Tải bản đầy đủ (.pdf) (45 trang)

Những vấn đề lý luận thực tiễn hoạt động thi hành án tại cục thi hành án dân sự tỉnh KON TUM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1004.3 KB, 45 trang )

ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
PHÂN HIỆU ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG TẠI KON TUM

ĐẬU THỊ THÙY LINH

BÁO CÁO THỰC TẬP TỐT NGHIỆP

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN - THỰC TIỄN
HOẠT ĐỘNG THI HÀNH ÁN TẠI CỤC THI
HÀNH ÁN DÂN SỰ TỈNH KON TUM

Kon Tum, tháng 05 năm 2020


ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
PHÂN HIỆU ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG TẠI KON TUM

BÁO CÁO THỰC TẬP TỐT NGHIỆP
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN - THỰC TIỄN
HOẠT ĐỘNG THI HÀNH ÁN TẠI CỤC THI
HÀNH ÁN DÂN SỰ TỈNH KON TUM

GIẢNG VIÊN HƯỚNG DẪN
SINH VIÊN THỰC HIỆN
LỚP
MSSV

: NGUYỄN THỊ TRÚC PHƯƠNG
: ĐẬU THỊ THÙY LINH
: K10LK1
: 16152380107037



Kon Tum, tháng 05 năm 2020


MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU .....................................................................................................................1
1. Lý do chọn đề tài ............................................................................................................1
2. Mục đích, nhiệm vụ giải quyết đề tài ...........................................................................2
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu đề tài ..........................................................................2
4. Phương pháp nghiên cứu .............................................................................................. 2
CHƯƠNG I. TỔNG QUAN VỀ CỤC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ TỈNH KON TUM ..3
1.1. LỊCH SỬ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN .......................................................... 3
1.1.1. Tên, địa chỉ, điện thoại, fax ...................................................................................3
1.1.2. Quá trình hình thành và phát triển .........................................................................3
1.2. CƠ CẤU TỔ CHỨC, CÁN BỘ .................................................................................4
1.2.1. Cơ cấu tổ chức, cán bộ tại Cục Thi hành án dân sự tỉnh Kon Tum: .....................4
1.2.2. Các đơn vị thuộc Cục Thi hành án dân sự tỉnh Kon Tum .....................................5
1.3. KẾT QUẢ THỰC HIỆN NHIỆM VỤ TẠI ĐƠN VỊ THỰC TẬP .........................7
CHƯƠNG II. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT HIỆN
HÀNH VỀ HOẠT ĐỘNG THI HÀNH ÁN DÂN SỰ .....................................................8
2.1. KHÁI NIỆM THI HÀNH ÁN DÂN SỰ ....................................................................8
2.1.1. Khái niệm ..............................................................................................................8
2.1.2. Đặc điểm ..............................................................................................................10
2.1.3. Ý nghĩa ................................................................................................................11
2.2. TRÌNH TỰ THỦ TỤC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ .................................................12
2.2.1. Chuyển giao bản án, quyết định ..........................................................................12
2.2.2. Quyền yêu cầu thi hành án và thời hiệu thi hành án ...........................................13
2.2.3. Chủ động ra quyết định thi hành án và ra quyết định thi hành án theo đơn yêu
cầu ......................................................................................................................................14
2.2.4. Lập hồ sơ thi hành án .......................................................................................... 16

2.2.5. Thông báo về thi hành án ....................................................................................16
2.2.6. Xác minh điều kiện thi hành án ...........................................................................17
2.2.7. Tổ chức thi hành án ............................................................................................. 17
2.2.8. Hỗn thi hành án, tạm đình chỉ, đình chỉ thi hành án ..........................................19
2.2.9. Kết thúc việc thi hành án .....................................................................................21
CHƯƠNG III. THỰC TIỄN HOẠT ĐỘNG THI HÀNH ÁN DÂN SỰ TẠI CỤC
THI HÀNH ÁN DÂN SỰ TỈNH KON TUM.................................................................22
3.1. THỰC TIỄN HOẠT ĐỘNG THI HÀNH ÁN DÂN SỰ TẠI CỤC THI HÀNH
ÁN DÂN SỰ TỈNH KON TUM ......................................................................................22
3.2. NHỮNG KHĨ KHĂN, VƯỚNG MẮC TRONG Q TRÌNH THI HÀNH ÁN
DÂN SỰ TẠI CỤC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ TỈNH KON TUM ............................... 26
3.2.1. Về trách nhiệm chuyển giao bản án ....................................................................27
3.2.2. Về cưỡng chế thi hành án ....................................................................................27

i


3.3. Một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả thi hành án dân sự tại Cục Thi hành
án dân sự tỉnh Kon Tum .................................................................................................29
3.3.1. Về thời hạn cấp bản án, quyết định của Toà án và ra quyết định thi hành án của
thủ trưởng Cơ quan thi hành án ......................................................................................... 29
3.3.2. Về thi hành pháp luật thi hành án dân sự ............................................................ 29
3.3.3. Bổ sung thủ tục phối hợp thi hành phần dân sự với thi hành hình phạt trong bản
án, quyết định hình sự ........................................................................................................30
3.3.4. Tăng cường mối quan hệ phối hợp cũng như trách nhiệm của các cơ quan có liên
quan trong q trình áp dụng biện pháp bảo đảm .............................................................. 31
KẾT LUẬN .......................................................................................................................31
NHẬN XÉT CỦA GIẢNG VIÊN HƯỚNG DẪN
PHỤ LỤC TÀI LIỆU
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


ii


LỜI MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Hoạt động thi hành án dân sự là hoạt động thực thi phán quyết của Tòa án liên quan
đến các vấn đề về tài sản và nhân thân, trong các bản án hình sự, dân sự, kinh tế, lao động,
hành chính, hơn nhân và gia đình...có thể nói hoạt động thi hành án dân sự là giai đoạn
cuối cùng của hoạt động tố tụng. Để bản án, quyết định của Tòa án được thực thi trên thực
tế, công tác thi hành án dân sự đóng vai trị rất quan trọng, đăc biệt trong điều kiện kinh tế,
xã hội phát triển, các hoạt động sản xuất, kinh doanh, thương mại diễn ra ở hầu hết các lĩnh
vực, chính vì thế các tranh chấp dân sự, kinh tế, lao động, thương mại ngày càng gia tăng,
tính chất vụ việc phức tạp, gây nhiều khó khăn cho hoạt động thi hành án dân sự.
Thi hành bản án, quyết định dân sự là khâu cuối của quá trình tố tụng, nhằm hiện thực
hóa những phán quyết của Tịa án vào thực tiễn cuộc sống; có vị trí, ý nghĩa quan trọng
trong việc bảo vệ tính nghiêm minh của pháp luật, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
công dân, thực thi công lý, xây dựng một xã hội trật tự, kỷ cương và ổn định. Hoạt động
thi hành án dân sự khơng những góp phần trực tiếp, tích cực vào việc bảo vệ những quyền
con người, quyền cơng dân mà cịn góp phần quan trọng vào sự nghiệp phát triển kinh tếxã hội của đất nước và từng địa phương; cụ thể như góp phần tháo gỡ khó khăn, khơi thơng,
thúc đẩy phát triển sản xuất, kinh doanh thông qua hoạt động thu hồi nợ, giảm nợ xấu và
mở rộng tín dụng, bảo vệ quyền chủ nợ và thu hồi nợ của các tổ chức tín dụng hay nâng
cao an sinh xã hội, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người lao động thơng qua việc xử
lý kịp thời những vi phạm pháp luật về bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế.
Trong suốt quá trình xây dựng và trưởng thành của hoạt động thi hành án dân sự
(19/7/1946 - 19/7/2016), hệ thống thi hành án dân sự đã xác định cho mình một chỗ đứng,
một vị thế, một mơ hình tổ chức phù hợp, phản ánh đúng vị trí, vai trị, đồng thời phát huy
hiệu quả của hoạt động thi hành án dân sự trong công cuộc xây dựng Nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên, hoạt động thi hành án dân sự cũng cịn bộc lộ những hạn chế,
khó khăn như tổng số việc còn phải thi hành chuyển sang kỳ sau qua các năm tuy có giảm

nhưng vẫn cao; một số lượng án có điều kiện nhưng chưa tổ chức thi hành xong; số khơng
có điều kiện thi hành án, nhất là về tiền vẫn chiếm tỷ lệ cao so với tổng số tiền phải thi
hành; một số vụ án tham nhũng, thu hồi tài sản cho Nhà nước, giá trị phải thi hành lớn
nhưng khả năng thi hành thấp; lượng đơn, thư khiếu nại, tố cáo còn nhiều; một số vụ việc
phức tạp kéo dài, được dư luận quan tâm chưa được giải quyết dứt điểm; tình hình vi phạm
kỷ cương, kỷ luật vẫn còn là vấn đề phải đặc biệt quan tâm… Từ đó, địi hỏi cần phải đổi
mới tổ chức và hoạt động thi hành án nói chung và tăng cường, nâng cao hiệu quả cơng tác
thi hành án dân sự nói riêng.
Từ ý nghĩa lý luận và thực tiễn nêu trên, tôi chọn đề tài: “Những vấn đề lý luận và
thực tiễn hoạt động thi hành án tại Cục thi hành án dân sự tỉnh Kon Tum” để làm báo
cáo thực tập tốt nghiệp, nhằm góp phần đánh giá được thực trạng và đưa ra một số giải
pháp nhằm góp phần vào việc nâng cao hiệu quả công tác hoạt động thi hành án của đơn
vị ngày một tốt hơn.

1


2. Mục đích, nhiệm vụ giải quyết đề tài
* Mục đích
Phân tích, làm rõ những vấn đề lý luận, pháp luật, thực trạng và đưa ra một số kiến
nghị, giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động thi hành án dân sự tại Cục Thi hành án dân
sựtỉnh Kon Tum.
* Nhiệm vụ
- Làm rõ những cơ sở lý luận về thi hành án dân sự
- Phân tích những quy định pháp luật về thi hành án dân sự
- Phân tích, đánh giá về thực trạng, đưa ra một số kiến nghị, giải pháp nâng cao hiệu
quả hoạt động thi hành án dân sự tại Cục Thi hành án dân sự tỉnh Kon Tum
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu đề tài
* Đối tượng nghiên cứu
Các quy định pháp luật hiện hành và hoạt động thi hành án dân sự tại Cục Thi hành

án dân sự tỉnh Kon Tum.
* Phạm vi nghiên cứu
Trong nội dung báo cáo tốt nghiệp, tác giả chỉ tập trung phân tích các số liệu thống
kê hoạt động thi hành án dân sự tại Cục Thi hành án dân sự tỉnh Kon Tum của quý I và II
năm 2020 (tính từ tháng 10 năm 2019 đến tháng 03 năm 2020) căn cứ Luật Thi hành án
dân sự 2008 (được sửa đổi, bổ sung năm 2014) và các văn bản hướng dẫn thi hành.
4. Phương pháp nghiên cứu
- Nghiên cứu lý luận và pháp luật (Luật Thi hành án dân sự 2008 (được sửa đổi, bổ
sung năm 2014) và các văn bản hướng dẫn thi hành)
- Nghiên cứu hồ sơ thi hành án
- Quan sát (Thực tiễn thực tập tại đơn vị)
- So sánh, áp dụng pháp luật vào thực tiễn.
5. Bố cục
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dụng đề tài gồm 3
chương:
Chương I: Tổng quan về Cục Thi hành án dấn sự tỉnh Kon Tum
Chương II: Một số vấn đề lý luận và quy định pháp luật hiện hành về hoạt động thi
hành án dân sự
Chương III: Thực tiên hoạt động thi hành án dân sự tại Cục Thi hành án dân sự tỉnh
Kon Tum

2


CHƯƠNG I
TỔNG QUAN VỀ CỤC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ TỈNH KON TUM
1.1. LỊCH SỬ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN
1.1.1. Tên, địa chỉ, điện thoại, fax
- Tên: Cục Thi hành án dân sự tỉnh Kon Tum
- Địa chỉ: số 42 Trương Hán Siêu, thành phố Kon Tum, tỉnh Kon Tum

- Điện thoại: (02603) 864.406
- Fax: (02603) 912.789
1.1.2. Quá trình hình thành và phát triển
a. Giai đoạn trước năm 1993
Trong giai đoạn này, công tác thi hành án dân sự do Tòa án nhân dân các cấp đảm
nhiệm. Tại kỳ họp thứ nhất, Quốc hội khóa IX, ngày 06/10/1992 đã ban hành Nghị Quyết
về việc bàn giao công tác thi hành án dân sự từ Tòa án nhân dân các cấp sang các cơ quan
thuộc Chính Phủ, đồng thời Pháp lệnh thi hành án dân sự năm 1993 được ban hành tạo cơ
sở pháp lý cho việc xây dựng hệ thống tổ chức các cơ quan thi hành án dân sự trong toàn
quốc.
b. Giai đoạn từ năm 1993 đến năm 2009
Cùng với các địa phương khác trong cả nước, tháng 7 năm 1993 các cơ quan Thi hành
án dân sự tại tỉnh Kon Tum được thành lập. Ở cấp tỉnh có tên gọi là Phòng Thi hành án
thuộc Sở Tư pháp và ở cấp huyện là Đội thi hành án thuộc Phòng Tư pháp.
Khi mới được thành lập theo Pháp lệnh thi hành án dân sự năm 1993, cả tỉnh có Phòng
Thi hành án tỉnh và 5 Đội thi hành án các huyện, thị xã với 09 cán bộ, công chức, trong đó
có 4 Chấp hành viên. Trình độ chun mơn nghiệp vụ của cán bộ, công chức khi mới thành
lập còn rất hạn chế: 06 trung cấp, 01 sơ cấp, 02 chưa qua đào tạo, tình trạng thiếu Chấp
hành viên và cán bộ Thi hành án chưa đủ tiêu chuẩn theo tiêu chuẩn heo quy định là vấn
đề khó khăn nhất đối với công tác tổ chức cán bộ vào thời điển này.
Pháp lệnh Thi hành án dân sự năm 1993 là cơ sở pháp lý quan trọng, góp phần nâng
cao hiệu quả công tác thi hành án dân sự. Tuy nhiên, qua 10 năm áp dụng, cũng đã bộc lộ
nhiều hạn chế, khơng cịn phù hợp với tình hình phát triển kinh tế xã hội của đất nước và
nhiệm vụ chung của ngành. Vì vậy, ngày 14/01/2004, Ủy ban Thường vụ Quốc Hội đã
thông qua Pháp lệnh Thi hành án dân sự năm 2004 trên cơ sở kế thừa, sửa đổi, bổ sung
Pháp lệnh thi hành án dân sự năm 1993. Theo Pháp lệnh Thi hành án dân sự năm 2004,
Phòng Thi hành án và Đội Thi hành án khơng cịn chịu sự quản lý trực tiếp của Sở Tư pháp
và Phòng Tư pháp nữa, đồng thời đổi tên gọi là Thi hành án dân sự cấp tỉnh và Thi hành
án dân sự cấp huyện. Tuy nhiên, Giám đốc Sở Tư pháp vẫn có thẩm quyền quản lý một số
mặt công tác tổ chức, cán bộ của Thi hành án dân sự địa phương theo ủy quyền của Bộ

trưởng Bộ Tư pháp tại Quyết định số 1148/2005/QĐ-BTP ngày 18/5/2005.

3


Đến năm 2004, toàn ngành Thi hành án dân sự tỉnh Kon Tum có Thi hành án dân sự
tỉnh và 09 đơn vị Thi hành án dân sự huyện, thị với số lượng chấp hành viên trong toàn
tỉnh là 27 chấp hành viên.
c. Giai đoạn từ năm 1993 đến nay
Nhằm tiếp tục đưa chủ trương, đường lối của Đảng về cải cách tư pháp trong lĩnh vực
Thi hành án dân sự vào thực tiễn cuộc sống, ngày 14/11/2008, Quốc Hội khóa XII đã thơng
qua Luật Thi hành án dân sự và Nghị quyết số 24/2008/QH12 về triển khai thi hành Luật
này. Thực hiện Luật và Nghị quyết của Quốc hội, Chính phủ đã ban hành Nghị định số
74/2009/NĐ-CP, ngày 09/9/2009 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của
Luật Thi hành án dân sự về cơ quan quản lý Thi hành án dân sự, cơ quan Thi hành án dân
sự và công chức làm công tác Thi hành án dân sự; Nghị định có hiệu lực thi hành từ ngày
01/11/2009. Theo đó, hệ thống các cơ quan Thi hành án dân sự được tổ chức và quản lý
tập trung thống nhất theo ngành dọc từ Trung ương đến địa phương. Ở Trung ương có
Tổng cục Thi hành án dân sự trực thuộc Bộ Tư pháp. Ở địa phương cơ quan Thi hành án
dân sự cấp tỉnh trước đây được nâng lên thành Cục Thi hành án dân sự trực thuộc Tổng
cục Thi hành án dân sự - Bộ Tư pháp; Cơ quan Thi hành án dân sự cấp huyện trước đây
được nâng lên thành Chi cục Thi hành án dân sự huyện trực thuộc Cục Thi hành án dân sự
tỉnh.
Ngày 06/11/2009, Bộ Trưởng Bộ Tư pháp đã ban hành Quyết định số 2906/QĐ-BTP
thành lập Cục Thi hành dân sự tỉnh Kon Tum trên cơ sở cơ quan Thi hành án dân sự tỉnh
Kon Tum; cùng ngày Bộ trưởng Bộ Tư pháp đã ban hành các Quyết định từ số 2907/QĐBTP đến 2915/QĐ-BTP thành lập Chi cục Thi hành án dân sự các huyện, thành phố tỉnh
Kon Tum trên cơ sở các cơ quan Thi hành án dân sự các huyện, thành phố tỉnh Kon Tum.
1.2. CƠ CẤU TỔ CHỨC, CÁN BỘ
1.2.1. Cơ cấu tổ chức, cán bộ tại Cục Thi hành án dân sự tỉnh Kon Tum
Cục Thi hành án dân sự tỉnh Kon Tum là cơ quan trực thuộc Tổng cục Thi hành án

dân sự, có tổng số biên chế tại Cục là 24 cơng chức, trong đó có 08 Chấp hành viên (04
Chấp hành viên trung cấp và 04 Chấp hành viên sơ cấp), 04 Thẩm tra viên, 05 Thư ký (04
Thư ký thi hành án và 01 Thư ký trung cấp thi hành án), 02 chuyên viên, 03 Kế toán viên,
02 cán sự. Ngồi ra cịn có thêm 05 Hợp đồng 68 (02 Nhân viên Lái xe, 01 Nhân viên Phục
vụ, 01 Nhân viên Bảo vệ và 01 Nhân viên Bảo vệ Kho vật chứng).
Về cơ cấu tổ chức, Cục Thi hành án dân sự tỉnh Kon Tum có Lãnh đạo Cục gồm Cục
trưởng và 02 Phó Cục trưởng; các phịng chun mơn có 04 phịng gồm:
- Văn phịng
- Phịng Nghiệp vụ và tổ chức thi hành án
- Phòng Tổ chức cán bộ
- Phòng Kiểm tra và giải quyết khiếu nại, tố cáo.

4


* Sơ đồ tổ chức bộ máy quản lý tại Cục Thi hành án dân sự tỉnh Kon Tum:

CỤC TRƯỞNG

PHÓ CỤC TRƯỞNG

PHĨ CỤCTRƯỞNG

Văn phịng

P. Tổ chức

P. Kiểm tra
và giải quyết KNTC


P. Nghiệp vụ
và tổ chức THA

Ghi chú:

Quan hệ chỉ đạo, điều hành
Quan hệ phối hợp
Sơ đồ số: 01

1.2.2. Các đơn vị thuộc Cục Thi hành án dân sự tỉnh Kon Tum
Các đơn vị cấp huyện thuộc Cục Thi hành án dân sự tỉnh Kon Tum gồm 10 đơn vị
Chi cục Thi hành án dân sự huyện, thành phố: Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Kon
Tum, Chi cục Thi hành án dân sự huyện Đăk Hà, Chi cục Thi hành án dân sự huyện Đăk
Tô, Chi cục Thi hành án dân sự huyện Ngọc Hồi, Chi cục Thi hành án dân sự huyện Đăk
Glei, Chi cục Thi hành án dân sự huyện Sa Thầy, Chi cục Thi hành án dân sự huyện Kon
Rẫy, Chi cục Thi hành án dân sự huyện Kon Plông, Chi cục Thi hành án dân sự huyện Tu
Mơ Rông, Chi cục Thi hành án dân sự huyện Ia H’Drai. Chi cục Thi hành án dân sự các
huyện, thành phố có con dấu và tài khoản riêng, tổ chức hoạt động độc lập và chịu sự quản
lý và chỉ đạo trực tiếp về mặt nghiệp vụ và công tác tổ chức cán bộ của Cục Thi hành án
dân sự tỉnh Kon Tum.

5


* Sơ đồ tổ chức bộ máy hệ thống các cơ quan Thi hành án dân sự tỉnh Kon Tum
CỤC THADS TỈNH

Văn
phòng


Phòng
Kiểm
tra và
GQKN
TC

Phòng
Tổ
chức
cán bộ

Phòng
nghiệp
vụ và
tổ chức
THA

Chi cục THADS tỉnh
Kon Tum

Chi cục THADS huyện
Đăk Hà

Chi cục THADS huyện
Kon Rẫy

Chi cục THADS huyện
Đăk Tô

Chi cục THADS huyện

Konplong

Chi cục THADS huyện
Tu Mơ Rông

Chi cục THADS huyện
Sa Thầy

Chi cục THADS huyện
Ngọc Hồi

Chi cục THADS huyện
Ia H’Drai

Chi cục THADS huyện
Đăkglei

Sơ đồ số 02

6


1.3. KẾT QUẢ THỰC HIỆN NHIỆM VỤ TẠI ĐƠN VỊ THỰC TẬP
Đã hồn thành xong cơng việc được giao
Cụ thể như sau:
- Trong suốt quá trình thực tập tại Cục Thi hành án dân sự tỉnh Kon Tum đã đọc và
tìm hiểu về Luật thi hành án dân sự và các nghị định, thông tư liên quan đến công tác thi
hành án dân sự.
- Đọc nhiều bản án, quyết định của Tòa án để nắm bắt được những quyết định thi hành
án.

- Sắp xếp hồ sơ, đánh dấu bút lục văn bản, giấy tờ dưới sự hướng dẫn của giáo viên
hướng dẫn tập sự.
- Giúp Chấp hành viên trong công việc hoàn thiện hồ sơ.
Giúp Chấp hành viên, Thư ký trong công tác tống đạt văn bản, giấy tờ cho đương sự.

KẾT CHƯƠNG I
Chương I giới thiệu về lịch sử hình thành , phát triển và cơ cấu tổ chức, cán bộ
của Cục Thi hành án dân sự tỉnh Kon Tum, những công việc được giao và kết quả
thực hiện nhiệm vụ tại đơn vị.

7


CHƯƠNG II
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH
VỀ HOẠT ĐỘNG THI HÀNH ÁN DÂN SỰ
2.1. KHÁI NIỆM THI HÀNH ÁN DÂN SỰ
2.1.1. Khái niệm
Khi các cá nhân, tổ chức phát sinh tranh chấp và yêu cầu Tòa án giải quyết, phán
quyết của Tòa án chỉ là kết quả về mặt pháp lý. Để bảo vệ quyền lợi của mình trên thực tế,
bên thắng kiện phải yêu cầu cơ quan thi hành án dân sự tổ chức thi hành bản án, quyết định
của Tòa án. Việc tổ chức thi hành bản án, quyết định của Tòa án được gọi là thi hành án
dân sự.
Thi hành án dân sự là một giai đoạn độc lập của quá trình tố tụng dân sự, giai đoạn
kết thúc quá trình bảo vệ quyền lợi của đương sự và người có quyền, lợi ích liên quan theo
bản án, quyết định của Tòa án được tổ chức thi hành trên thực tế. Đó là hoạt động của các
cơ quan nhà nước có thẩm quyền dựa trên cơ sở chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và theo
các trình tự, thủ tục do pháp luật quy định nhằm đưa bản án, quyết định của Tòa án ra thi
hành trên thực tế, bảo đảm tính hiệu lực của các bản án, quyết định dân sự của Tòa án bảo
vệ kịp thời các quyền và lợi ích hợp pháp của các bên đương sự, người có quyền và lợi ích

liên quan. Trong q trình tổ chức thi hành các bản án, quyết định đã có hiệu lực của Tịa
án, hoạt động THADS cịn góp phần phát hiện sai sót của các q trình tố tụng dân sự của
Tòa án trong việc áp dụng pháp luật hoặc làm ảnh hưởng đến quyền lợi cho công dân,
đương sự và không phù hợp với hiện trạng thực tế như lĩnh vực về đất đai, nhà ở, cơng
trình kiến trúc xây dựng,... từ đó kiến nghị đến Tịa án có thẩm quyền kịp thời xét xử lại
nhằm bảo vệ quyền lợi cho các bên đương sự, người có quyền và lợi ích liên quan, chỉ đạo
cơng tác xét xử, hướng dẫn áp dụng pháp luật và kiến nghị trong việc xây dựng pháp luật.
Việc tổ chức THADS không những chỉ đối với các bản án, quyết định của Tòa án đã
có hiệu lực pháp luật mà cịn phải tổ chức thi hành đối với bản án, quyết định chưa có hiệu
lực nhưng phải thi hành ngay trong những trường hợp pháp luật quy định cụ thể tại Khoản
2 Điều 2 Luật Thi hành án dân sự 2008 ( được sửa đổi, bổ sung năm 2014) cho rằng “
Những bản án, quyết định sau đây của Tòa án cấp sơ thẩm được thi hành ngay, mặc dù có
thể bị kháng cáo, kháng nghị: Bản án, quyết định về cấp dưỡng, trả lương, trả công lao
động, trợ cấp thôi việc, trợ cấp mất việc làm, trợ cấp mất sức lao động hoặc bồi thường
thiệt hại về tính mạng, sức khỏe, tổn thất về tinh thần, nhận người lao động trở lại làm việc
và quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời”. Do đó, THADS là hoạt động đặc thù
và rất phức tạp, có nhiều quan điểm, ý kiến khác nhau về tính chất của hoạt động THADS.
Để xác định được là hoạt động tư pháp hay hoạt động hành chính, phân tích các quan điểm
sau đây:
- Quan điểm thứ nhất cho rằng: Hoạt động THADS là một hoạt động tư pháp vì nó
là giai đoạn tiếp theo của giai đoạn xét xử khơng thể thiếu trong q trình bảo vệ quyền lợi
của đương sự, người có quyền và nghĩa vụ liên quan, luôn gắn liền với các giai đoạn tố

8


tụng và được ghi nhận trong Bộ luật Tố tụng dân sự. Do đó THADS chính là một hoạt
động tư pháp, là giai đoạn cuối của tố tụng dân sự. Tuy nhiên, quan điểm này lại không lý
giải được một vấn đề thực tiễn pháp lý đang thừa nhận đó là cơ quan THADS không phải
là cơ quan tiến hành tố tụng, chấp hành viên THADS không phải là người tiến hành tố

tụng.
- Quan điểm thứ hai cho rằng: Hoạt động THADS khơng phải là hoạt động tư pháp,
bởi vì không những thi hành các vụ án dân sự mà cịn có trình tự, thủ tục thi hành phần dân
sự trong các bản án hình sự, kinh doanh thương mại, hành chính, lao động,... trình tự tổ
chức thi hành theo một trình tự thủ tục hành chính. Do đó, nó là một loại hoạt động hành
chính vì bản chất, mục đích của thi hành án dân sự khác nhau hồn tồn với tố tụng, khơng
thể gắn nó với hoạt động tố tụng dân sự.
Quan điểm này xuất phát từ bản chất và mục đích của tố tụng dân sự để đưa ra các
phán quyết đúng theo quy định của pháp luật. Để có được các phán quyết đó, các cơ quan
tiến hành tố tụng, các cá nhân tiền hành tố tụng tham gia theo một quy trình tố tụng chặt
chẽ, cơng khai và minh bạch. Cịn hoạt động THADS lại là một quy trình đi ngược lại với
quy trình thủ tục, tố tụng. Cơ quanTHADS thường phải đưa ra một quyết định mang tính
hành chính dựa trên một văn bản cá biệt ( văn bản áp dụng pháp luật) để điều chỉnh hoạt
động cá nhân, đối tượng phải có nghĩa vụ thi hành án và chủ thể được thi hành án. Ngồi
ra, THADS cịn có thể coi là hoạt động hành chính vì bản chất, hoạt động này là hoạt động
chấp hành và điều chỉnh, theo đó mà nó mang tính quản lý hành chính nhà nước rõ nét.
Tuy nhiên, nếu xem THADS là hoạt động hành chính thì sẽ khó lý giải với những
trường hợp người được THADS khơng làm đơn u cầu THADS thì cơ quan THADS
khơng thể có cơ sở để thực hiện (trừ trường hợp bắt buộc để bảo vệ những người khơng có
khả năng tự mình thực hiện các quyền của họ) và qua đó có thể áp dụng các phương pháp
hành chính như : mệnh lệnh, quyền uy để đưa ra các biện pháp cưỡng chế THADS được,
do đó yếu tố hành chính khơng hoàn toàn được thỏa mãn. Ngoài ra, yếu tố hành chính cũng
khơng hồn tồn được thỏa mãn khi chế định thừa phát lại được thí điểm áp dụng, khi việc
THADS không chỉ do các cơ quan nhà nước (cơ quan thi hành án) thực hiện mà có thể do
các tổ chức như thừa phát lại hoặc được chính các chủ thể phải thi hành án tự nguyện thực
hiện trên cơ sở của những phương pháp có tính chất dân sự như thỏa thuận, tự định đoạt
(trong những phạm vi nhất định).
- Quan điểm thứ ba cho rằng : THADS là hoạt động “lưỡng tính”, vừa mang tính
chất hành chính, vừa mang tính chất tư pháp chứ khơng thể chỉ có riêng tính chất hành
chính, hoặc riêng tính chất tư pháp. THADS là một hoạt động mang tính quyền lực nhà

nước, do cơ quan THADS và Chấp hành viên thực hiện nhằm đưa quyết định của các bản
án, quyết định về dân sự của Tòa án đi vào thực tiễn cuộc sống. Hoạt động THADS trên
thực tế luôn gắn liền với quy trình tố tụng nói chung và quy trình tố tụng dân sự nói riêng,
gắn với quyền lực hành pháp. Đồng thời cũng qua hoạt động THADS, các cá nhân, tổ chức
có nghĩa vụ phải THADS thực hiện đầy đủ các trách nhiệm của mình. Trong trường hợp
khơng thi hành quyết định thi hành án thì cá nhân, tổ chức đó phải chịu sự cưỡng chế của

9


Nhà nước thơng qua các cơ quan có chức năng, nhiệm vụ liên quan. Tuy nhiên, việc thi
hành án không chỉ do các chủ thể có thẩm quyền thực hiện mà có khi nó được thực hiên
một cách tự giác bởi người có nghĩa vụ thi hành án. Khi nào các bản án, phán quyết không
được thi hành một cách tự nguyện bởi những người có nghĩa vụ thì hoạt động cưỡng chế
thi hành án của chủ thể có thẩm quyền mới cần phải thực hiện.
Cả ba quan điểm trên đều có điểm hợp lý nhưng theo tác giả, quan điểm thứ ba là phù
hợp nhất. Bởi vì, xuất phát từ các quy định pháp luật hiện hành và thực tiễn công tác thi
hành án dân sự ở nước ta, có thể nói rằng, THADS là hoạt động đặc thù, vừa có tính chất
của hoạt động hành chính, vừa có tính chất của hoạt động tư pháp.
Từ những phân tích nêu trên, có thể hiểu: Thi hành án dân sự là hoạt động hành
chính-tư pháp do cơ quan, tổ chức, người có thẩm quyền tiến hành theo trình tự, thủ tục
luật định để đưa bản án, quyết định của Tòa án hoặc các quyết định khác của cơ quan có
thẩm quyền theo quy định của pháp luật được thực hiện trên thực tế, là giai đoạn cuối cùng
của quá trình bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các bên đương sự, người có quyền lợi
và nghĩa vụ liên quan trong các quan hệ dân sự.
2.1.2. Đặc điểm
THADS là hoạt động phức tạp với những đặc điểm sau:
Thứ nhất, THADS là hoạt động liên quan đến quyền lực nhà nước. Nó bao gồm nhiều
hoạt động của nhiều chủ thể khác nhau nên đòi hỏi sự tham gia của chủ thể khơng chỉ các
cơ quan hành chính nhà nước mà cả các cơ quan tư pháp và bổ trợ tư pháp cũng như của

chính người có nghĩa vụ thi hành án. Do đó, như đã phân tích, việc thực hiện quyền lực
nhà nước trong THADS là sự “lưỡng tính” giữa quyền hành pháp và quyền tư pháp. Tuy
nhiên, khác với thi hành án hình sự, thi hành án dân sự khơng hồn tồn mang tính quyền
lực nhà nước do có sự tham gia của chủ thể không mang quyền lực nhà nước, có hoạt động
thực hiện các phán quyết của các chủ thể được nhà nước trao quyền hoặc công nhận ( phán
quyết của trọng tài ), cho phép tồn tại sự thỏa thuận giữa các bên. Vì vậy THADS khơng
hồn tồn dùng các biện pháp cứng nhắc của quyền lực nhà nước.
Thứ hai, THADS là hoạt động có mục đích là để thực hiện lợi ích của người được thi
hành án. Hoạt động THADS khơng chỉ nhằm mục đích giữ vững kỷ cương, phép nước, giữ
vững giá trị của pháp luật mà còn nhằm bảo vệ quyền và lợi ích của cá nhân, tổ chức, nhà
nước là đối tượng trực tiếp được thi hành án. Đồng thời THADS còn phải đảm bảo lợi ích
hợp pháp của những người có liên quan đến tài sản là đối tượng trong các quyết định
THADS.
Thứ ba, THADS chủ yếu là hoạt động thi hành bản án, quyết định của Tòa án về tài
sản nên tính chất dân sự mà tài sản mang lại có ý nghĩa rất lớn trong việc xác định tính chất
của quan hệ pháp luật là quan hệ pháp luật dân sự. Tính tự nguyện, tự định đoạt từ phía
người được THADS được tơn trọng. Do đó, trong q trình THADS, cơ quan THADS luôn
luôn bảo đảm quyền tự nguyện, tự định đoạt và tự chịu trách nhiệm với sự lựa chọn thực
hiện hay không thực hiện của đương sự, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan đến thi
hành án mà cơ quan này không được tự tiện can thiệp.

10


Thứ tư, THADS là hoạt động có ý nghĩa trong việc góp phần nâng cao chất lượng,
hiệu quả của hiệu lực xét xử.
Quá trình xét xử phải tuân thủ chặt chẽ các quy định của pháp luật về trình tự thủ tục
tố tụng. Chủ thể tiến hành tố tụng đều là những người có uy tín, trình độ chun mơn
nghiệp vụ cao nhưng xuất phát từ đặc điểm tính chất vụ án dân sự đa dạng, phức tạp. Trong
khi đó quy định của pháp luật về nội dung cũng như quy định về thủ tục tố tụng nhiều khi

còn chưa chặt chẽ, thiếu sót dẫn đến có những bản án, quyết định tuyên không rõ ràng,
không khả thi ở thực tế. Cơ quan THADS, Chấp hành viên không chỉ làm cho các bản án
hoặc phán quyết được tôn trọng mà cịn có thể phát hiện ra những sai lầm của bản án, quyết
định của Tòa án mà họ đang thi hành thì có quyền kiến nghị với người có thẩm quyền theo
quy định của pháp luật tố tụng để bản án hay quyết định đó được xét xử lại theo trình tự
giám đốc thẩm, tái thẩm. Như vậy, THADS chính là giai đoạn kiểm nghiệm qua thực tiễn
những bản án, quyết định của Tòa án, phản ánh trung thực, chất lượng và hiệu quả của tồn
bộ q trình giải quyết vụ án. Từ thực tiễn thi hành án mà mỗi Thẩm phán, Kiểm sát viên,
Hội thẩm nhân dân, Thư ký Tịa án có thể rút ra bài học kinh nghiệm khắc phục những
khiếm khuyết, nâng cao chất lượng xét xử, bảo đảm tính khả thi cao của bản án, quyết định
của Tịa án.
Thứ năm, THADS là hoạt động khơng mang tính áp đặt đơn phương thuần túy như
thi hành án hình sự. THADS có thể có sự hợp tác của các chủ thể khác, điều này có thể
thấy rất rõ khi các chủ thể có nghĩa vụ thi hành các bản án đã tự nguyện thực hiện nghĩa
vụ của mình hoặc khi có sự tham gia của Thừa phát lại. Mặt khác, THADS chỉ do cơ quan
thi hành án thực hiện khi có sự yêu cầu của người được thi hành án hoặc người có quyền
lợi nghĩa vụ liên quan và chủ động thi hành trong những trường hợp pháp luật quy định
như các khoản thi hành theo Khoản 1, Điều 36 Luật Thi hành án dân sự ( được sửa đổi, bổ
sung năm 2014 ). Ngay trong quá trình thi hành án, các chủ thể thi hành án còn có nghĩa
vụ thuyết phục các bên thỏa thuận hoặc hịa giải với nhau để cho bản án được thực hiện
một cách thuận lợi, đạt hiệu quả cao, đồng thời phải tôn trọng sự thỏa thuận ấy mà không
cần phải áp dụng các biện pháp cưỡng chế thi hành án. Vì vậy, không phải bao giờ hoạt
động thi hành án cũng chỉ thực hiện quyền lực nhà nước một cách thuần túy để áp đặt cho
các đương sự liên quan đến phán quyết.
2.1.3. Ý nghĩa
- Thi hành án dân sự góp phần vào cơng tác giữ gìn an ninh trật tự và an toàn xã
hội: Trong giai đoạn xây dựng đất nước hiện nay, khi nền kinh tế thị trường ngày một phát
triển, quan hệ xã hội được mở rộng, các giao lưu dân sự ngày càng trở nên phong phú, đa
dạng và phức tạp thì thi hành án dân sự là một trong những công cụ hữu hiệu nhất của Nhà
nước trong việc duy trì trật tự xã hội bảo vệ quyền lợi hợp pháp của công dân và là cơ sở

để đảm bảo sự công bằng, công lý trong xã hội, góp phần thực hiện mục tiêu dân giàu nước
mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
- Thi hành án dân sự góp phần củng cố kết quả của cơng tác xét xử trước đó: Thi
hành án là giai đoạn tiếp theo của quá trình xét xử nhằm thi hành bản án, quyết định của

11


Tồ án. Chỉ có cơng tác thi hành án dân sự mới làm cho bản án, quyết định của Toà án đã
có hiệu lực pháp luật được đưa ra thi hành trên thực tế và góp phần củng cố kết quả cơng
tác xét xử trước đó.
- Thi hành án dân dân sự góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả của hiệu lực
xét xử: Thi hành án dân sự chính là giai đoạn kiểm nghiệm qua thực tiễn những quyết
định, bản án của Toà án, phản ảnh trung thực chất lượng và hiệu quả của tồn bộ q trình
giải quyết vụ án. Từ thực tiễn thi hành án mà mỗi Thẩm phán, Kiểm sát viên, Hội thẩm
nhân dân và cán bộ Tồ án đã tham gia q trình xét xử có thể rút ra kinh nghiệm để khắc
phục những khiếm khuyết, nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác của mình.
- Thơng qua cơng tác thi hành án dân sự nhằm nâng cao ý thức pháp luật của
nhân dân: Thông qua thi hành án dân sự ý thức chấp hành pháp luật của nhân dân ngày
càng được nâng cao, vai trò trách nhiệm của các cơ quan tổ chức được đảm bảo, niềm tin
của nhân dân vào hệ thống pháp luật, vào bộ máy của Nhà nước ngày càng được củng cố.
2.2. TRÌNH TỰ THỦ TỤC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ
Thủ tục thi hành án dân sự có thể được hiểu là toàn bộ các hoạt động do cơ quan thi
hành án, cơ quan, tổ chức và cá nhân có liên quan thực hiện theo trình tự nhất định nhằm
thi hành bản án, quyết định theo quy định của pháp luật. Trong hoạt động của cơ quan Thi
hành án, toàn bộ hoạt động tác nghiệp của cơ quan Thi hành án, Chấp hành viên, cán bộ
thi hành án thực hiện từ khi thụ lý đến khi kết thúc hay đình chỉ thi hành vụ việc. Các hoạt
động tác nghiệp này phải được thể hiện đầy đủ trong hồ sơ thi hành án. Trên cơ sở các quy
định của Luật Thi hành án dân sự năm 2008 được sửa đổi bổ sung năm 2014 và các văn
bản hướng dẫn thi hành, có thể khái qt các trình tự, thủ tục thi hành án dân sự cụ thể sau:

2.2.1. Chuyển giao bản án, quyết định
* Trách nhiệm của Tòa án nhân dân, trọng tài thương mại trong việc chuyển giao
bản án, quyết định
Điều 28 Luật Thi hành án dân sự năm 2008 được sửa đổi, bổ sung năm 2014 quy định
thủ tục chuyển giao bản án, quyết định, cụ thể như sau:
- Tòa án đã ra bản án, quyết định quy định tại các điểm a, b, c và d khoản 1 Điều 2
của Luật này phải chuyển giao cho cơ quan thi hành án dân sự có thẩm quyền trong thời
hạn 30 ngày, kể từ ngày bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật.
- Tịa án đã ra bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại điểm a khoản 2 Điều
2 của Luật này phải chuyển giao cho cơ quan thi hành án dân sự trong thời hạn 15 ngày,
kể từ ngày ra bản án, quyết định.
- Tòa án, Trọng tài thương mại đã ra quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời
phải chuyển giao cho cơ quan thi hành án dân sự ngay sau khi ra quyết định.
- Trường hợp cơ quan có thẩm quyền đã kê biên tài sản, tạm giữ tài sản, thu giữ vật
chứng hoặc thu giữ các tài liệu khác có liên quan đến việc thi hành án thì khi chuyển giao
bản án, quyết định cho cơ quan thi hành án dân sự, Toà án phải gửi kèm theo bản sao biên
bản về việc kê biên, tạm giữ tài sản, thu giữ vật chứng hoặc tài liệu khác có liên quan.

12


* Thủ tục tiếp nhận, xử lý bản án, quyết định do Toà án, trọng tài thương mại
chuyển giao cho Cơ quan thi hành án và đơn yêu cầu thi hành án của đương sự
Sau khi nhận được bản án, quyết định do Toà án, Trọng tài thương mại chuyển giao,
Cơ quan thi hành án phải vào sổ nhận bản án, quyết định và phải ghi rõ nội dung bản án,
quyết định; nội dung biên bản kê biên, tạm giữ tài sản tang vật (nếu có). Việc vào sổ nhận
bản án, quyết định của Toà án, Trọng tài thương mại nhằm mục đích giúp cho Cơ quan thi
hành án dân sự biết được nội dung Bản án, quyết định mà Toà án phải chuyển giao để tiến
hành việc phân loại. Đối với những phần quyết định thuộc quyền chủ động thì Cơ quan thi
hành án ra quyết định thi hành. Đối với những phần thi hành theo đơn yêu cầu thì vào sổ

theo dõi khi có đơn u cầu của đương sự, Cơ quan thi hành án ra quyết định thi hành án.
Việc nhận đơn yêu cầu thi hành án là một thủ tục bắt buộc trong hoạt động thi hành
án dân sự. Sau khi xem xét đơn yêu cầu thi hành án và xét thấy đơn yêu cầu thi hành án
của đương sự đúng theo quy định của pháp luật thì cơ quan thi hành án phải vào sổ nhận
đơn yêu cầu thi hành án đồng thời chuyển đến người có thẩm quyền giải quyết. Nếu xét
thấy đơn yêu cầu của người được thi hành án chưa đúng theo quy định của pháp luật hoặc
chưa đủ các tại liệu chứng minh quyền yêu cầu thi hành án thì người nhận đơn yêu cầu thi
hành án phải hướng dẫn cho người yêu cầu thi hành án làm lại hoặc bổ sung những nội
dung còn thiếu trong đơn yêu cầu thi hành án.
* Thủ tục tiếp nhận và xử lý hồ sơ thi hành án do cơ quan thi hành án dân sự nơi
khác uỷ thác đến
Sau khi nhận được hồ sơ uỷ thác thì Cơ quan Thi hành án nhận được uỷ thác phải
kiểm tra lại toàn bộ hồ sơ ủy thác xem có đảm bảo đúng quy định về ủy thác khơng, nếu
đúng thì tiếp nhận và phải thơng báo bằng văn bản cho Cơ quan Thi hành án dân sự đã uỷ
thác về việc nhận uỷ thác. Trường hợp ủy thác có sự nhầm lẫn, sai sót về thẩm quyền của
cơ quan nhận ủy thác, nội dung ủy thác thì Cơ quan Thi hành án dân sự nơi nhận được ủy
thác mới có quyền trả lại hồ sơ ủy thác cho Cơ quan Thi hành án dân sự đã ủy thác.
Khi nhận được uỷ thác thì Cơ quan Thi hành án dân sự thụ lý và tổ chức thi hành theo
thẩm quyền. Trong quá trình tổ chức thi hành, nếu phát hiện người phải thi hành án có điều
kiện thi hành án ở địa phương khác thì tiếp tục uỷ thác đến cho Cơ quan Thi hành án dân
sự nơi người phải thi hành án có điều kiện thi hành.
2.2.2. Quyền yêu cầu thi hành án và thời hiệu thi hành án
* Quyền yêu cầu thi hành án
Khi bản án, quyết định của Tòa án, Trọng tài thương mại đã có hiệu lực pháp luật
phải được các bên đương sự tôn trọng và tự nguyện thi hành. Nếu các bên đương sự khơng
tự nguyện thi hành thì người được thi hành án, người phải thi hành án căn cứ vào bản án
quyết định dân sự có quyền gửi đơn yêu cầu cơ quan thi hành án dân sự có thẩm quyền tổ
chức thi hành.
Theo quy định tại Điều 31 Luật Thi hành án dân sự năm 2008 được sửa đổi, bổ sung
năm 2014 thì đương sự tự mình hoặc ủy quyền cho người khác yêu cầu thi hành án bằng

hình thức trực tiếp nộp đơn hoặc trình bày bằng lời nói hoặc gửi đơn qua bưu điện.

13


* Thời hiệu thi hành án
Thời hiệu thi hành án là thời hạn người được thi hành án, người phải thi hành án có
quyền yêu cầu thi hành bản án, quyết định.
Điều 30 Luật Thi hành án dân sự năm 2008 qui định thời hiệu thi hành án dân sự như
sau:
- Trong thời hạn 05 năm, kể từ ngày bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật, người
được thi hành án, người phải thi hành án có quyền yêu cầu cơ quan thi hành án dân sự có
thẩm quyền ra quyết định thi hành án.
+ Trường hợp thời hạn thực hiện nghĩa vụ được ấn định trong bản án, quyết định thì
thời hạn 05 năm được tính từ ngày nghĩa vụ đến hạn.
+ Đối với bản án, quyết định thi hành theo định kỳ thì thời hạn 05 năm được áp dụng
cho từng định kỳ, kể từ ngày nghĩa vụ đến hạn.
- Đối với các trường hợp hoãn, tạm đình chỉ thi hành án theo quy định của Luật này
thì thời gian hỗn, tạm đình chỉ khơng tính vào thời hiệu yêu cầu thi hành án, trừ trường
hợp người được thi hành án đồng ý cho người phải thi hành án hoãn thi hành án.
- Trường hợp người yêu cầu thi hành án chứng minh được do trở ngại khách quan
hoặc do sự kiện bất khả kháng mà không thể yêu cầu thi hành án đúng thời hạn thì thời
gian có trở ngại khách quan hoặc sự kiện bất khả kháng khơng tính vào thời hiệu u cầu
thi hành án.
2.2.3. Chủ động ra quyết định thi hành án và ra quyết định thi hành án theo đơn
yêu cầu
a. Chủ động ra quyết định thi hành án
Theo quy định tại Khoản 2 Điều 36 Luật Thi hành án dân sự năm 2008 được sửa đổi,
bổ sung năm 2014 thì Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự có quyền chủ động ra quyết
định thi hành án và phân công Chấp hành viên tổ chức thi hành đối với phần bản án, quyết

định sau:
+ Hình phạt tiền, truy thu tiền, tài sản thu lợi bất chính, án phí, lệ phí Tòa án
+ Trả lại tiền, tài sản cho đương sự
+ Tịch thu sung quỹ nhà nước, tịch thu tiêu huỷ vật chứng, tài sản; các khoản thu khác
cho Nhà nước
+ Thu hồi quyền sử dụng đất và tài sản khác thuộc diện sung quỹ nhà nước
+ Quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời
+ Quyết định của Tòa án giải quyết phá sản.
Trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được yêu cầu thi hành án hoặc nhận
được bản án, quyết định thì Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự phải ra quyết định thi
hành án. Trừ trường hợp áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời thì trong thời hạn 24 giờ, kể
từ khi nhận được quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời do Toà án chuyển giao
hoặc do đương sự giao trực tiếp, Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự phải ra quyết định
thi hành án và phân công Chấp hành viên tổ chức thi hành.
Điều 6 Nghị định 62/2015/NĐ-CP ngày 18/7/2015 của Chính phủ quy định:

14


- Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự ra một quyết định thi hành án chung cho các
khoản thuộc diện chủ động thi hành trong một bản án, quyết định, trừ trường hợp:
+ Trong một bản án, quyết định có khoản chủ động về trả lại tiền, tài sản thì ra một
quyết định thi hành án đối với mỗi người được thi hành án.
+ Trong một bản án, quyết định có nhiều người phải thi hành nhiều khoản chủ động
khác nhau thì ra một quyết định thi hành án chung cho các khoản thuộc diện chủ động thi
hành án đối với mỗi người phải thi hành án.
- Trường hợp thi hành quyền, nghĩa vụ liên đới thì Thủ trưởng cơ quan thi hành án
dân sự ra một quyết định thi hành án chung cho những người có quyền, nghĩa vụ liên đới.
- Các khoản thu khác cho Nhà nước quy định tại điểm c khoản 2 Điều 36 Luật Thi
hành án dân sự thuộc diện chủ động ra quyết định thi hành án bao gồm khoản truy thu thuế;

khoản viện trợ cho Nhà nước và các khoản bồi thường cho Nhà nước trong các vụ án xâm
phạm trật tự quản lý kinh tế, tham nhũng thuộc loại tội phạm đặc biệt nghiêm trọng; các
khoản thu khác nộp trực tiếp vào ngân sách nhà nước.
b. Ra quyết định thi hành án theo đơn yêu cầu
Theo quy định tại Khoản 1 Điều 36 Luật Thi hành án dân sự năm 2008 được sửa đổi,
bổ sung năm 2014 thì thủ trưởng Cơ quan thi hành án dân sự ra quyết định thi hành khi có
yêu cầu thi hành án, trừ trường hợp quy định tài Khoản 2 Điều này.
Thời hạn ra Quyết định thi hành án theo đơn yêu cầu là 05 ngày làm việc kể từ ngày
nhận được yêu cầu thi hành án.
Khoản 6 Điều 4, Khoản 2 Điều 6, Điều 7 Nghị định 62/2015/NĐ-CP ngày 18/7/2015
của Chính phủ quy định:
Thủ trưởng cơ quan thi hành án ra một quyết định cho mỗi đơn yêu cầu thi hành án.
Trường hợp trong bản án, quyết định có một người phải thi hành án cho nhiều người được
thi hành án và các đương sự nộp đơn yêu cầu thi hành án vào cùng một thời điểm thì Thủ
trưởng Cơ quan thi hành án dân sự ra một quyết định thi hành án chung cho nhiều yêu cầu.
Trường hợp nhiều người được nhận một tài sản cụ thể hoặc nhận chung một khoản
tiền theo bản án, quyết định nhưng chỉ có một hoặc một số người có u cầu thi hành án
thì Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự ra quyết định thi hành án đối với những người
đã có yêu cầu, đồng thời thông báo cho những người được thi hành án khác theo bản án,
quyết định đó biết để yêu cầu thi hành án trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày được thông
báo hợp lệ. Hết thời hạn trên, nếu người được thông báo không yêu cầu thi hành án thì
Chấp hành viên tổ chức giao tài sản, khoản tiền đó cho người đã có yêu cầu hoặc người đại
diện của những người đã có yêu cầu để quản lý. Quyền và lợi ích hợp pháp của những
người được thi hành án đối với tài sản đó được giải quyết theo thỏa thuận hoặc theo quy
định của pháp luật.
Trường hợp sau khi trừ đi thời gian xảy ra sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách
quan mà thời hạn u cầu thi hành án vẫn cịn thì Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự
ra quyết định thi hành án theo đơn yêu cầu thi hành án. Trường hợp đã hết thời hiệu yêu

15



cầu thi hành án thì cơ quan thi hành án dân sự từ chối nhận yêu cầu thi hành án theo quy
định tại điểm c Khoản 5 Điều 31 Luật Thi hành án dân sự.
Việc ra quyết định thi hành án đối với quyền, nghĩa vụ liên đới thì Thủ trưởng cơ quan
thi hành án dân sự ra một quyết định thi hành án chung cho những người có quyền, nghĩa
vụ liên đới.
2.2.4. Lập hồ sơ thi hành án
Quyết định thi hành án là căn cứ để lập hồ sơ thi hành án. Mỗi quyết định thi hành án
lập thành một hồ sơ thi hành án.
Trong thời hạn không quá 02 ngày làm việc, kể từ ngày được phân công, Chấp hành
viên phải tiến hành lập hồ sơ thi hành án. Chấp hành viên lập hồ sơ thi hành án theo quy
định tại Điều 8 Nghị định số 62/2015/NĐ-CP ngày 18/7/2015 của Chính phủ và Điều 30
Thơng tư số 01/2016/TT-BTP ngày 01 tháng 02 năm 2016 của Bộ Tư pháp.
Hồ sơ thi hành án, gồm: bản án, quyết định; các biên bản bàn giao, xử lý vật chứng,
tài sản đã kê biên, tạm giữ; biên bản xác minh, biên bản giải quyết việc thi hành án; giấy
báo; giấy triệu tập; giấy mời; các đơn yêu cầu, khiếu nại về thi hành án; các biên lai, phiếu
thu, phiếu chi; các tài liệu liên quan đến việc xử lý tài sản để thi hành án; các công văn,
giấy tờ của cơ quan thi hành án dân sự, tổ chức, cá nhân liên quan đến việc thi hành án,
như: công văn xin ý kiến chỉ đạo, hướng dẫn nghiệp vụ thi hành án; công văn trao đổi với
cá nhân, cơ quan, tổ chức có liên quan trong q trình thi hành án; cơng văn yêu cầu chuyển
tiền, tang vật còn thiếu hoặc chưa chuyển giao cho cơ quan thi hành án dân sự; các giấy tờ,
tài liệu liên quan khác.
Chấp hành viên có trách nhiệm ghi đầy đủ, chi tiết nội dung các mục đã in trên bìa hồ
sơ. Các tài liệu có trong hồ sơ thi hành án phải được sắp xếp cẩn thận, đánh số bút lục và
liệt kê đầy đủ vào bảng danh mục in trên bìa hồ sơ thi hành án.
Chấp hành viên phải liệt kê và sắp xếp tài liệu theo thứ tự bắt đầu từ bút lục số 01 cho
đến bút lục cuối cùng. Các bút lục được đánh số theo phương pháp tịnh tiến về số và thứ
tự từng tờ tài liệu có trong hồ sơ. Bút lục được đánh số một lần. Số bút lục được đánh vào
góc phải, phía trên, mặt trước của từng tờ tài liệu. Mỗi tờ tài liệu được đánh một số bút lục

(riêng quyết định thi hành án, bản án, quyết định chỉ đánh một bút lục; trường hợp có nhiều
bản án, quyết định thì mỗi bản án, quyết định đánh một số bút lục). Việc đánh số bút lục
được thực hiện ngay sau khi thiết lập hoặc tiếp nhận tài liệu, theo trình tự thời gian tiếp
nhận. Trường hợp tại một thời điểm tiếp nhận nhiều tài liệu thì đánh số bút lục theo thứ tự
thời gian ban hành tài liệu.
2.2.5. Thông báo về thi hành án
Quyết định về thi hành án, giấy báo, giấy triệu tập và các văn bản khác có liên quan
đến việc thi hành án phải thơng báo cho đương sự, người có quyền, nghĩa vụ liên quan để
họ thực hiện quyề, nghĩa vụ theo nội dung của văn bản đó.
Việc thơng báo phải thực hiện trong thời hạn 03 ngày kể từ ngày ra văn bản trừ trường
hợp cần ngăn chặn đươn sự tẩu tán, hủy hoại tài sản, trốn tránh việc thi hành án.
Việc thơng báo được thực hiện theo các hình thức sau:

16


- Thông báo trực tiếp hoặc qua cơ quan, tổ chức, cá nhân khác theo quy định của pháp
luật.
- Niêm yết công khai: Việc niêm yết công khai chỉ thực hiện khi không rõ địa chỉ của
người được thông báo hoặc không thể thực hiện được việc thông báo trực tiếp (trường hợp
người được thông báo đi vắng mà không rõ thời điểm trở về, khơng có người thân thích
cùng cư trú hoặc người thân thích khơng đủ năng lực hành vi). Cơ quan Thi hành án trực
tiếp hoặc ủy quyền cho UBND cấp xã nơi cư trú hoặc nơi cư trú cuối cùng của người được
thông báo hoặc cá nhân, tổ chức có đủ điều kiện theo quy định của pháp luật để thực hiện
việc niêm yết.
- Thông báo trên phương tiện thơng tin đại chúng: Hình thức thơng báo chỉ được thực
hiện khi pháp luật có quy định hoặc khi đương sự có u cầu.
- Chi phí thơng báo do người phải thi hành án chịu, trừ trường hợp pháp luật quy định
ngân sách Nhà nước chi trả hoặc người được thi hành án chịu.
2.2.6. Xác minh điều kiện thi hành án

Trong thời hạn 10 ngày, kể từ ngày hết thời hạn tự nguyện thi hành án mà người phải
thi hành án khơng tự nguyện thi hành thì Chấp hành viên tiến hành xác minh; trường hợp
thi hành quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời thì phải tiến hành xác minh ngay.
Người phải thi hành án phải kê khai trung thực, cung cấp đầy đủ thông tin về tài sản,
thu nhập, điều kiện thi hành án với cơ quan thi hành án dân sự và phải chịu trách nhiệm về
việc kê khai của mình.
Trường hợp người phải thi hành án chưa có điều kiện thi hành án thì ít nhất 06 tháng
một lần, Chấp hành viên phải xác minh điều kiện thi hành án; trường hợp người phải thi
hành án chưa có điều kiện thi hành án là người đang chấp hành hình phạt tù mà thời gian
chấp hành hình phạt tù cịn lại từ 02 năm trở lên hoặc không xác định được địa chỉ, nơi cư
trú mới của người phải thi hành án thì thời hạn xác minh ít nhất 01 năm một lần. Sau hai
lần xác minh mà người phải thi hành án vẫn chưa có điều kiện thi hành án thì cơ quan thi
hành án dân sự phải thông báo bằng văn bản cho người được thi hành án về kết quả xác
minh. Việc xác minh lại được tiến hành khi có thơng tin mới về điều kiện thi hành án của
người phải thi hành án.
Cơ quan thi hành án dân sự có thể ủy quyền cho cơ quan thi hành án dân sự nơi người
phải thi hành án có tài sản, cư trú, làm việc hoặc có trụ sở để xác minh điều kiện thi hành
án.
2.2.7. Tổ chức thi hành án
a. Tự nguyện thi hành án
Tự nguyện thi hành án là trường hợp sau khi có quyết định thi hành án của thủ trưởng
Cơ quan thi hành án, người phải thi hành án tự mình thực hiện nghĩa vụ qui định trong bản
án, quyết định của Tồ án mà khơng cần có sự can thiệp bằng biện pháp cưỡng chế từ phía
Cơ quan thi hành án. Việc đương sự tự nguỵên thực hiện nghĩa vụ của mình giúp cho quá
trình thi hành án được diễn ra nhanh chóng, thuận lợi, đảm bảo hiệu lực bản án, quyết định
mà Toà án đã tuyên trên thực tế mà không gây nên mâu thuẫn, bất đồng giữa các đương

17



sự, tránh được những vụ án phát sinh từ việc thi hành án. Mặt khác, nó cịn tiết kiệm được
tiền của, công sức của Nhà nước cũng như của các đương sự trong quá trình tổ chức thi
hành án.
Tại Điều 45 Luật Thi hành án dân sự năm 2008 được sửa đổi, bổ sung năm 2014 quy
định: “Thời hạn tự nguyện thi hành án là 10 ngày kể từ ngày người phải thi hành án nhận
được hoặc được thông báo hợp lệ Quyết định thi hành án”. Như vậy, hết thời hạn đó, nếu
đương sự có điều kiện thi hành án nhưng khơng tự nguyện thi hành thì Chấp hành viên có
thể áp dụng các biện pháp cưỡng chế theo quy định.
b. Cưỡng chế thi hành án
Cưỡng chế thi hành án là biện pháp bảo đảm cho việc thi hành án được Chấp hành
viên áp dụng trong trường hợp người phải thi hành án có điều kiện thi hành nhưng khơng
tự nguyện thi hành nghĩa vụ của mình.
Điều 46 Luật Thi hành án dân sự năm 2008 được sửa đổi, bổ sung năm 2014 quy
định:
- Hết thời hạn quy định (10 ngày) người phải thi hành án có điều kiện thi hành án mà
khơng tự nguyện thi hành án thì bị cưỡng chế.
Tại Điều 71 Luật Thi hành án dân sự năm 2008 được sửa đổi, bổ sung năm 2014 quy
định có 06 biện pháp cưỡng chế sau:
- Khấu trừ tiền trong tài khoản; thu hồi, xử lý tiền, giấy tờ có giá của người phải thi
hành án.
- Trừ vào thu nhập của người phải thi hành án.
- Kê biên, xử lý tài sản của người phải thi hành án, kể cả tài sản đang do người thứ ba
giữ.
- Khai thác tài sản của người phải thi hành án.
- Buộc chuyển giao vật, chuyển giao quyền tài sản, giấy tờ.
- Buộc người phải thi hành án thực hiện hoặc không được thực hiện công việc nhất
định.
* Khi áp dụng biện pháp bảo đảm, biện pháp cưỡng chế thi hành án phải đảm bảo
các nguyên tắc sau:
- Việc áp dụng biện pháp bảo đảm, cưỡng chế thi hành án phải tương ứng với nghĩa

vụ của người phải thi hành án và các chi phí cần thiết, trừ trường hợp người phải thi hành
án tự nguyện đề nghị kê biên tài sản cụ thể trong số nhiều tài sản mà không gây trở ngại
cho việc thi hành án và tài sản đó đủ để thi hành án, các chi phí liên quan.
- Không tổ chức cưỡng chế trong các thời điểm sau: Từ 22 giờ đến 06 giờ sáng ngày
hôm sau; Các ngày nghĩ, ngày lễ theo quy định của pháp luật; Khơng tổ chức cưỡng chế
có huy động đơng lực lượng trong thời gian 15 ngày trước và sau Tết Nguyên đán; các
ngày truyền thống đối với các đối tượng chính sách, nếu họ là người phải thi hành án; các
trường hợp đặc biệt khác ảnh hưởng nghiêm trọng đến án ninh, chính trị, trật tự an tồn xã
hội, phong tục, tập quán tại địa phương.

18


2.2.8. Hỗn thi hành án, tạm đình chỉ, đình chỉ thi hành án
a. Hoãn thi hành án
Hoãn thi hành án được quy định tại Điều 48 Luật Thi hành án dân sự năm 2008 được
sửa đổi, bổ sung năm 2014. Thủ trưởng Cơ quan Thi hành án dân sự ra Quyết định hoãn
thi hành án trong những trường hợp sau:
- Người phải thi hành án bị ốm nặng, có xác nhận của cơ sở y tế từ cấp huyện trở lên;
bị mất hoặc bị hạn chế năng lực hành vi dân sự theo quyết định của Tòa án.
- Chưa xác định được địa chỉ của người phải thi hành án hoặc vì lý do chính đáng
khác mà người phải thi hành án khơng thể tự mình thực hiện được nghĩa vụ theo bản án,
quyết định.
- Đương sự đồng ý hoãn thi hành án; Việc đồng ý hoãn phải lập thành văn bản ghi rõ
thời hạn hỗn, có chữ ký của đương sự; trong thời gian hỗn thi hành án thì người phải thi
hành án không phải chịu lãi suất chậm thi hành án, trừ trường hợp đương sự có thỏa thuận
khác
- Tài sản để thi hành án đã được Tòa án thụ lý để giải quyết chia tài sản chung, giải
quyết tranh chấp, yêu cầu hủy giấy tờ, giao dịch liên quan đến tài sản thi hành án; tài sản
được kê biên theo Điều 90 của Luật Thi hành án dân sự nhưng sau khi giảm giá theo quy

định mà giá trị bằng hoặc thấp hơn chi phí và nghĩa vụ được bảo đảm
- Việc thi hành án đang trong thời hạn cơ quan có thẩm quyền giải thích bản án, quyết
định và trả lời kiến nghị của cơ quan thi hành án dân sự theo quy định tại điểm b khoản 2
Điều 170 và khoản 2 Điều 179 của Luật này.
- Người được nhận tài sản, người được giao nuôi dưỡng đã được thông báo hợp lệ 02
lần về việc nhận tài sản, nhận người được nuôi dưỡng nhưng không đến nhận
- Việc chuyển giao quyền và nghĩa vụ thi hành án theo quy định tại Điều 54 của Luật
này chưa thực hiện được vì sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan
- Tài sản kê biên không bán được mà người được thi hành án không nhận để thi hành
án theo quy định tại khoản 3 Điều 104 của Luật này.”
Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự ra quyết định hoãn thi hành án khi nhận được
yêu cầu hoãn thi hành án của người có thẩm quyền kháng nghị ít nhất 24 giờ trước thời
điểm cưỡng chế thi hành án đã được ấn định trong quyết định cưỡng chế. Trường hợp cơ
quan thi hành án nhận được yêu cầu hoãn thi hành án của người có thẩm quyền kháng nghị
ít hơn 24 giờ trước thời điểm cưỡng chế đã được ấn định trong quyết định cưỡng chế thi
hành án thì Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự có quyền quyết định hỗn thi hành án
khi xét thấy cần thiết.
Trường hợp vụ việc đã được thi hành một phần hoặc đã được thi hành xong thì cơ
quan thi hành án dân sự phải có văn bản thơng báo ngay cho người u cầu hỗn thi hành
án.
Người có thẩm quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm hoặc tái thẩm đối với
bản án, quyết định của Tồ án chỉ được u cầu hỗn thi hành án một lần để xem xét kháng
nghị nhằm tránh hậu quả không thể khắc phục được.

19


Thời hạn hoãn thi hành án theo yêu cầu của người có thẩm quyền kháng nghị bản án,
quyết định khơng quá 03 tháng, kể từ ngày ra văn bản yêu cầu hoãn thi hành án; trong thời
gian hoãn thi hành án thì người phải thi hành án khơng phải chịu lãi suất chậm thi hành án.

Thời hạn ra quyết định hoãn thi hành án là 05 ngày làm việc, kể từ ngày có căn cứ
hỗn thi hành án quy định tại khoản 1 Điều này. Trường hợp quy định tại khoản 2 Điều
này thì phải ra ngay quyết định hỗn thi hành án khi nhận được yêu cầu của người có thẩm
quyền.
Trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ khi căn cứ hoãn thi hành án quy định tại khoản
1 Điều này khơng cịn, hết thời hạn hỗn thi hành án theo yêu cầu của người có thẩm quyền
quy định tại khoản 2 Điều này hoặc khi nhận được văn bản trả lời của người có thẩm quyền
kháng nghị về việc khơng có căn cứ kháng nghị thì Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự
phải ra quyết định tiếp tục thi hành án.
b. Tạm đình chỉ thi hành án
Tạm đình chỉ thi hành án được quy định tại Điều 49 Luật Thi hành án dân sự năm
2008 được sửa đổi, bổ sung năm 2014. Việc thi hành án bị tạm đình chỉ trong những trường
hợp sau:
- Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự thông báo về việc tạm đình chỉ thi hành án
khi nhận được quyết định tạm đình chỉ thi hành án của người có thẩm quyền kháng nghị
bản án, quyết định theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm.
Trường hợp bản án, quyết định đã được thi hành một phần hoặc toàn bộ thì Thủ trưởng
cơ quan thi hành án dân sự phải thông báo ngay bằng văn bản cho người đã kháng nghị.
Trong thời gian tạm đình chỉ thi hành án do có kháng nghị thì người phải thi hành án
khơng phải chịu lãi suất chậm thi hành án.
- Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự ra quyết định tạm đình chỉ thi hành án khi
nhận được thơng báo của Toà án về việc đã thụ lý đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản đối với
người phải thi hành án.
Thời hạn ra quyết định tạm đình chỉ thi hành án là 05 ngày làm việc, kể từ ngày nhận
được thơng báo của Tồ án.
- Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự ra quyết định tiếp tục thi hành án trong thời
hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được một trong các quyết định sau đây:
+ Quyết định rút kháng nghị của người có thẩm quyền;
+ Quyết định giám đốc thẩm, tái thẩm của Tòa án giữ nguyên bản án, quyết định bị
kháng nghị;

+ Quyết định của Tồ án về việc đình chỉ tiến hành thủ tục phá sản, đình chỉ thủ tục
phục hồi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản.
c. Đình chỉ thi hành án
Theo Điều 50 Luật Thi hành án dân sự năm 2008 được sửa đổi, bổ sung năm 2014 thì
Thủ trưởng Cơ quan thi hành án dân sự phải ra Quyết định đình chỉ thi hành án trong những
trường hợp sau:

20


- Người phải thi hành án chết không để lại di sản hoặc theo quy định của pháp luật
nghĩa vụ của người đó theo bản án, quyết định khơng được chuyển giao cho người thừa kế
- Người được thi hành án chết mà theo quy định của pháp luật quyền và lợi ích của
người đó theo bản án, quyết định khơng được chuyển giao cho người thừa kế hoặc khơng
có người thừa kế
- Đương sự có thoả thuận bằng văn bản hoặc người được thi hành án có văn bản yêu
cầu cơ quan thi hành án dân sự không tiếp tục việc thi hành án, trừ trường hợp việc đình
chỉ thi hành án ảnh hưởng đến quyền, lợi ích hợp pháp của người thứ ba
- Bản án, quyết định bị hủy một phần hoặc toàn bộ
- Người phải thi hành án là tổ chức đã bị giải thể, khơng cịn tài sản mà theo quy định
của pháp luật nghĩa vụ của họ không được chuyển giao cho tổ chức khác
- Có quyết định miễn hoặc giảm một phần nghĩa vụ thi hành án
- Tòa án ra quyết định mở thủ tục phá sản đối với người phải thi hành án
- Người chưa thành niên được giao nuôi dưỡng theo bản án, quyết định đã thành niên.
- Thời hạn ra quyết định đình chỉ thi hành án là 05 ngày làm việc, kể từ ngày có căn
cứ đình chỉ thi hành án theo quy định tại khoản 1 Điều này.
2.2.9. Kết thúc việc thi hành án
Tại Điều 52 Luật Thi hành án dân sự năm 2008 được sửa đổi, bổ sung năm 2014 quy
định:
Việc thi hành án đương nhiên kết thúc trong các trường hợp sau đây:

- Có xác nhận của cơ quan thi hành án dân sự về việc đương sự đã thực hiện xong
quyền, nghĩa vụ của mình.
- Có quyết định đình chỉ thi hành án.
KẾT CHƯƠNG II
Nội dung chương II nêu ra một số vấn đề lý luận bao gồm: khái niệm, đặc điểm, ý
nghĩa của thi hành án dân sự và quan trọng nhất là các trình tự, thủ tục để thực hiện hoạt
động thi hành án dân sự.

21


×