánh giặc.
Thời nhà Lý đã động viên hàng trăm vạn dân tham gia lập nên thế "hồnh
trận” để đánh giặc ở sơng Cầu (sông Như Nguyệt). Do cũng chuẩn bị tốt lực
lượng, thế trận nên quân dân địa phương vùng Lạng Sơn, Cao Bằng cùng quân
đội triều đình sang đất Tống để phá thế tiến công chuẩn bị trước của giặc. Sự
tham gia đơng đảo của quần chúng nhân dân với khí thế tiến công ngày càng
mạnh đã trở thành nhân tố rất quan trọng trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng
và bảo tồn dân tộc.
Thời nhà Trần tổ chức hội nghị “Diên Hồng”, cùng nhân dân bàn cách
đánh giặc sau hội nghị cả nước dấy lên phong trào đánh giặc lập công. Tiêu biểu
là đội dân binh người Tày ở Lạng Sơn do Nguyễn Thế Lộc và Nguyễn Lĩnh chỉ
huy cùng một bộ phận quân triều đình liên tục chặn giặc trong nhiều ngày đêm.
Đội quân gia nô của Nguyễn Địa đã chém chết tên phản bội Trần Kiệm ngay
trên mình ngựa trước cửa Chi Lăng. Lực lượng dân binh ở Tây Bắc do Hà Bổng,
Hà Đặc, Hà Chương đã chặn đánh kiên quyết liên tục quân Nguyễn ở Thu Vạt,
Bạch Hạc...khi tiến công địch ở Nam Thăng Long, lực lượng dân binh, quân các
lộ phủ của Trần Thống, Nguyễn Khả Lạp đã phối hợp với quân triều đình đánh
giặc lập nên chiến công ở Tây Kết, Hàm Tử, Chương Dương.


SVTH: Thong Panya Vong Sa Vath 16


Cơ sở hình thành nghệ thuật quân sự Việt Nam vào sự nghiệp bảo vệ tổ quốc
Việt Nam XHCN trong thời kỳ đổi mới

Chiến thắng Vạn Kiếp có cơng to lớn của Hoài Văn Hầu, Trần Quốc
Toản - người đã tổ chức chặn đánh quyết liệt ở sông Như Nguyệt buộc quân
Nguyên phải đi vào đúng thế trận của ta. Trận quyết chiến trên sông Bạch
Đằng được nhân dân đồng lòng, quyết tâm ra sức ủng hộ Trần Quốc Toản, đã
giàn thế trận hiểm, kết hợp với tài nghi binh lừa địch của dân binh địa
phương, ta đã bắt gọn quân giặc, bắt sống nhiều tướng giặc như Ô Mã Nhi,
Phàn Tiếp, Trích Lê Cơ. Ba lần xâm lược Đại Việt, cả 3 lần đều thất bại dưới
quân và dân ta, làm cho kẻ thù khiếp sợ không dám xâm phạm. Thắng lợi của
dân tộc ta đã góp phần làm suy yếu thế lực của đế quốc Mông Cổ, làm thất
bại âm mưu biến nước ta thành bàn đạp để mở rộng xâm lược xuống các nước
Đơng Nam á. Đó là những cống hiến quan trọng có ý nghĩa lớn lao của dân
tộc ta đối với cuộc chiến tranh của các dân tộc Châu A¸ chống xâm l ược và
thống trị của đế quốc Nguyên - Mông hồi thế kỉ XIII.
Khởi nghĩa Lam Sơn với mục tiêu “kéo cùng dân ra khỏi lầm than”, quân
khởi nghĩa được nhân dân ủng hộ mạnh mẽ phát triển lên thành cuộc chiến tranh
giải phóng dân tộc. Khi đánh giặc, quân khởi nghĩa đi đến đâu cũng “chật đất
người theo”, nghĩa quân đánh giặc ở đâu nhân dân ở đó nổi dậy hưởng ứng.
Quân Lam Sơn tiến quân vào Nghệ An, Tân Bình, Thanh Hoá người trẻ gia nhập
nghĩa quân, người già cũng tham gia đánh giặc, chỉ riêng Trà Lân đã có hơn
5000 thanh niên được tuyển vào quân đội. Khi tiến quân ra Bắc Bộ, cả đồng
bằng vùng lên đánh giặc, chiến thắng Tốt Động, Chúc động, Đơng Quan, Chi
Lăng đều có dân binh và nhân dân trong vùng giúp sức mà sử sách cịn ghi
“Hào kiệt các lộ ở kinh đơ và nhân dân các lộ, phủ, huyện tấp nập kéo đến cửa

quân hết sức liều chết đánh thắng giặc ở các xứ”. Sau mười năm chiến đấu bền
bỉ, gian khổ và ngoan cường, cuộc khởi nghĩa Lam Sơn đã hoàn thành vẻ vang
nhiệm vụ giải phóng dân tộc. Thắng lợi của cuộc chiến thật là oanh liệt, toàn
diện và triệt để đã đập tan hồn tồn ý chí xâm lược nước ta của nhà Minh, đất
nước được giải phóng và nền độc lập dân tộc nhờ đó mà được bảo đảm gần 4 thế

SVTH: Thong Panya Vong Sa Vath 17


Cơ sở hình thành nghệ thuật quân sự Việt Nam vào sự nghiệp bảo vệ tổ quốc
Việt Nam XHCN trong thời kỳ đổi mới

kỉ (đầu thế kỉ XV đến cuối thế kỉ XVIII) không bị nạn ngoại xâm, phong kiến
phương Bắc đe doạ.
Dưới chế độ hà khắc và ngột ngạt của họ Nguyễn, nhân dân ta từ lâu đã
tích chứa nhiều bất mãn oán giận và căm thù. Trước họa xân lược của giặc
Thanh, mùa xuân năm 1789 Quang Trung cấp tốc mở cuộc hành binh ra Bắc, chỉ
dừng lại Nghệ An có 10 ngày mà đã có hàng vạn thanh niên tình nguyện gia
nhập nghĩa quân. Trong các trận quyết chiến ở Ngọc Hồi, Khương Thượng,
Thăng Long có sự giúp đỡ phối hợp của nhân dân, nghĩa quân đã có “luỹ mộc”
để cản phá hoả lực của Hứa Tế Hanh lập thành “trận rồng lửa” (hoả long trận)
quân vây kín bốn mặt thành, đánh tan hàng vạn quân của Sầm Nghi Đống, Tổng
đốc Tôn Sĩ Nghị sợ mất mật, ngựa khơng kịp đóng n, người khơng kịp mặc áo
giáp vượt cầu phao nhằm hướng Bắc mà chạy.
Trong các cuộc chiến tranh này, ngồi lực lượng qn sự thì dân chúng
cũng tham gia trực tiếp chống giặc bằng nhiều hình thức rất phong phú, ra sức
hỗ trợ về mọi mặt để đánh thắng kẻ thù. Đối với đất nước ta, trước nạn xâm lược
thường xuyên đe dọa của kẻ thù, các vị lãnh tụ luôn biết dựa vào dân, coi việc
chăm lo súc mạnh của nhân dân làm nền tảng cho việc giữ nước và giải phóng
đất nước. Hình thức chiến tranh nhân dân sớm xuất hiện, không những kế thừa

được phong trào đấu tranh có tính chất quần chúng rộng rãi với truyền thống anh
hùng bất khuất đã có từ xa xưa, mà cịn phát triển lên một trình độ mới rất cao,
lập nên những kỳ tích vang dội với những chiến cơng hiển hách. Hình thức tổ
chức lực lượng quân sự lúc này bao gồm ba thứ quân (quân cấm của triều đình,
quân các lộ các địa phương và dân binh) ngày càng hoàn thiện, gồm bộ binh,
thuỷ quân và các loại hình binh chủng khác. Tổ tiên ta đánh thắng địch không
chỉ ở miền rừng núi, trung du mà ở cả đồng bằng, trên sông nước và ngoài cửa
biển. Đánh thắng giặc Tống, Nguyên, Minh, Xiêm, Thanh đã chứng minh sức
mạnh toàn dân trong nghệ thuật đánh giặc “tồn dân là binh cả nước đánh
giặc”, điều đó được nhà quân sự thiên tài Trần Quốc Tuấn khẳng định “Sở dĩ

SVTH: Thong Panya Vong Sa Vath 18


Cơ sở hình thành nghệ thuật quân sự Việt Nam vào sự nghiệp bảo vệ tổ quốc
Việt Nam XHCN trong thời kỳ đổi mới

nước ta thắng được giặc ngoại xâm qua nhiều thời đại là do ta biết đồng lòng
đánh giặc, cả nước chung sức…”, ngược lại thời Hồ dựng nước và giữ nước
theo tư tưởng “ích kỉ phi gia”, “để trong nước lịng dân ốn hận”. vì thế dù cho
Hồ Quý Ly có xây thành cao, đắp được luỹ dày thì khi chiến tranh xảy ra mà
“dân khơng theo” cũng dẫn đến thất bại thảm hại, làm cho đất nước bị đô hộ kéo
dài hàng ngàn năm.
Thứ hai, Với sức mạnh“toàn dân là binh, cả nước đánh giặc” đã hình thành
nên thế trận đánh giặc độc đáo, sáng tạo ra nhiều cách đánh đạt hiệu quả cao.
Trong quá trình đánh giặc, quân và dân nước Đại Việt đã khéo léo vận
dụng kết hợp chặt chẽ giữa mưu, kế, thế, thời, lực để tạo ra sức mạnh của ta đánh
phá, làm suy yếu hạn chế thế mạnh của địch trên phạm vi chiến lược và chiến
đấu tiêu diệt chúng. Thế trận của ta là kết hợp chiến tranh nhân dân địa phương
(thế của các lộ, các vương hầu xưa kia, thế bộ đội địa phương và quân du kích)

với thế trận chiến tranh bằng hoạt động tác chiến của quân chủ lực (du quân của
triều đình) là thế trận chiến lược của các lực lượng vũ trang kết hợp với các lực
lượng chính trị triển khai trên các địa bàn xung yếu và kết hợp chặt chẽ với nhau
hãm địch vào thế khơng có lợi.
Thời nhà Lý do tạo được thế bất ngờ chủ động đánh trước phá được thành
lũy của giặc ở hai đầu đất nước đã làm đảo lộn kế hoạch xâm lược của kẻ thù.
Trong trận tiến công thành Ung Châu, tướng giặc Tô Giám thúc quân phòng thủ
chống trả quyết liệt. Quân ta đã sử dụng cách đánh vừa vây hãm vừa công thành,
trong đột phá ta sử dụng hoả công, thang mây (vân thê) để nhập thành, đào hầm
qua chân thành, dùng bao đất xếp thành bậc cao đưa quân vào thành đánh phá.
Khi lui về phòng thủ đất nước, quân dân tổ chức thành hai tuyến chặn giặc.
Tuyến trước do quân các lộ, phủ cùng dân binh địa phương bố trí lực lượng dọc
các tuyến đường bộ và đường sông mà địch tiến công, dựa vào thế hiểm trở của
núi rừng, sông suối, đèo ải để chặn đánh giặc. Tuyến sau dựa vào thế núi, thế
sông ta xây dựng chiến luỹ dài hàng trăm dặm, cao mấy thước; ở Nam sông Như

SVTH: Thong Panya Vong Sa Vath 19


Cơ sở hình thành nghệ thuật quân sự Việt Nam vào sự nghiệp bảo vệ tổ quốc
Việt Nam XHCN trong thời kỳ đổi mới

Nguyệt, phía trước đóng cọc tre dày đặc với nhiều hầm chơng. Lực lượng bố trí
có qn bộ, quân thủy cùng với dân binh tại chỗ có cả thế phịng và thế cơng tạo
nên thế trận vững chắc, có cả chính diện, chiều sâu và trọng điểm phát huy sức
mạnh, sở trường của các lực lượng, chặn giặc ở phía trước, tiến đánh giặc ở phía
sau, hãm địch vào thế bất lợi để ta chuyển sang phản công. Trong tiến công,
quân ta lại dùng kế “dương Đông kích Tây”, tổ chức những trận tập kích bất ngờ
làm cho quân Tống không kịp chống đỡ tổn thất rất nhiều. Kết hợp với địn tiến
cơng ngoại giao, dân tộc ta đã đánh bại cuộc chiến tranh xâm lược của giặc

Tống. Thắng lợi huy hoàng của cuộc kháng chiến trước hết là kết quả của một
bước phát triển vượt bậc của dân tộc ta mọi mặt về tinh thần, vật chất và tổ chức.
Sau hơn một thế kỉ giành được độc lập (thế kỉ X), do sự lớn mạnh đó quân dân
thời Lý đã tiến hành cuộc kháng chiến với tinh thần chủ động, tư thế đạp lên đầu
kẻ thù, khí phách hiên ngang và ý thức sâu sắc về quyền bất khả xâm phạm của
dân tộc, làm chủ đất nước và vận mệnh của mình.
Khởi nghĩa Lam Sơn, nghĩa quân đã phát huy thế mạnh của chiến
tranh giải phóng dân tộc, sức mạnh của toàn dân, vận dụng cách đánh vây hãm
thành, đánh quân cứu viện. Với tư tưởng “Giặc đơng ta ít, lấy ít đánh đơng, chỉ
ở nơi đất hiểm mới được công” ta thực hiện “nhử người đến chứ không để
người nhử đến” trong trận Chúc Động, Tốt Động.
Sau chiến thắng Ninh Kiều, nghĩa quân Lam Sơn được tăng cường cả về
số lượng cũng như chất lượng và trang bị vũ khí. Trên cơ sở đó nghĩa quân tiếp
tục vây hãm thành Đông Quan và các thành luỹ nằm sâu bên trong hậu phương
của ta (như thành Nghệ An, Diễn Châu, Tây Đơ, Cổ Lộng, Chí Linh...) còn
những thành luỹ nằm trên hai đường tiếp viện của địch từ Vân Nam và Quảng
Tây đến Đông Quan (Như thành Điêu Diêu, Thị Cầu, Xương Giang, Khâu Ôn,
Tam Giang...) thì nghĩa quân chủ trương kiên quyết tiêu diệt địch cho kỳ hết
trước khi viện binh của nhà Minh kéo sang. Đặc biệt trong giai đoạn này, công
tác vận động và thuyết phục kẻ thù được đẩy mạnh nhằm hỗ trợ cho cuộc tiến

SVTH: Thong Panya Vong Sa Vath 20


Cơ sở hình thành nghệ thuật quân sự Việt Nam vào sự nghiệp bảo vệ tổ quốc
Việt Nam XHCN trong thời kỳ đổi mới

công bằng quân sự. Đúng như dự kiến của ta, Vương Thông tập trung 9 vạn
binh, sử dụng hai mũi chính kỳ vây chặt Cao Bộ nhằm tiêu diệt quân khởi nghĩa.
Nắm được ý đồ của giặc “tương kế tựu kế”, “nhanh chóng như thần máy then

đóng mở” (Nguyễn Trãi) quân ta lợi dụng địa hình hiểm trở lập thế trận mai
phục, chặn địch ở Cao Lỗ, khố đi cắt địch ở Ninh Kiều, dồn qn Minh
xuống cánh đồng Tốt Động, Chúc Động để tiêu diệt; đúng như dự kiến đến canh
năm địch tiến công lên Cao Bộ; tướng Đinh Lễ cho pháo ở nơi yếu hại lừa địch,
nghe tiếng pháo Vương Thông lầm tưởng cánh quân kỳ đã đánh phía sau Cao
Bộ, liền xua quân đi tắt vào Cao Bộ. Khi quân địch đã qua cầu, toàn bộ quân
Minh lọt vào trận địa mai phục của ta. Từ 3 phía qn ta xơng ra thả sức chém
giết, quân địch bị hãm vào đầm lầy người ngựa vướng vào nhau không sao
chống cự được, tướng Trần Hiệp tử trận, tổng chỉ huy Vương Thông bị thương,
quân chết vô kể, cánh kị binh vội tháo chạy qua cánh đồng Chúc Động lại bị rơi
vào trận địa mai phục của ta quân số chết quá nửa. Sau mười năm chiến đấu bền
bỉ, gian khổ và ngoan cường cuộc khởi nghĩa Lam Sơn đã hoàn thành vẻ vang
nhiệm vụ giải phóng dân tộc.
Trong khởi nghĩa Tây Sơn, nghĩa quân đã sử dụng kế sách tác chiến
“Nghi binh thăm dò”, đưa một bộ phận linh thuyền ra phía trước tiến đánh một
số trận tập kích thăm dị rồi bỏ chạy, mặt khác sai người đàm phán với tướng
Xiêm “xin” rút binh làm cho địch càng chủ quan gây được mối nghi ngờ trong
nội bộ của chúng, phía ta có thêm thời gian chuẩn bị chiến đấu. Chúng lầm
tưởng lực lượng Tây Sơn nhỏ yếu, nên quân Xiêm - Nguyễn lợi dụng lúc nước
cường, gió chướng, đêm ngày 8 tháng chạp năm Giáp Thìn (18/01/1875) đưa
tồn bộ thuyền binh từ Trà Tân tiến thẳng đến Mỹ Tho, để tiêu diệt quân Tây
Sơn. Nắm được ý định của giặc, quân Tây Sơn tổ chức thế trận phục kích trên
sơng Tiền Giang tập trung lực lượng tiêu diệt quân địch trên đoạn Rạch Gầm Xồi Mút. Tận dụng địa hình kín đáo, hiểm trở quân Tây Sơn bí mật bố trí
thuyền binh chặn đánh đầu, khố đi, hãm địch trong khu quyết chiến tập trung

SVTH: Thong Panya Vong Sa Vath 21


Cơ sở hình thành nghệ thuật quân sự Việt Nam vào sự nghiệp bảo vệ tổ quốc
Việt Nam XHCN trong thời kỳ đổi mới


lực lượng ở hai bên bờ và cù lao Thới Sơn đánh tạt sườn quân giặc. Khoảng đầu
canh năm ngày 19/01/1785 gần 400 thuyền binh của giặc lọt vào thế trận chiến
đấu ta đã bày đặt sẵn. Bằng một thế trận chiến đấu hiệp đồng thuỷ, bộ, pháo, Tây
Sơn đã tiêu diệt gọn 5 vạn quân Xiêm - Nguyễn. Từ đó quân Xiêm “Sợ quân
Tây Sơn như sợ cọp”, vua Xiêm phải thừa nhận tướng Xiêm “Ngu hèn, kiêu
căng hung hãn đến nỗi bại trận” làm “Bại binh nhục quốc”. Nghệ thuật đánh
giặc tài giỏi của quân Tây Sơn còn được thể hiện trong cuộc kháng chiến chống
quân xâm lược nhà Thanh. Trước thế mạnh của giặc, lại có lực lượng tay sai Lê
Chiêu Thống dẫn đường, qn Tây Sơn ở Bắc Hà khơng nhiều, Ngơ Thì Nhậm
nói “Phép dùng binh chỉ có một đánh, một giữ mà thơi ”. Tướng sĩ Tây Sơn đã
tìm ra cách đánh “Lường thế giặc rồi mới đánh, nắm phần thắng rồi mới hành
động, tuỳ theo tình thế mà bày ra chước lạ”. Quân Tây Sơn quyết định rút về giữ
vùng đất hiểm ở Tam Điệp, Bỉm Sơn để bảo toàn lực lượng, không bỏ mất mũi
tên, cho chúng ngủ nhờ một đêm rồi lại đuổi đi. Nhận được tin quân giặc vào
Thăng Long, Quang Trung tổ chức cuộc hành binh thần tốc ra Bắc Hà, biết được
quân Thanh đang dựa vào qn đơng, tướng nhiều, xem thường đối phương, nói
“Qn Tây Sơn như cá chậu chim lồng còn chút hơi thừa thoi thóp khơng đáng
nói đến”. Trước tình hình đó, quân ta dùng kế “kích tướng” đẩy quân giặc vào
thế chủ quan, ít đề phịng, sai người mang thư đến Tôn Sỹ Nghị “để xin hàng”,
làm cho quân Thanh càng mất cảnh giác, xem thường ta. Tôn Sỹ Nghị ra lệnh
cho Quang Trung “Hãy rút quân về Thuận Hoá để chờ phân xử”, truyền lệnh
cho quân sỹ “Nghỉ mười ngày để cùng vui đón xuân”. Tận dụng sai lầm đó của
giặc, quân Tây Sơn lập kế hoạch, tổ chức lực lượng tiến công chiến lược đánh
địch trên cả 5 hướng. Cách đánh: Bí mật cơ động, triển khai lực lượng nhỏ, hình
thành thế bao vây, vu hồi chia cắt, đồng loạt tiến cơng chính diện, hẹp, chiều sâu
lớn. Tập trung lực lượng mạnh, đột kích vào các cụm quân lớn của giặc ở Ngọc
Hồi, Khương Thượng (Đống Đa), Thăng Long. Bị bất ngờ trước cách đánh
nhanh hiểm ở phía trước, bên sườn, phía sau của nghĩa quân Tây Sơn, quân


SVTH: Thong Panya Vong Sa Vath 22


Cơ sở hình thành nghệ thuật quân sự Việt Nam vào sự nghiệp bảo vệ tổ quốc
Việt Nam XHCN trong thời kỳ đổi mới

Thanh không kịp chi viện cho nhau, quân Tây Sơn đã thọc sâu tiến thẳng tới
cung Tây Long. Tại bản doanh, Tôn Sỹ Nghị đang lo lắng theo dõi mặt trận phía
Nam để sẵn sàng điều quân đi tiếp viện. Bỗng nhiên hắn được tin cấp báo đồn
Khương Thượng bị tiêu diệt, hắn đang hoảng hốt chưa kịp đối phó thì đạo qn
của Đơ đốc Long đã tràn vào thành Thăng Long như một mũi tên lao thẳng vào
bản doanh của hắn. Hắn khiếp sợ đến nỗi khơng kịp mặc áo giáp và đóng n
ngựa, vội vàng cùng với toán quân kị binh hầu cận vượt cầu phao tháo chạy
trước. Quân Thanh tan vỡ tranh nhau tìm đường chạy trốn, Tôn Sỹ Nghị ra lệnh
cắt cầu phao để cản đường truy kích của quân Tây Sơn. Do hành động tàn nhẫn
của hắn, hàng vạn quân Thanh bị bỏ xác dưới sông Hồng. Tôn Sỹ Nghị và bọn
tàn quân chạy trốn một cách thảm hại. Khắp nơi trên đường chạy trốn, chúng bị
chặn đánh tơi bời và bị tiêu diệt gần hết, số sống sót phải luồn rừng, lội suối theo
đường tắt trốn về nước. Bại tướng Tôn Sỹ Nghị cũng phải vứt bỏ tất cả sắc thư
ấn tín để lo chạy thốt thân, theo lời kể của một viên quan chạy theo Tôn Sỹ
Nghị: “Tôi và Tôn Sỹ Nghị đói cơm khát nước khơng kiếm ra đâu được, ăn
uống cứ phải đi suốt bảy ngày bảy đêm mới đến chốn Nam Quan”. Bằng một
cuộc hành binh thần tốc đánh giặc mưu trí sáng tạo chỉ trong thời gian ngắn,
nghĩa quân Tây Sơn đã quét sạch gần 30 vạn quân Thanh ra khỏi bờ cõi nước ta.
Từ đó cho thấy: Nghệ thuật đánh giặc mưu trí sáng tạo của dân tộc ta là
giành giữ vững quyền chủ động trong cả cơng và phịng. Trong đánh giặc phải
linh hoạt sử dụng mưu kế để lừa địch, tạo lợi thế, tận dụng thời cơ để tập trung
lực lượng đánh địch. Ta thắng địch là thắng địch ở chỗ khôn khéo như Nguyễn
Huệ nói “Người khéo thắng là thắng ở chỗ rất mềm dẻo”.
Một nước nhỏ bị một nước lớn đang lúc cường thịnh chinh phục và nơ

dịch, lại có thể tự giải phóng hồn tồn bằng những chiến thắng qn sự hết sức
lẫy lừng trong một thời gian ngắn như vậy, thì đó là một sự kiện hiếm có trong
thời đại bấy giờ. Điều đó chứng tỏ rằng vào thế kỉ XX dân tộc Việt Nam đã là
một dân tộc trưởng thành, có ý thức dân tộc sâu sắc, có sức sống phi thường và

SVTH: Thong Panya Vong Sa Vath 23


Cơ sở hình thành nghệ thuật quân sự Việt Nam vào sự nghiệp bảo vệ tổ quốc
Việt Nam XHCN trong thời kỳ đổi mới

năng lực sáng tạo phong phú. Đó là một dân tộc đã có hàng ngàn năm lịch sử
đấu tranh dựng nước và giữ nước, một dân tộc anh hùng và khơng một thế lực
xâm lược nào có thể khuất phục nổi.
2.3. Nghệ thuật lấy nhỏ đánh lớn, lấy ít địch nhiều, lấy yếu chống
mạnh
- Cơ sở xác định:
Nghệ thuật lấy nhỏ đánh lớn, lấy ít địch nhiều, lấy yếu chống mạnh xuất
phát từ điều kiện thực tiễn chiến tranh ở nước ta. Một nước đất không rộng, người
không nhiều, luôn phải chống lại nhiều kẻ thù lớn mạnh, chúng có lực lượng qn
đội, trang bị vũ khí, kinh tế ...lớn hơn ta rất nhiều lần . Đó là vấn đề tưởng chừng
như không thể trong cuộc đối đầu giữa một quốc gia nhỏ bé với những kẻ thù lớn
mạnh. Tuy thế nhưng lịch sử Việt Nam chứng minh được rằng kẻ địch dù có đến
từ đâu, lớn mạnh cỡ nào ta cũng tìm cách tiêu diệt chúng. Trong binh pháp người
việt, kỹ thuật lấy nhỏ đánh lớn, lấy ít địch nhiều, lấy yếu chống mạnh đã trở thành
nghệ thuật quân sự. Trong các cuộc chiến tranh giải phóng và giữ nước của dân
tộc, nghệ thuật quân sự Việt Nam có nhiều sáng tạo và linh hoạt, phù hợp với
tương quan lực lượng giữa địch và ta để định ra phương thức sử dụng lực lượng
phù hợp với tình hình đặc điểm của từng cuộc chiến tranh. Lịch sử chống giặc
ngoại xâm của dân tộc ta mỗi thời một khác nhưng đều để lại truyền thống “Biết

địch, biết ta trăm trận không nguy”, nghệ thuật sử dụng lực lượng trên cơ sở
đánh giá địch một cách chính xác, từ so sánh lực lượng và phân tích thế địch, thế
ta, dự báo hình thái đơi bên sẽ diễn biến trên chiến trường từ đó đưa ra phương
thức để đánh địch. Đánh giá so sánh lực lượng địch ta là nghệ thuật quân sự của
dân tộc để vận dụng quan điểm tổng hợp không chỉ dựa vào số lượng quân đội,
vũ khí, phương tiện mà cịn xem xét tồn diện: qn sự, kinh tế, chính trị, văn
hố, vật chất và tinh thần, số lượng và chất lượng, điều kiện thế giới và trong
nước có liên quan...đồng thời khơng chỉ nhìn trước mắt, ban đầu, tìm ra chỗ
mạnh, chỗ yếu của mỗi bên để định ra hình thức và phương thức cho phù hợp.

SVTH: Thong Panya Vong Sa Vath 24


Cơ sở hình thành nghệ thuật quân sự Việt Nam vào sự nghiệp bảo vệ tổ quốc
Việt Nam XHCN trong thời kỳ đổi mới

Do đó, đối với một dân tộc nhỏ bé như chúng ta nếu không biết lựa sức mình thì
khơng bao giờ có thể đánh bại được kẻ thù hùng mạnh. Vì thế chủ động bất ngờ
là mạch sống tác chiến trong nghệ thuật quân sự của dân tộc ta.
- Nội dung tiến hành
Trong quá trình dựng nước và giữ nước thế kỉ X đến thế kỉ XVIIIT, nghệ
thuật đánh giặc dùng nhỏ đánh lớn, lấy ít địch nhiều, lấy yếu chống mạnh đã có
bước phát triển mới, được vận dụng rất linh hoạt trong chiến tranh, chiến lược
và chiến đấu. Quân dân ta kết hợp rất chặt chẽ mưu, kế, thế, thời, lực...để nâng
cao sức mạnh chiến đấu đạt hiệu quả đánh tan mọi âm mưu, thủ đoạn .
Thời nhà Trần, sử dụng cách đánh giặc: “Dĩ đoản chế trường”, lực lượng quân
đội chỉ có 20 vạn, nhà Trần đã động viên nhân dân cả nước tham gia đánh giặc.
Trong đánh giặc quân dân đã kết hợp chặt chẽ giữa đánh giặc phía trước với tiến
cơng ở phía sau, bằng cả địn qn sự, kinh tế, binh vận, ngoại giao, giỏi sử dụng
mưu kế lập được thế trận, tạo được thời cơ, quân dân thời Trần chuyển sang

phản công kiên quyết, tiến công liên tục, ba lần đánh bại quân Nguyên, lần cao
nhất chúng sử dụng tới 50 vạn quân. Khởi nghĩa Tây Sơn, khi quân Thanh xâm
lược nươc ta, Nguyễn Huệ đem mười vạn quân mở cuộc hành binh thần tốc, bất
ngờ tiến công mạnh, đánh liên tục cả phía trước bên sườn phía sau, chỉ trong 5
ngày đánh tan 29 vạn quân Thanh, cùng 2 vạn tàn quân Lê Chiêu Thống. Trong
trận Khương Thượng, Đống Đa, ta có một vạn quân vận dụng cách đánh bất ngờ
táo bạo, bao vây chặt, tiến công nhanh tiêu diệt 3 vạn quân của Sầm Nghi Đống,
thọc sâu vào cung Tây Long tiêu diệt một vạn quân của Tôn Sỹ Nghị.
Tuy vậy trong chiến đấu, khi cần thiết tổ tiên ta cũng đã tập trung lực
lượng lớn tạo ưu thế để đánh bại kẻ thù. Trận đánh vận động ở Bến Đông năm
1258, Trần Hưng Đạo đã tập trung lực lượng ngang bằng với lượng binh Nguyên
-Mông, đánh bại chúng. Trận công thành Xương Giang, Lê Lợi tập trung 5 nghìn
quân, tiêu diệt 2 nghìn quân Minh. Trận Ngọc Hồi, Quang Trung sử dụng tới 2

SVTH: Thong Panya Vong Sa Vath 25


×